|
07 tháng 5, 2010 |
1 2
Trong ba thuộc tính mà
Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ tự nhận: “Duy nhất, Thánh thiện, Tông truyền” thì
chỉ có thuộc tính “Duy Nhất” là đúng. Vì Giáo hội Công Giáo Hoàn Vũ là Giáo
hội “duy nhất” đã gây nên 7 núi tội ác đối với nhân loại mà Vatican đã phải
xưng thú cùng thế giới ngày 12.3.2000 tại quảng trường Phê-rô. Và đặc biệt
hơn nữa là Giáo hội Công Giáo cũng là Giáo hội “duy nhất” mà trong đó có một
số đáng kể “Chúa thứ hai”, alias Linh mục, đi hiếp dâm các chị em nữ tu của
Giáo hội (các “sơ”) trên ít nhất là 23 quốc gia [The Catholic Church in
Rome made the extraordinary admission yesterday that it is aware priests
from at least 23 countries have been sexually abusing nuns.] và trong
những trường hợp đặc biệt còn khuyến khích họ đi phá thai
[In extreme
instances, the priests had made nuns pregnant and then encouraged them to
have abortions.] Cho tới nay đã có trên 5000 “Chúa thứ hai”, alias
Linh mục, bị truy tố về tội cưỡng dâm, loạn dâm và ấu dâm trong nhiều nước
trên thế giới. Vài sự kiện lịch sử điển hình này trong số rất nhiều sự
kiện về những tội ác khác của Công giáo đương nhiên đã xóa bỏ những thuộc
tính “thánh thiện, tông truyền” mà giáo hội tự nhận.
Thật là nhục nhã, những
bộ mặt tôn giáo giả nhân giả nghĩa, từ giáo hoàng trở xuống, đã bị phanh
phui ra trước thế giới, không còn có thể che đậy được nữa, dù có lấy mo
che. Tuy nhiên, đối với con chiên Việt Nam thì Giáo hội Công giáo vẫn là
một “hội thánh” như được viết trên các trang nhà Công giáo một cách không
ngượng ngùng. Điển hình là trên VietCatholic ta có thể đọc những câu đại
khái như “Đường “hội thánh” đi là đường vinh quang” bất kể đến cái
lịch sử ô nhục của cái gọi là “hội thánh” Công giáo. Tôi không hiểu vinh
quang ở chỗ nào, thật là tội nghiệp. Thay vì ngẩng mặt lên trong vinh
quang thì người Công giáo, một khi còn ở trong cái gọi là “hội thánh” đó,
nên cúi mặt trước các tôn giáo khác,
vì với cái lịch sử đồi bại ô nhục đẫm máu của Công giáo, không còn mặt mũi
nào trước Tam Giáo. Đó là thái độ thích hợp nhất đối với những người
còn đôi chút liêm sỉ.
Hiện nay, vụ giới chăn chiên loạn dâm và ấu dâm, với sự bao che của chính
Giáo hoàng Benedict XVI và một số Hồng Y, Tổng Giám Mục ở các giáo phận
v..v.. đang nổ ra như những tràng pháo, liên miên bất tuyệt, trên khắp thế
giới. Người ta còn đòi Giáo hoàng Benedict XVI phải từ chức vì đã che dấu
và bao bọc cho những linh mục loạn dâm. Bản tin tổng hợp trên sachhiem.net
ngày 26 tháng 3, 2010 có đoạn như sau:
Qua điểm tin từ những tờ báo
nổi tiếng tại : Anh quốc, Pháp quốc, Ý, và Hoa Kỳ ...nhà bình luận có tên là
Richard de la Cure kết luận như sau :
..."Đạo
công giáo đang đi vào ngỏ cụt, và hao tốn, vị giáo hoàng hiện nay bất lực
kèm theo lo lắng nay mai sẻ bị thải hồi, và nhất là thế giới nguyền rủa,
căm thù ...mà từ trước đến nay Vatican thường tuyên bố .." đạo công giáo
là một tôn giáo bác ái và Yêu thương hay thường gọi là công giáo hoàn cầu
"...nay đang trên con đường lụi bại và nhục nhả.
Người ta cũng còn đòi Giáo hoàng Benedict XVI
phải ra hầu tòa trước tòa án ở Mỹ để trả lời về những vụ linh mục loạn dâm
và che dấu tội ác của các Linh mục. Nhưng Vatican đã ngăn chận điều này với
lý do Benedict XVI là một nguyên thủ quốc gia, được hưởng đặc quyền ngoại
giao miễn tố.
[1] Nhưng đặc quyền miễn tố này cũng đang bị thách
thức tại Anh Quốc. Thật vậy, hai nhà vô thần nổi
tiếng là Richard Dawkins và Christopher Hitchens đang nhờ luật sư tìm hiểu
khía cạnh pháp lý để có thể bắt giam ông Giáo hoàng này như là một công dân
thường [citizen’s arrest] khi ông ta đến Anh vào tháng 9 tới vì tội bao che
các “Chúa thứ hai” can tội loạn dâm và ấu dâm.
Chuyện linh mục loạn dâm và phá sản đạo đức trong
“Tòa Thánh” và trong các Giáo hội địa phương nó dài dài như chuyện “nhân dân
tự vệ”. Vatican phải mở cả một chiến dịch để cho các thuộc hạ của Giáo
hoàng, từ Hồng Y xuống tới con chiên, cố gắng ngụy biện để tự vệ, với mục
đích bảo vệ uy tín của Giáo hoàng và “hội thánh”. Giáo hội còn đưa ra luận
điệu là việc “chống Công giáo” (sic), nhưng không nói là vì sao mà Công giáo
là tôn giáo duy nhất bị chống, cũng giống như là chống Do Thái trước đây, mà
quên rằng chính sách chống Do Thái là do chính Giáo hội gây nên vì vu cho
dân tộc Do Thái cái tội giết Chúa của Công giáo. Giáo hội cũng buộc tội báo
chí quốc tế về một chiến dịch tích cực nhằm bôi nhọ giáo hoàng trong khi
trên thực tế, mặt mũi Giáo hoàng đã đen ngòm từ lâu vì những hành động vô
đạo đức và phát ngôn bừa bãi của ông ta, cho nên chẳng còn chỗ đâu để mà bôi
nhọ. Những ngụy biện tự vệ của Giáo hội chỉ càng chứng tỏ cho thế giới
thấy bản chất lem nhem của Giáo hội, và thực ra chỉ để cho các bậc chăn
chiên và con chiên ngu ngơ nghe với nhau, chứ người ngoài chẳng có ai thèm
để vào tai. Chẳng có ai còn để ý đến những gì Giáo hội tự biện, vì uy
tín của Giáo hội đã mất từ lâu rồi. Người ta thừa biết rằng Giáo hội có
thể làm mọi thủ đoạn để cố bảo vệ, duy trì uy tín của Giáo hoàng và Giáo
hội. Nhưng điều này chẳng có tác dụng gì và không thể thành công. Nếu
chúng ta đọc qua những bài trên Internet về vấn nạn này thì chúng ta sẽ thấy
như vậy.
Cho nên, muốn gì thì gì, Giáo hội có thể chạy
nhưng không thể trốn
[The Church can run, but not hide].
So với
những tội ác kinh khủng hơn nhiều tràn ngập trong Giáo hội suốt 2000 năm nay
mà lịch sử Giáo hội đã viết rõ, vấn đề các linh mục loạn dâm và phá sản đạo
đức tôn giáo trong cung đình Vatican ngày nay liên quan đến các vụ Benedict
XVI, một số Hồng Y, Tổng Giám Mục bao che cho các linh mục loạn dâm, chỉ là
chuyện nhỏ. Từ những cuộc “thập ác chinh”, những tòa hình án xử dị giáo,
những cuộc săn lùng phù thủy, những vụ thiêu sống người lạc đạo, kể cả các
khoa học gia trong thời đại hắc ám (The dark ages) của Công giáo [Xin đọc “Công
Giáo Chính Sử” của Trần Chung Ngọc trên trang nhà sachhiem.net], mà số
nạn nhân vô tội của Giáo hoàng lên đến 200 triệu, theo học giả Lloyd M.
