ÔN CỐ TRI TÂN :
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ”
Nhân Đọc Cuốn “Hành Trình Và Truyền Giáo”
Của Alexandre de Rhodes
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN50.php
ngày 02 tháng 7, 2008
Giaodiemonline.com giới thiệu:
Giáo sĩ dòng Tên Alexandre de Rhodes (1591-1660) là
một khuôn mặt truyền giáo lớn của Công giáo Pháp tại Đông Nam Á, và vì
vậy là khuôn mặt rất lớn của Công giáo Việt Nam. Khoảng năm 1619, ông
huy động được một tàu chiến của Pháp để đến xứ An Nam 6 tháng và bắt đầu
công việc “khai hóa” dân bản xứ “mọi rợ”, dẹp bỏ “tà thần”
(mà trong đó phải “chém ngã thằng Thích Ca”), thủ tiêu văn hóa
bản địa để rao giảng đạo Chúa.
Ngoài công tác truyền đạo, dĩ nhiên ông còn hai ý
đồ khác nữa, một đạo một đời: (i) Thứ nhất là mở rộng và củng cố vùng
ảnh hưởng của giáo hội Pháp trong cuộc tranh chấp giữa hai giáo hội Pháp
- Bồ Đào Nha, và (ii) Thứ nhì là gửi những thông tin chiến lược của xứ
An Nam về Paris để thúc đẩy triều đình Pháp xâm lăng và đô hộ Việt Nam.
Hai ý đồ nầy được ông chu toàn bằng cách khoác chiếc áo chùng thâm lên
để che dấu mũi súng cà nông bắn vào nước ta. Sau nầy, những “cha cố” như
Pigneau de Béhaine, Lambert, Huc, Puginier, Pellerin, Taberd, … và bọn
tay sai bản xứ phản bội tổ quốc đã triển khai ý đồ nầy và theo bước chân
của ông để tay súng tay thập ác đô hộ nước ta trong gần 100 năm trời mà
thôi.
Suốt cả thời kỳ đô hộ Pháp và kéo dài trên nửa nước
dưới chế độ giáo trị Ngô Đình Diệm, Alexandre de Rhodes được chính quyền
và giáo hội Công giáo Việt Nam vinh danh và ghi ơn như người sáng tạo ra
chữ “quốc ngữ”, xem Rhodes là danh nhân văn hóa nước ta. Những chính
quyền thực dân và phản dân tộc đó đã tự mình, hay cho phép, in tem, tạc
tượng, đặt tên đường, đặt tên trường, đặt tên cơ quan … tên gián điệp
ngoại bang đầu xỏ nầy để làm sáng danh y. Tuy nhiên, những văn bản phát
hiện trong 20 năm qua đã chứng tỏ một cách không chối cải được rằng
Rhodes chỉ cóp nhặt, tiếm dụng, và thêm thắt vào những công trình sáng
chế chữ Việt với mẫu tự Latinh của nhiều người khác trước đó, đặc biệt
của ba giáo sĩ Bồ Đào Nha là Francisco de Pina, Gaspa d’Amarel, và
Antonio Barbosa. Như vậy, thật sự là giáo sĩ Rhodes, cùng với một số
cọng sự viên, có đóng góp vào việc hình thành chử Việt Latinh hóa có
sẳn, nhưng dứt khoát Rhodes không phải là “cha đẻ”, người đầu tiên phát
minh ra văn tự nầy. Và cũng thật sự là chính tên gián điệp Rhodes, chứ
không phải ai khác, là một trong những nguyên ủy của “một trăm năm đô
hộ giặc Tây” sau nầy.
|
|
|
Alexandre de Rhodes |
Catechismus (Phép giảng Tám ngày) là một trong những cuốn sách Rhodes viết để dạy cho con chiên Việt Nam phỉ báng lịch sử và văn hóa nước ta
|
Tem thư trị giá 3 đồng, phát hành dưới thời
chính quyền Ngô Đình Diệm để kỹ niệm “Sách Đắc Lộ, chử nước ta”
|
Đó là chưa nói đến âm mưu thâm độc của Rhodes muốn lợi dụng chính quyền bảo hộ đương thời để, trong quá trình “quốc ngữ hóa”, xóa tuyệt chữ Hán Nôm hầu bít lối tìm về nguồn gốc văn minh, căn
cước văn hóa đặc thù của dân tộc ta. Hôm nay, nhìn những quốc gia “nhỏ” như Lào, Cambốt, Miến Điện, Sri Lanka, Tibet, hay “vừa” như Thái, Hàn,
Pakistan, Irak, Thổ Nhĩ Kỳ, hay lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, …
tất cả đều vẫn tồn tại và phát triển mà không mất văn tự gốc, và đặc
thù của tổ tiên họ để lại. Ta chỉ còn giống Phi Luật Tân và Mexico, hai
quốc gia cũng mất văn tự như nước ta, vì bị các cường quốc Công giáo Tây
phương dùng thập ác và lưỡi gươm xâm lăng và đô hộ.
Bài viết dưới đây của tác giả Trần Chung Ngọc, thông qua một vài đoạn
tiêu biểu trong cuốn “Hành Trình và Truyền Giáo” của Rhodes, nhằm
bình luận để lột trần vài khía cạnh về “con người” xảo quyệt và gian trá
của một vị đại công thần Pháp đã sáng lập ra Công giáo tại Việt Nam. –
pb/gdol
Lời nói đầu của tác giả:
“Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” là cụm từ Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang dùng để
chỉ những ảnh hưởng tai hại của Thiên Chúa Giáo La Mã (Thiên-La) mà giáo
sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc-Lộ) đã mang đến đầu độc đầu óc lớp người dân
thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam: "Sự tổng hợp của sách lược
truyền đạo tàn bạo, cường quyền thắng công lý, của giáo hội Công giáo và
sự cuồng tín, gian manh, xuyên tạc, cùng cách dùng ngôn từ hạ cấp của
giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes)." [Xin đọc Chương 15
trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư (1954-1963)
của Giáo sư Quang] Di lụy của sách lược đầu độc này còn kéo dài cho tới
ngày nay, trải dài từ trong tòa thánh Vatican đến xóm đạo Bolsa, các xóm
đạo ở Việt Nam, Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội, và trên nhưng diễn đàn truyền
thông điện tử như Tiếng Nói Giáo Dân hay Vietcatholic v..v…
Chắc có người cho rằng đây chỉ là những lời lẽ bôi nhọ, “chống
đạo” vô căn cứ. Không hẳn thế, đọc cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo
của Alexandre de Rhodes chúng ta thấy rõ ràng như vậy, và tôi sẽ
chứng minh khá đầy đủ trong một phần sau.
Số là, trong tháng 6, 2008 vừa qua, chúng tôi và một số bạn bè rủ
nhau đi du lịch thăm một số nước như Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hi Lạp trên một du
thuyền [cruise] của hãng Carnival. Chiếc Carnival Freedom có 3200 khách
và 1600 nhân viên phục vụ. Trước khi xuống tàu ở cảng Civitavecchia,
cách Rome khoảng một giờ lái xe, tôi đi trước một tuần lễ ghé Paris và
đi chơi vùng Normandie, Touquet, Crotois, Rouen v..v.. Ở Paris, tôi
được một người thân thẩy cho 2 cuốn của Alexandre de Rhodes mà tôi chưa
có và không có ý định đọc:
- Hành Trình Và Truyền Giáo.
- Lịch Sử Đàng Ngoài.
Du thuyền cặp bến ở những cảng như Naples, Marmaris, Itzmir,
Preareus, Istanbul, Livorno, và Civitavecchia. Từ những nơi đây chúng
tôi có thể đi thăm thêm các nơi như Sorrento, Pompei, Olympia, Athens,
Provence, Pisa và Rome.
Trong chuyến du thuyền, có 3 ngày tàu chạy trên biển không ghé
đâu, nên tôi có thì giờ mở cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo đọc.
Đây là bản dịch cuốn “Les Divers Voyages et Missions du Père
Alexandre de Rhodes, năm 1653” của Hồng Nhuệ, nguyên bản bằng tiếng
Pháp ở phần sau, do Tủ sách Đại Kết, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, TP Hồ
Chí Minh xuất bản năm 1994.
Trong Lời Dịch Giả, Hồng Nhuệ viết: “Chúng tôi để cho
độc giả thưởng thức nguyên văn của giáo sĩ với những cảm tưởng và nhận
xét khi đọc bản này. Chúng tôi thiết nghĩ ngưởi Việt Nam không
thể dửng dưng trước những gì có hệ (??) tới đất nước (trg.
