Tản Mạn Về "Ngày Lễ Tạ Ơn"
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN26.php
17 tháng 11, 2007
Ấn bản màu năm 1899 vẽ lại cảnh kỵ binh
Hoa Kỳ săn đuổi thổ dân châu Mỹ,
(nghệ sĩ chưa biết tên) Ảnh http://en.wikipedia.org/wiki/American_Indian_Wars
Vài Lời Nói Đầu:
Ngày Lễ Tạ Ơn ở Hoa Kỳ là một sự
pha trộn của huyền thoại và lịch sử. Học sinh tại các trường học và các tín đồ
Ki Tô Giáo thường chỉ biết đó là một ngày lễ để tạ ơn Thiên Chúa của Ki-Tô Giáo
theo truyền thống tôn giáo của họ, không cần biết là thực ra có một Thiên Chúa
hay không, và tại sao phải tạ ơn Thiên Chúa trong khi không có một bằng chứng
nào chứng tỏ Thiên Chúa của họ đã nhúng tay vào các việc thế gian. Thường thì
với niềm tin tôn giáo đượm màu ích kỷ cá nhân, hàng ngày trước bữa ăn, những
người Ki-Tô Giáo thường cúi đầu cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa đã cho họ thức ăn
trong bữa ăn đó.
Lẽ dĩ nhiên họ không bao giờ nghĩ rằng tất cả những bữa
ăn của họ có được là do công sức, mồ hôi nước mắt của họ đã tạo ra. Và lẽ dĩ nhiên họ
cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện những người thiếu ăn, hoặc sắp sửa chết đói,
thì phải tạ ơn ai. Thật ra thì những câu chuyện về tạ ơn, không hẳn
là tạ ơn Thiên Chúa, đã có suốt trong lịch sử nhân loại: tạ ơn trời đất, tạ ơn
mưa thuận gió hòa, tạ ơn xã hội an khang thịnh vượng, tạ ơn nếp sống hòa bình,
tạ ơn tứ ân phụ mẫu, tạ ơn gia đình hòa thuận, tạ ơn những người nông dân cầy
cấy cho nên chúng ta mới có gạo mà ăn v..v.. và v…v…
Nhưng chúng ta đang ở trên đất
Mỹ, và lễ Tạ Ơn trên đất Mỹ là ngày lễ để cho các tín đồ Ki Tô Giáo tạ ơn Thiên
Chúa của họ. Khi xưa những người Ki-Tô cũng thường đến nhà thờ để tạ ơn Thiên
Chúa của họ đã giúp họ thắng trận hay giết thêm được người da đỏ ngay trên Tân
Thế Giới này. Tôi nghĩ có lẽ chúng ta cũng nên tìm hiểu vài sự thực ở ngoài
truyền thống của Ki Tô Giáo về ngày lễ tạ ơn, và sau đó nhắc lại một vài bài về
lễ Tạ Ơn đã phổ biến trước đây.
Ở trường học cũng như trong dân
gian, chúng ta thường được nhồi vào đầu óc về nguồn gốc của Lễ Tạ Ơn có thể tóm
tắt như sau: Cách đây vài trăm năm, những người Anh thuộc Thanh Giáo [Thanh
Giáo là một hệ phái Tin Lành ở bên Anh tự cho là thanh khiết và đạo đức nhất]
đầu tiên đến nước Mỹ năm 1620 (Puritan Pilgrims), vì bị bạo hành ở bên Anh nên
phải đi tị nạn và đến lập nghiệp ở New England, miền Đông Bắc nước Mỹ bây giờ.
Những người Anh đầu tiên đó đến vùng Plymouth, tiểu bang Massachusetts, đã thoát
được nạn đói mùa đông 1620-21, nhờ sự giúp đỡ của thổ dân da đỏ địa phương,
nhưng tin rằng Thiên Chúa đã giúp họ cho nên họ đã để ra một ngày, thường là
trong vòng từ 29 tháng 9 đến 11 tháng 11, để đọc kinh cầu nguyện tạ ơn Thiên
Chúa, và đó là nguồn gốc của Lễ Tạ Ơn đã được ban bố chính thức trên nước Mỹ về
sau. Sách sử và tôn giáo ở Mỹ thường mô tả những người Pilgrims này là cao quý
(noble) với lý tưởng Ki-Tô.