Graham trong cuốn “Deceptions and Myths of the Bible”, cho đến những
lò sát sinh của Công giáo ở Croatia trong thế kỷ 20 [Xin đọc “The
Vatican’s Holocaust” của Bá Tước Avro Manhattan], những vụ che dấu các
tội phạm chiến tranh trong kỳ đệ nhị thế chiến [Xin đọc cuốn “Unholy
Trinity” của Mark Aarons và John Loftus], những vụ bao che các “Chúa thứ
hai” loạn dâm và ấu dâm cùng hiếp dâm [có vô số tài liệu tiếng Anh và tiếng
Việt trên Internet], những hoạt động đặc thù Mafia trong cung đình Vatican
[Xin đọc “The Vatican Mafia” của Đức Ông
Rafael Rodríguez Guillén], vơ vét tài sản lên đến trên 1000 tỷ đô-la
v…v… [Xin đọc cuốn “The Vatican Billion” của Nino Lo Bello],
Cho nên không còn nghi ngờ gì nữa, Giáo hội Công
giáo chẳng phải là một “hội thánh”, vì trong đó có mặt thánh nào ra hồn
về trí tuệ và đạo đức đâu, kể cả những “thánh” nổi tiếng như Augustine hay
Thomas Aquinas, thật ra chỉ là những tên ngu đạo cuồng tín có hạng, mà
chỉ là một tổ chức thế tục ác ôn nấp sau bộ mặt tôn giáo để buôn thần bán
thánh. Không ác ôn thì làm sao có thể gây ra những núi tội ác như trên.
Không thế tục thì làm sao có thể vơ vét được nhiều tài sản như vậy.
Chẳng trách là ngày nay Giáo hội Công Giáo hoàn vũ đã bị thế giới nguyền rủa
và căm thù như Richart de la Cure đã nhận định ở trên.
Đọc báo
chí và Internet hàng ngày, không ngày nào mà không có những phanh phui mới
về các linh mục ở đây, ở đó, can tội loạn dâm hay ấu dâm. Lại có cả trường
hợp nữ tu (em hiền như ma sơ !) cũng phạm tội lạm dụng tình dục với
trẻ vị thành niên như vụ 2 nữ tu ở Đức. Gần đây, vào đầu tháng 5/2010,
người ta quảng cáo cho vụ Giáo hoàng Benedict XVI muốn “thanh tẩy” [purify]
“đoàn quân Lê Dương của Chúa Ki Tô” [Legionaries of Christ] trong tổ
chức “Legion of Christ” do Linh mục Marcial Maciel ở Mexico lập ra, và điều
tra những hoạt động của đoàn quân Lê Dương này. Nhưng chúng ta đều biết,
điều tra nội bộ của Vatican chỉ là biện pháp tìm cách che dấu sự thật và
trốn tránh pháp luật thế tục, tương tự như các cuộc điều tra nội bộ về các
linh mục loạn dâm trước đây, nhẹ nhàng thuyên chuyển họ đi giáo phận khác để
họ tiếp tục làm bậy, dấu kín sự thật để bảo vệ “uy tín của Giáo hội” thay vì
quan tâm đến phẩm cách con người [dignity] của các nạn nhân tình dục của các
“Chúa thứ hai”..
Tưởng
chúng ta cũng nên biết chút ít về tổ chức “Legion of Christ”.
Tổ chức này
có một Chương lịch sử chính là “Xì-căng-đan lạm dụng tình dục” [The
sexual abuse scandal in the Legion of Christ is a major chapter in the
order's history.] Chính sáng lập viên Marcial Maciel đã nhiều lần bị
điều tra về dùng ma túy và loạn dâm với những trẻ em [During his life,
Maciel was the focus of several investigations regarding allegations of
drug abuse and
sexually abusing children.] Nhưng Maciel rất được Giáo hoàng John
Paul II tôn trọng vì đã kiếm được nhiều tiền và lùa được nhiều Linh mục vào
cho Giáo hội nên John Paul II đã làm ngơ trước những lời tố cáo Maciel [Pope
John Paul II admired Maciel because of his conservative fealty to doctrine
and his ability to raise money and recruit priests.] Benedict XVI, dưới
triều đại John Paul II là Hồng y Ratzinger, người cầm đầu “thánh bộ đức
tin”, tất nhiên biết rõ vụ này. Nhưng rồi đời sống bê bối của Maciel càng
ngày càng bị phanh phui ra nhiều nên khi lên ngôi, Giáo hoàng, Benedict XVI
không còn có thể che dấu được nữa nên vào tháng 5, 2006, đưa ra biện pháp kỷ
luật (sic) bắt Maciel phải “sống kín đáo, cầu nguyện và sám hối” và
dấu không cho quần chúng biết [In May 2006,
Pope Benedict XVI disciplined him, inviting him to "a reserved life of
prayer and penitence"; no explanation was given to the public.] Biện
pháp kỷ luật này có cũng như không, vì một con người đồi bại như Maciel thì
“cầu nguyện và sám hối” chỉ là chuyện trên đầu môi chót lưỡi, thực chất là
vô tác dụng, mục đích chỉ là để trốn tránh pháp luật ngoài đời. Người ta
còn nhớ, Hồng Y Bernard Law ở Boston, chỉ vài giờ trước khi có trát Tòa đến
đòi ông ta phải ra hầu Tòa, đã kịp chuồn về Vatican và được trao cho một
chức vụ quan trọng lương cao,. Ông Hồng Y này đã đến Việt Nam trong “năm
thánh” (sic) của Công Giáo ở Việt Nam, và được Giáo dân Việt Nam, từ các bề
trên xuống dưới, hân hoan đón tiếp như là một thánh nhân.
Tháng 7,
2009, người ta còn phanh phui ra là Maciel đã có con với một phụ nữ từ 1986,
và bà ta hiện sống trong một căn nhà sang trọng ở Madrid, Tây Ban Nha, mà
Maciel đã mua cho bà ta. Rồi một luật sư ở Mễ Tây Cơ, José Bonilla, đại
diện cho 3 trong số 6 có thể là con của Maciel đâm đơn kiện để thu hồi tài
sản của Maciel. Ông luật sư này nói rằng có nhiều bất động sản ở Mễ Tây Cơ
và trên thế giới mà sở hữu chủ là Maciel. [In July 2009, a Spanish daily
published an interview with a woman who had a child with Maciel in 1986 and
now lives in a luxury apartment in Madrid which Maciel purchased for her.[6]
A day later, Mexican media reported that an attorney, José Bonilla, will
represent three of a possible total of six of Maciel's children in a civil
suit to recover Maciel's estate. The lawyer claimed that there are several
properties in Mexico and around the world which Maciel owned in his own name.]
Những vụ phá sản đạo đức trong Giáo hội Công giáo
nhiều đến độ khó ai có thể lôi ra ánh sáng hết được. Chúng ta hãy đọc đoạn
sau đây của Tiến sĩ Loraine Boettner trong cuốn “Roman Catholicism”,
trang 27:
Giáo hội Công giáo Rô-ma tự khoác lên mình từ
“thánh”, nhưng thật ra, qua các thời đại và trong quyền lực của giáo hội
Rô-ma, sự kiện là giáo hội đã phạm phải những tội ác khủng khiếp nhất, thực
hành nhân danh tôn giáo, gồm có giết người, cướp bóc, bạo hành đủ mọi hình
thức, hối lộ, gian xảo, lừa dối, và hầu hết mọi tội ác mà con người biết
đến. Những tội ác như vậy không phải là chỉ do những giáo dân của giáo hội
gây ra, mà là do các giáo hoàng, hồng y, giám mục, và linh mục, mà như sự
nghiên cứu về lịch sử của giáo hội sẽ chứng tỏ, không còn chối cãi gì được
nữa, họ đều là những kẻ ác.
John Calvin đã từng gọi giáo hội Rô-ma là con
điếm điên dại thay vì là hiền thê của Chúa, vì mức tiêu chuẩn đạo đức quá
thấp mà các linh mục của giáo hội hành xử và dung dưỡng.
[2]
Người
ta đã phanh phui ra những chuyện tội lỗi đáng ghê tởm nhất trong Giáo hội
Công giáo, nhưng có một vấn đề cốt lõi mà chẳng có mấy người đặt ra, đó là:
“Tại sao trong một Giáo hội thường tự
nhận là “thánh thiện, tông truyền” , là một “hội thánh”, mà lại xảy ra những
vụ ác ôn, bê bối từ trên xuống dưới trong suốt giòng lịch sử của Giáo hội
như vậy.” Tại sao Giáo hội lại
có thể gây ra những núi tội ác đối với nhân loại như vậy? Tại sao đạo đức
của giới chăn chiên lại tệ hại như vậy. Và nhất là, tại sao với những tội
ác ngập đầu như vậy mà Công giáo vẫn tồn tại trên thế gian?” Bài
viết này mục đích là tìm hiểu vấn nạn trên và hi vọng có thể trả lời cho
những câu hỏi trên.
oOo
Truy
nguyên vấn đề, chúng ta không thể không đồng ý với nhận định của Robert G.
Ingersoll, một nhà tư tưởng tự do (freethinker) vĩ đại nhất của nước Mỹ.
