KHI NHÀ VĂN LẠM BÀN LỊCH SỬ
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/KNV/PhulucII.php
10-07-2008
Toàn tập:
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
PHẦN III
PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ NHỮNG SAI LẦM TRONG CUỐN VIỆT NAM 1945-1995 CỦA TÁC GIẢ LÊ XUÂN KHOA
Đây không phải là
một bài điểm sách. Chủ điểm của bài viết này là chỉ nêu lên trước công
luận “một số những sai lầm” của tác giả Lê Xuân Khoa trong cuốn Việt Nam
1945-1995. Hy vọng rằng tác giả và quý độc giả cao minh lên tiếng để cho
mọi người trong nước cũng như ở hải ngoại cùng nhận ra những điều người
viết cho là “sai lầm” trong tác phẩm của ông. Cũng có thể những
sai lầm này là có chủ tâm để “bưng bít và bóp méo sự
thật lịch sử”)
Bản Việt Nam 1945-1995 Tập I của tác giả
Lê Xuân Khoa được sử dụng trong bài viết này do nhà xuất bản Tiên Rồng
phát hành vào năm 2004 (Không đề giá tiền). Sách dầy 568 trang, được
chia ra làm 3 phần và Lời Kết:
Phần I: Những
Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn. (Từ Chương 1 đến Chương 3)
Phần II: Chiến
Tranh Chống Pháp và Tị Nạn 1954. (Từ Chương 4 đến Chương 9)
Phần III: Nội Chiến hay Chiến Tranh Ủy
Nhiệm? (Từ Chương 7 đến Chương 10)
Ngòai 3 phần trên
đây và lời kết, còn có các bản Phụ Lục A, B, C, D, E.
Bình thường, nếu
chỉ viết một bài viết khoảng 15 hay 20 trang nói về một khía cạnh nào
trong cuộc chiến Việt Nam mà không nói tới bàn tay của Giáo Hội La Mã
trên vũ đài chính trị và quân sự ở Việt Nam trong thời cận và hiện đại,
thì cũng không sao. Đằng này, ông Lê Xuân Khoa biên sọan cả một bộ sách
nói về một giai đọan lịch sử từ 1945 trở về sau. Trong giai đoạn đó,
nhân dân ta đã:
1.- Kinh qua một
đại thảm họa với hai triệu người chết đói trong mấy tháng mùa xuân năm
Ất Dậu 1945. Nguyên nhân của nạn đói lịch sử này là do việc chính quyền
Liên Minh Pháp – Vatican đã thi hành chính sách bóc lột dân ta đến tận
xương tận tủy, rồi lại cố ý đẩy dân ta vào thảm họa chết đói với dã tâm
làm cho người dân kiệt quệ, không có đủ thực phẩm để ăn, nhiên hậu sẽ
không có tiền và gạo tiếp tế cho các lực lương cách mạng đang hoạt động
mạnh ở vùng Việt Bắc vào lúc bấy giờ.
[i]
2.- Theo đuổi hai
cuộc chiến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Viết về một giai
đoạn lịch sử quan trọng như thế mà lại không nói đến vai trò của Giáo
Hội La Mã thì chẳng khác nào như một vị công tố viện đưa ra trước
tòa án xét xử một vụ sát nhân, lại chỉ truy tố tên sát thủ mà không
truy tầm “chân hung” là kẻ chủ mưu đã bỏ tiền ra thuế mướn tên sát
thủ này thi hành việc giết người vậy.
Viết sử như vậy
thì quả thật là viết tài tử hoặc là viết theo đơn đặt hàng, không hiểu
gì về nguyên tắc viết sử nếu không muốn nói là có gian ý bưng bít và
giấu nhẹm những tội ác cho một thế lực mà tác giả muốn bao che.