XII)” và “Chúng tôi không viết nhiều. Cũng như khi nói về Hành
Trình, thì ở mục Truyền Giáo, chúng tôi để độc giả thưởng thức những
trang sử liên quan đến Giáo hội và đất nước Việt Nam” (trg. XIV)
Và câu kết của Alexandre de Rhodes trong cuốn sách là:
“Viết
sách này để vinh danh Thiên Chúa”
Vậy thì chúng ta hãy đi vào phần nào nội dung của cuốn sách để xem
chúng ta có thể “thưởng thức” (sic) nổi cái gì trong đó không, và để xem
trong đó Alexandre de Rhodes đã viết những gì để “vinh danh Thiên Chúa”
của ông ấy. Tuy nhiên, nếu phê bình đầy đủ cuốn sách này thì tốn rất
nhiều công và không đáng, vì chúng ta có thể phê bình hầu như từng trang
sách một. Do đó, tôi chỉ chọn một số đoạn điển hình mà tôi nghĩ cũng đủ
để chúng ta thấy thực chất sách lược truyền giáo của Rhodes, đồng thời
đưa ra vài nhận xét ngắn để chứng minh những điều tôi nói ở trên không
phải là nói ngoa.
۩
Trước hết là vài nhận xét tổng quát. Phải nói rằng, ở thế kỷ 17
thì cuốn Hành Trình và Truyền Giáo của Alexandre de Rhodes, lẽ dĩ
nhiên không phải viết để cho người Việt Nam đọc, cũng có một vài giá trị
nào đó đối với những người Tây Phương chưa biết Á Đông là gì, vì tác giả
có nói đến một số phong tục, địa lý, và sinh hoạt của người dân ở một số
địa phương mà tác giả đã đi qua trong cuộc hành trình truyền giáo của
ông ta. Và cũng lẽ dĩ nhiên, người Tây Phương không thể biết là trong
cuốn sách đó tác giả đã nói đúng hay sai, thật hay láo. Đối với tôi
thì:
- Về lịch sử, Rhodes cũng chỉ biết lõm bõm.
- Về sinh hoạt người dân thì cũng chỉ là những nhận xét phiến
diện, hời hợt.
- Về văn hóa địa phương thì Rhodes mù tịt.
- Và đặc biệt về truyền giáo thì Rhodes có những mánh lới xảo
quyệt dụ đạo những người ngu, những điều này thể hiện ngay trong những
từ ngữ mà Rhodes dùng trong cuốn sách, trong những mánh lới này chúng ta
thấy những niềm tin nhảm nhí về ma quỉ, những phép lạ không thể tin
được, và những lý luận ẩu tả, phi lý và láo lếu.
Nhưng đặc biệt nhất là Rhodes thường nói phét. Người Pháp có câu
“À bon parler ce qui vient de loin”, có nghĩa là “Người đi xa về thường
hay nói phét” và câu này áp dụng khá đúng cho Rhodes. Chúng ta đã biết
là Rhodes đã từng thổi phồng quá đáng số người mà ông ta dụ vào đạo
được, theo như một tài liệu nghiên cứu sau đây:
Yoshiharu Tsuboi viết trong cuốn Catholicism et Sociétés
Asiatiques, trg. 136, về "nghệ thuật" phóng đại sự việc để lừa dối
chính quyền Pháp cũng như Tòa Thánh Vatican của Rhodes như sau:
"Vào khoảng 1650, Alexandre de Rhodes tuyên bố rằng, người Việt
Nam cải đạo theo Ca Tô giáo với nhịp độ 15000 một năm, con số mà khoảng
hai mươi năm sau, những thừa sai Pháp cho rằng đã phóng đại, vì họ chỉ thấy có độ 60.000 thay vì 200.000 tín đồ Ki Tô như các giáo sĩ
dòng Tên đã tuyên bố."
(Alexandre de Rhodes annonce, vers 1650, que les Vietnamiens se
convertissent au rythme de 15000 par an, chiffre que, quelque vingt
années plus tard, les missionaires francais jugeront exagéré, ne
comptant quant à eux qu'environ 60 000 chrétiens au lieu de 200 000
annoncés par les jésuites.)
Chúng ta cũng biết rằng, đến giữa thế kỷ 19, số giáo dân Ca Tô mới
chỉ là 450.000 trên một dân số trên 10 triệu, nghĩa là khoảng 4.5%, và
dù trong chế độ đô hộ của thực dân Pháp gần 100 năm trong đó Ca-tô giáo
được tự do hoành hành, cộng với 9 năm cầm quyền của Ngô Đình Diệm ở
miền Nam, tỉ số giáo dân chưa bao giờ lên quá 7%.. Có ai đặt vấn đề là
tại sao Ca-Tô Giáo không thể phát triển ở Việt Nam được hay không, dù Ca
Tô Giáo đã dùng mọi thủ đoạn, phối hợp cường quyền với mồi vật chất, để
dụ người vào đạo
Trong cuốn Hành Trình và Truyền Giáo, chúng ta thấy đầy rẫy
những lời phóng đại và ba xạo của Rhodes về thành quả dụ người vào đạo
của ông ta. Mặt khác, nhìn một cách tổng quát, chúng ta có thể thấy: 1)
Rhodes có những tư tưởng chủ quan rất mù mờ; 2) Kiến thức của Rhodes về
chính đạo Ca-tô của ông ta thuộc loại cuồng tín của thế kỷ 17, nghĩa là,
theo định nghĩa của giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, tổng hợp của ngu dốt,
kiêu căng và hợm hĩnh; và 3) Áp dụng sách lược truyền giáo mê hoặc, bất
lương và đạo đức giả: Mọi sự tốt lành xảy ra cho mình thì là do ân sủng
của Chúa, còn những bất hạnh xảy ra cho người khác thì lờ đi không nói
gì đến Chúa; tích cực xui dại khuyến khích ca tụng tín đồ ngu ngơ mới
theo đạo hãy tử vì đạo mà Rhodes gọi là “phúc tử đạo”, không được chết
vì Chúa là một ân hận lớn v..v..
Sau đây tôi sẽ đi vào phần chứng minh từng điểm một, qua những đoạn
trích dẫn điển hình trong cuốn Hành trình và Truyền Giáo, với đôi
lời bình luận ngắn, để độc giả thấy rõ cái hại của sách lược truyền giáo
bịp bợm, lừa dối, gian manh của Alexandre de Rhodes. Tôi tuyệt đối
không có nói chơi đâu, xin mời độc giả đọc tiếp.
Trang 7: Trên cùng một chuyến tàu với những người Tin
Lành, Rhodes viết: “Chúng cứ bô bô đọc một cuốn sách ly giáo trong đó
có nhiều lời phạm tới các mầu nhiệm đạo Công giáo. Chúng muốn cho những
người nghe những sai lầm và thưởng thức (sic) những nọc độc của chúng.
Chúa để cho họ dẹp cuốn sách xấu ấy đi”.
TCN bình luận: Tin Lành chỉ tin vào cuốn Kinh của Ki
Tô Giáo (Bible) cho nên không tin vào những điều nhảm nhí không có trong
cuốn Kinh mà Ca-Tô Giáo Rô-ma đã bịa đặt ra để mê hoặc đầu óc tín đồ thí
dụ như Maria đồng trinh vĩnh viễn hay Hồn xác bay lên trời v…v…, hoặc để
tạo quyền lực cho giới chăn chiên thí dụ như: giáo hoàng là đại diện của
Chúa trên trần, linh mục là Chúa thứ hai, hay các “bí tích” mà Rhodes
gọi là “mầu nhiệm Công giáo”. Vậy những nọc độc thực ra chính là các
“mầu nhiệm Công giáo” và những quyền năng tự tạo của giới chăn chiên.