Nhưng sự thực lịch sử không đơn
giản như vậy. Hiện nay những tài liệu nghiên cứu về thời lập quốc của Mỹ không
thiếu và chúng ta có thể thấy nhiều sự thực xung quanh ngày lễ Tạ Ơn của Ki Tô
Giáo trên đất Mỹ. Sau đây là vài nét tóm tắt trong phần Dẫn Nhập những tài
liệu nghiên cứu về ngày lễ Tạ Ơn của Trung Tâm Giáo Dục Tacoma, Tiểu Bang
Washington, viết bởi Chuck Larsen:
1. Những người Thanh Giáo
không chỉ đơn giản là những người bảo thủ Tin Lành bị bạo hành bởi Vua Anh và
Giáo Hội Anh vì những niềm tin không được truyền thống của họ. Đó là những nhà
cách mạng chính trị không chỉ có ý định lật đổ chính quyền Anh mà đã thực sự
hành động như vậy vào năm 1649.
2. Những người Thanh Giáo đến
New England không chỉ đơn giản là những dân tị nạn (refugees) quyết định “đặt số
mệnh của mình trong tay của Thiên Chúa” (put their fate in God's hands) trong
vùng đất hoang ở Bắc Mỹ, như cả một thế hệ phim ảnh Holywood đã dạy chúng ta.
Trong bất cứ nền văn hóa nào và ở mọi thời điểm, những người tới định cư ở các
miền biên giới xa xôi thường là những người đã bị gạt ra ngoài lề xã hội
(outcasts) và những tội phạm trốn chạy (fugitives), vì lý do này hay lý do khác,
đã không còn thích hợp ở trong xu hướng của xã hội họ. Nhưng hình ảnh cao quý
mà chúng ta dựng lên cho những người Thanh Giáo đầu tiên đến nước Mỹ này đã được
gói ghém trong huyền thoại về một nền “văn minh cao quý” (của Ki-Tô Giáo) đối
với “sự mọi rợ” trong các nền văn minh khác.
[Chúng ta nên nhớ là khi các thừa sai
Ca-Tô Giáo theo gót thực dân để truyền đạo trên thế giới, lẽ dĩ nhiên có Việt
Nam trong này, họ cũng cho rằng mang Ki-Tô Giáo đến để văn minh hóa những dân
tộc mọi rợ, trong khi thực chất Ki-Tô Giáo chỉ là một tôn giáo hạ đẳng, thuộc
loại mê tín hoang đường, so với nhiều tôn giáo khác như Thích, Nho, Lão] Những người Puritan Pilgrims tin rằng trận chiến cuối
cùng giữa Thiên Chúa của họ và Satan (Armegeddon) sắp xảy ra ở Âu Châu, và hi
vọng sẽ thiết lập ở Tân Thế Giới (Mỹ) “Vương Quốc của Thiên Chúa” hay “Nước
Trời” (Kingdom of God) như được viết trong sách tiên tri Khải Huyền. Do đó,
không phải họ chỉ tới Mỹ bằng một chiếc tàu Mayflower mà sau đó bằng hàng trăm
chiếc tàu khác, với ý định cướp đi đất đai của những thổ dân ở đây để xây
dựng “Vương Quốc Thánh” (Holy Kingdom) đã được tiên tri.
3.
Những người Puritan Pilgrims không chỉ là những người vô tội đi tị nạn vì bị bạo
hành tôn giáo. Họ là những nạn nhân của sự cuồng tín cố chấp hẹp hòi tôn giáo ở
Anh, nhưng chính họ cũng lại là những người cuồng tín cố chấp hẹp hòi tôn
giáo, theo tiêu chuẩn của chúng ta ngày nay. Họ tự coi là những người được
“Chúa chọn” như đã viết trong sách Khải Huyền. Họ tích cực thanh tẩy (purify)
họ trước rồi sau đó thanh tẩy mọi người khác (everyone else), những người không
chấp nhận sự diễn giải Kinh Thánh của họ. Về sau, những người Puritan
Pilgrims ở New England đã dùng bất cứ phương tiện nào, gồm cả những sự dối trá,
lừa lọc, tra tấn, chiến tranh, và chính sách diệt chủng để đạt được mục đích
trên. ( Later New England Puritans used any means, including deceptions,
treachery, torture, war, and genocide to achieve that end.) Họ coi họ như là
những người đang mở cuộc Thánh Chiến (Crusade) để chống Satan, và bất cứ người
nào không đồng ý với họ đều là kẻ thù của họ. Chủ trương này được truyền vào
Tân Thế giới bởi nhưng tên thực dân ở Plymouth, và soi sáng cho chúng ta một
hình ảnh khác với hình ảnh mà chúng ta thường biết. Điều này được minh họa
rõ ràng nhất trong một bài giảng (sermon) về Tạ Ơn Thiên Chúa của Mather the
Elder ở Plymouth năm 1623, còn trong tài liệu. Trong bài giảng này,
Mather the Elder đã đặc biệt Tạ Ơn
Thiên Chúa vì Ngài đã làm cho bệnh đậu mùa (do người Âu Châu mang tới, trước khi người
Âu Châu tới, trên đất Mỹ không có bệnh đậu mùa, như sử sách đã ghi rõ. TCN) lan tràn làm chết đa số những thổ dân Wampanoag, những người đã từng là ân nhân
của họ, cứu họ khỏi chết đói qua mùa đông 1620-21. Ông ta ca tụng Thiên
Chúa đã hủy diệt “hầu hết những người trẻ và trẻ con, những hạt giống để tăng
gia dân số thổ dân Wampanoag, tạo miền đất mới để gieo những hạt giống tốt hơn,
nghĩa là con cái của những người Puritan Pilgrims. [In it, Mather the Elder gave special thanks to God
for the devastating plague of smallpox which wiped out the majority of the
Wampanoag Indians who had been their benefactors. He praised God for destroying
"chiefly young men and children, the very seeds of increase, thus clearing the
forests to make way for a better growth", i.e., the Pilgrims.]