Vì không có mục
đích điểm sách, mà chỉ nêu lên một số những sai lầm của tác giả Lê Xuân
Khoa, cho nên chúng tôi chỉ nêu lên một số những sai lầm mà thôi. Dưới
đây là một số những sai lầm này:
1.- Không nói
đến vai trò của Giáo Hội La Mã trong thời cận và hiện đại,
đặc biệt nhất là trong các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975. Những người đã đọc nhiều sách sử cũng đều biết rõ, trong giai
đoạn này, đâu đâu cũng có bàn tay của Giáo Hội vươn tới. Xin xem mục nói
về vấn nạn Giáo Hội La Mã trong phần Nội Tình Miền Nam Việt Nam trình
bày ở trên.
2.- Sai lầm
khi nói rằng,“Cuộc chiến thứ nhất là kháng chiến chống Pháp và chống
Quốc Gia Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt Trận Việt Minh)
lãnh đạo 1945-1954.” (Trang 29). Trong thực tế, đây là cuộc kháng
chiến chống Liên Minh Pháp – Vatican. Cuộc chiến này chỉ là cuộc kháng
chiến nối tiếp các cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ đầu thập niên
1860 cho đến lúc bấy giờ và có mục đích số 1 là giải phóng
dân tộc thoát khỏi ách thống trị của người ngoại bang. Chính vì cái mục
đích số 1 này mà gần như toàn thể nhân dân ta (ngoại trừ một nhóm thiểu số “thà
mất nước, chứ không thà mất Chúa”) đã hăng say nô nức lũ lượt
lên đường đi đòi lại núi sông từ trong tay giặc.
Ông Lê Xuân Khoa
hiểu như thế nào về cụm từ “Quốc Gia Việt Nam” và ông sử dụng, nhất là
tình trạng Việt Nam từ khi triều đình Huế ký các Thoả Hiệp Nhâm Tuất
1862, Giáp Tuất 1874 và Giáp Thân 1884?
Nếu còn Việt Nam là
Quốc Gia Việt Nam thì làm sao tổ tiên chúng ta lại phải lao vào gia nhập
các lực lương nghĩa quân chống giặc xâm lăng dưới quyền lãnh đạo của các
nhà ái quốc như Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Tôn, Phan
Liêm, Huỳnh Mẫn Đạt, Thiên Hộ Dương, Mai Xuân Thưởng, Phan Đình Phùng,
Nguyễn Thiện Thuật, Hòang Hoa Thám, Lương Ngọc Quyến, Trịnh Văn Cân và
các đảng phải Cách Mạng như Tâm Tâm Xã, Việt Nam Quốc Dân Đảng (dưới
quyền lãnh đạo của nhà ái qyuốc Nguyễn Thái Học, Đảng Cộng Sản Việt Nam
dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chính Minh, v.v…
Đối với đại khối dân
tộc, vì triều đình
Huế đã cúi đầu ký vào các Hoà Ước Nhâm Tuất 1862, Hoà Ước Giáp Tuất
1874, Hòa Ước Hiệp Quí Mùi 1883 và Hoà Ước Patenôtre Giáp Thân 1884,
thì nhà Nguyễn đã bị xoá tên trên sân khấu chính trị Việt Nam và nước
Việt Nam ta đã hoàn toàn mất vào tay Liên Minh Pháp – Vatican:
“Pháp thành ông chủ
cơ đồ,
Vua thành tượng gỗ,
dân nô lệ người.
Ở vào hoàn cảnh mất
nước như vậy, tất nhiên là bất kỳ cá nhân hay thế lực nào có khả năng tổ
chức được lực lượng theo đuổi mục tiêu đánh đuổi giặc xâm lăng giải
thoát cho đất nước thoát khỏi ách thống trị của người ngoại bang, thì cá
nhân hay thế lực đó sẽ được toàn dân nhiệt liệt ủng hộ và tích cực tham
gia để cùng họ chiến đấu cho đại cuộc cứu nước. Trong thực tế, Đảng Cộng
Sản Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh đã hoàn thành được sứ
mạng lịch sử cao cả này. Như vậy là cụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã đáp ứng được khát vọng của dân tộc là đòi lại
giang sơn từ trong tay giặc.
Thực tế lịch sử đã
rõ ràng như vậy.
