●   Bản rời    

Dê-Su Nói Láo: Ông Ta Chỉ Là Con Người!

Dê-Su Nói Láo: Ông Ta Chỉ Là Con Người!

[Jesus Lied: He Was Only Human]
[Chứng Minh Trong Tân Ước Với Bình Luận Của TCN]

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN139.php

14-Apr-2013

Xin các con chiên Công giáo và Tin Lành, alias Tin Láo, Việt Nam đừng có nổi giận, vì đây chỉ là tên của một cuốn sách mà tôi mượn làm đầu đề của bài viết nghiên cứu Tân Ước của tôi.  Cuốn sách “Jesus Lied: He Was Only Human” của CJ Werleman đã được phổ biến rộng rãi trên thị trường e-Book và trong các tiệm sách. 

Đôi khi tôi dùng từ Công giáo để chiều ý của Lữ Giang, Chu Tất Tiến, Vũ Linh Châu và bày đàn tín đồ “Ca-tô Rô-ma” ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại. Quý vị muốn gọi đạo của quý vị dưới danh xưng nào cũng được, đối với tôi không có vấn đề.  Vấn đề là thực chất cái đạo của quý vị là như thế nào, và quý vị tin, thờ phụng hay tự nhận làm tôi tớ của ai hay của cái gì. 

Trong bài này tôi xin trình bày một vấn đề về tư cách của Chúa Dê-su, người mà quý vị được dạy phải tin vào huyền thoại “cứu rỗi” của ông ta, để sau khi chết, quý vị được ông ta cho lên  thiên đường để có một cuộc sống đời đời trên đó với ông ta.  Chúa  Dê-su đã bị đóng đinh trên cây “thập ác” hay “ác giá” mà quý vị thường gọi là “thánh giá”, và đã chết cách đây 2000 năm.  Tôi gọi là “ác giá” vì một cái giá gỗ dùng để hành hình, không chỉ một mình Dê-su, mà còn hàng ngàn người khác trong lịch sử nhân loại, một cách dã man nhất bằng cách đóng đinh thân xác con người lên trên đó thì không thể gọi là “thánh” được. 

Nếu quý cho rằng tôi mượn tên cuốn sách trên làm đầu đề cho bài viết để phỉ báng, xúc phạm Chúa của quý vị thì quý vị cứ cầu nguyện, xin Chúa hãy trừng phạt tôi bất cứ bằng hình phạt nào.  Chúa của quý vị mà quý vị tin là toàn năng, toàn trí, nên chắc chắn là ông ta biết là tôi viết đúng hay sai về ông ta. Và nếu tôi viết đúng thì Chúa sẽ trừng phạt những kẻ vu khống tôi về tội phỉ báng hay chống Chúa.  Nhưng trước hết, xin quý vị hãy đọc hết bài này trước khi đưa ra một quyết định. 

Nếu trong bài có điều gì sai lầm, hay không đúng sự thực, xin quý vị cứ cho biết, và nếu đúng là sai lầm, tôi sẽ xin cúi đầu tạ lỗi cùng quý vị và rất có thể sẽ “sám hối, trở lại đạo”, bỏ thân phận làm người xuống làm con chiên.  Trước khi đi vào chủ đề, tôi muốn nói qua về các đối tượng thờ phụng của quý vị. Tôi không chống hay phản đối quý vị thờ phụng bất cứ cái gì, nhưng tôi muốn trình bày cho độc giả, qua cuộc nghiên cứu của tôi, đối tượng thờ phụng của quý vị là như thế nào.

Đối tượng thờ phụng của quý vị là như thế nào

Trên thực tế, quý vị thờ phụng hai cha con một ông Thần của người Do Thái mà quý vị gọi là “gót cha” (God the Father) và “gót con” (God the Son), có tên Do Thái là Jehovah và Jesus.  Nhưng thực ra thì quý vị thờ phụng cái gì?  “gót cha” và “gót con” chẳng qua chỉ là những nhân vật trong huyền thoại của dân Do Thái chứ chẳng liên quan gì đến các dân tộc khác, nhất là Việt Nam. 

Trong nhiều thế kỷ Công Giáo giữ địa vị độc tôn ở Âu Châu, có thời quyền hành còn hơn cả vua, chúa.  Vì có toàn quyền sinh sát trong tay, giáo hội Công giáo đã ra tay tàn sát dân lành qua các cuộc gọi là “thánh chiến”, những tòa án xử những người “dị giáo”, nghĩa là những người không chấp nhận đức tin Công giáo, những cuộc săn lùng phù thủy, mang về tra tấn rồi đem đi thiêu sống, những cuộc bách hại người Do Thái,  rồi làm tiên phong hoặc đồng hành với các thế lực thực dân bành trướng trên thế giới, cưỡng bách những người dân bản địa vào đạo.  Thí dụ như ở Nam Mỹ và Phi Châu. 

Giáo hội thất bại ở Á Châu, vì nền văn hóa Á Đông cao hơn văn hóa Ki Tô Giáo rất nhiều, trừ Phi Luật Tân, cũng như Venezuela ở Nam Mỹ, bị Tây Ban Nha chiếm trở thành hầu như toàn tòng phải theo Công giáo.  Giáo hội mang cái huyền thoại về hai cha con “gót” của dân Do Thái, diễn giải lệch lạc theo nền thần học dựa trên những văn kiện ngụy tạo của giáo hội, giáo hội có cả một trường phái ngụy tạo (school of forgery), sửa đổi thêm thắt trong Thánh Kinh của Do Thái, để mê hoặc đám dân ngu dốt ở các nước nhỏ, kém mở mang, ngự trị trên đầu đám dân đáng thương này để củng cố thần quyền và vơ vét tài sản.  Hỏi xem có ai biết “gót” là cái gì không.  Gót chỉ có ở trong đầu con người, do đó ngày nay chúng ta có nhiều định nghĩa về “gót”, tùy theo con người nghĩ về “gót”  như thế nào.  “gót cha” và “gót con” của Ki Tô Giáo nằm trong cuốn gọi là Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước.  Dựa vào những gì viết trong hai cuốn Ước này, các học giả đã khám phá ra rất nhiều điều thú vị, và để lại cho đời nhiều tác phẩm rất có giá trị về hai cha con “gót”. 

  -- Về “gót” cha

Thực tế là quý vị thờ phụng một ông “gót cha” có tên Do Thái là Jehovah, một vị thần mà người Do Thái trong thời bán khai tin rằng ông ta đã “sáng tạo” (sic) ra mọi thứ trong vũ trụ, trong đó có con người, cách đây trên dưới 6000 năm, để giải thích những gì họ chưa có trình độ để hiểu về vũ trụ, nhân sinh. 

Ngày nay, những kết quả bất khả phủ bác của khoa học đã chứng minh là vũ trụ đã thành hình cách đây khoảng 13.7 tỷ năm, và sau đó trái đất mới thành hình cách đây khoảng 4.5 tỷ năm..  Quý vị muốn tin như thế nào là quyền của quý vị, nhưng trong lãnh vực học thuật thì không một người nào có đầu óc còn có thể chấp nhận thuyết Sáng Tạo của Ki Tô Giáo, bất kể quý vị diễn giải thuyết đó ra sao, dưới hình thức nào, khoa học Sáng Tạo hay Thiết Kế thông minh v…v…  Vấn đề chính là Gót của người Do Thái trong Cựu Ước có những thuộc tính rất ác ôn mà không một người nào có đầu óc trong thế giới ngày nay có thể chấp nhận và thờ phụng. 

Tổng Thống Thomas Jefferson của Mỹ, sau khi đọc cuốn “Thánh Kinh”, đã nhận định về ông Gót của Mai-sen là “một nhân vật có tính tình khủng khiếp – độc ác, ưa trả thù, đồng bóng, và bất công” [Thomas Jefferson describes The God of Moses as “a being of terrific character – cruel, vindictive, capricious and unjust].

Và ngày nay, chúng ta hãy đọc nhận định của Giám mục John Shelby Spong:

Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị.  Nó đưa đến cho tôi một Gót  mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.

[John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 24: A literal Bible presents me with far more problems than assets.  It offers me a God I cannot respect, much less worship.]

Đi vào chi tiết hơn, Richard Dawkins đã liệt kê 16 thuộc tính của Gót như sau trong cuốn Ảo Tưởng Về Gót(The God Delusion), ấn bản 2008. 

Không cần phải bàn cãi gì nữa, Gót trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng[megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường.

[The God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously malevolent bully.]

    Đây là một tác phẩm rất đặc biệt, vì trong đó tác giả đã nhận định về “gót”, không chỉ là sản phẩm của những sự yếu kém của con người, không chỉ là những sự mê tín của thời sơ khai, mà còn là một nhân vật đạo đức thấp kém và tàn bạo nhất thế gian, do đó không ai còn có thể tin được những luận điệu thần học lừa dối tín đồ như “gót” toàn năng, nhân từ, quá thương yêu thế gian v…v… 

Và CJ Werleman cũng viết cuốn “Gót thù ghét các người.  Hãy thù ghét lại ông ta” (God hates you.  Hate him back), trong đó tác giả nêu mục đích như sau:   

Mục đích của tôi là mang “gót” trở lại cho quần chúng, nhắc nhở cho họ biết thực sự “gót” là cái gì.  “gót”, như thể hiện trong chính cuốn Kinh Thánh của ông ta, là một tên ưa trả thù, đồng bóng, giết con nít, diệt chủng, tàn nhẫn, diệt dân tộc khác, ghét phái nữ, kẻ hiếp đáp ở trên trời.

(My aim was to bring God back to the people, reminding them of who God really is.  God, as depicted in his own Bible, is a vindictive, capricious, baby killing, genocidal, merciless, ethnic-cleansing, misogynistic, sky-bully)

Ngoài ra chúng ta cũng có thể đọc thêm vài cuốn sách nói về Gót của Ki Tô Giáo như:

- “God Is Not Great: How Religion Poisons Everything”, Twelve Hachette Book, New York, 2007, của Christopher Hitchens [Gót không sáng tạo ra chúng ta.  Chúng ta sáng tạo ra Gót.  Chúng ta làm hại con cháu chúng ta – và làm nguy hại đến thế giới – bằng cách nhồi sọ chúng (God did not make us.  We made God.  We damage our children – and endanger our world – by indoctinating them)]

The Dark Side of God, Element Books, Boston, USA, 1999, của Douglas Lockhart.

- “The Case Against God”, Prometheus Books, New York, 1989, của George H. Smith.

- “Critiques of God: Making The Case Against Belief In God”, Prometheus Books, New York, 1997, do Chủ Biên Peter A. Angeles biên tập.

“God’s Problem: How The Bible Fail To Answer Our Most Important Question – Why We Suffer?”, HarperOne, New York, 2008, của Bart D. Ehrman

Ki tô giáo nói chung có một số tín đồ đông đảo chiếm gần 1/3 dân số trên thế giới, nghĩa là vào khoảng gần hai tỷ người, nhưng không một ai, tôi nhấn mạnh, không một ai dám lên tiếng phản bác những nhận định trên của Tổng Thống Jefferson, Giám Mục Spong và nhà vô thần Richard Dawkins cùng vô số người khác, cũng như không một ai dám truy tố tác giả những tác phẩm trên về tội phỉ báng “gót”, trừ đám con chiên lạc hậu Mít, sợ những sự thật trên Giao Điểm và Sách Hiếm, cho nên chỉ biết chửi rủa chứ không thể đối thoại luận bàn về các chủ đề nghiên cứu trên giaodiemonline và sachhiem.

  -- Về “gót” con

     Quý vị cũng thờ phụng một “gót con”, có tên Do Thái là Dê-su,  thực chất chỉ là một anh thợ mộc Do Thái và bản chất thì không có gì đáng để tôn sùng hay thờ phụng. Thật vậy, Russell Shorto, sau khi tổng kết những nghiên cứu về Dê-su trong Tân Ước của các học giả Tây phương trong vòng 200 năm nay đã viết trong cuốn Sự Thật Của Phúc Âm (Gospel Truth) như sau:

     Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Dê-su chỉ  là huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Dê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng  – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư.  Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.

[Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth… Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger.  So the only ones left in the dark are ordinary Christians.]

Nếu chính Dê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng  thì những người theo đạo Dê-su (Jesusism) sống với một ảo tưởng cũng không phải là chuyện lạ.  Chuyện lạ chính ở chỗ tại sao ngày nay còn có nhiều người sống với các ảo tưởng đó.  Đầu óc của họ thuộc loại đặc biệt, có lẽ không nằm trong quá trình tiến hóa của nhân loại.  Nhưng đọc Tân Ước, chúng ta thấy tư cách của Dê-su còn kém hơn của nhiều người thường.

Thật vậy, Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn Hãy Cứu Cuốn Thánh Kinh Ra Khỏi Phái Bảo Thủ  (Rescuing The Bible From Fundamentalism), trang 21:

“Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Dê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.”

(There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrowed-minded, vindictive, and even hypocritical).

Và Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài Chúng Ta Có Nên Kính Ngưỡng Dê-su Không? (Should We Admire Jesus?):

Nhiều tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân Ước, Dê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.

[Unbeknownst to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.] 

Nhưng không phải chỉ có vậy, vấn đề chính là trong Tân Ước, Dê-su thường hay nói láo bịp người, và khổ thay quý vị lại cứ đặt niềm tin vào những lời nói láo lừa bịp này.  Quý vị có thể mua cuốn e-book “Jesus Lied: He was only Human” của CJ Werleman  trên Amazon.com hoặc mua cuốn sách này trong các tiệm sách lớn.  Nếu quý vị đã đọc cuốn Tân Ước như tôi đã đọc với đầu óc tỉnh táo của một con người chưa bị rửa tội thì quý vị sẽ thấy tác giả Werleman viết không sai một mảy may, là trong Tân Ước Dê-su đã nói láo rất nhiều.

Tôi đã đọc cuốn sách của CJ Werleman từ lâu và thấy không có gì lạ đối với tôi.  Nhưng rất có thể nó rất lạ đối với những người tin Dê-su là Chúa và vì là Chúa nên không thể nói láo.  Tuy nhiên sự thật thường khác với những điều ta tin tưởng, và đối với những người sợ sự thật thì không có cách nào có thể làm cho họ chấp nhận sự thật.