Chúng ta không nên lấy làm lạ khi Rhodes bài bác Tin Lành, vì giới chăn
chiên Ca-tô có thể có những gì khác, chứ về đạo đức tôn giáo thì khá
thiếu vắng. Chúng ta đã biết trong lịch sử các giáo hoàng, có một số
không nhỏ là sát nhân, cuồng dâm, loạn dâm, loạn luân, mua quan bán tước
v..v.. Và trong thời hiện đại, giáo hoàng John Paul II đã từng gọi các
nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ là “Những con chó sói đói mồi”,
và Hồng Y Ratzinger, nay là giáo hoàng Benedict XVI, cũng đã từng phê
bình Phật Giáo bằng một câu có thể nói là rất vô giáo dục. Vậy đối với
Rhodes ở thế kỷ 17, Rhodes lên tiếng mạ lỵ Tin Lành, và trong cuốn “Phép Giảng 8 Ngày”
đã từng lên tiếng gọi Đức Phật, Đức Khổng Tử,
Lão Tử bằng những danh từ hạ cấp thì đâu có phải là chuyện lạ. Chuyện
lạ chính là ở chỗ cái tên Rhodes này vẫn được đặt cho một tên đường
phố ở Việt Nam, vẫn được một cái Viện ở thủ đô “văn vật” Việt Nam dựng
tượng, song song với những danh nhân liệt sĩ của Việt Nam !
Trang 12, 13: [Trên chuyến tàu biển đi đến Goa]:
Trận bão rất lớn, rất lâu, làm cho chúng tôi tưởng đã đến lúc về thiên
đàng. Sóng vỗ rất mạnh, dâng lên rất cao làm cho chúng tôi như chôn
trong lòng biển cả. Thế nhưng chúng tôi không mất niềm tin vào Chúa và
mẹ hiển vinh. Chúng tôi càng thêm lời cầu nguyện. Và nhờ khoan hồng
của Chúa, chúng tôi đã được toại nguyện sau 18 ngày trong bão táp: mây
trước kia dày đặc sáng nay đã tiêu tan, trời sáng hẳn, biển yên lặng,
gió thuận buồm xuôi. Tất cả cho chúng tôi thấy Chúa đã bắt sóng biển
phải yên, Người đã ra tay hoạt động… Nhưng khi biển đã yên, không
còn làm cho chúng tôi lo sợ thì lại có một thứ bệnh hay lây xảy ra làm
cho chúng tôi phải hết sức kiên trì và thi hành bác ái. Trong 5 tháng
trời, Chúa cho không có bệnh nguy hiểm nào, nhưng tới tháng thứ sáu thì
[Chúa cho nhưng Rhodes không nói. TCN] bắt đầu có một thứ bệnh
dịch gọi là bệnh phù scorbut, người Bồ gọi là bệnh loan da. Đây là thứ
bệnh kỳ dị, làm thối các phần thân thể, nhất là làm cho môi và miệng
sưng trông rất ghê gớm, rồi rơi lả tả xuống. Đó là do khí biển và nhất
là vì ăn thịt muối nhiều quá. Nhiều binh sĩ thủy thủ bị chứng này.
Chúng tôi dùng hết mọi thuốc thiêng liêng và thuốc vật chất chúng tôi có
thể chữa chạy, trong một hoàn cảnh thiếu thốn mọi sự, trừ lòng can đảm.
Trong số những bệnh nhân ấy, chỉ có 5 người bỏ mạng và bỏ mạng trong 5
ngày cuối cùng của cuộc hành trình 6 tháng 5 ngày. Sự thiệt hại có thể
lớn hơn, nhưng Chúa đã đưa chúng tôi an toàn tới bến và chúng tôi quên
hết lao khổ.
TCN bình luận: “Chúng tôi” ở đây là gồm 6 tu sĩ dòng
tên, 3 linh mục và 3 thày triết học (lẽ dĩ nhiên không kể các binh sĩ và
thủy thủ, (trang 10). Vì chỉ có “chúng tôi” mới tưởng là đã đến lúc về
thiên đàng (mù). Chúa đã bắt sóng biển phải yên? Đây là một huyền
thoại trong Tân ước. Trong cuốn sách, Rhodes đã mượn nhiều huyền
thoại trong Cựu ước và Tân ước để bịa chuyện tô điểm cho cuộc hành trình
của mình nhưng với nhiều mâu thuẫn và phản ánh một tâm cảnh ích kỷ duy
ngã. Không có bệnh tật là vì Chúa không cho, nhưng khi xảy ra bệnh tật
thì là vì ăn uống chứ không phải đó là ý Chúa. Rõ ràng là, theo
Rhodes, những người sống sót an toàn tới bến là do ơn Chúa, nhưng 5
người bỏ mạng thì là “ơn” ai, Rhodes không nói đến. Chúa đã bắt
sóng biển phải yên là muốn cho mọi người trên tàu không chết chìm vì
sóng gió. Nhưng rồi lại sinh ra bệnh kỳ dị [theo Rhodes thì tất cả mọi
sự đều là do Chúa định] khiến cho 5 người phải bỏ mạng. Chắc đây lại là
một kiểu “mầu nhiệm Công Giáo”.
Trong Công Giáo, những gì mâu thuẫn,
không giải thích được, thì gọi là “mầu nhiệm Công Giáo”, nghĩa là những
điều tín đồ không hiểu cũng phải tin, không được thắc mắc, đánh đồng
“mầu nhiệm Công Giáo” với những sự ngu dốt của thế gian. Tôi nghĩ
đến những Tsunamis và bão lụt như Katrina, và vô số những thiên tai đã
xẩy ra trên thế gian, nhưng hình như Chúa thường vắng mặt, chắc vì không
có Rhodes cầu nguyện.
Trang 41: Điều làm cho chúng tôi phấn khởi ở Trung
quốc là đạo Ki Tô bắt đầu đâm rễ và tôi tin chỉ ít lâu sau, sẽ đuổi
hết các đạo dối ra khỏi nước này, nơi mà khi các tu sĩ dòng (Tên)
chúng tôi có đến 620 ngàn giáo dân, 30 cha làm việc, chia làm 17 trụ
sở. Nhưng bây giờ hơn lúc nào khác, có triển vọng là thấy khắp nước
Tàu theo đạo Ki-Tô.
Một trong những thần của họ là Khổng Tử. Có kẻ phao tin
các tu sĩ dòng Tên cho phép giáo hữu tân tòng tôn kính vị này. Xin phép
cho tôi được nói rằng họ hoàn toàn sai lầm.
TCN bình luận: Theo Rhodes thì tất cả những đạo khác ở
Trung Quốc đều là “đạo dối” cả. Nhưng thay vì Ki Tô Giáo, theo niềm
tin của Rhodes, sẽ đuổi các đạo dối ra khỏi nước thì chính các đạo dối
này lại đuổi Ki Tô Giáo ra khỏi nước của họ. Thống kê mới nhất,
Trung Quốc ngày nay, với trên 1 tỷ 3 dân, mà chỉ có khoảng 4 phần ngàn
[0.04%] người theo Ki Tô Giáo và Trung Quốc không công nhận Vatican,
không cho phép Vatican tuyên bổ giám mục v..v… Vậy cái niềm tin của
Rhodes chỉ là một hoang tưởng, vì không biết rằng nền văn hóa Trung Quốc
cao hơn nền văn hóa Ki-tô gấp bội. Mặt khác, Rhodes ngu đến độ coi
Khổng Tử là một vị Thần, không biết rằng Đức Khổng Tử là bậc “Vạn Thế
Sư”, dạy thiên hạ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín để làm nền tảng cho một trật
tự xã hội v..v.., chứ không phải là một “vị thần” như Thần Ki-Tô, dạy
con người phải làm nô lệ, tin mù quáng vào những điều nhảm nhí.
Trang 45: Rhodes viết về một học viện Ca-Tô để “đào
tạo hết các thợ lành nghề đem ánh sáng Phúc Âm tới khắp miền phương
Đông. Từ đây đã có rất nhiều tử đạo đã làm lừng danh dòng chúng tôi:
tôi gọi tỉnh dòng này là tỉnh có phúc vì được vinh quang (tử đạo) đó.
Chỉ một mình nước Nhật đã có 97 vị bỏ mình làm chứng thánh danh Chúa
Ki-Tô. Các ngài đã lấy máu đào để gắn bó lòng trung thành đã hứa với
Thày quý mến.”