Vậy xin hỏi ông Lê
Xuân Khoa nghĩ như thế nào về vai trò ông Bảo Đại trong suốt thời gian
từ khi ông được Liên Minh Pháp – Vatican đưa lên ngồi trong ngai vàng từ
ngày 6/11/1925 cho đến ngày 23/10/1955 khi ông bị tên phản thần Ngô
Đình Diệm truất phế?
Trong suốt thời
gian này, ông ta mang danh nghĩa là ông vua (6/11/1925 – 23/8/1945) cũng
như khi nắm giữ vai trò quốc trưởng (2/6/1948 – 23/10/1955) của một
nước mà tất cả mọi thứ quyền lực chính trị quân sự, ngoại giao, kinh tế,
tài chánh và quản trị nhân dân đều nằm trong tay liên minh Pháp –
Vatican. Làm vua như vậy có phải là vua gỗ, vua hề không?
Muốn biết rõ những
sự thực về ông Bảo Đại và cái mà chính quyền quốc gia do ông ta lãnh
đạo, xin mời quý vị theo dõi bản văn trích ra từ cuốn Thối Nát của ông
Bùi Nhung (Houston, TX, Xuân Thu, 1976) với nguyên văn như sau:
“Khi nhà học giả
Trần Trọng Kim xách chiếc va ly từ Nam Kinh trở về Hương Cảng, thì ông
Bảo Đại đương hồi “ba đào”. Học giả Trần Trọng Kim kể lại rằng:
“Lúc tôi tới nhà hàng “Ngài” trọ,
hỏi được số phòng ngài ở, tôi vội vã leo thang chân lên lầu, vì thang
máy đông người đợi. Ngài đương đánh “mặt chược” ở phòng bên, mình trần
trùng trục. Ngài thấy tôi, liếc mắt ra hiệu, bảo cứ vào ngồi đợi trong
phòng ngài. Ý hẳn ngài không muốn cho ai biết hành tung chăng?”
Có người bào ông Bảo Đại đánh “mặt
chược” cao lắm, nên khi ở Hương Cảng “hoạnh tài” giúp ông đỡ túng. Điều
đó không biết có thực không, nhưng tôi được biết ông Bảo Đại đã có lúc
phải cầm cố, bán chác cả đồ dùng để lấy tiền ăn. Một số người “tòng
vong” lẻ tẻ như các ông Đặng Văn Sung, Đỗ Đình Đạo, Bùi Diễm, v.v… đều
bữa nhịn, bữa ăn..
Đến cuối năm 1947, thời cuộc xoay
chuyển, thực dân Pháp lại dùng ông Bảo Đại làm một con cờ! Tại Bắc Việt,
một viên quan cai trị cũ, tên Cousseau được thực dân giao phó chức vụ
điều động các chính khách và chính đảng để tôn ông Bảo Đại làm Quốc
Trưởng. Ông Mao Trach Đông đánh ông Tưởng Giới Thạch càng mạnh, thì thực
dân Pháp càng hoạt động dữ, để mau mau nắm trọn quyền điều động Việt
Nam, kẻo lỡ ra Việt Minh được Cộng Sản Tàu giúp thì thêm khó - một khi
đảng này làm chủ lục địa Trung Quốc. Vì thế, Cousseau luôn luôn tiếp xúc
với Hoàng Đế lưu vong Bảo Đại tại Hương Cảng. Các chính khách Việt
Nam “đánh hơi” thấy mùi, liền đổ xô tới. Giữa Việt Nam và Hương Cảng
thuộc địa của Anh, phi cơ và tầu thủy chở các chánh khách Việt Nam đi
lại như mắc cửi! Béo bở quá! Các chánh khách dâng tiền cho “ngài”
tiêu xài! Các ông ấy tranh nhau lối buôn bán của Lữ Bất Vi và vô số kẻ
đã thành công.