Đưa ra sự thật là xây dựng, không phải là bới móc, bôi nhọ, chống phá, hay gây chia rẽ

Ý nghĩa tích cực của những người nghiên cứu lịch sử, tôn giáo là đưa ra những sự thật về lịch sử và tôn giáo.  Tính cách xây dựng này ít người để ý, và đối với những người không nằm trong lãnh vực nghiên cứu học thuật thì khi họ đọc phải những gì trái với sự hiểu biết của họ, và trong Ki Tô giáo, trái với niềm tin tôn giáo của họ, thì họ có ngay một kết luận hoặc là chống đối, hoặc là bới móc, bôi nhọ tôn giáo của họ, gây chia rẽ tôn giáo.  Những phản ứng này chứng tỏ họ chưa trưởng thành và thiếu tự tin.  Sống trong thế giới tự do này, hầu hết là trong những xã hội Ki-tô theo nghĩa có đa số theo Ki Tô Giáo, không biết đã có bao nhiêu tác phẩm nghiên cứu về mọi mặt của Ki Tô Giáo mà có ai lên án các tác phẩm đó là chống tôn giáo hay moi móc, bôi nhọ, hay chia rẽ tôn giáo. Nhưng đối với dân Mít thì đó lại là những lời kết án phản ánh những đầu óc ngu si lạc hậu chậm tiến.  Tín đồ Ki Tô Giáo cũng quên đi câu của Dê-su “Rồi các người sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ cởi trói cho các ngươi.”  Nhưng sự thật là cái gì?  Sự thật phải là những gì chúng ta thấy chúng đúng là như vậy chứ không phải là chúng ta tin như vậy. 

Do đó, sự thật không phải là “gót cha” đã sáng tạo ra vũ trụ và thế giới cách đây trên dưới 6000 năm.  Sự thật cũng không phải là những lời tự nhận của Dê-su như  John 14: 6: “Ta là con đường, là sự thật, là sự sống” vì đó chỉ là lời nói láo, một trong nhiều lời nói láo khác của Dê-su trong Tân Ước, những lời nói láo mà các tín đồ tin, trong khi không có một bằng chứng nào có thể chứng minh đó là sự thật, và đại đa số con người trên thế giới cũng không thấy đó là sự thật. Trái lại, theo những nghiên cứu nghiêm chỉnh của các học giả Tây phương, xét theo lịch sử và những gì viết trong Tân Ước, thì chúng ta sẽ thấy “con đường” của ông ta là con đường đi tới mê tín, mù lòa tin bướng tin càn, vì tất cả cái gọi là Phúc Âm trong Tân Ước chỉ là mấy câu tầm bậy, nhảm nhí nhất trong Tân Ước: John 3: 16, 18, 36:

“16. Gót quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời”; 18. “Người nào không tin vào Dê-su thì đã bị đầy đọa rồi, vì người đó không tin vào đứa con duy nhất của Gót; 36. Người nào tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì sẽ không thấy được sự sống, mà chỉ có sự phẫn nộ của Gót đè trên kẻ ấy." [For God so loved the world that He gave His only begotten Son, that whoever believes in Him should not perist but have everlasting life;  He who believes in Him is not condemned; but he who does not believe is condemned already, because he has not believed in the name of the only begotten Son of God;  He who believes in the Son has everlasting life; and he who does not believe the Son shall not see life, but the wrath of God abides on him]. 

Tại sao lại là tầm bậy và nhảm nhí nhất Tân ước ?  Vì chỉ có những người sinh sau Dê-su mới bị mê hoặc để biết đến và tin vào Dê-su để không bị luận phạt như lời đe dọa của John 3: 18, và hi vọng có cuộc sống đời đời như lời lừa bịp của John 3: 16,  lẽ dĩ nhiên một cuộc sống đời đời sau khi chết.  Như được viết rõ trong Tân Ước, ngay cả bố mẹ Dê-su là Joseph và Maria, cùng các em trai em gái Dê-su cũng không tin Giê-su là đấng cứu thế, trái lại còn cho là Dê-su có đầu óc bất bình thường (out of his mind), cho nên  chắc chắn là họ đều bị Dê-su luận phạt và đày đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn?  Lịch sử loài người đâu chỉ bắt đầu từ khi Dê-su 30 tuổi. Ấy thế mà vẫn có vô số người tin vào những câu nhảm nhí này.   Hơn 2/3 nhân loại không tin cả bố lẫn con Jehovah, vậy “gót” có thể làm gì được họ, sự phẫn nộ của “gót” có giá trị gì đối với họ.  Nhiều nhất là “gót” mạc khải cho đám con chiên không có đầu óc đi hù dọa thiên hạ về sự trừng phạt của “gót” nhưng người ta chỉ cười và tội nghiệp cho sự ngu dốt của những con chiên cuồng tín..  

Điều hiển nhiên là, trước khi Dê-su sinh ra đời thì nhân loại đã trải qua bao nhiêu thế hệ trong nhiều trăm ngàn năm, trong đó có các thế hệ của tổ tiên, ông bà Dê-su.  Ai biết đến Dê-su? Ai tin Dê-su?  Vậy tất cả cũng đều bị Dê-su luận phạt hay sao?  Trước năm 1533, người Việt Nam không ai nghe và biết đến tên Dê-su, cho nên làm gì có  ai tin Dê-su, vậy tất cả dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm trước năm 1533, trong đó ông bà tổ tiên của những người bị dụ theo Công Giáo, cũng bị luận phạt cả hay sao?  Những người Việt Nam tân tòng Công Giáo có nghĩ đến các điều hoàn toàn vô nghĩa như trên hay không? Điều lạ là mấy cái câu phi thực tế, phi nhân tính, phi lôgic như vậy mà ngày nay vẫn còn có một số bậc lãnh đạo Công giáo ngu ngơ trích dẫn để truyền đạo cho những đầu óc yếu kém.  Thí dụ như Giáo hoàng John Paul II trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, đem hai câu John 3: 16, 18 ra để trả lời trước câu hỏi “Tại sao nhân loại cần được cứu rỗi”,  hoặc LM Ngô Tôn Huấn trong bài “Sự Thưởng Phạt Đời Đời”: [http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=30&ia=8215]

Hiển nhiên là giáo lý “Tin Dê-su thì có cuộc sống đời đời” là một sự bịp bợm phi lý rất trắng trợn, nhưng các bề trên vẫn  mang ra để dụ con người vào một niềm tin thuộc loại mù lòa tin bướng tin càn trong thời đại này về một cái bánh vẽ trên trời thì kể cũng lạ.  Điều lạ hơn nữa là các tín đồ vẫn còn tin theo cái tín lý quái gở đó với một tâm cảnh vô cùng ích kỷ, chỉ nghĩ đến đời sống đời đời sau khi chết của riêng mình, mà không hề nghĩ đến bản chất ác độc, phi lý, phản khoa học, hoang đường, bất khả áp dụng, của sự luận phạt của Giê-su, rất có thể cho ông bà tổ tiên hay các thân nhân không cùng tín ngưỡng với mình.  Không những chỉ ích kỷ mà họ còn để lộ một tinh thần yếu kém, sợ sệt thần linh trong thời đại tiến bộ của khoa học kỹ thuật ngày nay mà quan niệm thần linh khi xưa đã không còn chỗ đứng. 

Trong thời đại mà các thần bình vôi, thần cây đa, thần hà bá v..v.. đã không còn ý nghĩa, tại sao họ vẫn còn có thể tin vào một “gót” của người Do Thái cách đây 2000 năm mà bản chất cũng không khác gì những “gót” trong dân gian trên khắp thế giới, khoan kể là còn độc ác, bất công hơn bất cứ “gót” nào trên thế giới.

Mấy câu John trên cũng cho thấy, trong Công giáo, trí tuệ, đạo đức, yêu người v…v… không phải là những yếu tố để cho tín đồ lên thiên đường, một cái bánh vẽ trên trời, theo từ của Mục sư Ernie Bringas. Đạo đức, trí tuệ cách mấy mà không tin vào “Con của gót” thì cũng bị đày đọa hỏa ngục. Và đó là “con đường” của Dê-su.  “Sự thật” của Giê-su chỉ là những lời nói láo hay hứa hẹn láo mà không bao giờ, ít ra là trong 2000 năm nay, thấy Giê-su thực hiện.  Và “sự sống” của Giê-su là sự chết vì bị đóng đinh chặt tay chân trên cây “ác giá” alias “cây “thập ác”, máu me đầm đìa, chết đứ đừ và chết thật sự, chết trong vô minh, chết trong ảo tưởng,vì ông ta tin mình là con của “gót cha” của người Do Thái, có nhiệm vụ xuống trần để cứu dân Do Thái, cho nên đã hứa hẹn sẽ trở lại trần ngay khi một số tông đồ của ông ta còn sống ( Matthew 16: 27-28),   nhưng nay đã 2000 năm rồi mà vẫn biệt tăm. 

Thật vậy, CJ Werleman đã chứng minh là Dê-su nói láo rất nhiều trong cuốn “Dê-su Nói Láo:  Ông Ta Chỉ Là Người Thường.  Vạch Trần Tân Ước” (Jesus Lied:  He Was Only Human.  Debunking the New Testament).  Tác giả viết:  “Qua từng mạch văn một,  chúng tôi sẽ phá hủy những cơ cấu tạo thành huyền thoại về Dê-su, như là một siêu sao (trong tôn giáo).  Điều này sẽ để lại cho quý vị ba kết luận chung cùng là: 1. Dê-su nói láo; 2. Những người viết tiểu sử Dê-su nói láo; 3. Ki Tô Giáo thực ra được đặt trên nền tảng những chuyện tào lao mà những người có khả năng đặt ra” (Thread by thread, we will destroy the fabric that is the myth of Jesus Christ, Superstar.  This will leave you with three ultimate conclusions, that 1.  Jesus lied; 2 Jesus’ biographers lied; 3.  Christianity is actually founded on talented horse-crappery) và ông ta đã chứng minh rõ ràng từ những đoạn trích trong Tân Ước.

Cuốn “Dê-su Nói Láo: Ông Ta Chỉ Là Con Người” không chỉ phanh phui ra những sự mâu thuẫn về thần học và những câu chuyện kể của các tác giả Tân Ước, mà còn khảo sát kỹ càng về nguồn gốc Ki Tô Giáo, về những tác giả viết Tân ước, về sự đồi bại của những nhà lập giáo và cuốn Thánh Kinh để tạo đức tin, và về tất cả đã góp lại với nhau như thế nào: cấu trúc của huyền thoại được vạch trần cho mọi người cùng thấy.  

[‘Jesus Lied. He Was Only Human’ uncovers not only the theological and narrative contradictions of the New Testament authors, it makes a thorough examination of the origins of Christianity, the authorship of the New Testament, the corruption of the faith’s founders and manuscript scribes, and how all pieced together, the myth construction is exposed for all to see.]

 

Trong bài viết này, tôi chỉ mượn tên cuốn sách của CJ Werleman làm đầu đề cho bài viết, tập trung vào điểm “Dê-su Nói Láo” chứ không có mục đích đi vào nội dung cuốn “Jesu Lied…” của CJ Werleman.  Tôi không chống bất cứ ai chỉ vì họ tin vào hai cha con của một “gót” như trên, vì quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, kể cả tự do mê tín là quyền của con người.  Nhưng trong thế giới tự do này thì quyền nghiên cứu tôn giáo cũng là một quyền bất khả khoan nhượng. 

Không nên cho rằng những cuốn sách thuộc loại trên, đây chỉ là hai cuốn điển hình, ngoài ra còn có nhiều cuốn khác, là chống Ki Tô Giáo.  Các tác giả trên nghiên cứu Thánh Kinh và phân tích viết ra sự thật, chỉ là sự thật, không có gì ngoài sự thật.  Nếu họ không viết ra sự thật, mục đích viết là để xuyên tạc, phỉ báng một tôn giáo chủ đạo trong các xã hội Ki-tô Âu Mỹ thì thử hỏi làm sao các tác giả đó có thể sống được, và làm sao mà sách của họ lại được tự do phổ biến và thuộc loại “bán chạy nhất” (best sellers).  

Tôi biết các con chiên Việt Nam không dám đọc những loại sách này, một phần vì họ bị các bề trên tẩy não, hù dọa là đọc những sách mà giáo hội không muốn cho tín đồ đọc thì sẽ bị vạ tuyệt thông, phải xuống hỏa ngục, và một phần vì họ rất sợ sự thật, dù rằng Chúa của họ bảo họ phải biết sự thật để tự mình giải thoát.  Chúng ta có thể đọc trên bìa ngoài của cuốn  “Dê-su Nói Láo:  Ông Ta Chỉ Là Người Thường.  Vạch Trần Tân Ước” lời cảnh báo như sau:  “nội dung có thể có hại cho đức tin” [Warning: explicit content harmful to faith].  Cũng may là tôi không có đức tin của Ki Tô Giáo nên tôi đọc những cuốn sách này rất thoải mái.  Và để giúp người Việt nào chưa đọc, tôi đã để tâm nghiên cứu phối kiểm xem những gì các tác giả trên viết có đúng hay không, rồi trình bày lại kết quả để phục vụ cho đồng bào Công giáo thân mến của tôi, giúp cho họ biết những sự thật về chính tôn giáo hay Chúa của họ. 

Tôi tình nguyện hiến thân làm công việc giúp các tín đồ Ki Tô Giáo Việt Nam cũng như những người ngoại đạo biết rõ về Ki Tô Giáo, về Dê-su v…v…, và không truy cầu bất cứ điều gì.  Phần thưởng tinh thần của tôi là, đối diện với sự thật, hi vọng đầu óc các tín đồ còn mê muội mở mang ra được chút  nào chăng. Đây là công việc nghiên cứu trí thức, không liên quan gì đến việc chống hay ủng hộ Công giáo hay Tin Láo. 

Làm công việc này, thực sự tôi đã đi sau các trí thức Tây phương cả thế kỷ.  Không phải “lỗi tại tôi mọi đàng” mà vì hoàn cảnh khắc nghiệt của đất nước trong thế kỷ qua nên người Việt không có tài liệu và cơ hội để dấn thân vào việc nghiên cứu trí thức về lịch sử tôn giáo trên thế giới, nhất là về một tôn giáo đã gây tác hại không ít cho đất nước như trong thời thực dân Pháp xâm chiếm đất nước, và dưới thời Ngô Đình Diệm và sau đó ở miền Nam..  Lẽ dĩ nhiên, làm công việc nghiên cứu trí thức này, tôi ý thức được phản ứng của những kẻ cuồng tín tôn giáo.  Họ được nhào nặn để sống trong những sự dối trá nên rất sợ sự thật.  Họ sống trong bóng tối nên rất sợ ánh sáng.  Cho nên chúng ta thấy họ tuyệt đối không dám phê bình những luận điểm trong những bài thuộc loại nghiên cứu tôn giáo đăng trên sachhiem.net hoặc giaodiemonline.com.