Lẽ dĩ nhiên còn rất nhiều chuyện liên quan đến
thời kỳ những người Puritan Pilgrims đến Mỹ và sau đó lập thành Mỹ Quốc. Nhưng
đi vào những chi tiết lịch sử thì sẽ quá dài nên tôi chỉ đưa ra vài nét điển
hình về ngày lễ Tạ Ơn của Ki Tô Giáo trên đất Mỹ. Sau đây chúng ta cũng nên đọc
thêm vài tài liệu cũ để nhận rõ vấn đề.
QUAN ĐIỂM CỦA THỔ DÂN MỸ:
MỘT NGÀY “KHÔNG TẠ ƠN”
[In The Indian View: A Day Of “No Thanks”]
Tác giả: Ward Churchill
Professor of Ethic Studies, University of
Colorado
(Sacramento Bee, 11-23-2000)
Trần Chung Ngọc dịch
Ngày Lễ Tạ Ơn
là ngày mà Hiệp Chủng Quốc ăn mừng sự kiện là những người Anh đầu tiên ở thuộc
địa Plymouth thoát được nạn đói qua mùa Đông 1620-21. Nhưng theo quan điểm của
người thổ dân Mỹ, các người muốn chúng tôi phải tạ ơn cái gì?
Có người nào thực sự
mong muốn chúng tôi phải tạ ơn sự kiện là, ngay sau khi những người da trắng
đầu tiên đến Plymouth hồi phục được sức lực, họ bắt đầu tận diệt chính những
người thổ dân đã nuôi sống họ trong mùa Đông đầu tiên này? Chúng tôi có
phải biểu lộ lòng biết ơn của chúng tôi đối với những tên thực dân đã tàn sát
những người da đỏ Pequots ở Mystic, Connecticut, hay sự khoa trương của họ để
biện minh cho cuộc tàn sát bằng luận điệu coi người thổ dân như là đàn chuột hay
rận, chấy?
Hay là chúng tôi phải vui mừng trước những
cuộc tàn sát vô tận tiếp theo ở St Francis (1759), Horseshoe Bend (1814), Bad
Axe (1833), Blue Water (1854), Sand Creek (1864), Marias River (1870), Camp
Robinson (1878) và Wounded Knee (1890), đó là chỉ kể những cuộc tàn sát tàn khốc
nhất..
Chúng tôi có phải tạ
ơn chính sách của mọi thuộc địa Anh (ở Đông Bắc nước Mỹ), cũng như của 48 tiểu
bang khác ở miền Nam, thưởng tiền cho những kẻ đi săn, lột da đầu người thổ dân
làm chứng cớ đã giết được những người thổ dân, kể cả đàn bà và trẻ con?
Chúng tôi phải tạ ơn
như thế nào trước lệnh của Lord Jeffrey Amherst năm 1763, mang những vật
nhiễm bệnh đậu mùa làm quà tặng cho dân Ottawas để cho “chúng ta có thể diệt
trừ cái giống dân xấu xa đáng ghét này”? (How might we best show our
appreciation of the order issued by Lord Jeffrey Amherst in 1763 requiring
smallpox-infested items be given as gifts to the Ottawas so that “we might
extirpate this execrable race?”)
Có hợp lý không
khi muốn chúng tôi phải hân hoan vì dân tộc chúng tôi, vào khoảng 15 triệu khi
người Tây phương bắt đầu xâm lăng, chỉ còn lại chưa đầy 250 ngàn vào năm 1890?