Một chánh phủ lâm thời được thành
lập vào năm 1948. Thủ Tướng là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, một võ quan
pháo binh kỳ tài, người Việt, quốc tịch Pháp. Chức Thủ Hiến Trung Phần
và Nam Phần lọt vào tay hai ông Phan Văn Giáo và Trần Văn Hữu, còn chức
Tổng Trấn Bắc Phần vào tay ông Nghiêm Xuân Thiện. Ông Bảo Đại được
tháo khoán. Nhưng có lẽ số tiền Pháp thực dân tháo khoán cho ông Bảo
Đại không được rộng rãi lắm, thành thử các vị cao cấp trong chính phủ
trung ương tạm thời tháng tháng trích một số tiền ở quỹ đem
ra gửi cho ông Bảo Đại như sau:
Thủ Tướng Xuân 50 ngàn đồng.
Thủ Tướng Trần Văn Hữu 50 ngàn
đồng.
Tổng Trấn Nghiêm Xuân Thiện 30 ngàn
đồng.
Còn Thủ Hiến Phan Văn Giáo bao
nhiêu không biết. “Thị Trường” bán quan mua tước tại Việt Nam trong
giai đọan này càng nhộn nhịp lắm. Năm 1948, tôi vớ được ba bản danh
sách chánh quyền, chi chít những tên tuổi. Cả ba bản, tên một ông luật
sư người Việt, vợ đầm, những vẫn Việt tịch bị ông Bảo Đại gạch ở chức vụ
Bộ Trưởng Kinh Tế!, Một chức vụ bở nhất, hái ra tiền! Không phải ông Bảo
Đại ghét gì ông luật sư đâu, nhưng cái chức đó khi đem “bán đấu giá”
ngầm, có nhiều kẻ tranh giành quá! Ông luật sư mua hụt…
.
Ông Bảo Đại nằm tại Hồng Kông, cho
nguyên Thủ Tướng Trần Trọng Kim về tiếp xúc với Cao Ủy Pháp tại Sàigòn.
Cụ Kim kể lại đoạn này với tôi, lúc tôi từ Hà Nội vào thăm cụ ở Nam
Vang, đường Lasana số 4: “Tôi trở về nước có nhiệm vụ dọ dẫm xem Pháp có
thật tình không, nghĩa là có cho Việt Nam tự do, độc lập thật sự như
trong khối thịnh vượng chung của Anh không? (commonwealth). Tôi gặp ông
Cao Ủy ở Sàigòn. Sau một giờ chuyện trò, tôi biết rõ cái dã tâm của
thực dân! Liên Hiệp Pháp chỉ là một thứ cái cũi chó mạ vàng!
Ông Cao Ủy, lúc tiễn tôi ra cửa, có nhã ý, muốn nhân danh chính phủ Pháp
giúp tôi một số tiền mở nhà in, để theo đuổi con đường văn hóa. Tôi cảm
ơn, không nhận! Cũng tiền của dân Việt Nam, chứ tiền đâu của Pháp!
Hồi Nhật đầu hàng Đồng Minh, các cố vấn Nhật biếu tôi một lúc cả 50
triệu để làm vốn mở mang văn hóa, tôi cũng kiếu, huống hồ của thực dân.”[ii]
3.- Sai lầm
khi khẳng định cuộc chiến 1954-1975 giữa hai miền Nam và miền Bắc là một
cuộc chiến tranh ủy nhiệm, ông viết:
“…một cuộc tranh
chấp hai mươi năm mà phe quốc gia gọi là cuộc chiến đấu chống chế độ
cộng sản của dân tộc Việt Nam, còn phe cộng sản thì gọi là chiến tranh
chống Mỹ - Ngụy để cứu nước. Thực tế thì đây là một cuộc chiến giữa hai
phe người Việt theo đuổi những lý tưởng khác nhau, đồng thời cũng là một cuộc chiến tranh ủy nhiệm
trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh
giữa hai khối quốc tế tư bản và cộng sản, với sự tham dự trực tiếp của
Hoa Kỳ.” (trang 271)
Về vấn đề ông cho
rằng cuộc chiến 1954-1975 là “một cuộc chiến tranh ủy nhiệm", Chúng tôi hoàn toàn không đồng ý với ông, và khẳng định rằng đây là “cuộc
chiến tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.” Trong cuộc
chiến này, nếu miền Nam có chính nghĩa và nếu thành công thay vì miền
Bắc, thì chúng tôi cũng gọi nó là “cuộc chiến tranh thống nhất đất
nước.” Thế nhưng miền Nam đào đâu ra được chính nghĩa khi mà ba ông
Da-tô Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều được Giáo Hội La
Mã cùng với Pháp hay Mỹ lần lượt đưa lên lãnh đạo chính quyền?