Cách
đây hơn một
thế kỷ, Robert G. Ingersoll đã giải thích điều này. [Robert G. Ingersoll
được coi như là một nhà hùng biện và tư tưởng gia tự do vĩ đại nhất của nước
Mỹ (A celebrated orator and free thinker of 19th
century America). Ông ta là bạn của 3 Tổng Thống Hoa Kỳ, là người đã
có công nhất trong việc làm nở rộ quyền tự do tư tưởng ở Hoa Kỳ. (A
personal friend of three U.S. presidents, the individual most responsible
for the flowering freethought in the United States.). Bức tượng của
ông, ghi công ông, nay được đặt ở Periora, Illinois. Edgar Lee Master, một
thi sĩ, đã đưa ra nhận xét: "Đối với những người yêu chuộng tự do ở khắp
nơi, nhất là đối với giới trẻ ở Hoa Kỳ không biết đến Robert G. Ingersoll,
hãy nhớ rằng ông ta đã giúp để cho quý vị được tự do."
(To
the lovers of liberty everywhere, but chiefly to the youth of America who
did not know Robert G. Ingersoll, remember that he helped to make you free.)
Ingersoll đã nói thẳng trước một cử tọa đông đảo mà mỗi người phải bỏ ra $2
(năm 1890) để nghe ông diễn thuyết (Joseph Lewis, Ingersoll: The
Magnificient, p. 140):
Công Giáo La Mã thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng
quần chúng thì ngu dốt (ignorant) và các linh mục thì xảo quyệt.(cunning)
[Roman
Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are
ignorant and that the priests are cunning.]
Sở dĩ Giáo hội Công giáo, tuy làm đủ mọi tội ác
đối với nhân loại qua bao thế kỷ, mà vẫn tồn tại chính là vì giới chăn
chiên thì rất xảo quyệt và giới tín đồ thì rất ngu dốt. Nếu tín đồ
không ngu dốt thì làm sao có thể để cho các bề trên của họ điều kiện hóa đầu
óc của họ được, đến độ vâng lời các bề trên đi giết người cho Chúa như trong
thời Trung Cổ, đi phá hủy chùa chiền, đền đài miếu mạo của các tôn giáo hay
niềm tin dân gian khác như đã từng xảy ra ở Việt Nam khi Công giáo theo gót
đoàn quân xâm lược Pháp, và ngày nay các nữ tu cũng như các trẻ vị thành
niên có thể để cho những bậc chăn chiên cưỡng dâm họ được. Nếu các
linh mục không xảo quyệt thì làm sao có thể điều kiện hóa đầu óc của giáo
dân để cho họ cuồng tín, tin vào những điều hoang đường trong nền thần học
Ki Tô Giáo, và để cho các linh mục làm những chuyện nhơ bẩn trên thân xác
của họ.
Thật ra thì không thể nói là toàn thể giới linh
mục xảo quyệt. Chúng ta có thể chia họ ra làm hai loại. Loại thứ nhất gồm
những người mà chính bản thân họ cũng đã bị điều kiện hóa và thuần hóa để
trở nên cuồng tín một cách ngu muội và cứ thế truyền lại cho đám giáo dân
thấp kém ở dưới, từ đời này sang đời khác. Loại thứ nhì gồm những người “bất
lương trí thức”, chính họ cũng đã biết những chuyện nhảm nhí hoang đường của
Ki Tô Giáo, nhưng vì quyền lợi thế tục, về địa vị ưu việt đối với đám giáo
dân ở dưới nên họ vẫn tiếp tục che dấu sự thật, lừa dối giáo dân bằng những
hứa hẹn hoang đường.
Nhưng thực ra Giê-su là con người như thế
nào, các công cuộc nghiên cứu về Giê-su của giới học giả trí thức trong vòng
200 năm nay đã có thể giải đáp cho chúng ta vấn nạn này. Tôi đã viết tạm gọi
là đầy đủ về những giải đáp này trong cuốn “Chúa Giê-su Là Ai? Giảng Dạy
Những Gì?”. Ở đây tôi chỉ muốn nhắc lại một tài liệu điển hình:
Học giả Russell Shorto, sau khi duyệt
qua những tác phẩm nghiên cứu về Giê-su trong vòng 200 năm gần đây, đã đưa
ra một kết luận trong cuốn “Sự thật trong Phúc Âm” như sau:
Bữa ăn chiều cuối cùng, chuyện Giê-su sinh ra từ một nữ đồng trinh, chuyện
Giê-su sống lại: người ta đã khảo nghiệm từng cái đà một của ngôi nhà Ki Tô
Giáo. Các học giả nghiên cứu Thánh Kinh – một thời đã từng là các nhà bảo
vệ nền thần học của Ki Tô Giáo – nay đã viện đến các ngành khảo cổ, cổ sinh
vật học, ngữ học, điện toán, và ngay cả môn vật lý các hạt nhỏ để tìm hiểu
câu hỏi “Giê-su Là Ai?” Kết quả là một sự duyệt lại căn bản những chuyện
trong Phúc Âm, thật rõ ràng một cách ngạc nhiên, và đối với một số người, là
một cú sốc.. Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học
ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Công
giáo bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều
chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại... Các học giả đã biết rõ sự thật
từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường
sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và
mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ
gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người
còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
[3]
Đây chính là vấn đề đối với giới
chăn chiên. Họ chỉ muốn giữ con chiên của họ trong vòng ngu dốt bằng
cách che dấu, bưng bít mọi sự thật có ảnh hưởng đến niềm tin vào những
chuyện hoang đường mà họ đã cấy vào đầu óc của đám tín đồ đáng thương.
a). Như vậy, trong giới chăn chiên, loại
người thứ nhất là những người cuồng tín, đần độn (fanatic, stupid),
có nghĩa là, vẫn còn bám vào những tín
lý đã lỗi thời, không theo kịp sự tiến bộ trí thức của con người về vấn đề
tôn giáo, và nhắm mắt bác bỏ mọi sự kiện trái nghịch với niềm tin của mình.
Mục sư Tin Lành Ernie Bringas gọi những đầu óc đần độn này là những đầu óc
có một khuyết tật (an astrolabe mind), một loại đầu óc cũ kỹ trong đó
có một khoảng cách kiến thức về tôn giáo, và khoảng cách này đã đưa những
người có đầu óc như vậy về trình độ của thế kỷ 17. Họ được nhồi sọ
để tuyệt đối tin vào sự không thể sai lầm của Thánh Kinh Ki Tô Giáo, được
huấn luyện kỹ để mang những đoạn vụn vặt trong Thánh Kinh ra giảng một cách
méo mó, lệch lạc, ngoài ngữ cảnh của toàn bộ vấn đề (out of context) trong
khi kiến thức tổng quát của họ về Thánh Kinh, về lịch sử Ki Tô Giáo, và về
những tiến bộ trí thức của nhân loại ngày nay thường rất hạn hẹp.
b). Còn loại người thứ hai là loại bất
lương trí thức (intellectually dishonest) như Russell Shorto đã viết ở
trên, nghĩa là những người đã biết rõ sự thật về những huyền thoại trong Ki
Tô Giáo, về những ngụy tạo thần học trong giáo hội, nhưng vì những quyền lợi
vật chất và tinh thần trên đám tín đồ thấp kém, nên vẫn tiếp tục diễn giải
Thánh Kinh một cách vụn vặt, lắt léo, hoặc tiếp tục đưa ra những luận điệu
thần học lừa dối đã lỗi thời, những tín lý, tín điều đã bị giới trí thức
trên thế giới, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô, dứt khoát bác bỏ
vì chúng thuộc loại huyền thoại của người Do Thái cách đây đã trên dưới 2000
năm, để mê hoặc những đầu óc thấp kém, cả tin, đang sống trong những hoàn
cảnh khó khăn vật chất v..v.. ở trong những quốc gia kém phát triển về kinh
tế, để lùa họ vào trong tín ngưỡng Ki-Tô, tín ngưỡng đang suy thoái ở trong
các quốc gia văn minh tiến bộ.
Sau đây chúng ta hãy đi
vào phần phân tích để xem giới chăn chiên đã dùng những thủ đoạn gì để điều
kiện hóa và thuần hóa tín đồ, khiến cho họ trở thành những nô lệ tâm linh
của các “bề trên”.
I.- Mê hoặc tín
đồ thấp kém bằng những luận điệu thần học hoang đường ngụy tạo.
Giáo hội Công giáo đưa ra một cái bánh vẽ
“cứu rỗi” trên trời, dựa trên những huyền thoại của người Do Thái trong cuốn
sách gọi là Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước. Nhưng đọc Kinh Thánh, Cựu
Ước cũng như Tân ước, chúng ta thấy tất cả những chuyện trong đó đều viết về
dân tộc Do Thái, các tên Do Thái, và một vài vùng đất trong miền Trung Đông.
Các học giả ngày nay đều đồng ý là, cuốn Kinh Thánh chỉ là những huyền thoại
về lịch sử Do Thái trong thời bán khai, trí tuệ chưa mở mang, tuyệt đối
không có liên hệ đến bất cứ một quốc gia nào khác. Như chúng ta đã
biết, những nghiên cứu về Giê-su trong vòng 200 năm nay của các học giả đã
đưa đến kết luận: Giê-su chỉ là một
người Do Thái thường, sống với ảo tưởng, tin mình là con của Gót
(God) của Do Thái, có
nhiệm vụ xuống trần để cứu dân Do Thái, và chỉ dân Do Thái mà thôi.