Hạ sách của họ là dùng những danh từ thiếu giáo dục để mạ lỵ các tác giả mà họ không ưa, và dùng cái mũ CS để chụp lên đầu những người này.  Nhưng càng làm như vậy thì họ càng chứng tỏ họ thuộc hạng người hạ cấp, vô văn hóa, vô giáo dục, và ngu, vì cái mũ CS nay đâu còn giá trị gì nữa, có chăng chỉ có giá trị gây thù hận trong thiểu thiểu số đám người nô lệ, cuồng tín tôn giáo.  Họ tưởng làm như vậy là để bênh vực “gót cha” và “gót con” của họ, nhưng họ không ý thức được rằng những hạ sách họ dùng càng chứng tỏ thực chất đạo đức, giáo dục gia đình và tôn giáo của các con chiên trong cái đạo gọi là đạo Chúa, và như vậy trên thực tế, họ đã kéo Chúa của họ xuống bùn.  Nhưng biết làm sao được, căn trí của họ chỉ ở mức đó mà thôi.

Bây giờ chúng ta thử đọc Tân ước xem có phải đích thực là Dê-su nói láo ở trong đó hay không.  Tất cả những đoạn sau đây đều trích dẫn nguyên văn từ cuốn Tân Ước.  Những ai còn nghi ngờ xin hãy có cuốn Tân Ước ở trước mặt để kiểm chứng.  Tôi dùng những cuốn Kinh như Kinh Thánh: Cựu Ước Và Tân ước, Hội Quốc Tế Xuất Bản, 1994; Holy Bible: The New King James Version, American Bible Society, New York, 1982; Holy Bible: New International Version, International Bible Society, Colorado Springs, 1984, và Tân Ước trên http://giaoly.org/tk.htm tuy trang nhà này dịch sai nhiều, tôi sẽ dịch lại khi cần. 

Giê-su nói láo rất nhiều trong Tân ước, không làm sao có thể nêu ra hết được.  Ở đây tôi chỉ thu gọn những lời nói láo của Giê-su trong ba mục:

1)  Giê-su nói láo về đức tin;

2)  Giê-su hứa hẹn láo về ngày trở lại trần; và

3) Giê-su nói láo về ngày tận thế hay ngày cánh chung.

1) LÁO I: Giê-su Nói Láo Về Đức Tin

Matthew 21, 18-22:

   Sáng sớm, khi trở vào thành, Ngài cảm thấy đói. Trông thấy cây vả bên đường.  Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi.  Nên Người nói: “Từ nay, không bao giờ mày có trái nữa!”  Cây vả chết khô ngay lập tức.  Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: “Sao cây vả lại chết ngay lập tức như thế?” 

Giê-su trả lời và nói với họ: "Ta bảo thật các người, nếu các người có đức tin và không chút nghi ngờ, thì không những các người làm được điều Ta vừa làm cho cây vả, mà nếu các người nói với núi này: "Hãy dời chỗ đi, nhào xuống biển! ", thì sự việc cũng sẽ xảy ra như thế. “Và mọi điều mà các người xin trong cầu nguyện, tin, thì các người sẽ được”

[So Jesus answered and said to them, "Assuredly, I say to you, if you have faith and do not doubt, you will not only do what was done to the fig tree, but also if you say to this mountain, `Be removed and be cast into the sea,' it will be done.  "And all things, whatever you ask in prayer, believing, you will receive." (Matthew 21:21-22 KJV)

Rõ ràng là Dê-su nói láo và bịp, vì 2000 năm nay rồi có ai thấy một người Công giáo nào có thể nguyền rủa một cái cây cho nó chết héo queo ngay, hay bảo được một trái núi dời chỗ và nhào xuống biển.  Chẳng có lẽ, hơn 1 tỷ tín đồ, từ giáo hoàng là “đại diện của chúa” xuống tới các linh mục là “Chúa thứ hai” đến các con chiên Mít nổi tiếng là cuồng tín nhất, không có ai đủ đức tin và luôn luôn nghi ngờ.  LM Vũ Đức tự nhận là “Chúa thứ hai”, Lữ Giang, Chu Tất Tiến, Vũ Linh Châu, Bà đốc Thanh, Hà Tiến Nhất v…v…và v…v… đâu, xin thử thực hiện lời Chúa cho bàn dân thiên hạ coi chơi nào.  Không làm được có phải không?  Điều này chứng tỏ mấy người chỉ nói trên bờ môi chót lưỡi là tin Chúa, chứ thực ra mấy người đâu có tin.  Mấy người chỉ tin những gì các bề trên bảo các người tin, và toàn là những lời dối trá bịp bợm.  Có ai xin trong cầu nguyện mà được cái gì?  Tài Liệu Vatican II Với  Những Ghi Chú,  Bình Luận của Những Giới Chức Có  Thẩm Quyền  Công giáo,  Tin  Lành  và  Chính  Thống Giáo (The Documents of Vatican II: With Notes and Comments   by   Catholic,   Protestant   and    Orthodox Authorities) , Walter M. Abbott làm Tổng Biên Tập (General Editor) viết:

"Trong nhiều thập niên, mỗi năm vào tháng Giêng, Công giáo La Mã để ra 8 ngày để cầu nguyện cho sự thống nhất giáo hội.  Cho đến năm 1959, ý tưởng chính trong những ngày đó, từ 18 đến 25 tháng Giêng, là hi vọng giáo dân Tin Lành sẽ "trở lại" giáo hội chân thật duy nhất (nghĩa là Công giáo La Mã) và Chính Thống Giáo sẽ dẹp tiệm.

(Each year in January, for many decades, Roman Catholics  have offered  eight days of  prayer for Church unity.  Until 1959, the general idea behind those days of prayer, January 18-25,  was the hope that the Protestants would "return" to the one true Church, and that the Orthodox schism would end.)

Vậy cả giáo hội cầu nguyện trong nhiều thập niên có được cái gì không.  Chính Thống vẫn là Chính Thống và tồn tại, Tin Lành vẫn là Tin Lành, và còn phát triển ở Nam Mỹ khiến cho giáo dân Công giáo bỏ đạo hàng loạt đến độ giáo hoàng John Paul II phải dùng ngôn từ đặc biệt của giáo hoàng Công giáo, gọi những nhà truyền giáo là “những con chó sói đói mồi, đến gây bất hòa và chia rẽ trong những cộng đồng của chúng ta” (Newsweek, Feb. 12, 1996:  John Paul II denounces them (the Protestant missionaries) as ravenous wolves...causing discord and division in our communities.).  John Paul II không chịu sờ lên gáy vì suốt trong 2000 năm lịch sử, Công giáo đi đến đâu cũng gây ra những cảnh như vậy, nhất là ở Việt Nam, Công giáo đã đưa đến cảnh thù nghịch giữa Lương (tốt) và Giáo (gian, xấu, vì làm tay sai cho thực dân Pháp) như Linh mục Lương kim Định đã nhận định.

Ngôn từ của một giáo hoàng như vậy cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy con chiên Mít của Ngài chỉ thích chửi rủa những người họ không đồng ý.

TGM Ngô Quang Kiệt huy động hàng ngàn con chiên Mít thắp nến cầu nguyện với búa, kìm, xà beng, và tượng Maria, cây thập ác v..v.. ở Thái Hà để đòi lại mảnh đất Tòa Khâm Sứ có được cái gì không?  Có người ngụy biện, vì xin không đúng cách hay xin cho những lợi ích cá nhân nên không có hiệu quả.  Nhưng Dê-su đâu có bảo phải xin như thế nào?  Cứ xin thì sẽ được, và xin bất cứ điều gì..   Chứng minh?

Matthew 7:7-8:  "Cứ xin thì các người sẽ được, cứ tìm kiếm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì cửa sẽ mở. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở ra cho. “

(Ask, and it will be given to you; seek, and you will find; knock, and it will be opened to you.  For everyone who asks, receives; and he who seeks, finds; and to him who knocks, it will be opened.) 

Matthew 18:19-20: "Lại nữa, Ta bảo các người là nếu trên trái đất này nếu hai người cùng xin bất cứ điều gì, thì Cha Ta ở trên trời sẽ cho họ.  Vì ở đâu mà có hai hay ba người họp lại với nhau nhân danh Ta, thì có Ta ở cùng với họ." (Again I say to you that if two of you agree on earth concerning anything that they ask, it will be done for them by My Father in heaven.  For where two or three are gathered together in My name, I am there in the midst of them.)

Những lời nói láo của Giê-su ở trên được nhắc đi nhắc lại trong cả 4 Phúc Âm: Mark 11:22-24; Luke 11:9-13; John 14:13-14.

Dê-su cũng từng hứa hẹn láo như sau, khiến cho đã có nhiều người bị chết vì cầm rắn độc trong nhà thờ để chứng tỏ đức tin của mình:

Mark 16: 17-18: “Và những dấu lạ này sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn độc, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao; họ sẽ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này sẽ được khỏi bệnh"

(And these signs will follow those who believe:  In my Name they will cast out demons; they will speak with new tongues; they will take up serpents; and if they drink anything deadly, it will be by no means hurt them; they will lay hands on the sick, and they will recover.)

Có quý vị nào muốn thử nghiệm đức tin của mình không.  Tôi sẵn sàng hi sinh bỏ ra chút tiền mua một ít thuốc chuột để cho quý vị dùng thử, hay là quý vị thử nói vài tiếng lạ như tiếng Congo, tiếng Kenya, Bolivia v..v… cho thiên hạ nghe chơi. Nếu quý vị làm không được thì quý vị chưa đủ đức tin, và chưa đủ đức tin thì con đường đi xuống hỏa ngục Chúa đã mở sẵn cho quý vị.  Quý vị cứ gõ cửa, cửa hỏa ngục sẽ mở ngay, đúng như lời Chúa hứa.

2) LÁO II: Giê-su Hứa Hão

    Đọc Tân Ước, chúng ta thấy rõ là Giê-su tin rằng mình sẽ trở lại trần gian trong một tương lai rất gần, ngay trong thời điểm của Giê-su, để thiết lập “nước trời” trên thế gian, dưới quyền cai trị của Cha ông ta, phù hợp với điều mong ước của dân Do Thái về một “nước thiên đường” tràn đầy sữa mật, nghĩa là một Jerusalem mới, mà mấy con chiên Mít đặc gọi là “Nước cha trị đến”.. 

 Matthew 16: 27-28:  “Vì Con của Người (Giê-su) sẽ tới với các thiên sứ trong vinh quang của Cha hắn, và rồi hắn sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm.  Ta quả quyết với cá ngươi là,  một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy Con của Người vào trong vương quốc của hắn”. (For the Son of Man will come in the glory of His Father with His angels, and then He will reward each according to his works. Assuredly, I say to you, there are some standing here who shall not taste death till they see the Son of Man coming in his kingdom.)

Matthew 24:34: “Ta quả quyết nói cho các ngươi, thế hệ này chưa qua đi thì các biến cố ấy đã xảy ra rồi” (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled)

Mark 9: 1: “Ta cho các ngươi biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập với uy quyền vĩ đại”  (And He said to them, “Assuredly, I say to you that there are some standing here who will not taste death till they see the kingdom of God present with power.”)

Mark 13:30:  “Ta quả quyết, thế hệ này chưa qua đi thì các biến cố đó (các biến cố xung quanh ngày tận thế và sự trở lại của Giê-su. TCN) đã xảy ra rồi”. (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things take place.)

Luke 21: 27, 32: “Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ này chưa qua đi, các biến cố ấy đã xảy ra rồi”. (Then they will see  the Son of Man coming in a cloud with power and great glory.. Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled.)

John 14: 3: “Và nếu Ta đi chuẩn bị một chỗ cho các ngươi, Ta sẽ trở lại tới và đón các ngươi về với ta; để Ta ở đâu thì các ngươi cũng có thể ở đó.” (And if I go and prepare a place for you, I will come again and receive you to myself; that where I am, there you may be also).

Chúng ta thấy, trong cả 4 Phúc Âm: Matthew, Mark, Luke và John, Dê-su đều nói chắc chắn là ông ta sẽ trở lại trong một ngày rất gần, khi mà thế hệ của ông ta chưa qua, và vài đệ tử của ông còn sống.  Nhưng điều chắc chắn của Dê-su thì lại chẳng chắc chút nào, vì điều này đã không hề xảy ra, chứng tỏ rằng Dê-su nói láo để bịp những người theo ông ta trong thời mà tuyệt đại đa số người dân Do Thái thất học và cả tin.  Phân tích sự việc nhiều học giả cho rằng Dê-su bị bệnh tâm thần, mắc bệnh chứng hoang tưởng (paranoia), vì bản thân có một lý lịch không mấy tốt đẹp (là đứa con hoang), và một tâm cảnh cuồng tín tôn giáo khi đọc và tuyệt đối tin những điều trong Cựu Ước, do đó sinh ra nhiều ảo giác và tự cho mình chính là “con duy nhất của Gót”, “có nhiệm vụ chuộc tội cho dân Do Thái”, “là đấng cứu tinh của dân Do Thái”, “sẽ trở lại trần phán xét kẻ sống cũng như kẻ chết” v..v.. như nhiều nhà phân tâm học, điển hình là các Bác sĩ phân tâm Albert Schweitzer,  George de Loosten, William Hirsch, và Binet-Sanglé, và Tiến sĩ Emil Rasmussen đã chứng minh.  Tóm tắt những khảo cứu về tâm bệnh của Giê-su như trên đã được trình bày trong [http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/Giesu/Giesulaai.php.] với nhiều chi tiết hơn.