TCN bình luận: Ánh sáng Phúc Âm, do các thợ lành nghề
bịp bợm như Rhodes mang tới, trên thực tế đã làm cho một phần rất nhỏ
phương Đông, khoảng 2%, trở thành mù mịt, tăm tối. Cái mà Rhodes gọi là
“phúc tử đạo” chẳng qua chỉ là một cái bánh vẽ trên trời, đánh lừa đám
dân cuồng tín ngu dốt. Thật vậy, ngày nay chính giáo hoàng John Paul II
đã lên tiếng cùng thế giới, phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đàng giả
tưởng. Ngày nay, chẳng còn ai tin vào cái gọi là “phúc tử đạo”, kể cả
John Paul II. Sau khi bị ám sát và được một nhóm bác sĩ cứu sống, ông
ta đã đẩy mạnh lòng sùng tín Đức Mẹ của giáo dân và tuyên bố những lời
chẳng mấy người có đầu óc phải phì cười vì xạo: “Một bàn tay bóp cò,
một bàn tay dẫn viên đạn” [ra khỏi chỗ phạm nên ông ta được cứu
sống] (Une main tire, une main guide la balle). Và ông ta đã đóng kịch,
đến Fatima để cảm tạ Đức Mẹ. Nhưng rồi ông ta chẳng tin vào “phúc tử
đạo” mà cũng chẳng tin vào quyền năng của Đức Mẹ, nên đã cho người làm
ra cái Popemobile bằng thép đặc biệt có lồng kính chắn đạn để ông ta
ngồi an toàn trong đó, đi khắp nơi khích động các con chiên ngu ngơ
“đừng sợ”.
Trang 51: Tôi là chứng nhân và tôi có thể nói:
được phái đến đây (đàng trong) tất cả 5 lần, tôi hằng chứng kiến phép
lành Chúa ban cho đất màu mỡ này, đúng như lời thánh vương David đã ca:
Trời đổ sương xuống và toàn trái đất sinh hoa kết trái.
TCN bình luận: Dịch giả Hồng Nhuệ ghi chú câu trên của
David là Thánh Vịnh 85, 13, nhưng thánh vịnh 85, 13 tuyệt đối không phải
là câu này, có lẽ là Psalm 104, 13 thì đúng hơn. Mặt khác, trong bản
tiếng Pháp, Rhodes chỉ viết: David nói (parle David) nhưng dịch giả Hồng
Nhuệ lại thêm vào lời ca tụng David là thánh vương. Chúng ta thấy rõ
hiệu quả chính sách nhồi sọ của Ca-Tô Giáo Rô-ma đến độ một trí thức
Ca-tô như Hồng Nhuệ cũng không biết rằng David chẳng qua chỉ xuất thân
từ một tên tướng dưới trướng của Vua Saul, thường phải gảy đàn cho Vua
nghe, về sau bị Saul đuổi bắt vì ganh tị, nên chạy trốn đi làm tướng
cướp, sau được lên làm vua thì hoang dâm vô độ, mưu giết thuộc hạ để
cướp vợ v..v… như được viết rõ trong Cựu ước, cho nên vẫn ca tụng là
“thánh vương”. Rhodes chuyên viết vu vơ là Chúa ban phép lành này nọ,
nhưng không bao giờ nói rõ là phép lành đó như thế nào, và cũng không
cần biết là người dân ở địa phương đó có cần đến cái loại phép lành này
không.
Trang 53: Được thành công mỹ mãn, dĩ nhiên thù địch
chính là ma quỉ phản kháng. Một cơn hạn hán đã xảy đến làm cho mất hi
vọng gặt hái. Lương dân liền đổ tôi cho các phù thủy mới (các giáo
sĩ) lấy cớ dạy đường lên trời, nhưng phá phách cõi đất.
TCN bình luận: Cơn hạn hán có phải là do Chúa làm cho
xảy ra không, nếu tất cả mọi sự trên thế gian đều là do ý định của
Chúa? Lương dân không có đổ tội mà chỉ nói lên một sự thật vì đường
lên trời chỉ là một hoang tưởng thần học cổ xưa mà ngày nay không còn
giá trị gì, ít ra là đối với những người hiểu biết, kể cả các bậc
lãnh đạo trong Ca-Tô Giáo, vì không còn ai tin vào huyền thoại về
“tội tổ tông”, về huyền thoại cứu chuộc và cứu rỗi linh hồn của Giê-su.
Còn phá phách cõi đất là một sự thực lịch sử, không chỉ đối với Việt Nam
mà còn đối với cả thế giới, xét đến cái lịch sử ô nhục đẫm máu của Ca-tô
Giáo Rô-ma. Ca-Tô Giáo đi đến đâu là gây chia rẽ đến đấy, và ở Việt
Nam, linh mục Lương Kim Định đã phải thú nhận là Ca-Tô Giáo đã làm cho
người dân Việt Nam, vốn đang sống trong một khối hòa thuận, bị chia rẽ
làm hai khối thù nghịch Lương , Giáo..
Trang 54: Các tông đồ kiên trì giảng Phúc Âm, đưa
vào lưới rất nhiều cá (các tân tòng) đến nỗi không thể nào kéo lên được,
nên đã kêu gào trong thư gửi về bề trên ở Ma Cao để xin phái các cha đến
viện trợ, dù có gửi tới hai chục thì vẫn còn những mẻ cá lớn lao và tốt
đẹp để săn sóc.
Vì Nhật Bản vẫn thi hành chính sách bế quan tỏa cảng nên bề trên
tin rằng Chúa cho phép sự ác đó để mở cửa cho Đàng trong nhận Phúc Âm
[do các thừa sai được phái đến].
TCN bình luận: Trong Ca-tô Giáo Rô-ma, các tín đồ bị
coi như là súc vật, con chiên ngu ngơ dễ bảo để người ta dẫn dắt
đi đâu thì đi đó, như hàng tôm cá bị mắc lưới, như những cây lúa để cho
người ta gặt hái. Thật vậy, Rhodes viết: “Chúa cho trong mẻ thứ
nhất này, ngay trước khi đặt chân lên đất, có 2 người rất thông minh sa lưới và nhất quyết xin chịu phép rửa tội” (trg. 69);
“Trong 2 tháng trời, chúng tôi được thong dong thu lúa đầy kho Thiên
Chúa, rửa tội cho 200 người. Thật là được mùa dư dật” (trg. 70). Ở
trên cõi đời này, có người nào thông minh mà chịu chui đầu vào lưới
không? Nhưng Rhodes đã nói đúng: chịu phép rửa tội chính là sa lưới
Ca-tô. Thật là tội nghiệp cho những người hoan hỉ với thân phận con
chiên, con cá, lúa cỏ. Mặt khác chẳng có ai quăng lưới đánh cá để săn
sóc cá, mà chỉ để bán, để ăn, để làm mắm v..v.. nghĩa là muốn làm gì thì
cá vẫn chỉ là số phận của con cá.
Điều ngụy biện láo lếu nhất là Rhodes quan niệm Chúa cho phép sự
ác ở Nhật Bản để các giáo sĩ đến Đàng Trong truyền đạo. Sự ác ở
Nhật là như thế nào? Nhật Bản ra tay tận diệt các thừa sai và các tín
đồ Ca-Tô phản bội quốc gia, đóng đinh họ trên cây thập giá nhưng ngược
đầu xuống đất ở bờ biển để khi nước thủy triều dâng lên thì họ bị chết
ngộp. Với những biện pháp quyết liệt và tàn nhẫn đối với Ca Tô Giáo nói
riêng và Ki Tô Giáo nói chung, Nhật Bản đã giữ nước khỏi bị cái họa Ki
Tô Giáo trong suốt hơn 200 năm. Trong thời gian này trên đất Nhật không
hề có bóng dáng của ngay cả một linh mục thừa sai và con chiên bản địa,
đỡ hẳn mối lo âu về một số tín đồ Ca Tô sẵn sàng theo lệnh các thừa sai
Tây phương phản quốc, cho tới khi Đô Đốc Perry của Mỹ dùng 10 tàu chiến
tấn công và uy hiếp Nhật phải mở cửa giao thương và cho truyền đạo lại
vào năm 1854.
Sự thực là, các giáo sĩ thừa sai Ca Tô, vì đã bị đuổi không còn có
thể hành nghề xúi dục và gián điệp ở Nhật Bản, như chúng ta đã biết, cho
nên đã kéo tới Việt Nam, lợi dụng tính hiền hòa và hiếu khách của dân
tộc Việt Nam, không phải để rao giảng tin mừng Phúc Âm, vì thật ra, theo
nhận định của học giả David Voas, tác giả cuốn “Cuốn Kinh mang đến
họa âm: cuốn Tân Ước” (The Bad News Bible: The New Testament) cũng
như theo Giáo sư Schwartz, người đã từng dạy Thánh Kinh trong 20 năm tại
hai đại học lớn ở Hoa Kỳ, trong Phúc Âm không có chân lý mà cũng
không có tin mừng, trái lại, các giáo sĩ thừa sai chỉ chỉ mang đến
những tin xấu, những chuyện hoang đường để đưa con người vào vòng nô lệ
tâm linh, mê tín dị đoan, tin vào một cái bánh vẽ huyền hoặc trên trời
và trong một đời sau, của một tôn giáo ngoại lai mà lịch sử nhơ nhớp của
nó là một sự kiện không ai có thể phủ nhận.