Có thể chúng tôi nên vui mừng vì những người “định cư hiền hòa” (peaceful
settlers) tới đây đã không giết hết chúng tôi.
Nhưng thực ra họ
không cần phải làm thế. Tới năm 1900, họ đã chiếm 98% đất đai của chúng tôi.
Số thổ dân còn lại đơn giản được ném vào những miền đất khô cằn không ai
muốn, tin tưởng rằng chẳng bao lâu chúng tôi sẽ bị tuyệt chủng cho khuất mắt và
không còn làm bận tâm những nguời trong xã hội những người định cư.
Chúng tôi chưa có chết hết, nhưng chúng tôi
trở thành đám người nghèo khổ, thiếu dinh dưỡng, và nhiều bệnh tật nhất trên lục
địa ngày nay. Tuổi thọ của chúng tôi trung bình là 50 trong khi của những người
Mỹ gốc Âu Châu là 75.
Chúng tôi còn phải
chịu đựng chính sách diệt chủng bằng văn hóa (cultural genocide) trong
thế kỷ 20. Nhiều thế hệ con cái chúng tôi học trong các trường công lập đã bị
cấy vào đầu óc ý niệm “giết dân da đỏ” và thay thế những truyền thống dân tộc
địa phương bằng những tập hợp giá trị và hiểu biết Âu-Mỹ văn minh hơn.
Chúng tôi có nên
biết ơn về những phim ảnh “cao bồi giết dân da đỏ” [Hollywood Westerns] của
Hollywood, chiếu đi chiếu lại trên những đài truyền hình, và những đoạn phim chế
diễu người thổ dân Mỹ như là không phải giống người?
...Vào khoảng ba
phần tư thổ dân trưởng thành trở thành nghiện rượu hay các chất độc hại khác..
Đây không phải là một trạng thái di truyền. Đây là một toan tính tuyệt vọng tập
thể để trốn khỏi thực tế hãi hùng của chúng tôi từ cuộc chiến thắng vinh quang
của Mỹ.
Không có gì là khó
hiểu khi người thổ dân ở đây không ăn mừng ngày lễ tạ ơn.
Vấn đề thật sự là tại sao lại có người ăn mừng trong
khi ngày đó phải là một ngày đau buồn và chuộc tội.
Ghi Chú của TCN: Những
người Anh đầu tiên đến Plymouth, MA., là những người theo đạo Tin Lành, chạy
khỏi Âu Châu để tránh sự bạo hành tôn giáo của Ca-tô Giáo Rô-ma đối với Tin
Lành. Về sau, theo gót đám người này đến nước Mỹ là những tín đồ Ca-tô ở Tây
Ban Nha. Hình ảnh các nhà truyền giáo giơ cuốn Kinh Thánh trước người da đỏ
bị họ thiêu sống vì không chịu theo đạo còn ghi trong sử sách. Lòng độc ác của
con cái Chúa thật vô cùng khủng khiếp. Chúng ta
cũng không nên quên là thực dân Anh, hầu hết là Tin Lành, đã mang nha phiến đến
đầu độc dân Trung Hoa, và thực dân Pháp, hầu hết là tín đồ Ca-tô Rô-ma, cũng có
sách lược đầu độc người dân Việt bằng nha phiến và rượu đế, tất cả đều dưới
chiêu bài: “Mang ánh sáng văn minh của Tây phương và Kitô Giáo đến khai sáng
những dân tộc mọi rợ.”
AI TẠ ƠN VÀ TẠ ƠN AI?
Trần
Chung Ngọc
Thánh Kinh Ki Tô Giáo viết:
1 Sử Ký: 16, 34: Ôi! Hãy
tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài chí thiện!
Vì lòng thương người của
Ngài tồn tại mãi mãi
(1 Chronicles: 16, 34: Oh,
give thanks to the Lord, for He is good!
For His mercy endures
forever)
Trên nước Mỹ, ngày thứ Năm
trong tuần lễ thứ Tư của tháng 11 được quy định là "Ngày Lễ Tạ Ơn". Tạ ơn ai?
Chẳng cần phải nói ai cũng biết đó là ngày để tạ ơn Thiên Chúa, lẽ dĩ nhiên,
Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, vì trên thế gian này có cả trăm Thiên Chúa khác nhau,
(Xin đọc A History of God của Nữ Tu Karen Armstrong, hoặc cuốn A World
Full of Gods của Keith Hopkins) nhưng về bản chất thì Thiên Chúa nào cũng
như nhau, cũng đều do con người tưởng tượng ra để phù hợp với sự hiểu biết của
mình và với dân tộc mình.