Nói tóm lại, những lời hứa hẹn của Dê-su về ngày trở lại của ông ta chỉ là hứa hão, sai lầm.  Nếu Dê-su sai lầm về điều này cũng như nhiều điều khác rải rác trong Tân Ước, thì có gì bảo đảm là những lời hứa hẹn khác của ông ta về vai trò cứu thế, về quyền phán xét người sống cũng như người chết v..v.. là đúng.  Nếu chính những lời của Dê-su không có gì để đảm bảo là đúng, thì những gì mà các giáo hội Ki Tô Giáo giảng dạy về Dê-su chẳng qua chỉ là những luận điệu thần học để dụ dỗ con người vào vòng mê tín, một vũ khí để giới giáo sĩ ngự trị trên đám tín đồ thấp kém.  Giáo điều Công Giáo Rô-ma và Tin Láo đã chứng tỏ như vậy.  Một số không nhỏ các Giáo hoàng, Hồng Y, Tổng Giám mục, Giám mục, Linh Mục Công giáo, Mục sư Tin Láo phạm đủ thứ tội ác, kể cả giết người, loạn luân, loạn dâm v..v.. nhưng vẫn tự nhận là “đức thánh cha”, là “đại diện của Giê-su”, là “Chúa thứ hai”,  là “người có nhiệm vụ đi rao giảng Tin Lành (sic) của Chúa”, có quyền cho hay không cho tín đồ hiệp thông với Chúa, có quyền tha tội cho con chiên v..v..  Sau khi xưng thú 7 núi tội lỗi trước thế giới, Giáo hội Công giáo  Rô-ma vẫn tự nhận là công cụ duy nhất để đưa “cả thế giới” đến “cứu rỗi”.  Chỉ tội nghiệp cho đám tín đồ thấp kém, nhẹ dạ cả tin, ngờ nghệch, tiếp tục tin vào quyền năng tự tạo của Giáo hội và vào một cái bánh vẽ trên trời.  Dê-su hứa sẽ trở lại ngay trong thế hệ của ông ta, nhưng đã 2000 năm ông ta vẫn biệt tăm, và các con chiên vẫn cứ kiên nhẫn, hết đời này đến đời khác, chờ ngày ông ta trở lại để cho họ lên thiên đường (mù).  Ngày mà Dê-su hứa sẽ trở lại là “ngày tận thế” hay “ngày cánh chung”, nghĩa là ngày mà Dê-su trở lại để phán xét người chết cũng như người sống, theo như luận điệu thần học tầm bậy của Giáo hội.. 2000 năm qua, ông ta không trở lại, bao nhiêu thế hệ chờ đợi và chết đi trong thất vọng, hậu quả của một ảo vọng. Cái ngày này được mô tả kỹ với nhiều chi tiết trong Sách Khải Huyền ở cuối Tân Ước, và đáng lẽ đã xảy ra như sách khải Huyền viết là “sắp xảy ra” ngay trong thời đó.  Vậy thì chúng ta hãy bước sang những lời nói láo vĩ đại của Dê-su  trong Sách Khải Huyền.

LÁO III: Dê-Su Nói Láo Về Ngày Tận Thế

Trước hết, xin nói qua về Sách Khải Huyền.  Sau khi đọc xong Sách Khải Huyền, Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson nhận định một cách rất chính xác như sau: “Sách Khải Huyền là những lời nói dốt nát của một kẻ điên khùng”   [President Thomas Jefferson referred to the Book of Revelation as “the ravings of a maniac”, West County Times, California, USA, Editor Steven Morris, 14 August, 1995]. 

Kẻ điên khùng dốt nát này là ai?  Kinh Thánh viết rõ tên sách Khải Huyền: “The Revelation of Jesus Christ”, có nghĩa là “Khải thị của Dê-su Ki Tô”, và câu đầu trong sách Khải Huyền viết rõ: “Rev. 1: 1: The Revelation of Jesus Christ, which God gave Him to show to His servants – things which must soon take place, He made it known by sending his angel to his servant John....” [TCN tạm dịch: Lời khải thị, hay mạc khải, của Dê-su Ki-tô mà Chúa Cha đã ban cho ông ta để tỏ cho các tôi tớ của ông ta thấy những điều sắp phải xảy ra.  Dê-su tỏ điều khải thị này (cho các tôi tớ) bằng cách sai thiên sứ của ông ta đến với kẻ tôi tớ của ông ta là John (Gio-an hay Giăng)...].

Chúng ta thấy, trong đạo Dê-su không có tín đồ mà chỉ toàn là những người rất hãnh diện được làm tôi tớ và tỳ nữ của Dê-su. Vậy theo nhận định của Tổng Thống Jefferson và theo khẳng định ở đầu sách Khải Huyền thì Dê-su chính là kẻ dốt nát, điên khùng. Nếu Dê-su dốt nát điên khùng, thì chuyện những tôi tớ của ông ta, thí dụ như các linh mục, mục sư không phải là người Do Thái, cũng như các tín đồ, hoặc tân tòng Công giáo, hoặc tân tòng Tin Láo, còn dốt nát điên khùng hơn ông ta không phải là chuyện lạ.  Bởi vì Kinh Thánh viết rõ, Matthew 10:24, Dê-su phán: “Tôi tớ không hơn được chủ” (a servant is not above his master).  Chúng ta nên hiểu, dốt nát điên khùng ở đây là nói về phương diện hiểu biết trí thức chứ không phải về vấn đề tín ngưỡng, một quyền căn bản của con người.  Đọc một số những bài viết của các con chiên Công giáo như Lữ Giang, Chu Tất Tiến, Vũ Linh Châu, Hà Tiến Nhất v…v… và các tân tòng Tin Láo như Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng, Nguyễn Huệ Nhật, Khuất Minh, Phan Như Ngọc, Trần Long v..v.., chúng ta thấy rõ là sự hiểu biết của họ về chính tôn giáo của họ đúng là dốt nát, điên điên, khùng khùng.

Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ thế nào là “khải thị” hay “mạc khải” (revelation).  Trong Ki- tô Giáo, khải thị có nghĩa là “tiết lộ bí mật” (disclosure), những lời mà “gót” trực tiếp tiết lộ với con người. Điều kiện cần và đủ để tin vào những lời “khải thị” này là trước hết chúng ta phải tin là đích thực có một “gót”.  Phiền một nỗi, trong mấy ngàn năm nay, không một nhà thần học nào có thể đưa ra một luận cứ có thể thuyết phục người đời là đích thực có một ông “gót”, lẽ dĩ nhiên là “gót” của Ki Tô Giáo.  Trên thực tế, “gót”  chỉ có trong đầu của những người thực sự không biết “gót” là cái gì.  Nhưng chúng ta hãy bỏ qua việc thảo luận về sự hiện hữu hay không hiện hữu của “gót” của Ki Tô Giáo, và tạm chấp nhận sách Khải Huyền chính là những lời mạc khải của Dê-su Ki-tô cho người tôi tớ John.

Về vấn đề “mạc khải”, trong cuốn Thời Đại Lý Trí, Thomas Paine có cho chúng ta biết thế nào là ý nghĩa đích thực của từ “mạc khải”, đại khái như sau.  Mạc khải là lời “tiết lộ bí mật”  trực tiếp của “gót”  (giả thử là có “gót”) cho người nào đó.  Nhưng đó chỉ là những lời “mạc khải” đối với cá nhân đó.  Khi cá nhân đó tuyên bố đó là những lời “mạc khải” của “gót”  thì đối với chúng ta không còn là “mạc khải” nữa, vì cá nhân đó có thể mắc bệnh hoang tưởng, hay cố tình lừa dối, hay nói láo. Thí dụ như những trường hợp của Jim Jones, David Koresh, Rick Warren và vô số trường hợp khác mà chúng ta thường thấy trong những màn truyền đạo trên TV.  Cho nên chúng ta không cần phải tin đó là những lời mạc khải của “gót”.  Trong cuốn Những Sai Lầm Của Môi-Se (The Mistakes of Moses), Robert G. Ingersoll,  nhà tư tưởng tự do vĩ đại nhất của Mỹ vào cuối thế kỷ 19 đã viết:

“Người ta bảo tôi rằng cuốn sách đó (cuốn Kinh Thánh) là những lời mạc khải của Gót.  Tôi cóc cần biết là nó có phải là được mạc khải hay không.  Vấn đề là trong đó viết có đúng hay không.  Nếu đúng thì không cần phải được mạc khải.  Không có gì  cần đến sự mạc khải trừ phi đó một sự giả dối hay một sự sai lầm.

(Robert G. Ingersoll, The Mistakes of Moses:  Now they say that this book (the Holy Bible) is inspired.  I don’t care whether it is or not; the question is, Is it true?  If it is true it doesn’t need  to be inspired.  Nothing needs inspiration except a falsehood or a mistake.)

Thật vậy, vì là giả tạo, bịa đặt, hoang tưởng hoặc sai lầm, nên người ta đã lôi “gót”  ra làm con ngoáo ộp để dọa những kẻ đầu óc yếu kém với tâm cảnh luôn luôn ở trong tình trạng sợ hãi Gót, phải tin đó là những lời của “gót”. Đã là của Gót thì không thể sai lầm, và không tin thì không được lên thiên đường.  Đây là xảo thuật của giới giáo sĩ lừa dối đám tín đồ thấp kém, vì ngày nay đa số nghiên cứu của các học giả chuyên gia về tôn giáo, cộng với thực tế, đã chứng tỏ rằng sách Khải Huyền, nói về “Ngày Tận Thế”, là để cho những đầu óc thuộc loại “không có đầu óc” tin, và cũng chính vì vậy mà trên thế gian này đã xẩy ra bao nhiêu thảm trạng bắt nguồn từ niềm tin nhảm nhí này.  

Nhưng ngày nay, trước những khám phá của khoa học về vũ trụ và con người, thuyết “sáng tạo” như được viết trong cuốn Kinh Thánh đã chứng tỏ đó chỉ là một sản phẩm dẫn xuất từ những sự mê tín trong thời bán khai (a product derived from primitive superstitions),  cho nên “ngày tận thế” trở thành sự hoang tưởng dốt nát của một kẻ điên khùng, đúng như Tổng thống Thomas Jefferson đã nhận định.  Thật vậy, từ chính Dê-su, và sau Dê-su, đã có biết bao các nhà tiên tri thuộc truyền thống Do-Thái – Ki- tô (kể cả Hồi Giáo), tin vào Kinh Thánh, tiên đoán là ngày tận thế đã gần kề, nhưng tất cả đều trật lất.  Chính Chúa đã trật thì tôi tớ của Chúa làm sao mà trúng cho được. Đọc những sách tiên đoán về ngày tận thế, chúng ta thấy có cả trăm vụ khác nhau.  Tất cả các vụ này đều có một đặc tính chung: đó là tiên đoán bậy, trật lất.  Tại sao?  Vì tất cả đều dựa trên một niềm tin nhảm nhí, mù lòa tin bướng tin càn. Điều này chúng ta thấy rõ là mỗi lần có tiên đoán về ngày tận thế thì chúng ta lại thấy sự mê tín và cuồng tín cùng cực của các tín đồ Ki Tô Giáo, nhất là tín đồ Tin Láo. [http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN45.php]

Trước hết, chúng ta hãy đọc đoạn tóm tắt nội dung Sách Khải Huyền, nguyên văn như sau, trong cuốn : Holy Bible, New International Version:  

“Sách Khải Huyền là loại sách duy nhất trong Tân ước. Đó là cuốn sách nói về ngày tận cùng của thế giới hiện nay và sự bắt đầu của “một thiên đường mới và một trái đất mới.”  [Trái đất chỉ là một mảnh văng ra từ mặt trời và trải qua trên 4 tỷ năm mới có tình trạng ngày nay.  Một trái đất mới mà không có một mặt trời mới là chuyện của những người thuộc thời bán khai]  Sách Khải Huyền được viết bởi tông đồ John trong khi đang bị đi đày ở đảo Patmos.  Khi John đang ở đó thì Dê-su [đã chết và táng xác trước đó ít ra là 30 năm] ban cho ông ta một viễn kiến về những gì sắp sửa xảy ra trong tương lai.  John viết cuốn sách này để cho những tín đồ Ki Tô đang bị bạo hành tin tưởng rằng Thiên Chúa kiểm soát tất cả mọi sự xảy ra trên trái đất này. [Nếu vậy thì tại sao Thiên Chúa lại để cho những tín đồ của Thiên Chúa bị bạo hành?  Ngoài ra, phải chăng tất cả những bệnh tật, những sự xấu ác, những sự tàn bạo v..v.. xảy ra trên trái đất này đều là “tác phẩm” của Thiên Chúa cả?  Thực tế cho thấy  Thiên Chúa chẳng kiểm soát được cái gì xảy ra trên trái đất này cả, nhất là kiểm soát được trang nhà Giao Điểm, hay Sách Hiếm,  hay TCN đang viết bài này.]  Viễn kiến [hay ảo tưởng?] của John chứng tỏ Dê-su là người nắm quyền ngự trị trên mọi người và trên mọi thứ trên trái đất - ngay cả những chính phủ mạnh của con người -  [Thật vậy hay sao??  Thực tế cho thấy Dê-su chỉ có thể ngự trị trong những đầu óc thiếu oxy của các tín đồ.  Trong vụ án Nguyễn Văn Lý vừa qua, một Chúa thứ hai chửi bậy trong Tòa, có một người đã đưa ra một nhận xét rất thú vị về cái gọi là “Chúa nắm quyền ngự trị ngay cả những chính phủ mạnh của con người” như sau: “Ông Marx đã bịt miệng Chúa” ] và ông ta sẽ phán xét và trừng phạt tất cả những gì xấu ác.  Nó cũng cho các tín đồ Ki Tô một hình ảnh của thiên đường [mù, theo John Paul II], nơi mà chúng ta sẽ ở cùng Dê-su.”

[Holy Bible, New International Version: Revelation is the only book of this kind in the New Testament.  It is a book about the end of this present world and the beginning of “a new heaven and a new earth.”  The book of Revelation was written by the apostle John during his exile on the island of Patmos.  While John was there, Jesus gave him a vision of what would happen in the near future.  John wrote this book so Christians who were being persecuted would trust that God controls whatever happens here on earth.  John’s vision shows that Jesus is the ruler over everyone and everything – even powerful human governments – and he will judge and punish whatever is evil.  It also gives Christians a picture of heaven, where we will be with Jesus.]

Trước hết chúng ta hãy đọc một lời nói láo về quyền năng của Dê-su:

Khải Huyền 2: 26-27: Người nào thắng và giữ các việc của Ta cho đến cùng, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các quốc gia: Người ấy sẽ dùng roi sắt mà cai trị chúng, sẽ nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm. Đó là quyền mà chính Ta đã được Cha Ta trao cho.

[Revelation 2:26-27: He who overcomes and does my works to the end, I will give power over the nations. He will rule them with a rod of iron: he will dash them to pieces like pottery, just as I have received authority from my Father.}

Ai đọc những đoạn mê sảng trên về “quyền năng Thiên Chúa” của Ki Tô Giáo mà không lắc đầu thương hại, tội nghiệp cho những người tin nhảm tin nhí vào những chuyện không tưởng thì người đó là người vô cảm. Sau đây chúng ta hãy đi vào vài đoạn điển hình trong sách Khải Huyền để thấy những lời “khải thị” của Dê-su cho tôi tớ John và của chính John láo đến mức nào. Nếu những lời sau đây không phải là mê sảng và láo khoét thì ở trên cõi đời này không có cái gì có thể gọi là mê sảng, láo khoét.