Nền thần học Ki Tô Giáo đã ngụy tạo, khai triển ảo tưởng trên của Giê-su và
đưa Giê-su lên làm đấng cứu thế cho cả nhân loại, và hứa hẹn một cái bánh vẽ
cứu rỗi ở trên trời cho những đầu óc yếu kém trong quá trình bành trướng,
truyền đạo bằng võ lực, mê hoặc đầu óc con người trên khắp thế giới. Với
những xảo thuật truyền đạo bịp bợm, Công giáo đã thành công làm cho tín đồ
tin rằng Giê-su là Chúa Cứu Thế có thể ban phát ơn “cứu rỗi” cho những người
nào tin ông ta. Nhưng vì đa số tín đồ là những bàn dân thấp kém, ít học hay
vô học, không có khả năng tự mình tìm hiểu Kinh Thánh, nhất là Tân ước, chỉ
nghe những lời giảng bậy của các Linh mục, mục sư, nên những người phi – Do
Thái trong đó có người Việt Nam vẫn tin là mình có thể được cứu rỗi, trong
khi thực chất “cứu rỗi” chỉ là một cái bánh Ki Tô Giáo vẽ trên trời. Tôi
cảm thấy rất tội nghiệp cho những tín đồ Ki Tô Giáo, tin vào những chuyện
không thể tin được, những chuyện mà bản chất chỉ là những sự lừa dối sai sự
thực để kéo con người vào vòng nô lệ tâm linh của Ki Tô Giáo. Chứng minh?
Tại sao nhân loại cần đến ơn “cứu rỗi” của
Giê-su?
Đây là câu hỏi mà người ta đã đặt cho Giáo Hoàng John Paul II. Thật vậy:
Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng,
xuất bản năm 1995, trang 76, để trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần
cứu rỗi?”, giáo hoàng John Paul II đã trích dẫn một câu trong Phúc Âm,
John 6: 13, làm luận điểm giải thích, “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian
đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị
luận phạt, nhưng được sống đời đời.”. Như vậy “cứu rỗi” là để được sống
đời đời, một hứa hẹn vô trách nhiệm trước những người vốn không có đầu óc
suy nghĩ. Tại sao? Vì câu trên không phải là lời giải thích cho câu hỏi
“Tại sao nhân loại cần đến sự cứu rỗi?” mà là một khẳng định về đức tin
Công giáo gồm có hai mặt: 1) huyễn hoặc những người nhẹ dạ cả tin, mê mẩn về
một sự sống đời đời, sau khi chết, ở trên một thiên đường giả tưởng, bằng
cách tin vào một nhân vật đầy tính chất huyền thoại do nền thần học Ki Tô
Giáo tạo dựng lên; và 2) hù dọa những người đầu óc yếu kém về một sự luận
phạt phi lý và hoang đường nếu họ không chịu nhắm mắt mà tin.
Điều này thật là rõ ràng vì, tháng 7, 1999,
Giáo Hoàng John Paul II, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đã phải
thú nhận là “không làm gì có thiên đường trên các tầng mây”
(Heaven is not a physical place above the clouds),
và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng
đế” (Hell is not a punishment imposed
externally by God).
Phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường
trên trời và một hỏa ngục trong lòng đất, Giáo Hoàng cũng đã phủ nhận luôn
sự cứu rỗi và luận phạt của Chúa, một sự hứa hẹn thuộc một đời sau do đó
không ai có thể kiểm chứng, và một sự đe dọa cùng loại, hoang đường, mà giáo
hội vẫn tiếp tục dùng cho tới ngày nay để nhốt tín đồ vào trong vòng sợ hãi
và mê tín. Đa số tín đồ Công giáo không biết đến sự phủ nhận thiên đường và
hỏa ngục của Giáo Hoàng. Một số thuộc hạ của Giáo Hoàng giải thích để biện
hộ cho Giáo Hoàng: che dấu sự thực là điều cần thiết để giữ đức tin của
tín đồ, để cho niềm tin của họ khỏi bị chao đảo. Người ngoài giáo hội
thì cho đó là hành động bất lương trí thức (intellectual dishonesty), vì
giáo hội đã biết là không làm gì có thiên đường hay hỏa ngục, mà vẫn dụ tín
đồ bằng cái bánh vẽ cứu rỗi, và hù dọa họ bằng một hỏa ngục giả tưởng.
Phân tích ra thì câu John 3: 16 ở
trên: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của
Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống
đời đời.”, và câu tiếp theo, John 3: 18: “Người nào không
tin vào Giê-su thì đã bị đầy đọa rồi, vì người đó không tin vào đứa con duy
nhất của Thượng đế”, theo tôi, là những câu vô nghĩa và bậy bạ nhất
trong Tân Ước vì những câu này chỉ có thể áp dụng cho những người
sinh sau Giê-su mà thôi. Thật vậy, chỉ có những người sinh sau Giê-su
mới có thể biết đến Giê-su và tin Giê-su để không bị luận phạt và có cuộc
sống đời đời, lẽ dĩ nhiên sau khi chết. Như được viết rõ trong Tân Ước,
ngay cả bố mẹ Giê-su là Joseph và Maria, cùng các em trai em gái Giê-su cũng
không tin Giê-su là đấng cứu thế, trái lại còn cho là Giê-su có đầu óc
bất bình thường (trong Tân Ước viết: out of his mind), cho nên
chắc chắn là họ đều bị Giê-su luận phạt và đày đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn?
Lịch sử loài người đâu chỉ bắt đầu từ
khi Giê-su 30 tuổi. Ấy thế mà vẫn có vô số người tin vào những
cái câu nhảm nhí này mà lại còn thường mang nó ra mà trích dẫn trên một số
diễn đàn của các giáo dân Ki Tô Giáo ở hải ngoại. Thật là tội nghiệp.
Nếu giáo hoàng John Paul II không chịu
giảng “tại sao nhân loại cần cứu rỗi’ mà chỉ nói tầm bậy về một câu tầm
bậy trong Tân Ước thì nền Thần học Ki Tô Giáo có thể soi sáng cho chúng
ta về vấn đề này. Lý luận thần học của Ki Tô Giáo về “ơn cứu rỗi” của
Giê-su có thể tóm tắt trong vài câu như sau:
- Ý niệm về sự cứu rỗi lập căn bản trên
sự kiện loài người đang sống trong tình trạng hư mất, vì vậy họ cần được
cứu. Theo quan điểm Cơ Đốc, con người bị đặt dưới sự đoán phạt của Thiên
Chúa vì cớ
nguyên tội (tội tổ tông) mà chúng ta thừa kế từ sự sa ngã của
Adam (thừa kế bản chất tội lỗi của Adam sau khi phạm tội).
- Người
Ki Tô Giáo tin rằng nhân loại được tạo nên chỉ để có một mối quan hệ với
Thượng đế, nhưng tội lỗi đã tách biệt mọi người với Thượng đế. Người
Ki-Tô tin rằng sau khi chết trên cây thập giá, Đức Ki-Tô được chôn, Ông ta
lại sống lại, và nay sống bên tay phải của Thượng đế, để mãi mãi làm trung
gian hòa giải với Thượng đế cho những tín đồ. Ki Tô Giáo khẳng định rằng cái
chết của Giê-su trên cây thập giá là đủ để trả hoàn toàn cái nợ tội lỗi
[đối với Thượng đế] của mọi người và điều này đã hồi phục mối quan hệ đã
đổ vỡ giữa Thượng đế và con người.
[4]
Kinh Tin Kính của các Tông đồ [Apostle’s
Creed) viết về đức tin và hi vọng căn bản của người Ki Tô Giáo như sau:
Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu
KiTô là con một Đức Chúa Cha cũng là Chúa chúng tôi…
chịu nạn đời quan Phongxiô
Philatô, chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác,
xuống ngục tổ tông, ngày thứ
ba bởi trong kẻ chết mà sống lại…
ngày sau bởi trời lại
xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin xác loài người
ngày sau sống lại…
Tôi tin hằng sống vậy.