Tại sao ở Mỹ lại có ngày lễ
tạ ơn Thiên Chúa? Đó là vì cách đây vài trăm năm, những người Anh đầu tiên đến
vùng Plymouth, tiểu bang Massachusetts, đã thoát được nạn đói mùa đông 1620-21,
tin rằng Thiên Chúa đã giúp họ cho nên họ đã đọc kinh cầu nguyện để tạ ơn Thiên
Chúa. Thực ra thì chính dân da đỏ đã cung cấp thức ăn cho họ trong mùa Đông
đó. Và sau khi lấy lại sinh lực, dựa trên ưu thế
của súng ống trên cung tên, họ đã “tạ ơn” người da đỏ bằng cách đi cướp hết đất
đai của người da đỏ và thi hành chính sách diệt chủng đối với người da đỏ và
cưỡng bách người da đỏ phải theo cái đạo cao quý cầm đầu bởi Chúa lòng lành vô
cùng của họ. Từ đó cho đến năm 1890, trong vòng 270 năm, những con cái của Chúa
đã giảm dân số dân da đỏ từ 15 triệu xuống còn dưới 250000, và biến miền đất phì
nhiêu của dân da đỏ thành "Tân Thế Giới" của người da trắng, do người da trắng
(Christophe Columbus) tìm ra. Nhiều người da đỏ ngày nay nuốt nước mắt, không
biết làm gì hơn là uống rượu để giải sầu.
Viết đến đây, tôi đứng giậy, thắp một nén hương trên
bàn thờ tổ tiên, tạ ơn tổ tiên tôi đã rất sáng suốt trong quá khứ để cho dân
Việt Nam khỏi rơi vào cảnh của dân da đỏ ngày nay, khỏi rơi vào hoàn cảnh của
dân Phi Luật Tân ngày nay, và nhất là bảo tồn được nền văn hóa và truyền thống
dân tộc. Không có một nước nhỏ nào, yếu
kém, nghèo khổ mà lại có một lịch sử chống ngoại xâm oai hùng như nuớc Việt
Nam. Tàu, Tây, Mỹ đều phải trở lại nơi chôn nhau cắt rốn của họ.
Một số di sản văn hóa được để lại Việt Nam nhưng di sản tôn giáo Ki Tô thì luôn
luôn dậm chân tại chỗ, và khi những sự kiện lịch sử Việt Nam được mang ra xét
xử đầy đủ, và khi dân trí Việt Nam tiến bộ, đối diện với đầy đủ thông tin thì di
sản tôn giáo này sẽ tiến 2 bước lùi 3 bước. Đây cũng là chiều hướng "tiến bộ"
của Ki Tô Giáo nói chung trong các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ.
Ngày nay miền đất ở Bắc Mỹ Châu này đã trở thành một
cường quốc giầu có nhất, nhân từ nhất, hào hiệp nhất, nhiều vũ khí nguyên tử
nhất v..v.. mà chúng ta sống trên đó, và hàng năm cứ đến ngày thứ năm trong tuần
lễ thứ tư của tháng 11, chúng ta, những người đi làm đóng thuế, lại được nghỉ
một ngày để "Tạ ơn Thiên Chúa". Còn những người trong tuổi đi làm mà lãnh lương
ông Bush thì ngày nào đối với họ cũng là ngày lễ, họ tạ ơn Thiên Chúa qua cốc cà
phê và điếu thuốc lá ở trong Phúc Lộc Thọ, Bolsa, và qua những câu chuyện mà
trong đó những người tham luận ai cũng là vô thượng thiên tài về quân sự, chính
trị và kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, người da đỏ không ăn mừng (celebrate) ngày lễ
tạ ơn Thiên Chúa.
Trong thời lập quốc, tuyệt
đại đa số người da trắng đến tân thế giới với một công hai việc, vừa đi ăn cướp
đất vừa để vinh danh Chúa bằng cách mang ánh sáng của Chúa chiếu trên sự tối tăm
của dân địa phương, bất kể là dân địa phương có muốn và có cần đến cái thứ ánh
sáng này hay không. Cường quyền và bạo lực đã thắng công lý, và cũng từ
đó những nhà lãnh đạo Ki Tô giáo của Tây phương đã vận động để có một ngày tạ ơn
Thiên Chúa cho những tín đồ của họ và cho cả những người không tin là có Thiên
Chúa nhưng bị ép buộc phải tin.