Trong cuốn Câu Chuyện Việt Nam (The Story of Vietnam, trg.
28,) Hal Dareff đã viết lên hoàn cảnh khác biệt giữa Nhật Bản và Việt
Nam trong thế kỷ 19 như sau:
"Đóng cửa biên giới, họ (triều đình Gia Long. TCN) sẽ tránh
được sự xâm nhập của người ngoại quốc với những lối sống xa lạ của họ.
Bất hạnh thay, trong nước đã có những người ngoại quốc rồi - Các giáo
sĩ thừa sai." (By sealing off their borders, they would keep out
the foreigner and his alien ways. Unfortunately, there were already
foreigners in Vietnam - The Missionaries.)
Như vậy, rõ rảng là các giáo sĩ thừa sai đã mang đến Việt Nam Họa
Âm chứ không phải là Phúc Âm. Từ cái Họa Âm này mà các tín đồ Ca-Tô
Việt Nam đã trở thành những người phản quốc, giúp cho sự xâm lăng của
thực dân Pháp thành công, qua sự thú nhận của giám mục Puginier. Điển
hình là vụ linh mục Trần Lục được Puginier ban phép lành, mang 5000 giáo
dân giúp quân đội Pháp hạ trung tâm kháng chiến Ba Đình của anh hùng
chống xâm lăng Đinh Công Tráng. Ai phủ nhận những sự kiện này xin mời
lên tiếng.
Trang 58: “Những người này (địch thủ của giáo
dân) vu cáo và làm cho chúa (Nguyễn) không tin giáo dân nữa. Trong
những tội vu khống, có tội này: “giáo dân không thờ kính tổ tiên, lại
theo đạo man di, vứt bỏ tâm tình đối với tổ tiên, những tâm tình trời
đất đặt trong lòng mọi người.”
TCN bình luận: Có thật là lương dân vu khống không?
Lệnh cấm thờ kính tổ tiên là từ giáo hoàng ở Vatican, không phải là vu
khống. Đối với truyền thống văn hóa Việt Nam thì đạo nào cấm thờ cúng
tổ tiên đích thực đạo đó là man di, mọi rợ. Tới công đồng Vatican II,
vào thập niên 1960, “Tòa Thánh” mới “cho phép” giáo dân được thờ cúng tổ
tiên. Thờ cúng tổ tiên mà phải chờ đến 430 năm sau, từ 1533 khi Ca-tô
giáo bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam, khi Vatican “cho phép” mới được làm.
Cái tinh thần nô lệ Vatican của giáo dân Việt Nam thật là hết chỗ nói.
Nhưng dù đã được cho phép mà giáo dân Ca-Tô vẫn còn bám chặt vào điều
cấm cũ kỹ, chẳng vậy mà những người ngu đạo như ông linh mục Trần Xuân
Thời nào đó vẫn gọi làm cỗ cúng là “làm chay cúng ruồi” [Xin đọc bài “Xưng Tội Với Lịch Sử” của Giới Tử, Phụ Lục 8, trong cuốn
“Tây
Dương Gia Tô Bí Lục”]. Cái di hại của nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ
thật là rõ rệt.
۞
Sau đây là vài đoạn cho thấy sự dối trá gian manh xảo quyệt của
Alexandre de Rhodes, phóng đại những điều mê tín hoang đường quá lố để
lừa bịp giáo dân.
Rhodes viết: “Còn tôi (Rhodes), nhờ ơn Chúa, tôi không
ưa phóng đại và ghét gian dối đến ghê tởm” (trg.65) và “Vì đạo
tôi giảng, tôi buộc mình không được nói dối, trong bất cứ trường hợp
nào” (trg. 67).
Bây giờ chúng ta hãy đọc vài đoạn khác để xem Rhodes nói láo đến
mức nào.
Trang 74: Với thánh giá Chúa, với nước phép, giáo
dân tốt lành đã thông thường đuổi ma quỉ, chữa các thứ bệnh tật.
Chỉ
cho uống 4,5 giọt nước thánh mà chữa được người mù và cho 2 người chết
sống lại. Họ ra đi, cắm thánh giá ở đầu, ở giữa và cuối xóm. Họ
đến thăm bệnh nhân, đọc kinh và cho bệnh nhân uống vài giọt nước
phép. Không đầy 5 ngày đã chữa khỏi 272 người.
Trang 77: Họ rất quí trọng nước phép, cứ 5,6 ngày
họ lại đến lấy.. Họ cho bệnh nhân uống với những thành quả lạ lùng.
Mỗi chủ nhật, tôi buộc lòng phải làm phép với 5 vại lớn, để thỏa mãn
lòng sốt sắng của họ.
TCN bình luận: Nước phép hay nước thánh là nước thường
đã được ông linh mục bi bô đọc vài câu tiếng La-Tinh để biến nó thành
nước phép hay nước thánh. Rhodes đã thông thạo môn thần học bịp bợm dân
ngu, nhưng chính ông ta cũng lại ngu không thể tả được mới viết lên được
những đoạn trên. Chỉ với 4,5 giọt nước phép là có thể chữa được người
mù, người chết sống lại, và chữa khỏi mọi bệnh tật. Nhưng mỗi chủ nhật
ông ta phải phù phép biến 5 vại nước lớn thành nước thánh hay nước phép
để thỏa mãn nhu cầu của giáo dân. Một vại lớn có bao nhiêu lít
nước? Một lít nước có bao nhiêu giọt nước. Nếu tính ra thì 5 vại
nước phép đó có thể chữa cho cả nước Pháp của ông ta khỏi mù, vì trong
thế kỷ 17, cả nước Pháp đang mù vì là toàn tòng Ca-Tô Giáo. Nhưng ngày
nay, chẳng cần đến nước phép hay nước thánh (holy water) gì đó mà Pháp
cũng đã ra khỏi cảnh mù rồi. Giáo dân Việt Nam dùng loại nước phép
đó đã mù lại càng mù thêm vì cái đạo lý Thiên-La Đắc-Lộ bịp bợm hoang
đường quá lố lăng chẳng có ai có thể tin được.. Hồng Nhuệ chắc tin
nên mới dịch cuốn sách này để cho chúng ta thưởng thức. Xin mời ông lên
tiếng nhận xét về mấy đoạn trên của Rhodes.
Chúng ta hãy đọc tiếp vài chuyện rất hoang đường mà Rhodes kể như là
những phép lạ, do hiệu quả của nước thánh do tay Rhodes làm ra, hay của
bí tích rửa tội. Tôi sẽ không bình luận những đoạn này, chỉ để cho độc
giả thưởng thức thêm thôi, nếu có thể thưởng thức nổi.
Trang 75: Có một cậu thanh niên tên là Benoit, mẹ
bị bệnh chết. Do ơn Chúa thúc đẩy, cậu xin giáo dân tới chia buồn đọc
kinh cầu nguyện bên giường người chết, xác đã cứng lạnh và bất động từ 6
giờ đồng hồ. Họ đến quì gối, Benoit đọc lớn Kinh Lạy Cha và Kinh Kính
Mừng, rồi rảy nước thánh lên mặt mẹ, tức thì bà mở mắt, không những bà
sống mà còn hoàn toàn khỏi bệnh. Bà chổi dậy rồi cùng quì xuống với mọi
người đồng thanh khen ngợi Chúa đã ban cho phép lạ rất hiển nhiên.
Trang 82: Tôi ở 3 tuần trong thuyền chiến, thời
gian đủ để cho 24 lính gác xin theo đạo, còn thuyền trưởng thì sau 15
ngày cũng xin theo bởi vì thấy một phép lạ hiển nhiên. Số là có một
trận bão lớn làm nguy tới tính mạng. Chúng tôi liền rảy một chút nước
phép xuống biển, đọc Kinh Lạy Cha, tức thì sóng yên biển lặng.