Đó là căn bản đức tin và niềm hi vọng trong
Ki Tô Giáo. Với đức tin này người Ki Tô Giáo hi vọng ở những gì. Vì tin rằng
Chúa Giê-su “ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết”
và tin rằng “xác loài người ngày sau sống lại” Người Công giáo Việt
Nam rất hi vọng được Chúa Giê-su, đến ngày phán xét, hóa phép làm cho thân
xác của họ, bất kể chết từ bao giờ, chết trên giường bệnh, già, bình thường,
hay chết tan xác ngoài mặt trận, sống lại, hợp với linh hồn của họ mà sau
khi chết đã được giữ [ai giữ?] trong một kho chứa của Chúa, và rồi, cả hai
phần hồn và phần xác, được Chúa cho lên thiên đường để hằng sống, đời đời
hầu hạ việc Chúa. Phải nói là “hầu hạ việc Chúa” vì trên thế gian này, người
Ki Tô giáo Việt Nam thường tự nhận là tôi tớ, tỳ nữ hầu hạ việc Chúa,
đúng ra là hầu hạ các linh mục, mục sư, với hi vọng là sau khi chết, đến
ngày phán xét, được lên thiên đường sống cuộc sống đời đời để tiếp tục hầu
hạ Chúa.
Đọc về những niềm tin của người Ki-Tô Giáo
ở trên chúng ta thấy rõ người Ki Tô Giáo chỉ tin chứ không hiểu. Thật
vậy, ngày nay không còn mấy người tin rằng Thượng đế của Ki Tô Giáo đã sáng
tạo ra vũ trụ và muôn loài cách đây khoảng 6 ngàn năm, và trong 6 ngày,
và trước những bằng chứng bất khả phủ bác của khoa học về sự tiến hóa của
con người mà chính Giáo hoàng John Paul II đã phải lên tiếng chấp nhận, cũng
chẳng còn mấy người tin vào cái huyền thoại về tội tổ tông.
Chúng ta thấy, thuyết thần học Ki Tô về sự cứu
chuộc và cứu rỗi của Chúa Giê-su đặt căn bản trên huyền thoại về tội tổ tông
trong Cựu Ước Nhưng ngày nay, trừ những giáo dân ít học và kém hiểu biết, có
còn ai tin vào huyền thoại "tội tổ tông" nữa đâu. “Tội Tổ Tông” là một
huyền thoại đã lỗi thời, và người nào còn nhắc đến nó, tin nó, chỉ tự chứng
tỏ mình là người có đầu mà không có óc, thiếu học vấn [uneducated].
Thật vậy, Trước những kết quả nghiên cứu Thánh
Kinh bất khả phủ bác của giới học giả, huyền thoại về “tội tổ tông” đã không
còn một giá trị trí thức nào ngay trong giới lãnh đạo của Ki Tô Giáo.
Chúng ta hãy đọc vài tài liệu về “tội tổ tông” của giới trí thức Tây phương.
Malachi Martin, giáo sư tại viện nghiên cứu Thánh Kinh của giáo hoàng tại
Rô-ma dưới triều đại giáo hoàng John XXIII (Professor at the Pontifical
Biblical Institute of Rome, served in the Vatican under Pope John XXIII), đã
viết trong cuốn “Sự Suy Thoái Và Sụp Đổ của Giáo Hội Rô-Ma” (The
Decline and Fall of the Roman Church) như sau, trang 230:
Giáo Hoàng John XXIII nói trong buổi khai mạc
Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng 10, 1962, rằng “những giáo lý và quan
niệm sai lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại
bỏ chúng… Nhưng nếu Roncalli (John XXIII) không thấy là điều
giảng dạy mới của mình dẫn tới đâu, thì
hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập
niên 1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã
từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản
khác.
[5]
Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn
“Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Hoặc Chết” [Why Christianity Must
Change or Die:]
Thuyết Tiến Hóa làm cho Adam và Eve trở nên may nhất là những nhân vật
theo truyền thuyết. Thuyết Tiến Hóa không dễ gì cho tổ chức tôn giáo
chấp nhận, và ngày nay vẫn còn những tiếng nói cất lên từ những miền hẻo
lánh của thế giới để chống đối thuyết này. Những tiếng nói này sẽ không bao
giờ thành công. Nhân loại rõ ràng là tiến hóa theo một quá trình trải dài từ
4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm. Không làm gì có hai cha mẹ đầu tiên
(nghĩa là Adam và Eve. TCN), và do đó cái hành động bất tuân lúc đầu của
hai bậc cha mẹ đầu tiên không thể nào có ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại.
Do đó cái huyền thoại về tội tổ tông đã
bị một đòn khai tử, và cái câu chuyện vững chắc về sự cứu rỗi do những người
bảo vệ Ki-tô giáo dựng lên qua nhiều thời đại đã bắt đầu chao đảo.
[6]
Và chính Giáo Hoàng John Paul II cũng đã phát biểu năm 1996:
Thân xác con người có thể không phải là sự
sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến
hóa dần dần... Những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận
Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là một giả thuyết.
(The human body may
not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual
process of evolution...Fresh knowledge leads to recognition of the theory of
evolution as more than just a hypothesis).
Đọc thêm các tác phẩm nghiên cứu của một số vị
trong hàng giáo phẩm Công Giáo cũng như Tin Lành, chúng ta thấy rõ một số đã
biểu lộ sự lương thiện trí thức của họ trước những sự kiện khoa học không ai
có thể phủ nhận qua những nhận định như sau:
Giám Mục
Tin Lành John Shelby Spong đã cho rằng vai trò Chúa Cứu Thế của Chúa Giê-su
cần phải dẹp bỏ, xin đọc:
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php :
“Không
có bất cứ một hình ảnh nào dùng để giải thích về nhân vật Giê-su đáng được
tồn tại. Hình ảnh hiển nhiên nhất để loại bỏ trong đầu óc tôi có lẽ cũng là
cái hình ảnh cổ xưa nhất về mọi diễn giải về Giê-su. Đó là cái hình ảnh của
Giê-su như là “đấng thần linh cứu thế” (the divine rescuer)."
Và Linh
mục Công giáo James Kavanaugh cho rằng “ơn cứu rỗi” chỉ là một huyền thoại ,
xin đọc:
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php :
“Nhưng
đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh của Giê-su chẳng có ý nghĩa gì
mấy, trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não từ khi mới sinh ra
đời (But to modern man, it makes far less sense unless he has
been suitably frightened and brainwashed from birth). Đối với tôi
(Linh mục James Kavanaugh), đó là một huyền thoại “cứu rỗi” của thời
bán khai, miêu tả một người cha giận dữ, chỉ nguôi được cơn giận bằng
cái chết đầy máu me của chính con mình. Đó là một chuyện độc ác không thể
tưởng tượng được của thời bán khai (It is a primitive tale of
unbelievable cruelty).
Tôi
chấp nhận sự kiện là Giê-su đã chết, và ngay cả đã bị đóng đinh trên thập
giá. Nhưng tôi không thể chấp nhận cái huyền thoại là cái chết của ông ta
là để chuộc tội cho tôi. Huyền thoại “cứu rỗi” (The salvation Myth)
trong Tân ước chỉ là một cách diễn giải. Đó là một huyền thoại của
thời bán khai, bản chất của nó giống như những huyền thoại của các dân tộc
bán khai ở khắp nơi, nhưng nó hoang đường và độc ác hơn hầu hết các huyền
thoại khác. (But it is more unbelievable and more cruel than most
myths).”
Như vậy, “ơn cứu rỗi của Chúa Giê-su”
chẳng qua chỉ là một cái bánh vẽ trên trời , đúng như Mục sư Ernie
Bringas đã nhận định (A pie-in-the-sky), mà Ki Tô Giáo vẫn còn dùng làm mồi
để nhử những đầu óc ngu ngơ ngốc nghếch. Đúng vậy, nếu đã không có gì có
thể gọi là “tội tổ tông” thì vai trò chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su chỉ là
luận điệu thần học bịp bợm của các giáo hội Ki Tô, và riêng đối với Công
giáo thì tín lý tuyên dương bà Mary, mẹ của Giê-su, là “Mẹ Thiên Chúa”, “Đức
Mẹ vô nhiễm nguyên tội” v..v.. cũng chỉ là những mánh mưu thần học của Công
giáo để mê hoặc đám tín đồ vốn không có mấy đầu óc. [Xin đọc loạt bài nghiên
cứu về nhân vật Mary trong Công giáo:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN40.php]
Vấn nạn của các tín đồ Ki Tô Giáo Việt Nam là tại sao họ vẫn còn vác cái
gánh nặng Thiên Chúa trên vai, biết rằng một Thiên Chúa như được viết trong
Kinh Thánh, một Thiên Chúa mà Richard Dawkins đã đưa ra những nhận định về
các thuộc tính như sau trong cuốn “The God Delusion”, trang 51:
Không
cần phải bàn cãi gì nữa, Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng
ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện
vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng
tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù;
một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ
đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con,
chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như
bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và
toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và
những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác
ôn thất thường.
[7]
Tất cả những thuộc tính
này đã được tôi chứng minh qua những trích dẫn từ cuốn Cựu Ước của Ki Tô
Giáo trên:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/3NGOI/TCN64_Cha.php
và trên: http://giaodiem
online.com/2009/03/god.htm
Một Thiên Chúa như vậy có đáng để chúng ta kính
trọng, khoan nói đến thờ phụng, không?