Những lời “khải thị” láo của Dê-su cho tôi tớ John và của chính John

Chúng ta hãy nghe “thánh John” kể lại, Khải Thị 1 : 10-16, và nên nhớ rằng thánh John khi đó đang...bị đi đày ở đảo Patmos:

“...Tôi được linh cảm và nghe có tiếng gọi sau lưng vang dội như tiếng kèn đồng (trumpet):  Hãy ghi chép những điều con thấy và gửi cho 7 hội thánh tại.....

Quay lại xem ai vừa nói, tôi thấy 7 giá đèn bằng vàng.  Giữa các giá đèn có ai giống như Chúa Dê-su [xin nhớ là Dê-su đã chết và táng xác trước đó ít ra là 30 năm], mặc áo dài, ngực thắt đai vàng.  Tóc ngài trắng như lông chiên, như tuyết, mắt sáng như ngọn lửa, chân như đồng sáng loáng trong lò, tiếng nói vang ầm như thác đổ.  Tay phải ngài cầm “7 ngôi sao”, “miệng có thanh gươm hai lưỡi sắc bén”, mặt sáng rực như mặt trời chói lọi giữa trưa...”

[Đây là hình ảnh của Chúa mà các tín đồ hi vọng sau khi chết được có cuộc sống đời đời với ông ta trên thiên đường.  Mặt khác, mặt trời cũng chỉ là một ngôi sao nhỏ, đường kính chỉ vào khoảng “1 triệu 3 trăm 90 ngàn cây số” và nhiệt độ ngoài biên khoảng 6000 độ, và Chúa Dê-su của Ki Tô Giáo đã cầm trong tay một lúc 7 ngôi sao (chắc là bằng giấy của các em mẫu giáo trong các lớp học Kinh Thánh ở nhà thờ sáng chủ nhật vẽ)] và rồi Chúa đọc cho John chép 7 bức thư viết cho 7 hội thánh...

Chép xong, thánh John nhìn lên và thấy có một cánh cửa mở ra ở trên trời. [Tầm mắt của thánh John nhìn được bao xa trên trời??] Rồi thánh John nghe tiếng Dê-su gọi: “Lên đây, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy những gì sắp phải xảy ra trên thế gian.”  Lập tức, xuyên qua cánh cửa trên trời, thánh John thấy Gót ngồi trên ngai, [không thấy nói là thánh John “lên đây” bằng cách nào, và ngai đặt ở đâu, hay lơ lửng trên trời.  Gót, Chúa Dê-su và Thánh John tuyệt đối không biết rằng, trái đất thực sự đang di chuyển trong không gian với một vận tốc khoảng 100000 cây số/giờ và quay xung quanh trục Nam Bắc khoảng 1600 cây số/giờ] xung quanh có 24 trưởng lão mặc áo trắng ngồi trên 24 ngai khác.  Gần nơi ngai giữa, chỗ Gót ngồi, có 4 sinh vật, có mắt phủ khắp trước và sau.  4 sinh vật này, một giống như con sư tử, một giống con bò đực, một giống như mặt người, và một giống như con chim ưng đang bay.  Mỗi sinh vật này đều có 6 cái cánh, và khắp thân có mắt phủ, ngay cả dưới cánh. (each of the 4 living creatures had six wings and was covered with eyes all around, even under his wings).  4 sinh vật này ngày đêm ca tụng [không thấy nói ca tụng bằng thứ tiếng nào, Hebrew, Phú Lăng Sa, Ý Tà Lồ, hay tiếng Việt Bùi Chu Phát Diệm] không ngớt: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay, Là Gót toàn năng, là đấng đã có, hiện có, và sẽ có.” (Day and night they never stop saying: Holy, holy, holy is the God Almighty, who was, and is, and is to come)...

Rồi thánh John thấy trên tay God có một cuộn giấy trên cả hai mặt đều có chữ viết, có 7 chỗ được gắn xi niêm phong. [Nếu thấy một cuộn giấy có chữ viết trên cả hai mặt thì cuộn giấy đó đã được mở ra rồi, vậy gắn xi niêm phong ở 7 chỗ nào? và niêm phong cái gì? 7 cái bao thơ gắn trên cuộn giấy?] Ai là người hay vật xứng đáng để mở những chỗ niêm phong gắn xi này.  Một trưởng lão nói với John: “Chỉ có Chúa Dê-su: con sư tử của đại tộc Judah, chồi của David, đã chiến thắng (the lion of the tribe Judah, the Root of David, has triumphed) mới có thể mở được những niêm phong này.”  Rồi thánh John thấy nơi ngai chính giữa, Chúa Dê-su hiện thân ra như một con chiên trông như đã bị giết, có 7 sừng và 7 mắt, là 7 thần linh của God phái xuống trần.  (Then I saw a Lamb, looking as if it had been slain, standing in the center of the throne...  He had seven horns and seven eyes, which are the seven spirits of God sent out into all the earth). [Tất cả các học giả ngày nay đều đồng ý ở một điểm: con Chiên ở đây chính là Dê-su đã bị đóng đinh trên thập giá (Scholars are in agreement that “a Lamb” refers to the crucified Christ), và đó chính là hình ảnh của một Chúa mà các tín đồ tôn thờ, và rất hãnh diện được làm tôi tớ của con chiên này] 

Rồi con chiên, tức Dê-su, bắt đầu mở từng chỗ niêm phong gắn xi một cho thánh John thấy những gì sẽ xảy ra trong “Ngày Tận Thế”, alias “Ngày Chúa Trở Lại Trần Lần Thứ Hai” (Second Coming), alias “Ngày một số nhỏ, vô cùng nhỏ, các tín đồ của 12 bộ lạc Do Thái (tuyệt đối không có người Việt Nam trong số này) được lên thiên đường ở cùng Chúa, như được viết rõ trong sách Khải Huyền 7: 4-8, mà tôi sẽ trích dẫn trong một phần sau, nếu các bạn còn đủ can đảm và hứng thú đọc tiếp.

Đó là tóm tắt phần đầu của sách Khải Huyền.  Nếu đọc giả  nào khi đọc đoạn tóm tắt trên mà tin tất cả những điều trong đó thì đọc giả đó đầu óc chắc chắn có vấn đề, và xứng đáng làm tôi tớ trung thành của Chúa. 

Đọc giả nào muốn biết trong 7 bức thư trên viết những gì với ít nhiều  chi tiết, xin hãy vào trang nhà sachhiem.net đọc bài “Ngày Tận Thế Của Ki-Tô Giáo” [http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN45.php] hoặc muốn đọc toàn phần những bức thư thì vào Tân Ước mà đọc.

Như chúng ta đã biết ở một đoạn trên, thánh John nhìn qua một cánh cửa mở trên trời và thấy gần nơi ngai giữa, chỗ “gót”  ngồi, có 4 sinh vật, có mắt phủ khắp trước và sau.  4 sinh vật   này, một giống như con sư tử, một giống con bò đực, một giống như mặt người, và một giống như con chim ưng đang bayMỗi sinh vật này đều có 6 cái cánh, và khắp thân có mắt phủ, ngay cả dưới cánh. Rồi thánh John thấy trên tay Gót có một cuộn giấy trên cả hai mặt đều có chữ viết, có 7 chỗ được gắn xi niêm phong mà chỉ có Dê-su mới mở được những chỗ niêm phong này.   Bây giờ chúng ta hãy xem Dê-su, hiện thân là một con chiên 7 mắt, 7 sừng, mở 7 chỗ niêm phong này và “tiết lộ bí mật” cho thánh John thấy những gì?  Những đoạn sau đây là từ Khải Huyền 6-11 nói về những hiện tượng nằm trong mỗi niêm phong và chúng ta đừng quên rằng những chỗ niêm phong này là ở trên một cuộn giấy:

Khải Huyền 6:  Khi Chiên Con (Dê-su) mở niêm phong thứ nhất, tôi nghe một sinh vật ở trước ngai gọi như sấm: “Lại đây!”.  Tôi thấy một con ngựa trắng (từ niêm phong trên cuộn giấy đi ra): người cưỡi ngựa tay cầm cung, được trao cho một vương miện.  Người phóng ra như một kẻ chinh phục đến đâu cũng chinh phục (he rode out as a conqueror bent to conquest).

Khi Dê-su mở niêm phong thứ hai, tôi nghe sinh vật thứ hai gọi: “Lại đây!”.  Một con ngựa đỏ phóng ra.  Người cưỡi ngựa được trao cho quyền lấy đi hòa bình trên trái đất và làm cho con người giết nhau. (Its rider was given the power to take peace from the earth and make men slay each other).  Hắn được ban cho một thanh gươm lớn.

Khi Giê-su mở niêm phong thứ ba, tôi nghe sinh vật thứ ba gọi: “Lại đây!”.  Tôi thấy một con ngựa đen [tượng trưng cho nạn đói (famine)] đi ra.  Người cưỡi ngựa tay cầm cái cân.  Tôi nghe tiếng phát ra giữa bốn sinh vật [nghĩa là từ cái ngai của “gót”]: Một đấu lúa mì giá một ngày lương; Ba đấu lúa mạch giá một ngày lương.  [Không thấy nói đến gạo ở Á Châu] Không được làm hư dầu và rượu (A quart of wheat for a day’s wages, and three quarts of barley for a day’s wages, and do not damage the oil and the wine).  [Nhiều học giả đã phê bình đoạn này là các gian thương áp dụng tối đa điều trên. Đầu cơ tích trữ thực phẩm, và khi có thiên tai, nạn đói thì đem ra bán với giá cắt cổ.]

Khi Dê-su mở niêm phong thứ tư, tôi nghe sinh vật thứ tư gọi: “Lại đây!”.  Tôi thấy một con ngựa màu xám nhạt.  Người cưỡi ngựa có tên là Tử Thần, có Âm phủ theo sát đằng sau [Âm Phủ có chân đi theo sát chân ngựa?].  Chúng (They= Tử Thần và Âm Phủ) được ban cho quyền thống trị một phần tư địa cầu để tàn sát loài người bằng gươm giáo, nạn đói, bệnh dịch và thú dữ. (They were given power over  a fourth of the earth to kill by sword, famine and plague, and by the wild beasts of the earth)

Khi Dê-su mở niêm phong thứ năm, tôi thấy dưới bàn thờ có linh hồn [linh hồn là vật chất hay phi vật chất?] những người bị giềt vì đã công bố đạo Chúa và trung thành làm chứng cho Ngài.  Họ kêu lớn: Tới bao giờ, Chúa ơi, Ngài mới xét xử những người trên trái đất và trả thù nợ máu của chúng tôi?” (How long, Lord, until you judge the inhabitants of the earth and avenge our blood?) [Chúa hứa: cứ chờ cho đến Tết Congo, khi hội họp đông đủ các “thánh tử đạo” trên thế giới, Chúa sẽ trả thù cho một thể]

Khi Dê-su mở niêm phong thứ sáu thì xảy ra một trận động đất lớn.  Mặt trời tối đen, mặt trăng đỏ lòm như máu, các ngôi sao rụng xuống trái đất như sung rụng trong một trận cuồng phong.  Bầu trời cuốn lại như một cuộn giấy, và mọi núi và đảo đều di chuyển ra khỏi chỗ....Mọi người trên trái đất đều trốn trong hang động, khe đá ... để tránh không thấy mặt của Đấng ngồi trên ngai và tránh sự phẫn nộ của Dê-su.  Vì ngày phẫn nộ lớn của hai cha con Dê-su đã đến, ai có thể chống cự được?  (Hide from the face of him who sits on the throne and from the wrath of the Lamb (Jesus).  For the great day of their wrath has come, and who can stand?)

Dân Chúa là ai - “Ta không hề biết các ngươi!"

Khải Huyền 7:  Sau đó tôi thấy bốn thiên sứ đứng ở bốn góc địa cầu [nguyên văn từ Kinh Thánh Việt Nam, quả địa cầu của Ki Tô Giáo có hình tứ giác, có bốn góc] cầm giữ gió bốn phương trên đất, khiến cho khắp đất, biển và cây cối đều bất động.  Tôi lại thấy một thiên sứ khác đến từ phương Đông, cầm con dấu (seal) của “gót”  hằng sống.  Thiên sứ này lớn tiếng kêu gọi bốn thiên sứ (bốn người cưỡi ngựa ở trên) đã được “gót”  ban quyền cho làm hại đất và biển (who had been given power to harm the land and the sea): Đừng làm hại đất, biển và cây cối cho đến khi chúng ta đóng dấu ấn lên trán của những tôi tớ Chúa.  Rồi tôi nghe thấy số người được đóng dấu ấn trên trán, tất cả là 144000 (một trăm bốn mươi bốn ngàn) thuộc 12 bộ lạc của Israel, mỗi bộ lạc là 12000 người.

[Lời bàn của TCN:  Những người được đóng dấu ấn của “gót” trên trán là những người được Chúa chọn để cho lên thiên đường của Chúa, vì Kinh Thánh viết rõ “Nhiều người được kêu gọi nhưng chỉ có ít người được chọn” và Chúa cũng đã phán, Matthew 7: 21-23: “Không phải người nào gọi Ta là Chúa cũng được vào nước trời... Trong ngày phán xét sẽ có nhiều người kêu nài: “Thưa Chúa, chúng tôi đã giới thiệu Chúa cho nhiều người, đã dùng danh Chúa để đuổi quỷ và làm nhiều phép lạ [như một linh mục mít ở Úc làm cho tượng bà Mary chảy dầu].  Nhưng ta sẽ đáp: “Ta không hề biết các ngươi! Hãy cút đi cho khuất mắt ta, vì các ngươi chỉ làm việc gian ác” [Có vẻ như các nhà truyền giáo hăng say đi truyền đạo cũng như các tín đồ Hi-tô cố gắng dụ người khác vào đạo chưa bao giờ đọc đến câu này]

Quý vị độc giả có thể nghĩ ra những chuyện nào hoang đường hơn như những chuyện trong Thánh Kinh không?  Bịp bợm, dối trá, lợi dụng lòng mê tín của tín đồ để vơ vét của cải, tiền bạc, loạn dâm, đạo đức giả v..v.. có phải là việc gian ác hay không?  Ngụy tạo phép lạ, tín lý, bí tích để tạo quyền lực thế tục cho giới giáo sĩ v..v.. có phải là việc gian ác hay không?  Cưỡng bách cải đạo, giết người ngoại đạo, tra tấn, thiêu sống người lạc đạo v..v.. có phải là việc gian ác không?  Ai trả lời không, xin lên tiếng.  Các “hội thánh” Ki-tô, trong 2000 năm nay đã làm những gì?  Có làm điều gì gian ác không? Và ai lên thiên đường? Ai xuống hỏa ngục?