Nghị quyết để ra một ngày cho
dân chúng Hoa Kỳ cầu nguyện và tạ ơn Thiên Chúa đã được thông qua bởi quốc hội
ngày xưa, dù các Tổng Thống sáng suốt của Hoa Kỳ như George Washington, Thomas
Jefferson, James Madison, và Andrew Jackson đều không đồng ý áp đặt một tín
ngưỡng tôn giáo trên toàn thể dân tộc. Tuy ngày lễ tạ ơn đã vi phạm trắng
trợn Tu Chính Án Thứ Nhất trong Hiến Pháp Hoa Kỳ (Frank R. Zindler: The
proclamation of a day of thanksgiving is a flagrant vilolation of the First
Amendment of the Constitution), ngày lễ này vẫn được coi là ngày quốc lễ của
Hoa Kỳ, dù trình độ dân trí đã tiến bộ nhiều so với trình độ dân trí cách đây
hơn 200 năm. Lý do là, tuy Hoa Kỳ có luật tách rời Nhà Thờ với Nhà Nước, nhưng
thế lực của Ki Tô Giáo vẫn còn rất mạnh, và các chính trị gia, từ Tổng Thống trở
xuống, muốn kiếm phiếu đều phải nhắc tới câu "God Bless America", nhất là trong
các mùa tranh cử. Lý do thứ hai là, ngày lể tạ ơn là một dịp để gia đình xum
họp ăn uống, nhậu nhẹt, sau vài giây đồng hồ "Tạ ơn Thiên Chúa".
Trong dịp lễ tạ ơn năm
nay, 46 triệu con gà tây được hóa kiếp để làm một món ăn truyền thống của dân da
trắng, trong số 46 triệu này không biết có bao nhiêu con gà tây kiếp sau được
lên làm tín đồ Ki Tô Giáo ở Mỹ để được tạ ơn Thiên Chúa trong ngày lễ tạ ơn.
Số phận trong kiếp này của những con gà tây đó chỉ là một món ăn ngon mà Thiên
Chúa cung cấp cho các tín đồ. Trước mỗi bữa ăn, các tín đồ Ki Tô thuần thành
thường cúi đầu tạ ơn Thiên Chúa đã cung cấp cho họ đầy đủ thức ăn hàng ngày.
Không hiểu những người đang sắp sửa chết đói, những trẻ em ở Rwanda, Ethiopia
v..v.. không có cả một hột cơm vào bụng có nên tạ ơn Thiên Chúa hay không?
Ôi! Hãy tạ
ơn Thiên Chúa, Vì Ngài chí thiện,
Vì lòng
thương người của Ngài tồn tại mãi mãi.
*
Không thể tha thứ được,
trên thế giới, mỗi ngày có khoảng 40000 trẻ con dưới 5 tuổi chết vì đói, vì bệnh
tật dễ phòng ngừa, vì thiếu chăm sóc. Và các linh mục mập mạp có
những hành động gì trước vấn đề trên? Họ đang đe dọa các bậc cha mẹ Ca-Tô phải
đày đọa hỏa ngục đời đời nếu họ giới hạn số con cái ở mức họ có thể nuôi và
chăm sóc được. Lập trường của Ca-Tô giáo về vấn đề này là không lay chuyển,
không nhân nhượng, và thật là độc ác: Nếu những đứa trẻ chết đói thì để cho
chúng chết đói. Điều này không làm cho các linh mục Ca-Tô bớt mập.
Trong khi bà Teresa nói
tầm phào là Thiên Chúa sẽ cung cấp đầy đủ cho mọi người, 423 triệu người trong
xứ Ấn Độ của bà sống trong cảnh tuyệt đối nghèo khổ, 73.1 triệu trẻ em dưới 5
tuổi thiếu dinh dưỡng...
Làm sao mà bà ta có thể
nhẫn tâm như vậy, ngồi trên hàng triệu đô-la đó (số tiền để trong các ngân hàng)
trong khi những đứa trẻ, ngay ở nơi bà đang sống ở Ấn Độ, đang chết đói?
(Judith Hayes, The Happy
Heretic, pp. 61, 65, 69: Inexcusably, forty thousand of the world's children
under the age of five die every day from starvation, easily preventable
diseases, and neglect. And what are the portly priests doing about it? They
are threatening Catholic parents with eternal damnation if they try to limit
their children to a number they can feed and care for. The Catholic position on
this is unshakable, unyielding, and utterly cruel: If the babies starve, they
starve; so be it. It's no skin off those portly, priestly, Catholic bellies..
While Teresa prattled on
about a providing God, 423 million people in "her" India were living in absolute
poverty, 73.1 million children under five were malnourished..
How she could be so callous
as to sit on those millions of dollars while children, even in her own part of
India, were dying of starvation?)
Ôi! Hãy tạ
ơn Thiên Chúa, Vì Ngài chí thiện,
Vì lòng
thương người của Ngài tồn tại mãi mãi.