Vậy tại sao các tín đồ Ki Tô Giáo không đủ can đảm
loại bỏ một Thiên Chúa như vậy ra khỏi đầu óc họ như cả mấy tỷ người trên
thế giới đã làm, nhất là Thiên Chúa đó
chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái. Họ sợ rằng, sau khi loại bỏ
Thượng đế ra khỏi đầu óc thì họ còn lại gì? Đó là một đầu óc lành mạnh, có
khả năng suy tư, và từ đó có thể giải thích về sự hiện hữu của những sự xấu
trên thế giới, và từ đó, con người hãy phục vụ con người thay vì đi phục
vụ một đấng ác ôn không ai biết, không ai hiểu, không ai thấy. Trong tất
cả các thiên tai, bệnh tật v..v.., chúng ta chỉ thấy con người cứu giúp con
người chứ có thấy mặt Thiên Chúa ở đâu khoan nói đến chuyện là, theo niềm
tin của Ki Tô Giáo, tất cả những sự đau khổ giáng lên đầu con người đều là
tác phẩm của Thiên Chúa cả. Và không phải chỉ có người Ki-Tô mới làm những
việc thiện, cứu giúp đồng loại, mà trên thế giới phần lớn là những người
phi-KiTô, không tin là có Thiên Chúa.
Vì đặt tất cả niềm tin mù quáng vào những điều
ngụy biện hoang đường của nền thần học Ki Tô Giáo cho nên các tín đồ mới cứ
tin rằng mình có tội thật đối với một nhân vật thần thoại Do Thái ác ôn như
vậy, và do đó mới mơ tưởng tới ơn “cứu rỗi” của một Thiên Chúa mà thực ra
chúng ta cần phải vứt bỏ nó đi trong đầu óc của chúng ta.
Nhưng
thật ra tín đồ Ki Tô Giáo Việt Nam có hi vọng được Giê-su cứu chuộc hay
cứu rỗi không?
Câu trả lời là một chữ “KHÔNG” khẳng
định. Chữ “KHÔNG” này là do chính Chúa Giê-su khẳng định trong Tân Ước chứ
không phải là của tôi. Chứng minh?
Trước hết,
người Việt Nam hiển nhiên không phải là người Do Thái, câu này nghe có vẻ
ngớ ngẩn nhưng thực ra lại rất quan trọng. Tại sao lại quan trọng? Vì đọc
Tân Ước, chúng ta thấy: Giê-Su sẽ chỉ cứu dân Do Thái ra khỏi tội lỗi
mà thôi (Matthew 1: 21: for He will save His people from
their sins) và sẽ ngự trị trên dân Do Thái đời đời mà thôi (Luke
1: 33: And He will reign over the house of Jacob for ever). Ngoài ra
chúng ta cũng còn thấy là Giê-su rất
ghét những người không phải là Do Thái (Matthew 15: 21-28).
Và Thánh Paul khẳng định, Hebrew 13: 8: “Giê-su Ki Tô luôn luôn
như vậy, ngày hôm qua, ngày hôm nay và cho tới mãi mãi.” (Jesus Christ
is the same yesterday, today, and forever). Điều này có nghĩa là Giê-su sinh
ra đời chủ trương chỉ cứu chuộc người Do Thái mà thôi v.. v.., và thái độ
bộc lộ ghét người phi-Do Thái của Giê-su, không bao giờ thay đổi.
Vậy thì những sắc dân phi – Do Thái, trong
đó có Việt Nam, mong cái gì ở Giê-su? Tôi không hiểu các trí thức
theo Công giáo Rô-ma ở Việt Nam có đọc Tân ước không và có biết đến những
điều này hay không. Cho nên tôi thật
thương hại những người không phải là dân Do Thái mà cứ sống trong ảo vọng,
mơ tưởng rằng sẽ được Giê-Su cứu rỗi và cho mình một cuộc sống đời đời trên
một Thiên Đường mà chính giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu.
Thật vậy, câu chuyện sau đây trong
Tân Ước sẽ chứng tỏ rằng sự ước mơ của những tín đồ Việt Nam theo Ki Tô Giáo
để được Giê-su cứu rỗi đích thực là một ảo vọng. Chúng ta hãy đọc và đọc kỹ
đoạn sau đây trong Tân Ước, Matthew 15: 21-28:
"Thế rồi Giê-Su đi tới vùng
Tyre và Sidon. Và có một người đàn bà người Canaan đến từ vùng đó và kêu với
Giê-Su "Hãy thương tôi, Chúa ơi, Con của David. Con gái tôi đang bị quỷ ám
nặng." Nhưng Người không thèm trả lời bà ta một tiếng. Và các đệ tử của
Giê-Su tới và yêu cầu Giê-Su: "Hãy đưổi bà ta đi, vì bà ta cứ kêu cứu cùng
chúng ta." Nhưng Giê-Su trả lời: "Ta được phái xuống đây chỉ để cứu dân
Do Thái mà thôi." Rồi người đàn bà kia tới và thờ phượng Giê-Su và nói:
"Chúa ơi, hãy giúp tôi." Nhưng Người trả lời: "Lấy bánh của con dân Do
Thái mà ném cho mấy con chó nhỏ ăn thì thật là chẳng tốt tí nào." Và
người đàn bà kia nói: "Đúng vậy, Chúa ơi, nhưng dù là những con chó nhỏ thì
chúng cũng được ăn những mảnh bánh vụn rơi vãi từ trên bàn của chủ chúng
xuống chứ." Rồi Giê-Su trả lời: "Ô, Bà Già! Lòng tin của bà thật là lớn lao!
Thôi tôi cũng chiều theo ý bà." Và con gái bà ta hết bị quỷ ám ngay từ gìờ
phút đó."
[8]
Về chuyện Giê-su gọi người phi-Do
Thái là chó ở trên,
Tiến Sĩ Madalyn O'Hair bình luận như sau:
Trừ phi anh là người Do
Thái, chẳng ai muốn anh trong tôn giáo này. Đối với người nào thực sự
"thực tâm cảm thấy Giê-Su là đấng cứu thế của họ" tôi xin giới thiệu một nhà
phân-tâm học.
(Unless you
are a Jew, you are not wanted in this religion. For someone who really
"truly feels in his heart that Jesus is his Savior" I would recommend a
psychiatrist.)
Và, Frederick Heese Eaton bình luận
như sau trong cuốn Scandalous Saints, trang 214:
Giê-Su thường nhắc nhở đệ tử
là phải thương yêu nhau, và thương yêu ngay cả kẻ thù (John 13:35; Matthew
5:44) Nhưng khi một người đàn bà không phải là người Do Thái tới nhờ Giê-Su
chữa lành bệnh cho con gái, thì Giê-Su lại bảo bà ta rằng, "Không thể lấy
bánh của con dân Do Thái vứt cho chó ăn." (Matthew 15:26) Nói một cách
khác, ông nói, "Người phi Do Thái là đồ
chó. Tại sao ta lại phải làm bất cứ gì cho ngươi?" Anh cảm thấy
thế nào khi Jesus gọi anh là chó? Gọi người phi Do-Thái là đồ chó không phải
là sự biểu thị của lòng thương yêu. Giê-Su thật là hỗn hào, kiêu căng và tự phụ khi gọi người đàn bà kia là chó.
Vậy trong vấn đề thực hành, Thánh Giê-Su chẳng có chút gì là Thánh cả.
Những sự kiện cho thấy Giê-Su thực sự ghét những người phi Do-Thái.
Thánh Phao-Lồ (Paul) viết
rằng, theo lời mặc khải của Thiên Chúa, "Giê-Su luôn luôn như vậy, ngày hôm
qua, ngày hôm nay và cho tới mãi mãi, không bao giờ thay đổi." (Hebrew 13:8)
Vậy nếu anh dự định lên Thiên Đường ở
cùng Giê-su đầy tình thương, và anh không phải là người Do Thái,
anh nên nghĩ lại đi thì vừa.
[9]
Tôi xin để cho các độc giả tùy ý
nhận định về tư cách, đạo đức và lòng vị tha của Giê-Su trong những câu
chuyện trên. Tôi không hiểu các đồng bào Ki-Tô của tôi nghĩ thế nào khi đọc
đoạn trên trong Thánh Kinh, biết đâu họ chẳng cho mình có cùng một thân phận
và lòng tin mãnh liệt như bà già trong câu chuyện kể trên để được Giê-Su cứu
giúp, dù bây giờ Giê-Su không còn trên thế gian nữa. Nhưng hi vọng của họ
được Giê-su cứu rỗi có thể thể thành tựu được không? Nếu còn đầu óc thì hãy
suy nghĩ cho kỹ chuyện này và mang ra hỏi các bậc chăn chiên của mình là dựa
vào đâu trong Tân Ước mà cho rằng người Việt Nam sẽ được Giê-su cứu rỗi.