Chúng ta để ý, Chúa chỉ chọn 144000 người trong 12 bộ lạc Do Thái, không thấy Chúa nói đến các bộ lạc Bùi Chu, Phát Diệm hay Hố Nai, Gia Kiệm, hay Bolsa, San Jose, Sydney.  Dân Do Thái là dân được Chúa chọn (chosen people) nhưng Chúa cũng chỉ chọn có 144000 người mà thôi, tuyệt đối không có chọn người nào trong các dân tộc khác. Quý vị tín đồ Ki-tô Việt Nam, nhất là các tín đồ tân tòng Tin Láo như Nguyễn Huệ Nhật, Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng v..v.., những người tuyệt đối tin vào Kinh Thánh là những lời mạc khải của Chúa nên không thể sai lầm, nghĩ sao về chuyện này. 

Quý vị có thấy rằng mình đã bị đám mục sư, linh mục lừa bịp quý vị bằng một cái bánh vẽ trên trời mà dù có thật quý vị cũng không bao giờ có thể được hưởng theo như những lời không thể sai lầm của Chúa trong sách Khải Huyền hay không?  Muốn được lên thiên đường cùng Chúa, giả thử được Chúa chọn, và điều này không bao giờ có thể xảy ra đối với người Việt Nam như quý vị,  quý vị cũng phải tranh nhau, rất có thể phải chém giết nhau, để dành một chỗ trên thiên đường.  Quý vị có bao giờ nghĩ đến điều này hay không?  Quý vị có bao nhiêu hi vọng được Chúa “cứu rỗi”, bốc cái xác chết đã rũa nát của quý vị (chắc chắn là ngày tận thế sẽ không xảy ra trong đời này của quý vị) lên thiên đường?  Quý vị thử sờ lên trán mình xem có thấy dấu ấn của “gót” trên đó không?  Hãy dùng đến đầu óc một chút đi, và hãy cất bỏ gánh nặng thiên chúa trên vai của quý vị (đề nghị của mục sư Harry Wilson), đúng ra là gánh nặng giáo hoàng Công giáo  hay gánh nặng Kinh Thánh Tin Láo]

Khải Huyền 8-11:  Khi Dê-su mở niêm phong thứ bảy..tôi thấy 7 thiên sứ đứng trước mặt “gót” và được trao cho 7 chiếc kèn đồng (trumpets).

Thiên sứ thứ nhất thổi kèn, liền có mưa đá và lửa pha với máu đổ xuống mặt đất.  Một phần ba đất bị thiêu đốt, một phần ba cây cối bị thiêu đốt, và mọi loài cỏ xanh đều bị thiêu đốt.

Thiên sứ thứ hai thổi kèn, liền có một vật giống như hòn núi lớn toàn bằng lửa bị ném xuống biển.  Một phần ba biển biến thành máu. [1/3 nước biển biến thành máu, vậy 2/3 còn lại vẫn là nước biển, không hề bị hòa lẫn với máu?]  Một phần ba sinh vật trong biển chết, và một phần ba tàu bè trên biển bị tiêu diệt.

Thiên sứ thứ ba thổi kèn, một ngôi sao lớn trên trời rơi xuống, ngôi sao ấy rơi vào một phần ba sông ngòi và suối nước.  Tên ngôi sao đó là Ngải Đắng (Wormwood).  Một phần ba nước hóa đắng. [1/3 nước đắng đứng riêng một mình trong sông ngòi, trong suối nước?] Nhiều người chết vì uống nước đắng ấy.

Thiên sứ thứ tư thổi kèn, một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng, một phần ba các ngôi sao bị phá hủy, trở thành tối đen.  Một phần ba ngày không có ánh sáng, cũng như một phần ba đêm không có ánh sáng.  [Miễn phê bình]

Thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một vị sao rơi xuống mặt đất.  Vị sao ấy được trao cho một chìa khóa của Vực Thẳm. [Vị sao đưa tay ra nhận chìa khóa?] Khi vị sao này mở Vực Thẳm ra [Vực Thẳm có cửa?], liền có khói bay ra che khuất làm cho mặt trời và bầu trời tối sầm.  Từ đám khói bay xuống đất những con châu chấu.  Chúng được ban cho nọc độc như những con bọ cạp ở dưới đất.  Chúng được lệnh không được phá hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những người không có dấu ấn của “gót” đóng trên trán. Chúng không được quyền giết mà chỉ được tra tấn hành hạ những người này trong 5 tháng.  Và sự đau đớn cùng cực của những người này giống như khi bị bọ cạp chích.  Trong 5 tháng này, những người này muốn chết đi cho rồi mà không chết được. [They (the locusts) were not given power to kill them (those people who did not have the seal of God on their forefronts), but only to torture them for five months.  And the agony they suffered was like that of the sting of a scorpion when it strikes a man.  During those days men will seek death, but will not find it; they will long to die, but death will elude them.] [Chúa lòng lành của Ki Tô Giáo?]

Thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe từ những chiếc sừng của bàn thờ bằng vàng đặt trước ngai Chúa có tiếng nói ra: Hãy thả bốn thiên sứ bị trói giữ tại sông Euphrates.  Và bốn thiên sứ, dược giữ ở đây để chuẩn bị sẵng sàng, đúng ngày giờ được thả ra để đi giết một phần ba nhân loại (to kill a third of mankind).

Thiên sứ thứ bảy thổi kèn,  có những tiếng lớn vang ra trên trời:

Từ nay thế gian thuộc quyền Thiên Chúa và đấng Cứu Thế.  Ngài sẽ cai trị mãi mãi... 24 trưởng lão quỳ xuống và ca: Chúa là đức Chúa Trời toàn năng, là đấng đã có, hiện có và sẽ có...Cơn thịnh nộ của Ngài đã đến: Giờ đã tới, là giờ phán xét kẻ chết, thưởng cho tôi tớ Chúa blah..blah...blah..

Sách Khải Huyền gồm có 22 chương.  Tôi mới chỉ lướt qua một nửa, đến hết chương 11.  Nếu người nào đọc những đoạn trên mà không cho đó là “tác phẩm” của một kẻ dốt nát điên khùng thì chính người đó là kẻ dốt nát điên khùng.

Quý độc giả có ai muốn đọc tiếp không?  Tôi nghĩ rằng không nên mất thêm thì giờ để tiếp tục làm phiền đầu óc của quý vị bằng những chuyện nhảm nhí như trên ở trong sách Khải Huyền.  Trong những phần sau, “gót” của Ki tô giáo còn “mạc khải” cho thánh John những chuyện hoang đường nhảm nhí như: Một con rồng lớn xuất hiện, đuôi rồng kéo theo một phần ba tinh tú trên trời quăng xuống đất; một người đàn bà mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội mũ miện kết bằng 12 tinh tú (ngôi sao), có thai (của ai?) kêu la quặn thắt vì sắp tới kỳ sinh nở  blah..blah...blah..  Ngoài ra “gót”  của Ki Tô Giáo còn giáng thêm nhiều tai họa đến cho nhân loại và mọi sinh vật, điển hình là trong chương 16: 1) Những người mang dấu 666 (dấu của Satan) trên người bị nổi ung nhọt độc địa ghê tởm; 2) Nước biển, sông ngòi, suối nước đều biến thành máu, mọi sinh vật trong đó đều chết hết; 3) Mặt trời được phép nung đốt người [lẽ dĩ nhiên là phải chừa ra những người có dấu của “gót”  trên trán] v..v.. và “gót”  được thiên sứ ca ngợi: “Chúa xét xử thật công minh, chân chính” (Khải Huyền 16: 7)...

Người nào cho rằng những chuyện trên không phải là những chuyện nhảm nhí của một kẻ dốt nát điên khùng, xin lên tiếng.

Để kết thúc về sách Khải Huyền, tôi xin trích sau đây đoạn cuối của sách này: Khải Huyền 22: 18-21:

Tôi khuyến cáo mọi người đã nghe những lời tiên tri trong sách này.  Người nào thêm thắt vào bất cứ điều gì, Thượng đế sẽ thêm cho họ những tai họa mô tả trong sách này.  Người nào bớt đi bất cứ điều gì trong sách tiên tri này, Thượng đế sẽ bớt đi phần của họ trong cái cây của sự sống và trong thành thánh (Holy City = Jerusalem), như được mô tả trong sách này.

Người chứng nhận  những lời tiên tri này (Dê-su) nói: “Phải, Ta sẽ đến ngay gần đây.”

Amen.  Hãy tới.  Chúa Dê-su.

Ân sủng của Chúa Dê-su ở cùng dân Chúa (dân Do Thái). Amen

(He who testifies these things says: “Yes, I am coming soon”

Amen.  Come.  Lord Jesus.

The grace of the Lord Jesus be with God’s people. Amen.)

Niềm tin vào ngày tận thế qua những tiên đoán láo của các nhà “tiên tri” đã gây ra nhiều ảnh hưởng trong xã hội.  Thật vậy, nếu tin rằng chỉ còn có vài ngày, hay vài tuần lễ, vài tháng là đến ngày tận thế, thì con người đâu cần còn phải tuân theo luật lệ quốc gia, đâu cần làm việc v..v...  Những chuyện này đã xảy ra trong các cộng đồng Ki Tô Giáo ở nhiều nơi trên thế giới.  Từ trước tới nay đã có cả trăm sự tiên đoán về ngày tận thế, nhưng tất cả đều trật lất.  Lại có những giáo sĩ Ki-tô, lợi dụng lòng mê tín của tín đồ, loan báo ngày tận thế sắp tới và khuyến dụ tín đồ trao hết của cải cho nhà thờ để được bảo đảm một chỗ trên thiên đường.  Sau đây tôi sẽ kể ra vài tiên đoán chính về ngày tận thế.

-   Giám mục James Ussher (1581-1656) ở Ái Nhĩ Lan tiên đoán ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 23 tháng 10, năm 1997.

-   William Miller (1782-1849), Giáo Chủ Adventist (Hệ phái Cơ Đốc tin rằng ngày trở lại lần thứ hai của Giê-su đã gần tới, có người dịch là Cơ Đốc Phục Lâm) đã tính toán rất kỹ, dựa theo Kinh Thánh, để đưa ra ngày Giê-su trở lại và tiên đoán là Giê-su sẽ trở lại trần lần thứ hai (Second Coming) trong khoảng từ 21 tháng 3 năm 1843 đến 21 tháng 3, 1844.  Đến ngày 21 tháng 3, 1844, tờ New York Herald loan tin có nhiều tín đồ cơ đốc theo Miller đã nhảy từ trên nóc nhà hoặc ngọn cây xuống, tin rằng sẽ được Chúa đón lên thiên đường. Giê-su không thấy đâu, chỉ thấy những người tin nhảm tin nhí này hoặc bị thương nặng, hoặc chết. [Richard Abanes, End Time Visions, Four Walls Eight Windows, New York, 1998, p. 224: Many Millerites had actually jumped from roofs and treetops in hopes of timing their leaps with Christ’s return.  But Jesus did not return and those who jumped “were critically hurt, and some fell to their death”].

-   Samuel S. Snow, một người theo Miller đã tuyên bố là tìm ra sự sai trong tính toán của Miller.  Theo sự tính toán của Snow thì Giê-su sẽ trở lại vào ngày 22 tháng 10, 1844 chứ không phải là ngày 21 tháng 3, 1844. Đến ngày Chúa trở lại, 22 tháng 10, 1844, sự hồ hởi náo nhiệt lan tràn trong đám người theo hệ phái Aventist.  Một người đeo đôi cánh của một con gà tây (turkey wings), leo lên ngọn cây và cầu nguyện Chúa sẽ bốc mình lên trên trời.  Anh ta nhảy xuống và tin rằng mình sẽ bay lên trời cùng Chúa, nhưng rơi xuống đất và gẫy tay.  Nhiều địa chủ giầu có trở nên nghèo khổ vì đã bán hết gia sản đất đai để cúng cho Miller xây một thánh đường tại Boston. Ở New Hampshire, nhiều nông dân từ chối không gặt hái hoa mùa bắp và khoai và không cho phép ai được gặt hái. Ngày 22 tháng 10, 1844 đã đi vào lịch sử Hoa Kỳ như là Ngày Đại Thất Vọng, Tín đồ khóc sướt mướt suốt đêm (Abanes, Ibid., p. 226: October 22, 1844 went down in history as the “Great Disappointment” ...We wept, and wept, till the day down)

Trước ngày 21 tháng 3, 1843,  Noah Webster [tác giả Tự Điển Webster] đã lên tiếng khuyến cáo Miller như sau nhưng vô hiệu trước sự mê tín của tín đồ Ki Tô Giáo:

Sự rao giảng [về ngày tận thế] của ông không ích lợi gì cho xã hội mà chỉ làm cho người ta rất khó chịu và  bực mình.  Nếu ông hi vọng rằng làm cho người ta sợ hãi để kéo người ta vào vòng tôn giáo thì ông đã lầm.

... Nếu sự rao giảng [về ngày tận thế] của ông làm cho con người thất vọng hay trở nên điên loạn, ông phải chịu trách nhiệm về những hậu quả.  Tôi khuyên ông hãy từ bỏ sự rao giảng [về ngày tận thế]; ông chẳng làm điều gì hay ho, tốt đẹp, nhưng có thể ông đã gây ra phương hại lớn lao cho con người. 

(Richard Abanes, End-Time Visions, Four Walls Eight Windows, New York,  1998, p. 224:  Your preaching can be of no use to society but it is a great annoyance.  If you expect to frighten men and women into religion, you probably mistaken.

... If your praching drives people into despair or insanity, you are responsible for the consequences.  I advise you to abandon your preaching; you are doing no good, but you may do a great deal of harm.)