4.- Sai lầm
vì tránh né, không nói đến ông Ngô Đình Diệm là một tín đồ Da-tô
cuồng tín như trong sách The Two Vietnams đã nói ở nơi trang 236, vì tránh né không nói đến cái bản chất “tuyệt đối trung thành với
Tòa Thánh Vatican” như các sách sử đã ghi nhận.
Ông Lê Xuân Khoa
cũng không hề nói tới việc ông Ngô Đình Diệm tổ chức một cuộc đại lễ vô
cùng long trọng để dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiệm (tức là
Vatican) vào tháng 2 năm 1959. Buổi lễ này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh
nói rõ ở nơi các trang 126-127 trong cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris,
Sudestasie, 1978). Hành động này chứng tỏ rằng ông Ngô Đình Diệm và
chính quyền của ông ta chỉ là làm tay sai của Vatican.
5.- Sai lầm vì suy tôn ông Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc và khen tụng là người
có lý tưởng (trang 432).
Xin hỏi ông Lê Xuân
Khoa đây là thứ lý tưởng gì khi mà chính miệng ông Ngô Đình Diệm tuyên
bố công khai với các chính khách có thế lực trên sân khấu Hoa Kỳ rằng
ông ta “tin tưởng vào Tòa Thánh Vatican”?
Chẳng lẽ là một sử
gia viết về thời cận và hiện đại của đất nước mà ông lại không biết
Vatican là một đế quốc thực dân xâm lược và là một kẻ thù lâu dài nhất
ghê tởm nhất của dân tộc Việt Nam hay sao?
Chẳng lẽ ông Lê Xuân Khoa không biết chủ
đích của Vatican đưa ông Diệm sang Hoa Kỳ vận động để đưa ông ta lên cầm
quyền ở Việt Nam là nhằm phục vụ cho quyền lợi của Vatican hay sao?
Cũng nên biết là,
trong khi đó, thì trong cuốn TYRANTS History 100 Most Evil Despots &
Dictators (London: Arcturus, 2004, pp. 167-168) sử gia Nigel Cawthorne
lại ghi nhận ông Ngô Đình Diệm là một trong số 100 tên bạo chúa ác độc
nhất trong lịch sử nhân loại.
6.- Sai lầm
vì cố tình lờ đi không nói đến khối tài sản riêng của ông Diệm như các
sách sử đã công bố. Đã thế ông còn gộp chung ông Diệm vào một nhóm với
hai ông Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải Thần (trang 419) để khen tụng.
Làm như vậy thì chẳng khác nào ông Khoa
suy tôn ông Ngô Đình Khả và Trần Lục là nhà ái quốc rồi gom chung hai
tên Da-tô Việt gian này vào một nhóm với cụ Phan Đình Phùng và cụ Đinh
Công Tráng rồi ca tụng tất cả nhóm là những vị anh hùng dân tộc.
7.- Sai lầm
vì tránh né, cố tình không nói đến con số nạn nhân ở miền Nam bị
sát hại như các sách Thập Giá Và Lưỡi Guơm (trang 130-131), Vietnam: Why
Did We Go? (trang 88-89) và Đảng Cần Lao (trang 133) đã đưa ra.
8.- Sai lầm
vì cố tình giảm con số nạn nhân bị sát hại ở Rwanda và không nêu đích
danh các ông tu sĩ Da-tô chịu trách nhiệm trong vụ tàn sát người tập thể
vì tôn giáo này. Ông viết như sau:
“Mặc dầu đã có
từ lâu, dân di tản nội địa (IDPs) được nói đến nhiều nhất từ sau Chiến
Tranh Lạnh, thường do những cuộc tranh chấp về tôn giáo, chủng tộc và vi
phạm nhân quyền một cách có hệ thống, mạnh mẽ nhất vào đầu thập kỷ 1990.