Nhưng thực ra, Giê-su có phải là Thiên Chúa
hay không?
Và dù có là Thiên Chúa đi nữa thì trí tuệ và tư cách của ông ta
có đáng để cho chúng ta hi vọng vào một ơn “cứu rỗi” của ông ta hay không?
Đọc Tân Ước, chúng ta đã thấy rằng, cũng giống như Cha ông ta trong Cựu
Ước, Giê-su là một người có những đặc tính tiêu biểu là: tính tình độc
ác, dễ nổi nóng, tự phụ, nhỏ nhen, thích nguyền rủa, lời nói không đi
đôi với việc làm, tiền hậu bất nhất, khi nói suôi, khi nói ngược, và phần
lớn là về “cái Ta” của ông ta. Rất rõ ràng trong Tân Ước, chẳng cần phải
chứng minh.
Những tín đồ Ki Tô Giáo cuồng tín thường cho là
mình có nhiệm vụ đi rao giảng “Tin Mừng Phúc Âm” cho mọi người trên thế
giới. Họ thành công phần nào vì họ chỉ rao truyền tin mừng cho những người
thấp kém, ít học trong xã hội, và vì vậy không có ai đặt câu hỏi hay chất
vấn họ khi họ giảng những điều láo lếu, không đúng sự thực, về Chúa Giê-su
của họ. Nhưng Giê-su sinh ra có phải là để mang tin mừng cho nhân loại
không? Ông ta nói:
Matthew 10: 34-36: “Đừng tưởng rằng ta
xuống đây để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không tới để mang lại hòa
bình mà là gươm giáo. Vì ta tới để làm cho con trai chống lại cha, con gái
chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng, và kẻ thù của con người ở ngay
trong nhà hắn.”
Và Luke
12: 51-53: Đừng tưởng Ta đến để đem hòa bình cho thế giới. Không,
Ta đến để chia loài người làm hai. Từ đây, một nhà có năm người sẽ chia rẽ
chống đối nhau: hai chống ba, và ba chống hai. Mâu thuẫn sẽ diễn ra giữa con
trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với mẹ chồng.
Đó có phải
là những “tin mừng” cho gia đình và xã hội không? Người nào bảo phải, xin
mời lên tiếng. Hơn nữa, Giê-su còn thường nguyền rủa những người không tin
ông ta:
“Hãy mang những kẻ thù của ta, những người không
muốn ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt ta” [Luke 19: 27:
But bring here those enemies of mine, who did not want me to reign over
them, and slay them before me], cùng đe dọa những người rời bỏ ông ta
phải được gom lại như cành củi, làm cho khô héo và mang đi đốt, làm
tiền lệ cho giáo hội Công giáo đi tra tấn rồi thiêu sống những kẻ mà giáo
hội cho là lạc đạo. [John 15: 6: If anyone does not abide in me, he is
cast out as a branch and is withered; and they gather them and throw them
into the fire, and they are burned]
Ông ta cũng còn dọa những người không tin ông ta
sẽ bị đầy đọa xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa thiêu đốt vĩnh viễn. Chúng ta
hãy đọc lời ông phán trong ngày phán xét, ngày mà các tín đồ Ki Tô Giáo hi
vọng được Giê-su họp hồn với xác và cho họ lên Thiên đường (mù):
“Rồi ta sẽ nói với những kẻ ở phía bên tay
trái: “Hãy cút đi cho khuất mắt ta, hỡi những kẻ bị nguyền rủa, để đi vào
ngọn lửa vĩnh hằng nhúm sẵn cho quỷ và những thiên thần của nó”
[Tiếng Anh nguyên văn là, Matthew 25: 41:
“Depart from me, you cursed, into the everlasting fire prepared for the
devil and his angels” nhưng Kinh Thánh Tin Lành tiếng Việt đã dịch “devil
and his angels” là “ma quỉ và những quỉ sứ (của) nó”. Dịch angel là quỉ sứ
chắc là để tránh một điều hiển nhiên trong Kinh Thánh là Quỷ cũng có những
thiên thần làm tay sai y như Thượng đế. TCN]
Những kẻ ở phía bên tay trái là những ai?
Đó là
những người không phải thuộc 12 bộ lạc Do Thái, như sách Khải Huyền đã viết
rõ:
Khải
Huyền 7: Sau đó tôi thấy bốn thiên sứ đứng ở bốn góc địa cầu
[nguyên văn từ Kinh Thánh Việt Nam, quả địa cầu của Ki Tô Giáo có hình tứ
giác, có bốn góc] cầm giữ gió bốn phương trên đất, khiến cho khắp đất, biển
và cây cối đều bất động. Tôi lại thấy một thiên sứ khác đến từ phương Đông,
cầm con dấu (seal) của Thượng đế hằng sống. Thiên sứ này lớn tiếng kêu gọi
bốn thiên sứ đã được Thương đế ban quyền cho làm hại đất và biển (who had
been given power to harm the land and the sea): Đừng làm hại đất, biển và
cây cối cho đến khi chúng ta đóng dấu ấn lên trán của những tôi tớ Chúa.
Rồi tôi nghe thấy số người được đóng dấu ấn trên trán, tất cả là 144000
(một trăm bốn mươi bốn ngàn) thuộc 12 bộ lạc của Israel, mỗi bộ lạc là 12000
người. Những người được đóng dấu ấn của Thượng đế trên trán là những
người được Chúa chọn để cho lên thiên đường sống một cuộc sống đời đời với
Chúa, vì Kinh Thánh viết rõ “Nhiều
người được kêu gọi nhưng chỉ có ít người được chọn” và Chúa
cũng đã phán, Matthew 7: 21-23: “Không phải người nào gọi Ta là Chúa
cũng được vào nước trời... Trong ngày phán xét sẽ có nhiều người kêu nài:
“Thưa Chúa, chúng tôi đã giới thiệu Chúa cho nhiều người, đã dùng danh Chúa
để đuổi quỷ và làm nhiều phép lạ [Công giáo đã ngụy tạo ra nhiều
phép lạ như ở Fatima, Lourdes, La Vang v…v…] . Nhưng ta sẽ đáp: “Ta
không hề biết các ngươi! Hãy cút đi cho khuất mắt ta, vì các ngươi chỉ làm
việc gian ác” [Many will say to Me in that day
“Lord, Lord, have we not prophesied in Your name, cast out demons in your
name, and done many wonders in your name?” And then I will declare to them
“I never knew you; depart from Me, you whopractice lawlessness!”]
Bịp bợm, dối trá, lợi dụng lòng mê tín của
tín đồ để vơ vét của cải, tiền bạc, loạn dâm, đạo đức giả v..v.. có phải là
việc gian ác hay không? Ngụy tạo phép lạ, tín lý, bí tích để tạo quyền lực
thế tục cho giới giáo sĩ v..v.. có phải là việc gian ác hay không? Cưỡng
bách cải đạo, giết người ngoại đạo, tra tấn, thiêu sống người lạc đạo v..v..
có phải là việc gian ác không? Ai trả lời không, xin lên tiếng. Các “hội
thánh” Ki-tô, trong 2000 năm nay đã làm những gì? Có làm điều gì gian ác
không? Và ai lên thiên đường? Ai xuống hỏa ngục?
Chúng ta để ý, Chúa chỉ chọn 144000
người trong 12 bộ lạc Do Thái, không thấy
Chúa nói đến các bộ lạc Bùi Chu, Phát Diệm hay Hố Nai, Gia Kiệm, hay Bolsa,
San Jose, Sydney. Dân Do Thái là dân được Chúa chọn (chosen
people) nhưng Chúa cũng chỉ chọn có 144000 người mà thôi. Các tín đồ Ki Tô
Giáo Việt Nam hãy ngẫm nghĩ kỹ điều này và hãy tỉnh giấc mộng kê vàng.
[Không những thế, trong Khải Huyền 9: 4, Thiên Chúa còn ra lệnh cho những
con quái vật châu chấu giống như những con chiến mã, có khả năng châm chích
như bọ cạp, không được phá hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những người không
có dấu ấn của Thượng đế đóng trên trán. (They were told not to harm
the grass of the earth or any plant or tree, but only those people who did
not have the seal of God on their forefronts)
Quý vị tín đồ Ki-tô Việt Nam, nhất là các
tín đồ tân tòng Tin Lành, những người tin vào những lời truyền đạo gian
manh của giới giáo sĩ, nghĩ sao về chuyện này. Quý vị có thấy rằng mình
đã bị đám mục sư, linh mục lừa bịp quý vị bằng một cái bánh vẽ trên trời mà
dù có thật quý vị cũng không bao giờ có thể được hưởng theo như những lời
không thể sai lầm của Chúa Tân Ước, nhất là trong sách Khải Huyền hay không?