-    Những người bị ảnh hưởng bởi hệ phái Adventist sau này vẫn tiếp tục tin vào ngày tận thế đã gần kề, và lập ra các hệ phái Adventist khác như Second Adventist hay Seventh-day Adventist (Ellen G. White), tiên đoán ngày Chúa trở lại :1873/1874, rồi đến hệ phái Nhân Chứng Jehovah (Jehovah’s Witnesses = JW) “sáng lập” bởi Charles Taze Russell (1856-1916).  Hệ phái Cơ Đốc Jehovah Witness này đã gây ra nhiều tác hại trong xã hội vì những giáo lý phản khoa học, phi xã hội v…v…. Hệ phái Cơ Đốc này đã tiên đoán ngày tận thế vào năm 1874, rồi sửa lại thành 1914, rồi 1925, 1940, 1941, 1975.  Trước những sự tiên đoán láo như trên, vẫn có nhiều người tiếp tục tin vào cái đạo Cơ Đốc quái gở này.  Nghe nói hệ phái JW ngày nay đã lan sang Việt Nam, nếu thật vậy thì là một điều bất hạnh cho những người dân ngu ngơ tin theo.  Hi vọng Nhà Nước có biện pháp ngăn chận. Đây không phải là vấn đề vi phạm tự do tín ngưỡng mà là vấn đề giữ cho xã hội được lành mạnh.

-    Rồi gần đây, những thảm họa gây ra bởi mục sư Jim Jones ở Jonestown, Guyana, 1978 (hơn 900 người vừa tự sát vừa bị cưỡng ép uống thuốc độc chết); hoặc bởi Chúa Con (Son of God), lời David Koresh tự nhận ở Waco, Texas, 1993 (75 người, đàn ông, đàn bà, trẻ con chết thiêu khi hệ phái Branch Davidian của David Koresh tử thủ trong một trang trại); hoặc hệ phái Heaven’s Gate ở California, 1997 (39 người tự sát, tin rằng Chúa sẽ phái một phi thuyền (spaceship) xuống bốc lên thiên đường).. Tất cả đều chỉ vì tin vào sự cứu rỗi của Chúa ở trong Kinh Thánh, nói về ngày tận thế và được lên thiên đường ở cùng Chúa.  Ki-tô giáo vẫn tự nhận là tôn giáo văn minh, tiến bộ nhất thế giới.

Khi Tin Lành lan sang Á Châu, đặc biệt là ở Nam Hàn, quan niệm về ngày tận thế của Ki-tô-giáo đã gây ra nhiều tác hại trong xã hội. Bắt chước các nhà tiên tri dỏm ở Âu Mỹ, Tin Lành (hay Tin láo) Nam Hàn cũng đưa ra những lời tiên tri bịp về ngày tận thế, tức ngày Giê-su trở lại trần lần thứ hai.  Sau đây là một vụ mà báo chí Mỹ đã loan tin rộng rãi.

Nhà thờ Maranatha Mission - Tín đồ Nam Hàn cầu nguyện khạc ra máu

Tối ngày 28 tháng 10, 1992, tín đồ Tin Láo Nam Hàn tụ tập trong nhà thờ Maranatha Mission ở trung tâm Los Angeles.  Họ chờ đợi Chúa trở lại vào lúc 12 giờ đêm và bốc họ lên thiên đường.  Ngoài cửa có người gác, không cho những người không phải là thành viên của nhà thờ vào trong nhà thờ.  Họ giữ độc quyền được Chúa bốc lên thiên đường (Rapture).  Nhưng Chúa không hề trở lại.  12 giờ đêm đã qua.  Tại sao lại có hiện tượng cuồng tín như vậy?  Vì những quảng cáo khắp nơi về ngày Chúa trở lại, mà nguyên một trang quảng cáo trên tờ USA Today ngày 20 tháng 10, 1991, như sau:

Chúa Bốc Lên Trời

28 Tháng 10, 1992

Dê-su Sẽ Tới Từ Trên Không

Rapture

October 28, 1992

Jesus Is Coming In The Air

Đây chỉ là một trong rất nhiều quảng cáo về ngày tận thế của phong trào Tin Láo Nam Hàn Hyoo-go (tiếng Hàn có nghĩa là Rapture), có cả trăm ngàn tín đồ ở trong nước cũng như ở ngoại quốc.  Một nhóm Hyoo-go tiên đoán là bắt đầu từ ngày 28 tháng 10, 1992, sẽ có 50 triệu người chết vì động đất, 50 triệu chết vì nhà cửa sụp đổ, 1 tỷ 4 người chết vì Đệ Tam Thế Chiến, và 1 tỷ 4 người chết vì những cuộc chiến giữa Chúa Dê-su và Satan (Armageddon). Những tiên đoán như trên được đề xướng bởi mục sư Tin Láo Nam Hàn Lee Jang Rim trong cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất (bestseller): Đã Đến Gần Ngày Tận Thế (Getting Close to the End) trong đó ông ta hứa hẹn ngày 28 tháng 10, 1992 là ngày Tất Cả (All) tín đồ Ki-tô đều được bốc lên trời. [Hiển nhiên là ông mục sư Tin Láo này không hề đọc Sách Khải Huyền nên không biết hi vọng được bốc lên trời của người Hàn là hi vọng hão huyền vì Dê-su đã khẳng định chỉ cứu những người Do Thái.

Ngoài ra, những “mạc khải” của “gót” “gót”  cho một đứa bé 12 tuổi tên là Bang-Ik Ha cũng được dùng để khẳng định ngày tận thế vào tháng 10, 1992.  Theo điều tin nhảm nhí này thì “gót” “gót” đã mạc khải những lời sau đây cho Bang-Ik Ha vào tháng 7, 1987: “Cũng như Ta đã sửa soạn để cho John The Baptist xuất hiện trước khi Giê-su giáng sinh xuống trần, ngày nay ta sửa soạn cho Bang-Ik Ha (12 tuổi)”.  Một cuốn sách mỏng của Tin Láo Taberah World Mission loan báo là Dê-su đã đích thân nói với đứa trẻ: “Ta sẽ tới trong tháng 10, 1992.  Hãy sửa soạn! (Để nghênh đón Ta) [I will be there in October, 1992.  Prepare!]  Theo hệ phái Tin Láo Hyoo-go thì chỉ những người nào theo hệ phái này mới được bốc lên trời, còn những người khác sẽ phải chịu sự khủng bố khủng khiếp của Satan trong 7 năm (7 years of  tribulation).  Người nào không được bốc lên trời phải chịu làm “thánh tử đạo” thì sau đó mới được lên thiên đường.  Nếu không sẽ bị đầy đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn. (eternal damnation).

Tại nhà thờ Maranatha Mission ở Los Angeles, các thành viên của Hyoo-go chứng tỏ là họ đáng được bốc lên trời bằng cách lớn tiếng cầu nguyện mỗi đêm trước đêm tận thế.  Họ cầu nguyện đến độ cổ khô, khạc ra máu và cho đó là để tẩy uế tội lỗi và là dấu hiệu để được “cứu rỗi” (a way of purging oneself of sin and a sign of salvation).  Cho nên, người nào càng khạc ra máu nhiều bao nhiêu thì càng có nhiều may mắn để được bốc lên thiên đường.

Trong khi đó, ở Nam Hàn đã xảy ra những sự hỗn loạn trong xã hội. Ở thị trấn Wonju, một nhóm Hyoo-go cuồng tín đốt đồ đạc ngoài đường phố và chờ để được Chúa bốc lên trời. Ở Hán Thành (Seoul), 5000 người theo Hyoo-go bỏ việc.  Nhiều người bán nhà, từ bỏ gia đình.  Rất nhiều giới trẻ bỏ học, từ Đại học xuống tới Tiểu học.  Nhiều phụ nữ mang thai đi phá thai để cho thân thể được nhẹ nhàng để Chúa dễ bốc lên thiên đường (Several pregnant women reportedly had abortions “so they would not be too heavy to be lifted to Heaven”), và ít nhất là có 4 người tự sát trước ngày 28 tháng 10.

Đến ngày tiên đoán tận thế, hàng ngàn tín đồ Hyoo-go tụ họp trong các nhà thờ Tin Láo Nam Hàn trên thế giới để chờ sự vinh quang được Chúa bốc lên thiên đường.  Chính quyền Nam Hàn phải sử dụng 1500 cảnh sát, các xe cứu hỏa và  xe cứu thương túc trực xung quanh các nhà thờ lớn của Hyoo-go ở Hán Thành để ngăn chận tái diễn cảnh ở Jonestown.

15 phút sau giờ tận thế, Mục sư Chang Man-Ho lên bục giảng và nói: ”Chẳng có gì xảy ra.  Thật đáng tiếc.  Chúng ta hãy về nhà”.  Tín đồ không những nồi giận mà còn vô cùng đau khổ.  Nhiều người khóc nức nở (Many began weeping uncontrollably).  Một số hành hung các mục sư đã nói láo với họ.  Một thành viên than: “Gót đã nói láo với chúng tôi” (God lied to us).

Đối với mục sư Tin Láo 46 tuổi Lee Jang Rim, người đã khởi xướng chuyện Chúa trở lại, gây ra nhiều tai hại trong xã hội,  thì ông ta bị tòa án Nam Hàn phạt 2 năm tù vì tội lừa dối tín đồ để vơ vét 4 triệu 4 đô-la và tàng trữ đô-la bất hợp pháp.  Người ta còn khám phá ra rằng Lee Jang Rim đã đầu tư một phần lớn số tiền lừa được của tín đồ để mua công khố phiếu mà thời hạn được lãnh ra toàn phần (bond mature) là vào tháng 5, 1993, nghĩa là hơn 6 tháng sau ngày tận thế.

Việt Nam ta cũng có ông Trương Tiến Đạt, cựu nghị sĩ VNCH,  góp phần vào việc tiên tri láo, tiên đoán ngày tận thế sẽ tới vào năm 2000 trong Tiếng Loa Cảnh Báo, nhưng người Việt Nam thông minh, chẳng mấy người tin nhảm nhí vào chuyện tận thế. 

Chuyện “ngày tận thế” của Ki-tô giáo đến đây là tận.  Tôi xin để cho quý độc giả tự mình suy nghĩ về ảnh hưởng của Kinh Thánh trên đầu óc đám dân thấp kém và về những thủ đoạn khai thác lòng mê tín và sự ngu dốt của đám tín đồ ở dưới của giới lãnh đạo Ki-tô.

Vài Lời Kết - Không Phạm Tội Uổng Công Chúa

Người ta thường nói, Chỉ những người nào không đọc Thánh Kinh mới tin Thánh Kinh [theo sự giảng dạy của  người truyền đạo] câu này đã trở thành một từ ngữ thông thường và là một định đề. (Joseph Lewis: It has become a common expression and axiom, that only those believe the Bible who have not read it.)

Nếu đọc kỹ Thánh Kinh thì có những sự kiện trong đó mà không ai có thể phủ nhận:

-   Niềm tin về một đấng cứu thế thật ra chỉ là niềm tin của người Do Thái về một người anh hùng Do Thái xuất hiện để cứu dân tộc Do Thái ra khỏi những nghịch cảnh của một quốc gia ở trong vòng nô lệ?

-   Dân Do Thái là dân được “gót” chọn nhưng lại không tin Dê-su là đấng cứu thế mà chỉ coi Dê-su như một tiên tri giống như nhiều tiên tri khác trong Cựu Ước? 

-   Cựu Ước chỉ là niềm tin của dân tộc Do Thái và Tân Ước chỉ là sự tiếp nối của Cựu Ước để hoàn thành những luật của Thượng đế trong Tân Ước như chính Dê-su đã khẳng định?

-   Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước được viết trong bối cảnh lịch sử của dân Do Thái cách đây ít nhất là hơn 3000 năm (Cựu Ước) và gần 2000 năm (Tân Ước), khi mà sự hiểu biết của con người về nhân sinh, vũ trụ của những người viết Kinh Thánh còn ở trong thời kỳ bán khai, cho nên đã có quá nhiều sai lầm về thần học cũng như về khoa học?

-   Các tác giả viết  Kinh Thánh hoàn toàn không có một ý niệm nào về sự cấu tạo của vũ trụ và trái đất, cho rằng trái đất phẳng và dẹt, có 4 góc, do đó không thể biết là ở phía bên kia của trái đất còn có nhiều dân tộc khác, cho nên tên các nhân vật trong Kinh Thánh hoàn toàn là ở trong vùng Trung Đông, không hề có một tên nào ở Á Đông như tên Tàu, Nhật hay tên Việt Nam?

-   Theo như đoạn cuối trong sách Khải Huyền, thì Nước Trời chỉ là một Jerusalem mới của người Do Thái được đặt dưới quyền thống trị của “gót” của người Do Thái?

-   Và ngày nay, Giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường ở trên các tầng mây, cũng như phủ nhận một hỏa ngục dưới lòng đất, và đã thú nhận là con người có thể không do “gót”  tạo ra một cách tức thời mà là do một quá trình tiến hóa lâu dài.  Như vậy thuyết sáng tạo và thuyết về tội tổ tông chẳng qua chỉ là những huyền thoại của dân Do Thái.  Không có sáng tạo, không có tội tổ tông, không có thiên đường, không có hỏa ngục, vậy thì ai cần ai chuộc tội, ai cần ai cứu rỗi?  Chẳng có lẽ Chúa chết  là để chuộc những tội ác như cướp của, giết người hay loạn dâm?  Và còn ai sợ hỏa ngục?  Lẽ dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Công giáo không được biết đến những lời tuyên bố và thú nhận trên của Giáo hoàng John Paul II, vì các bề trên của họ vẫn kiên trì theo chính sách “ngu dân dễ trị”, bưng bít sự thật tối đa.

Vậy thì, một câu hỏi cần được đặt ra:  Tín đồ Ki-tô Việt Nam có được Chúa “cứu rỗi” không?  Câu trả lời là một tiếng quyết định: “Không” (An emphatic “NO”).  Tại sao?  Vì sự “cứu rỗi” của Dê-su, nhất là cho những người Việt Nam không đặt trên một căn bản nào, thần học cũng như khoa học, có thể thuyết phục được những người có đôi chút hiểu biết.  Hiểu biết ở đây là tôi muốn nói hiểu biết về thực chất Kinh Thánh, về lịch sử Do Thái, về sự bành trướng Ki-tô giáo trên thế giới, về khoa học chứ không phải là hiểu biết đại cương về những bộ môn khác.  Thứ nhất, Dê-su đã khẳng định là ông ta chỉ có nhiệm vụ cứu người Do Thái mà thôi.  Thứ nhì, như tôi đã chứng minh ở trên, câu John 3: 16, 18, 36: “Ai tin Dê-su thì sẽ có cuộc sống đời đời, ai không tin thì bị đày đọa xuống hỏa ngục” là những câu nhảm nhí nhất trong Tân Ước vì Dê-su mới sinh ra đời cách đây khoảng 2000 năm, trong khi nhân loại đã xuất hiện trên trái đất ít ra là vài trăm ngàn năm.  Cũng vì vậy mà Linh mục James Kavanaugh đã coi giáo lý về “cứu rỗi” của Dê-su chỉ là một huyền thoại [http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php], và Gám mục John Shelby Spong đòi phải dẹp bỏ hình ảnh của  Dê-su như là đấng cứu thế của nhân loại: [http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php.]