*
"India's Shame," Nation,
April 8, 1996, p.11: Ở Bombay, một em bé gái 12 tuổi được đẩy vào trong một
lồng kính rộng khoảng 1m cao 2m trên con đường ô nhục Falkland Road. Được trang
hoàng bởi tấm sari sặc sỡ và những đồ trang sức, em được trưng bày cùng với hàng
trăm các nô lệ tình dục (sex slaves) khác. Qua những chấn song trên cửa kính
hướng ra ngoài đường, em có thể nhìn thấy những người đàn ông trong khi họ cũng
đang nhìn em để quyết định một chọn lựa. Lồng kính của em được chiếu sáng để
cho khách nhìn thấy rõ món hàng mình sắp bỏ tiền ra thuê. Em bé này đã mất đi
sự trinh tiết cách đây vài tuần, trước ngày sinh nhật em 12 tuổi. Tuy nhiên em
hãy còn có giá và những số tiền em kiếm được chỉ đủ ăn và trả một phần nợ. Em
sẽ không bao giờ hết nợ. Cùng số phận với 50% bạn nô lệ tình dục, trong tương
lai em không tránh được mắc bệnh AIDS.
Ôi! Hãy tạ ơn Thiên Chúa, Vì Ngài chí thiện,
Vì lòng thương người của Ngài tồn tại mãi mãi.
*
"Six Cents an Hour", Life,
June 1996, p. 38: Nửa vòng bên kia trái đất, trong một gian phòng ánh sáng
lờ mờ, bí thở, một em bé trai 10 tuổi đang ngồi xổm dùng bàn tay bé nhỏ của em
để kết những nút trên một tấm thảm. Em sẽ phải ngồi như vậy mỗi ngày từ 12 đến
13 tiếng đồng hồ, 6 ngày một tuần. Mỗi tuần em kiếm được khoảng $2, và sau một
tuần tấm thảm được gửi đi Mỹ bán với giá $2000. Em ho luôn vì hít phải những
sợi may từ tấm thảm (carpet lint). Xương sống của em biến dạng vì thường xuyên
phải ngồi trong thế ngồi xổm. Giống như những em khác ở xung quanh, em không
sống được quá 20 tuổi.
"Young Laborers Toil in Pakistan
to Help Families", Chicago Tribune, October 31, 2001, p. 10: Peshawar,
Pakistan: Sau những bức tường cao, cổng khóa chặt của hãng làm thảm Asiatic,
có 800 trẻ em người Afghanistan làm lao động. Một số chỉ mới có 5, 6 tuổi.
Công việc của chúng là từ sáng đến tối kết những mấu nút (knots) của tấm thảm.
Đến đêm nhiều đứa khóc vì nhớ cha mẹ. Nhiều đứa sẽ mắc bệnh phổi vì thường
xuyên hít phải những may len (wool fibers) Nhiều đứa khác sẽ bị mù vì những
chất nhuộm màu bay vào mắt. Ở Peshawar có 300 nhà dệt thảm như trên, và các
hãng này cần đến những bàn tay bé nhỏ của các em bé để kết những mấu nút trên
những tấm thảm. Tuổi tối đa của các em này là 12 tuổi. Em nào bị mắc bệnh phổi
hay đau mắt (vì ảnh hưởng môi trường chỗ làm việc) thì bị đuổi về nhà.
Ôi! Hãy tạ
ơn Thiên Chúa, Vì Ngài chí thiện,
Vì lòng
thương người của Ngài tồn tại mãi mãi.
Óc thực tế của một nông
dân Mỹ:
Ông Linh Mục nói với một nông
dân Mỹ ngày nay: "Năm nay được mùa, con thu hoạch tốt. Con hãy
xem: Thiên Chúa đã thương con và giúp con như thế nào? Con hãy tạ ơn Thiên
Chúa".
Nông dân Mỹ ngày nay trả lời: "Thưa Cha, Cha hãy nhìn ra những
cánh đồng lúa của con, con đã đổ ra đấy biết bao mồ hôi công sức. Nói
thực với Cha, nếu để cho mình Thiên Chúa làm việc ngoài đó thì cánh đồng lúa
của con chỉ có toàn là cỏ dại."
Câu "Ôi! Hãy tạ ơn
Thiên Chúa, Vì Ngài chí thiện, Vì lòng thương người của Ngài tồn tại mãi mãi."
là câu trong Thánh Kinh mà các tín đồ Ki Tô thường nhắc đến nhiều nhất.