Quý vị có bao giờ nghĩ đến điều này hay không? Quý vị có bao nhiêu hi vọng
được Chúa “cứu rỗi”, bốc cái xác chết đã rũa nát của quý vị (chắc chắn là
ngày tận thế sẽ không xảy ra trong đời này của quý vị) lên thiên đường? Quý
vị hãy dùng đến đầu óc một chút đi, và hãy cất bỏ gánh nặng thiên chúa trên
vai của quý vị (đề nghị của mục sư Harry Wilson), đúng ra là gánh nặng giáo
hoàng và các “bề trên” Công giáo hay gánh nặng Kinh Thánh Tin Lành. Hơn nữa,
Giê-su là người như thế nào, có đáng để cho chúng ta trông mong vào sự “cứu
rỗi” của ông ta không?
Về những chuyện trong Tân Ước
chứng tỏ đạo đức thấp kém của Giê-su,
Giám Mục John Shelby Spong đã nhận định:
Chúng ta có thấy hấp dẫn đối
với một Chúa [Giê-su]
phải giết cả một bày heo để đuổi một con quỷ ra khỏi thân người hay không?
Chúng ta có nên khâm phục và kính trọng người mà chúng ta gọi là Chúa đã
nguyền rủa một cây sung khi nó không ra trái lúc trái mùa không?...
Cuốn Thánh Kinh đã làm cho
tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi
một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.
Có những đoạn trong 4 Phúc Âm
mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay
cả đạo đức giả.
[10]
Về vấn đề đạo đức và trí tuệ của Giê-su thì không một người nào trong giới
trí thức không biết đến nhận định của Bertrand Russell, một triết gia và
khoa học gia nổi tiếng trên thế giới trong thế kỷ 20 với hai giải Nobel:
Riêng
tôi, tôi thấy trong cả hai lãnh vực trí tuệ và đạo đức, Đức KiTô
[Giê-su] không thể đứng ngang hàng với một số vĩ nhân khác trong lịch sử.
Tôi nghĩ rằng tôi nên đặt Đức Phật và Socrates ở trên Giê-su trong hai
lãnh vực này.
[11]
Trong cuốn Tân Ước có đầy những
chuyện chứng tỏ nhân cách, đạo đức và trí tuệ thấp kém của Giê-su, nhưng
thảm thay, trên khắp thế giới, các tín đồ vẫn được dạy và tin là "Chúa toàn
hảo", "Tình Yêu của Chúa" bao trùm thế gian v..v.. nên phải "Kính Chúa" và
hãy hãnh diện là "đầy tớ hầu hạ Chúa", "thờ phụng Chúa". Người Việt Nam
không phải là người Do Thái, ai cũng biết vậy, nhưng vẫn cần phải nhắc lại ở
đây. Tuy nhiên chẳng có ai cấm người Việt nam tin rằng mình sẽ được
Giê-su cứu chuộc như cứu chuộc người Do Thái, dù rằng Tân Ước đã viết rõ,
không làm gì có chuyện cứu chuộc người phi-Do Thái. Nhưng chẳng có ai nghĩ
đến chuyện là chính người Do Thái lại không tin Giê-su là đấng cứu tinh của
họ và do đó đã từ chối không chấp nhận vai trò cứu chuộc của Giê-su.
(Xem tiếp phần II: Thuần hóa tín đồ bằng những tín lý độc tài, ngụy tạo)
Chú thích
[1] The
Times, April 2, 2010: The
Vatican has moved to block an attempt to force the Pope to appear in
court in the United States, after a lawyer filed a motion seeking
his sworn testimony on what the Vatican knew about paedophile
scandals. Giuseppe dalla Torre, head of the Vatican City Tribunal,
said that Benedict XVI had diplomatic immunity as a head of state.]
[2] Roman
Catholicism, p. 27:
The Roman Catholic Church applies to
herself the term “holy”, but the fact is that through the ages and
in he official capacity the Roman Church has been guilty of the most
atrocious crimes, practiced in the name of religion, including
murder, robbery, persecution of all kinds, bribery, fraud,
deception, and practically every other crime known to man. Such
crimes have been practiced not merely by church members, but by
popes, cardinals, bishops, and priests who, as a study of church
history will show, undeniably were evil men…
John Calvin called the church of Rome
in his day a foul harlot rather than the spouse of Christ, because
of the low moral standard practiced and tolerated by her priests.
[3]
Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, New York, 1997 : The Last
Supper, the Virgin Birth, the Resurrection: one by one the great
beams of Christianity are being tested. Biblical scholars – once the
guardians of Christian theology – are now using the tools of
archaeology, anthropology, linguistics, computer science, and even
particle physics to probe the question “Who was Jesus?” The result
is a radical revision of the Gospel story that is both surprisingly
vivid and to some people, deeply shocking... Most important, the
impact of the scientific perspective is having now that even
scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that
much of what we know of Jesus is myth... Scholars have known the
truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for
decades; they have taught it to generations of priests and
ministers, who do not pass it along to their flocks because they
fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are
ordinary Christians.
[4] [Christians
believe that mankind was created specifically to have a relationship
with God, but that sin separates all men from God (Romans
5:12,
Romans 3:23). Christians
believe that after His death on the cross, Christ was buried, He
rose again, and now lives at the right hand of the Father, making
intercession for the believers forever (Hebrews
7:25). Christianity proclaims that Jesus’ death on the
cross was sufficient to completely pay the sin debt owed by all men
and this is what restores the broken relationship between God and
man (Hebrews
9:11-14,
Hebrews 10:10,
Romans 6:23,
Romans 5:8).]
[5]
Martin, Malachi, The
Decline and Fall of the Roman Church, p. 230: Pope John XXIII
told the opening session of his council on October 11, 1962, that
“false doctrines and opinions still abound,” but that “today men
spontaneously reject” them… But if Roncalli did not see where his
new teaching was leading, hundreds of theologians and bishops did.
In the sixties and the seventies after Roncalli’s death, they drew
these conclusions and abandoned belief in original sin, in the
Devil, and in many other fundamental doctrines.
[6] The
theory of evolution made Adam and Eve legendary at best. Evolution
was not easy for the religious establishment to accept, and still
voices are raised today in remote areas of the world to resit
it. Those voices will never succeed. Human life clearly evolved over
a four-and-a-half-to-five-billion-year process. There were no first
parents, and so the primeval act of disobedience on the part of
first parents could not possibly have affected the whole human race.
The myth was thus dealt a blow, and the monolithic story of
salvation built by Christian apologists over the age began to totter.
[7]
The
God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character
in all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust,
unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty ethnic
cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal,
genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic,
capriciously malevolent bully.
[8] When Jesus went out from
there and departed to the region of Tyre and Sidon. And behold, a
woman of Canaan came from that region and cried out to Him, saying,
"Have mercy on me, O Lord, Son of David! My daughter is severely
demon-possessed." But He answered not a word. And His disciples came
and urged Him, saying, "Send her away, for she cries out after us.".
But He answered and said, "I was not sent except to the lost sheep
of the House of Israel." Then she came and worshipped Him saying,
"Lord, Help me!" But He answered and said, " It is not good to take
the children's bread and throw it to the little dogs." And she said,
"True, Lord, yet even the little dogs eat the crumbs which fall from
their masters' table." Then Jesus answered and said to her, "O
woman, great is your faith! Let it be to you as you desire." And her
daughter was healed from that very hour.
[9] Frederick Heese Eaton,
Scandalous Saints, p. 214: Jesus
repeatedly admonished his disciples to love one another, and even to
love their enemies. (John 13:35; Matthew 5:44) Yet when a non-Jewish
woman begged him to heal her daughter, Jesus told her, "It is not
fit to take the children (of Israel's) bread and to cast it to
dogs." (Matthew 15:26) In other words he said, "You non-Jews are
dogs. Why should I do anything for you?" How would you like to have
Jesus call you a dog? Calling people dog who were not Jews is hardly
an expression of love. Jesus was insolent, arrogant and conceited in
calling this woman a dog. So in actual practice, Jesus the Saint was
not so saintly after all. The facts show that Jesus actually hated
those who were not Jews.
Saint Paul
writes, allegedly under inspiration of God, "Jesus Christ the same
yesterday, and today, and for ever." (Hebrew 13:8) So if you were
planning to go to heaven to be with the loving Jesus, and you are
not a Jew, you had better think it over again.
[10]
John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism,
pp. 21, 24: Are we drawn to a Lord who would destroy a herd of pigs
in order to exorcise a demon? Are we impressed when the one we call
Lord curses a fig tree because it did not bear fruit out of
season?...
A literal Bible presents me with far
more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much
less worship. There are passages in the Gospels that portray Jesus
of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical.
[11] Russell, Bertrand,
Why I Am Not A Christian, p. 19: I cannot
myself feel that either in the matter of wisdom or in the manner of
virtue Christ stands quite as high as some other people known to
history. I think I should put Buddha and Socrates above Him in those
respects.