Trang 97: Trong tỉnh Hà Lâm, tôi gặp một giáo dân
đạo đức tên là Emmanuel, ma quỉ thù ghét ông, đã xúi giục rất nhiều thù
địch, ngay cả họ hàng, làm cho ông không được yên, nhưng Thiên Chúa đứng
về phía ông. Người mạnh hơn mọi kẻ hành hạ ông [giống như Thiên
Chúa đứng về phía cậu bé David khi chiến đấu với người khổng lồ. TCN].
Một trong những nười hàng xóm cứ luôn luôn xỉ vả ông, sau khi hành hạ
ông suốt ngày, thì cuối cùng vào chiều tối ngày hôm đó, hắn bị Chúa phạt
chết bất thần.
Trang 104: Một thày lang tên là Emmanuel mắc bệnh
hiểm nghèo. Một ngày kia, khi giáo dân vây quanh giường, ông kiệt sức
quá làm cho người ta tưởng ông đã tắt thở. Sau mấy giờ ông lại hồi
tỉnh, ông nói Chúa đã cho ông thấy thiên đàng, nơi có nhiều sự tuyệt vời
ông không thể nào tả hết được [Giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận
sự hiện hữu của một thiên đàng do hoang tưởng. TCN]
Trang 106, 107: Tôi muốn nói ở đây là việc giải
thoát hai người đàn bà bị quỉ ám nhờ phép rửa. Từ lâu cả hai bị ma quỉ
hành hạ. Người thứ nhất được khỏi ngay khi tôi làm phép trừ tà thần lần
đầu tiên để chuẩn bị phép rửa tội, như thể tên ngụy đã ra đi ngay khi
nghe hoàng tử hợp pháp sửa soạn ngự tới, còn người thứ hai thì phải vất
vả hơn. Trước khi làm phép bí tích, tôi tưởng phép trừ tà đủ hiệu quả
như đối với người thứ nhất, và tôi tiếp tục trong mấy ngày, thế nhưng
quỉ vẫn không núng. Thấy nó ngoan cố nên tôi đi vượt mức và cho bà phép
rửa tội, có chúa Thánh Thần hiện diện trong linh hồn, đuổi tên ngụy tặc
ra khỏi thân xác. Tôi kể lại việc đã thấy và không thể kể lại mà không
ca ngợi sức mạnh của phép bí tích vì vừa khi tôi đọc lời thành phép và
đổ nước trên đầu thì mặt bà biến sắc, mất vẻ thảm hại, điên cuồng và trở
nên bình thản làm cho mọi người phải kêu lên “phép lạ!”, “phép lạ!”.
Trang 118: Có một thanh niên con nhà gia giáo ở
tỉnh Bao Ban (??) bị bệnh gần chết. Cha mẹ rất thương con vì là con
một, đã hết sức chữa chạy và cậy các lương y cùng các phép phù thủy dị
đoan. Nhưng sau khi thấy không cứu được con thì đành chạy đến xin thuốc
của giáo dân Mathêu. Ông liền đi tới nhà anh với những liều thuốc thông
thường: nước phép và một ảnh thánh giá. Thấy bệnh nhân gần tắt thở
nhưng ông không thất vọng. Ông bắt đầu đọc Kinh Cầu Hồn rồi đọc Kinh
Cứu Sống Thân Xác và thấy anh hầu như sắp qua đời, ông làm phép rửa tội
(Giáo dân có quyền làm phép rửa tội??) cho anh. Tức thì bệnh nhân mở
mắt và thấy mình hoàn toàn khỏi bệnh và đứng dậy ngay.
Đó là vài chuyện hoang đường Rhodes kể để cho những người ngu tin và
dụ người ta vào đạo. Nhưng vì chính Rhodes cũng lại ngu hơn ai hết, nên
đã viết lên một đoạn chứng tỏ sự lưu manh bịp bợm với màn nước phép của
Rhodes. Đoạn đó như sau:
Trang 143: Vào tháng 6 năm 1644, tôi bị một cơn sốt
nặng và tưởng không sao qua khỏi. Tôi cho mời lương y có tiếng tới.
Ông cho tôi uống thuốc ta, dặn cách sắc và uống. Tôi uống trong 2 ngày
và ngày thứ ba tôi hết sốt, sau đó ít lâu hoàn toàn bình phục.
TCN bình luận: Rhodes đã lòi cái đuôi bịp bợm ra ở
đây. Nước phép của ông ở đâu sao không uống? Có thể ông ta
không biết cách chữa sốt. Cứ mang 5 vại nước phép ra đổ lên đầu thì
may ra nước lạnh sẽ làm hạ cơn sốt. Ông ta cũng chẳng thèm cầu
nguyện Chúa nữa? Chúa đã bắt sóng biển phải yên thì nhằm nhò gì một cơn
sốt của một tông đồ. Nhưng ông ta chỉ lừa bịp người khác để truyền
giáo chứ ông ta đâu có dại. Sốt thì ông ta mời lương y, và thuốc ta
có hiệu quả hơn nước phép hay nước thánh mà chính tay ông ta phù phép
làm ra nhiều. Đó là sự gian manh bịp bợm trong sách lược truyền giáo
của Alexandre de Rhodes. Mặt khác trong cuốn sách, có nhiều đoạn Rhodes
ca tụng “phúc tử đạo”, nhưng khi bị lùng bắt thì ông ta hết sức tìm cách
trốn tránh, hay bị bệnh rồi khỏi thì ông ta biện minh bằng lý luận xảo
quyệt: Trang 193: “Tôi đã quá táo bạo tưởng mình đáng
được triều thiên quí hóa, mặc dầu chưa xứng đáng” (được phúc
tử đạo); Trang 256: Chúa tìm cách ách tôi lại bằng một
cơn bệnh hiểm nghèo, làm tôi tưởng đến đại hành trình về thiên quốc;
nhưng thực ra tôi chưa xứng đáng.
Có lẽ từng đó cũng đủ để cho cho chúng ta thấy rõ bộ mặt truyền
giáo gian manh của Alexandre de Rhodes: bịa đặt những chuyện hoang đường
mà ngày nay không ai có thể lập lại được những màn phép lạ của nước
thánh, phóng đại sự việc một cách quá lố lăng, dụ những người dân thấp
kém vào con đường mê tín. Nhưng có một chuyện tôi thấy cần phải nêu ở
đây, đó là chuyện về cái chết của André ở Phú yên, một trong 117 người
được giáo hoàng John Paul II phong thánh trước đây. Chúng ta hãy đọc
Rhodes mô tả cuộc hành hình André như thế nào và có thể thấy không có gì
có thể hoang đường hơn.
Trang 147, 148: Khi thấy tôi và sau khi người ta
lên án tử hình, thì thày Anrê hớn hở lạ lùng. Chúng không
cho tôi ở bên trong vòng lính, nhưng viên đội trưởng cho phép tôi vào
đứng cạnh thày. Một tên lính lấy giáo đâm thày từ phía lưng, thâu qua
ngực chừng hai bàn tay. Lúc đó thày Anrê nhìn tôi âu yếm như thể vĩnh
biệt tôi.. Cùng tên lính rút giáo ra đâm lần thứ hai, rồi đâm lại lần
nữa như thể tìm trái tim thày. Nhưng người vô tội vẫn không nao núng,
thật là kỳ diệu. Sau cùng tên đao phủ thấy lưỡi giáo không làm cho thày
lăn xuống đất, liền lấy mã tấu chém cổ, nhưng vẫn chưa xong, phải thêm
nhát nữa làm đứt hẳn cổ, đầu rơi về bên tay phải chỉ còn vướng mảnh da.
Nhưng tôi nghe rất rõ lúc đầu rơi khỏi cổ thì tên thánh Chúa Giê-su
không phải từ nơi miệng thày thốt ra mà qua vết thương ở cổ và cùng lúc
hồn bay về trời thì xác lăn xuống đất. Ba ngày sau khi người mất,
một vụ hỏa tai đã xảy ra trong thành Anrê bị hành hình. Nhà tù nơi giam
người, tất cả khu phố người đi qua và mấy đền tà thần đều bị thiêu hủy.
Nếu người nào tin được những điều Rhodes viết ở trên, đầy mâu
thuẫn và phi lý, thì người đó đúng là một con chiên ngoan đạo Việt Nam.