Điều khó hiểu là tại sao trên thế giới ngày nay có trên 6 tỷ người mà chỉ có một
thiểu số, chưa tới một phần tư, là tin vào câu trên. Thật ra thì cũng chẳng
có gì khó hiểu, vì thiên hạ không chỉ gồm những người ngu, nghiện đạo.
NGÀY LỄ TẠ ƠN:
TẠ ƠN “KILOMÈTRES
DEBOUTISH”
(Đây là bài viết nổi tiếng của
nhà hài hước Art Buchwald trong thập niên 1990 về ngày “lễ Tạ Ơn) Tôi
không dịch vì dịch thì mất đi sự ý nhị của tác giả. TCN.
[In 1953, during my tour of duty with the French
Foreign Legion in the Sahara, my tough sergeant from Marseilles said to me, "Why
do all the American recruits refuse to eat anything but turkey on this day?”
I told him I was sorry but my
lips were sealed. He then poured honey on my head so the ants would get me.
That's when I broke down and talked.]
One of the most important holidays is Thanksgiving Day,
known in France as Le Jour de Merci Donnant.
Le Jour de Merci Donnant was first started by a group of pilgrims (Pelerins) who
fled from l'Angleterre before the McCarran Act to found a colony in the New
World (le Nouveau Monde), where they could shoot Indians (les Peaux-Rouges) and
eat turkey (dinde) to their hearts' content.
They landed at a place called Plymouth (now a famous voiture Americaine) in a
wooden sailing ship named the Mayflower, or Fleur de Mai, in 1620. But while the
Pelerins were killing the dindes, the Peaux-Rouges were killing the Pelerins,
and there were several hard winters ahead for both of them. The only way the
Peaux-Rouges helped the Pelerins was when they taught them how to grow corn
(mais). They did this because they liked corn with their Pelerins.
In 1623, after another harsh year, the Pelerins' crops were so good they decided
to have a celebration and because more mais was raised by the Pelerins than
Pelerins were killed by the Peaux-Rouges.
Every year on le Jour de Merci Donnant, parents tell their children an amusing
story about the first celebration.
It concerns a brave capitaine named Miles Standish (known
in France as Kilomètres Deboutish) and a shy young lieutenant named Jean Alden.
Both of them were in love with a flower of Plymouth called Priscilla Mullens (no
translation). The vieux capitaine said to the jeune lieutenant:
"Go to the damsel Priscilla (Allez très vite chez Priscilla), the loveliest
maiden of Plymouth (la plus jolie demoiselle de Plymouth). Say that a blunt old
captain, a man not of words but of action (un vieux Fanfan la Tulipe), offers
his hand and his heart -- the hand and heart of a soldier. Not in these words,
you understand, but this, in short, is my meaning.
"I am a maker of war (Je suis un fabricant de la guerre) and not a maker of
phrases. You, bred as a scholar (Vous, qui êtes pain comme un étudiant), can say
it in elegant language, such as you read in your books of the pleadings and
wooings of lovers, such as you think best suited to win the heart of the
maiden."
Although Jean was fit to be tied (convenable a être emballé), friendship
prevailed over love and went to his duty. But instead of using elegant language,
he blurted out his mission. Priscilla was muted with amazement and sorrow
(rendue muette par l'étonnement et la tristesse).
At length she exclaimed, breaking the ominous silence, "If the great captain of
Plymouth is so very eager to wed me, why does he not come himself and take the
trouble to woo me?" ("Ou est-il, le vieux Kilometres? Pourquoi ne vient-il pas
auprès de moi pour tenter sa chance?")
Jean said that Kilometres Deboutish was very busy and didn't have time for such
things. He staggered on, telling her what a wonderful husband Kilometres would
make. Finally, Priscilla arched her eyebrows and said in a tremulous voice, "Why
don't you speak for yourself, Jean?" ("Chacun a son gout.")
And so, on the fourth Thursday in November, American families sit down at a
large table brimming with tasty dishes, and for the only time during the year
eat better than the French do.
No one can deny that le Jour de Merci Donnant is a grand fête, and no matter how
well fed American families are, they never forget to give thanks to Kilometres
Deboutish, who made this great day possible.
Art Buchwald, 1996
Các bài về Lễ Tạ Ơn:
- Tản mạn về "NGÀY LỄ TẠ ƠN" (Trần Chung Ngọc)
- Hãy Tạ Ơn Chúa ! (Trần Chung Ngọc)
- Vài Cảm Nghĩ Về Lễ Tạ Ơn (Vương Vũ)
- Tạ Ơn và Tạ Lỗi - Sự Thật và Huyền Thoại (Đào Viên)
Các bài về tôn giáo cùng tác giả
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>