Chẳng hạn như vụ dân Hutu tàn sát người Tutsis ở Rwanda (500,000 người
bị giết trong vòng vài tháng) hay những vụ thanh tẩy “chủng tộc” (ethnic
cleansing) ở Bosnia-Hercegovia với tổng số trên 200,000 người thiệt
mạng. Riêng hai cuộc chiến này vào những lúc cao điểm gây ra trên 4
triệu dân di tản.”(trang 240).
Người viết xin khẳng định cuộc tàn sát hơn
800 ngàn người ở Rwanda vào mấy tháng giữa năm 1994 là cuộc tàn sát
người vì tôn giáo vì rằng vai trò của ông Giám Mục Augustin Misago của
Giáo Hội La Mã ở trong đó.
Xin xem trong sách này, Phần II, Mục
III, đoạn C-4 Vấn Nạn Giáo Hội La Mã.
9.- Sai lầm
trong đoạn nói đến vụ Phật giáo (Tr 449-450 và 451), nhưng lại cho rằng
ông Diệm không có trách nhiệm trong vụ này..
10.- Sai lầm
vì tránh né không nói đến vai trò Hoa Kỳ trong việc thúc giục chính
quyền Ngô Đình Diệm thi hành chương trình cải cách ruộng đất và tránh né
không nói đến việc chính quyền Diệm không rớ tới khối ruộng đất không lồ
của Giáo Hội La Mã như sách Việt Nam A Dragon Embattled đã nói rõ ở
trang 932-933.
11.- Sai lầm
vì có xác nhận tội ác của Ngô Đình Cẩn (trang 454), nhưng lại không nêu
rõ những tội ác tầy đình của Ngô Đình Cẩn như các tội giết người,
đoạt của, bắt giam và tra tấn người trái phép, thủ tiêu nhiều người vô
tội và cũng không nói đến tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm đã không
đưa Ngô Đình Cẩn ra trước công lý.
12.- Sai lầm vì không đả động
gì đến vụ chính quyền Ngô Đình Diệm yêu cầu Hoa Kỳ sử dụng chất da cam
rải trên ruộng đất canh tác và đất rừng ở miền Nam Việt Nam từ năm 1962.
Trên đây là những sai
lầm mà người viết tin rằng là những sai lầm có chủ ý của tác giả Lê Xuân
Khoa vì rằng tác giả đã bỏ ra mất nhiều năm trời, tìm đọc và điều nghiên
cả hàng mấy trăm cuốn sách và tài liệu lịch sử để biên soạn nên tác phẩm
này, chẳng lẽ tác giả lại không biết đến những sự kiện lịch sử mà tác
giả đã diễn dịch không đúng với sự thật lich sử như đã nêu lên ở trên?
Và chẳng lẽ tác giả lại không biết đến những sự kiện lịch sử mà chúng
tôi cho rằng tác giả đã có chủ tâm tránh né không nói tới?
Mong rằng ông Lê Xuân
Khoa lên tiếng giải thích những vấn đề này.
CHÚ THÍCH
[i]
Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân, Tập1 (Los Alamato s, CA: Xuân Thu,
1989), tr. 79-84
[ii] Bùi Nhung, Sđ d., tr 97-100.
Các bài cùng tập
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 1: Vì sao bỏ nước ra đi - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Khi Nhà Văn... - Lời Mở Đầu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Bối Cảnh Lịch Sủ của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 2 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn chót - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nội Tình của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 2: Sai Lầm Trong Cuốn 1945-1995.. - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Sai Lầm Trong Cuốn "Xóm Đạo" - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nếu Miền Bắc Không Tấn Công - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Chuyện giáo dân bị sát hại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Đạo Công Giáo và Thực Dân - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Tiền Lương Quân Nhân Công Chức - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Việc kèm ghép các vị sư - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Trường Hợp Bắc Hàn - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 1 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ ▪
Trang Nguyễn Mạnh Quang