Thay Lời Kết: Tôi vẫn thường thắc mắc, tại sao
trong thời buổi này mà tín đồ Ca-tô Việt Nam lại vẫn còn cuồng tín
“ngoan đạo” nhất thế giới, theo nghĩa tinh thần nô lệ Vatican cao nhất,
khúm núm trước “bề trên” nhất, cuồng tín nhất, mê tín nhất, chăm đi lễ
nhà thờ nhất, chăm đi xưng tội nhiều nhất, và chăm ăn bánh thánh nhiều
nhất, khác hẳn với những tín đồ Ca-tô trong thế giới văn minh Âu Mỹ.
Nay đọc cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo của Alexandre de
Rhodes tôi mới hiểu, đó là cái di sản của nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ.
Nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ đã thấm sâu trong những ốc đảo Ca-tô ngu dốt
(từ của Linh Mục Trần Tam Tĩnh) như Bùi Chu, Phát Diệm, Vĩnh Sơn, Hố
Nai, Gia Kiệm v..v.., từ đời này sang đời khác, cha truyền con nối, và
được các bề trên giam giữ trong vòng mê hoặc tâm linh, cho nên ngoài
việc cầu kinh mấy lần một ngày, chăm đóng tiền và đi lễ nhà thờ, hoàn
toàn vâng phục bề trên v..v.. giáo dân không còn biết gì đến thế giới
bên ngoài đã tiến bộ như thế nào, và lẽ dĩ nhiên cũng không biết đến
thực chất đạo mình ra sao nữa.. Bởi vậy mà ngày nay những bậc chăn
chiên Việt Nam vẫn tiếp tục mê hoặc giáo dân bằng những niềm tin vô căn
cứ, đã lỗi thời, sản phẩm ngụy tạo của nền Thần học Ca-tô. Thật vậy,
trên diễn đàn tiengnoigiaodan.net, Linh mục Ngô Tôn Huấn vẫn tiếp tục
dẫn giáo dân vào vòng nô lệ Vatican như sau:
Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận và tuân phục
Đức Giáo Hoàng
La Mã là vị Đại Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Ki tô trên trần
thế và là người kế vị Thánh Phê rô trong nhiệm vụ chăn dắt toàn thể
Giáo Hội.
Và cũng trên tiengnoigiaodan.net, Linh mục Vũ Đức ở Detroit vẫn
tiếp tục giảng cho tín đồ:
“LINH MỤC là ai? Trả lời một cách ngắn gọn và đầy
đủ Ngài là CHÚA KITÔ THỨ HAI (Alter Christus) như thế thưa Cha mới [vừa
mới được phong linh mục]: từ nay Cha là Chúa KITÔ.”
Và trên Vietcatholic, Đức Ông Nguyễn Quang Sách vẫn còn mang cái gọi
là Dứt Phép Thông Công hay Tuyệt Thông ra mà hù dọa giáo dân, và có tên
ngu đạo còn đòi tòa thánh phải dứt phép thông công Hồng y Phạm Minh Mẫn
vì ông ta đã phát biểu những điều không hợp ý họ, không biết rằng trong
thế giới tiến bộ Âu Mỹ, Linh Mục James Kavanaugh đã vạch rõ bản
chất và ý nghĩa hoang đường của Hình Phạt Hù Dọa Tuyệt Thông Của Tòa
Thánh, như sau:
Tôi thấy khó mà có thể tin được là trong thời đại kỹ thuật
không gian này mà một đoàn thể tôn giáo (Ca-Tô giáo
Rô-ma. TCN) lại có thể quá lỗi thời để tin rằng một hình phạt
thuộc loại huyền thoại như vậy vẫn còn có ý nghĩa gì đối với con người.
...Tuyệt thông, trong nhiều thế kỷ, đã là vai trò của giới
quyền lực đóng vai Thượng đế . Đó là sự chối bỏ sự tự do suy tư
của con người một cách vô nhân đạo và phi-Ki-tô. Nhưng nhất là, nó đã
là nỗ lực điên cuồng của một quyền lực, vì quá lo sợ mất đi quyền lực
của mình, nên phải kiểm soát tín đồ thay vì hướng dẫn họ đi tới một tình
yêu thương tự do và trưởng thành.
Tuyệt thông toan tính biến sự thực chứng tôn giáo thành một
trại huấn luyện quân sự trong đó sĩ quan phụ trách nhào nặn lên những
người máy trung thành bằng cách làm chúng ngạt thở bởi giam hãm và sỉ
nhục. Có thể những phương pháp này có nghĩa trong việc huấn luyện con
người để chiến đấu ngoài mặt trận. Những phương pháp này thực là trẻ
con và bất lương khi xử lý với sự liên hệ của con người đối với Thượng
đế; nhưng thật không thể tin được là chúng vẫn còn tồn tại.
(I found it hard to believe that in the age of space technology a
religious body could be so out of touch as to believe such a
mythological penalty could have any meaning left for man.
...Excommunication had for centuries been authority's way of
playing God. It was the inhuman and unchristian denial of man's freedom
of conscience. But most of all it had been a deeply frigtened
authority's frantic effort to dominate and control men and woman rather
than to direct them toward a free and mature love. Excommunication
attempted to turn the religious experience into a boot camp where the
officer in charge aspires to build loyal robots by smothering them with
confinement and indignity. Perhaps such methods might have had meaning
in preparing man for combat. They are only childish and dishonest in
dealing with a man or woman's relationship with God, but incredulously
they still exist.)
Đọc cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo, chúng ta thấy điều hiển
nhiên là Rhodes đã mang những chuyện trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo, Cựu
Ước cũng như Tân Ước, để lòe bịp đám dân Việt Nam ngu dốt bằng những
chuyện hoang đường như Thiên Chúa mạnh hơn tất cả, Giê-su làm cho người
mù sáng mắt, làm cho người chết sống lại, làm yên sóng biển v..v.. chứ
còn trên thực tế không ai ở trên đời này có thể làm được những “phép lạ”
như vậy. Điều này đã được học giả Helen B. Lamb viết trong cuốn
Ý Chí Sống Còn Của Việt Nam [Vietnam's Will to Live] như sau:
Nhiều bản báo cáo thời đó mô tả sự việc các thừa sai đã mang vào
Việt Nam một số lượng lớn Âu dược chữa bệnh cho dân chúng để "chiếm lòng
họ." (Linh mục de Courtaulin, trích trong tác phẩm của Taboulet,
trg. 42). Nhưng trong những hoạt động dụ người vào đạo, các thừa
sai Ca Tô đã khai thác sự sợ hãi và hi vọng của đám dân ngu dốt và nhẹ
dạ cả tin. Những kẻ tân tòng coi Ki Tô Giáo như là một hệ thống ma thuật
mới. Nước thánh Ca Tô được dùng với hi vọng có thể đuổi được quỷ ám, cứu
người chết sống lại, làm cho người mù sáng mắt trở lại v...v..
[...Early reports describe how a large quantity of Western medicines
was brought to Vietnam so that the missionaries could administer them
"in order to win the hearts of these peoples" (Father de Courtaulin,
quoted in Taboulet, p.42). But in their proselytizing activities many
Catholic missionaries exploited the fears and hopes of the ignorant and
the credulous. Christianity was regarded by those who adopted it as a
new system of magic. Catholic holy water was used, hopefully, to
exorcise devils, raise the dead, and restore sight to the blind...]
Tôi thực tình không hiểu giá trị cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo
của Alexandre de Rhodes là ở chỗ nào khiến cho Hồng Nhuệ phải mất công
dịch và được Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo TP Hồ Chí Minh phổ biến. Phải
chăng dịch giả Hồng Nhuệ muốn cho người dân Việt Nam biết những sự thật
lịch sử liên quan đến sách lược truyền giáo bịp bợm ở Việt Nam của những
thừa sai như Alexandre de Rhodes. Nếu như vậy thì những người dân Việt
Nam không đọc tiếng Pháp phải cám ơn ông Hồng Nhuệ vì đã giúp họ hiểu rõ
bản chất và thực chất sách lược truyền giáo của các thừa sai Ca-tô ở
Việt Nam, và từ đó họ có thể thấy được bản chất và thực chất của Ca-tô
Giáo Rô-ma.
Chắc có người, kể cả bạn và thù (tuy rằng tôi không coi ai là kẻ thù)
cho rằng viết những bài về Ca-tô giáo, tôi đã gây chia rẽ tôn giáo hoặc
đã bài bác chống “Công giáo” quá khích. Một lần nữa, tôi cần phải nhắc
lại lập trường của tôi là “giải hoặc Ki Tô Giáo” bởi vì Ki Tô Giáo đã
dạy con người những điều huyền hoặc phi lý trí, phản khoa học v..v.. mà
thời đại thông tin điện tử ngày nay không thể chấp nhận được. Mở mang
dân trí, giải hoặc quần chúng, là bổn phận của mọi công dân hiểu biết,
không phải của riêng ai. Đây là điều mà rất nhiều trí thức Tây Phương
đã làm đối với quần chúng Tây phương, nghiên cứu, trình bày và phổ biến
về mọi khía cạnh của Ki Tô Giáo, trong những quốc gia mà Ki Tô Giáo là
tôn giáo chính mà không có bất cứ một sự chia rẽ hay xẩy ra một sự xung
đột nào. Không lẽ người Việt Nam chúng ta lại không thể làm những
chuyện có ích lợi cho quần chúng này, tôi không nghĩ ra một lý do nào.
Về Ca-tô giáo Rô-ma, tôi xin hỏi, với cái lịch sử bạo tàn đẫm máu của
Giáo hội Ca-tô Rô-ma, với nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ mà các thừa sai Ca
Tô đã di hại cho dân Việt Nam, thì chúng ta có nên chống hay không, có
nên mở mang dân trí để họ có thể thoát ra khỏi cái ngục tù tâm linh hay
không? Tôi không chống bằng gươm giáo, súng đạn, mà chống bằng sách vở
nghiên cứu của chính những người tiến bộ trong Ca-tô Giáo Rô-ma.
Người ta có thể cho rằng, vấn đề tín ngưỡng và đức tin là vấn đề
riêng tư, và đó là một quyền căn bản của con người. Tuy nhiên, trong
một quốc gia, người ta không thể dựa vào tín ngưỡng và đức tin để có
những hành động phương hại đến xã hội và dân tộc. Mặt khác, không phải
là cứ thuộc về tín ngưỡng hay đức tin, mà một tôn giáo được miễn nhiễm,
tự do muốn làm gì thì làm, bởi vì từ đức tin con người sẽ có những hành
động liên hệ đến mọi vấn đề xã hội.
Michael Jordan đã viết rất đúng, trong cuốn Mary,
Weidenfeld and Nicolson, London, 2001, trang 304, về những tín lý và đức
tin trong Ca-tô Giáo Rô-ma, và nhận định này có thể áp dụng cho bất cứ
một đức tin nào về bất cứ một đối tượng nào:
Tuy nhiên đức tin cũng cần phải có một mức độ đạo đức nào đó
ngoài sự tin vào một nguyên lý trừu tượng. Đức tin cần được xây dựng
trên sự tín nhiệm và tin tưởng, sự trung thực của những hứa hẹn lương
thiện và thẳng thắn, nếu không thì đức tin đó có ích gì. Nếu đức
tin đặt căn bản trên những lời nói láo, dối trá, và những mánh khóe có
tính toán, thì nó trở thành không sao biện minh được và thực ra thì đó
có thể gọi là đức tin hay không? Nếu chúng ta vẫn còn là đàn
chiên quá ngu dốt và mê tín trong đó sự lừa dối về Mary đã bắt rễ và bóp
méo để trở thành một “chân lý không thể sai lầm”, chúng ta có thể tự bào
chữa là đã bị lùa vào trong đó. Nhưng ở bình minh của thế kỷ 21,
nhiều người chúng ta không thể tự cho phép là ngu dốt hay mê tín, và đức
tin bị che mắt của chúng ta phải mở rộng cho những phê bình nghiên cứu
đứng đắn. Điều này đặc biệt đúng khi chúng ta biết rằng có sự tin
mù quáng ở trong đó và cái hiểu của chúng ta về một Mary giả tưởng đã bị
kiểm soát bởi những người đã nhân danh tôn giáo, quyết định bảo vệ quyền
lợi và vị thế gia trưởng trong xã hội của mình.
Đức tin không đồng đều một cách phổ quát. Nhiều triệu tín đồ
Ca-tô, thí dụ như ở Nam Mỹ [có nên cho thêm Việt Nam vào cái thí dụ
này không], phần lớn là ít học và đức tin của họ về Mary
vẫn hầu như là đức tin mù quáng. Cũng có những người thuộc lớp
có học thức cao ở trong giáo hội đã biết những mánh khóe lừa dối qui mô
trong giáo hội nhưng vẫn chọn giải pháp duy trì sự tồn tại của chúng..
Hiển nhiên là hệ thống quyền lực bảo thủ Ca-Tô có lý do để nuôi
dưỡng những huyền thoại về Mary và ủng hộ việc giữ nguyên hiện trạng của
sự sùng tín Mary của họ. Giáo hội Ca-tô Rô-ma vẫn cương quyết duy
trì tín lý về tội tổ tông gian lận lồng vào thế giới bởi người đàn bà
đầu tiên, và tồn tại qua “tai họa của Eve”.
Khi thời gian mãn, tôi tin rằng hình ảnh Mary, mẹ của Giê-su
Ki-tô, sẽ mờ đi. Chân dung của bà ta đã đem xuống cho chúng ta trên
những cánh của một huyền thoại lâu đời nhưng ngay cả cái huyền thoại hay
nhất trong các huyền thoại cũng phải mờ nhạt đi trong thời gian… Có
thể có vài chi tiết lịch sử đúng về bà ta nhưng hầu hết chỉ là một
chuyện hoang đường, một sự lừa dối thô thiển. Một phần là, chuyện
hoang đường và lừa dối thô thiển này tồn tại để đáp ứng những tham vọng
của một thiểu số.
[Yet faith also needs to involve some measure of morality beyond
belief in a pure abstract principle. It needs to be built on trust and
confidence, the fidelity of promises given honestly and openly,
otherwise there is no point in having it. If faith is founded on lies,
deceit and calculated manipulation, then it becomes impossible to
justify and there even a question mark against whether it can reasonably
be called faith. Were we still the largely ignorant and superstitious
flock in whom the Marian deception first took root and in whom it became
twisted into an “infallible truth”, we might have an excuse for being
taken in by it. But at the dawn of the twenty-first century, many of us
can no longer claim to be ignorant or superstitious and our blinkered
faith becomes open to more serious criticism. This is particularly true
when we know that bigotry is involved and that our understanding of a
fictious Mary has been controlled by men with vested interests,
determined to safeguard their own patriarchal social position in the
name of religion.
Faith is not universally practised at the same level. Millions of
Catholics, in South America for example, are largely uneducated and
their faith in Mary remains almost a blind one. There are also ranks of
highly educated men in the church who know the extent of the
manipulation and deceit and choose to perpetuate it…
The conservative male hierarchy of Roman Catholicism clearly has
reason to nurture the Marian myth and to support the status-quo in her
cult. The Roman Catholic Church remains firmly committed to the dogma
of original sin foisted on the world by the first woman, and
perpetuated through “the curse of Eve”…
In the fullness of time, I believe that the image of Mary, the
mother of Christ, will grow dim. Her portrait has been carried down to
us on the wings of an enduring myth but even the best of myths tend to
fade with the passage of time… She may be able to claim some element of
historical truth but she is mostly a fable, a gross deception. In part,
it has been perpetrated to suit the self-seeking demands of the few.]
Vấn đề của chúng ta ngày nay là, sau khi đọc cuốn Hành Trình Và
Truyền Giáo của Alexandre de Rhodes mà tôi vừa trích dẫn vài đoạn
điển hình ở trên, chúng ta cần phải đặt câu hỏi: Đức tin được tạo thành
từ cái đạo lý Thiên-La Đắc–Lộ có phải là một đức tin đặt căn bản trên
những lời nói láo, dối trá, và những mánh khóe có tính toán hay không?
có thể biện minh được hay không? và thực ra thì đó có thể gọi là đức tin
hay không? Tôi nghĩ câu trả lời đã thật rõ ràng.
Trần Chung Ngọc
Xin mời đọc thêm bài :
Những bài cùng đề
tài
Và những bài đọc thêm:
- "Soldats: Chữ Nghĩa, Nước Mắt, Nước Đái và Nụ Cười" (Nguyễn văn Hóa).
- Chương 13 "Đạo Lý Được Thể Hiện Trong Văn Phẩm Qua Ngôn Từ và Văn Phong", quyển Hai "Thực Chất Của Giáo Hội La Mã" của Nguyễn Mạnh Quang xuất bản năm 1999.
Các bài về tôn giáo cùng tác giả
Trang Trần Chung Ngọc