Và nhất là, qua phần trình bày ở trên, chúng ta thấy Dê-su đã nói láo rất nhiều và những hứa hẹn của ông ta không thấy thực hiện trong 2000 năm qua.  Chúng ta có thể tóm tắt vấn đề như sau:

-   Điều nói láo vĩ đại thứ nhất của Dê-su là: “Nếu có đức tin chỉ bằng hạt cải thì có bảo núi này rời đi thì núi sẽ tự động bò xuống biển” và “mọi điều mà các người xin trong cầu nguyện, tin, thì các người sẽ được; cầm rắn độc, uống thuốc độc cũng chẳng hề hấn gì; không học cũng nói được các ngoại ngữ; và chỉ cần đặt tay lên người bệnh là người đó sẽ khỏi bệnh

- Điều nói láo vĩ đại thứ hai của Dê-su là hứa hẹn với những người theo ông ta là ông ta sẽ trở lại trần ngay khi vài môn đồ của ông ta còn sống, và nhiều người như John, Paul, Peter, James cũng đều tin như vậy, như đã viết rõ trong Tân Ước, nhưng nay đã 2000 năm, và khoan nói đến các môn đồ của ông ta, mà hàng tỷ người tin theo “lời hứa hẹn” của ông ta, trong đó cũng có cả những người Việt Nam, đã qua đời mà cũng chưa ai thấy “lời hứa hẹn” đó được thực hiện.

- Điều nói láo vĩ đại thứ ba của Giê-su là những điều hoang đường không thể tin được về ngày tận thế.

Và còn nhiều nhiều điều nói láo khác nữa.  Quý vị có thể tự mình kiếm ra một số không nhỏ những lời nói láo của Dê-su trong Tân Ước.  Nếu cần tôi giúp thì tôi sẽ giúp miễn phí.

Vậy thì, chúng ta lại cần đặt một câu hỏi nữa:  Người Việt Nam theo Ki Tô Giáo, Công giáo  hay Tin Lành, là vì cái gì?  Vì tin vào những lời nói láo?  Hay tin vào một cái bánh vẽ trên trời, biết rằng không bao giờ đến phần mình được hưởng.   Nên nhớ: làm lành, tránh ác, từ thiện giúp người, từ bi, bác ái v…v….đều có dạy trong mọi tôn giáo, không chỉ có trong Ki Tô Giáo, và những điều này không giúp gì được cho các tín đồ Ki Tô Giáo để họ có cuộc sống đời đời trên thiên đường với một Chúa như mô tả ở trên.  Điều kiện cần và đủ ở trong Ki Tô Giáo để có thể có cuộc sống đời đời sau khi chết là phải tin vào một Chúa hay nói láo như trên.  Ai muốn tin vào một Chúa như trên thì cứ việc tin, đó là vấn nạn của họ, không phải của tôi.

Để kết luận tôi lại xin mượn câu kết rất có ý nhị của CJ Werleman trong cuốn “Jesus Lied.  He was only human”:

Câu hỏi là – những bằng chứng mới trình bày có làm cho những người  Ki-tô chao đảo niềm tin của họ không?  Có thể, hoặc có thể không.
Nói vậy thì, nếu các bạn vẫn còn là một tín đồ thì tôi đề nghị các bạn hãy tiếp tục phạm tội lỗi vì tôi thực không muốn nhìn thấy một đời sống bị uổng phí. Và nếu các bạn không phạm tội lỗi, thì Dê-su chết chẳng vì cái gì cả.

[The question is – will the evidence thus presented sway Christians from their belief?  Perhaps; or perhaps not.
That said, if you remain a believer then I suggest you continue to sin because I hate to see a life go to waste.  And if you don’t sin, Jesus died for nothing.]

Hậu Kết: Chúa im lặng

Người Ca-tô mỗi khi bịa ra chuyện “trở lại đạo” của một nhân vật nào đó thì tự sướng và mừng  như bắt được vàng. Họ cũng mừng không kém khi bịa ra được chuyện những người chối Chúa bỏ Chúa bị Chúa trừng phạt khủng khiếp, mục đích là hù dọa để cho con người phải tin vào Chúa, nhưng thực ra là nói lên ác tâm của “Chúa Lòng Lành” (Le Bon Dieu) của họ và làm cho những người có đầu óc càng xa Chúa ác ôn ưa trả thù của họ hơn.. Đó là cái ngu của họ mà họ không biết. Khi xưa, Robert G. Ingersoll đã đứng trước cử tọa đông đảo, thách Chúa vật chết ông ta, nhưng Chúa vẫn “im lặng là vàng”.  Ngày nay George Carlin trong mẩu video đăng trên sachhiem.net http://sachhiem.net/TONGIAO/tgS/SH41.php  cũng đưa ra một thách đố như vậy trước một thính đoàn đông đảo, nhưng chẳng có gì xẩy ra “nothing happened”.  Ông ta nói: Đó quý vị thấy không? “Không làm gì có “gót”, không có một “gót nào”, và chưa từng có “gót” (No God, None, Never was).

Gần đây, họ biểu lộ một cái ngu khác, khi đưa ra những thông tin như Tổng Thống Obama cũng đặt tay lên cuốn Kinh Thánh tuyên thệ, không biết rằng đó chỉ là một nghi thức biểu tượng theo truyền thống của Mỹ, hay bịa ra chuyện Tổng Thống Hugo Chávez trước khi chết “sám hối” (sic), “trở lại đạo” (sic), không biết rằng Chávez là người Công giáo 100%, chưa bao giờ bỏ đạo, đã từng hội kiến với giáo hoàng.  Nhưng Chávez là một người Công giáo cấp tiến, không cuồng tín 100% theo “đức vâng lời” giáo hội dạy, nghĩ đến phúc lợi cho dân nghèo hơn là bóc lột dân nghèo của giới giáo sĩ Công giáo.  Ông thực hiện nhiều cải cách xã hội trái với ý muốn bảo thủ của các bậc lãnh đạo Công giáo ở Venezuela.  Lịch sử Venezuela cho thấy Tổng giám mục Ramón Ignacio Méndez ở Caracas không chịu tuyên thệ trung thành với Hiến Pháp Venezuela vì trong Hiến Pháp không chịu công nhận Công giáo là Quốc Giáo (This refusal, based chiefly on the absence from the Constitution of any explicit recognition of Catholicism as the religion of the State) tuy tới gần 90% người dân Venezuela theo Công giáo, hậu quả của chính sách thực dân của Tây Ban Nha, cũng giống như Phi Luật Tân ở Á Châu. Mấy ông giám mục cuồng tín Công giáo ở Venezuela cũng chống chính sách của chính quyền Venezuela kiểm soát các trường học Công giáo và giới hạn những quyền thu nhập tài chính của Công giáo qua việc thu thuế 10% lợi tức (tithe) của tín đồ, phần lớn là dân nghèo, để nuôi dưỡng giới giáo sĩ Công giáo.  Đường lối quốc gia của Chávez thiên về “xã hội và nhân bản để phục vụ đại chúng” (it is a socialist and humanist project for the masses).  Trong bài phân ưu, Cựu Tổng Thống Jimmy Carter cũng đã khen ngợi chính sách xã hội này của Chávez. Chávez đã từng khẳng định “Dê-su thực sự là nhà xã hội đầu tiên” (Jesus was the first true socialist.).  Venezuela nay đang mở cuộc điều tra xem có phải Tổng Thống Hugo Chávez bị thế lực đen đầu độc không (poisoned by “dark forces”)

Tổng Thống Obama đặt tay trên cuốn Kinh Thánh tuyên thệ, Tổng Thống Hugo Chávez “sám hối trở lại đạo” (sic). “God Bless America”.  “God Bless you, Lữ Giang, Tú Gàn, Nguyễn Cần, Chu Tất Tiến, Bắc Kỳ Di Cư, Vũ Linh Châu, and whoever you are”. So What?  Vậy thì sao? Phải chăng những điều này sẽ làm cho bộ mặt “xấu xa đáng ghét nhất, ghen tuông đố kỵ, nhỏ nhen lặt vặt, bất công, bất khoan dung; hay trả thù; khát máu; ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng[megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường[Richard Dawkins, The God Delusion] của “gót cha” trong Cựu Ước trở thành thánh thiện nhân từ? hay làm cho “những lời nói láo” của “gót con” trong Tân Ước trở thành những lời nói thật.  Và dù có cả tỷ người hay tất cả các tổng thống trên thế giới, hay bất cứ ai nổi danh như thế nào, tin vào “gót cha” và “gót con”, thì cả hai cha con “gót” hợp lại cũng không có gì để so sánh với Đức Phật cũng như với vô số thánh nhân khác trên thế giới về Trí Tuệ và Đạo Đức.  “gót” chỉ là đối tượng của sự mê tín vì người ta chỉ tin chứ có ai biết “gót” là cái gì..  Có phải như vậy không? Ai không đồng ý xin mời lên tiếng.

 

Trần Chung Ngọc

Ngày 15 tháng 3, 2013

 


Các bài tôn giáo cùng tác giả


 ▪ “Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo  - Trần Chung Ngọc

Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo - Trần Chung Ngọc

Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! - Trần Chung Ngọc

Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” - Trần Chung Ngọc

Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần - Trần Chung Ngọc dịch

Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới - Trần Chung Ngọc

Huyền Thoại Cứu Rỗi  - Trần Chung Ngọc

Lịch Sử các Giáo Hoàng - Trần Chung Ngọc

Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll - Trần Chung Ngọc

Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 - Trần Chung Ngọc

TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S - Trần Chung Ngọc

Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 - Trần Chung Ngọc

Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 - Trần Chung Ngọc

Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái - Trần Chung Ngọc

Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo - Trần Chung Ngọc


▪ 1 2 3 4 5 6 >>>

Trang Tôn Giáo




Đó đây


2024-03-28 - 25: Khắc Phục Hậu Quả Sau Khi Ông VVT Rời Ghế CTN - Ông Võ Văn Thưởng ra đi có chấm dứt mọi chuyện chưa?

2024-03-28 - Chấn động người Việt ở #Thailand: Thiếu tướng GĐ CA tỉnh Gia Lai … xuất hiện … chuyện gì xảy ra …? -

2024-03-24 - Thiếu tướng Hoàng Kiền _BUỒN, VUI, "GIẢI OAN" VẤN ĐỀ CHỐNG LẬT SỬ - Đôi lời với ông Võ Văn Thưởng

2024-03-22 - Thật là buồn khi một người mình đặt nhiều kỳ vọng lại làm mình thất vọng -

2024-03-22 - Tá hoả tịch thu! Tòa án NY bắt đầu kê biên tài sản sân golf, dinh thự Seven Springs -

2024-03-21 - VKSND TP HCM: Bị cáo Trương Mỹ Lan không ăn năn - VKSND TP HCM nêu quan điểm bị cáo Lan phạm tội nhiều lần, phạm tội có tổ chức, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiếm đoạt và gây thiệt hại số tiền đặc biệt lớn cho nhà nước

2024-03-21 - NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TÚY Ở VIỆT NAM -

2024-03-20 - Toàn cảnh đề nghị mức án với vợ chồng Trương Mỹ Lan, Trương Huệ Vân và đồng phạm -

2024-03-20 - Lý do đồng chí Võ Văn Thưởng có đơn xin thôi các chức vụ -

2024-03-20 - Trung ương đồng ý ông Võ Văn Thưởng thôi chức Chủ tịch nước - Ban Chấp hành Trung ương đồng ý để ông Võ Văn Thưởng thôi giữ các chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng khóa 13, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng An ninh nhiệm kỳ 2021-2026, theo nguyện vọng cá nhân



▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 >>>




Thư, ý kiến ngắn
● 2024-03-21 - CHỐNG CỘNG: Chuyện cười ra nước mắt ở Sở Học Chánh Tacoma, Wa - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-09 - Tổng thống Nga, Vladimir Putin đọc thông điệp gửi Quốc hội Liên bang (29/2/2024) - Gò Vấp -

● 2024-03-09 - Các hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong những năm 1942-1954 - trích Hồi ký Nguyễn Đình Minh -

● 2024-03-08 - Hồi ký lịch sử 1942-1954 - Liên Quan đến Giám mục Lê Hữu Từ, Khu tự trị Phát Diệm, Công Giáo Cứu Quốc - VNTQ/ Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư -

● 2024-02-15 - Trương vĩnh Ký dưới con mắt của người dân - Trần Alu Ngơ -

● 2024-02-14 - Các nhà hoạt động ẤN ĐỘ GIÁO phản đối chuyến viếng thăm của Giáo hoàng John Paul II - FB An Thanh Dang -

● 2024-02-09 - “KHÁT VỌNG NON SÔNG” của VTV1 và chuyện Trương Vĩnh Ký - Nguyễn Ran -

● 2024-02-05 - Góc kể công - Đồng bào Rô ma giáo cũng có người yêu nước vậy! Đúng. - Lý Thái Xuân -

● 2024-02-01 - Câu Lạc Bộ Satan Sau Giờ Học Dành Cho Trẻ 5-12 Tuổi Sắp Được Khai Trương Ở Cali, Hoa Kỳ - Anh Nguyen -

● 2024-01-29 - Giáo hội Rô ma giáo Đức "chết đau đớn" khi 520.000 người rời bỏ trong một năm - The Guardian -

● 2024-01-29 - Một tên Thượng Đế-Chúa ngu dốt về vũ trụ, nhưng thích bốc phét là tạo ra vũ trụ - Ri Nguyễn gửi Phaolo Thai & John Tornado -

● 2024-01-29 - Kinh "Thánh" dạy Con Chiên Giết Tất Cả Ai Theo Tôn Giáo Khác - Ri Nguyễn vs John Tomado -

● 2024-01-29 - Nhân Quyền Ở Nước Mỹ: Vụ Án Oan, 70 Năm Sau Khi Tử Hình Bé George Stinney - - Giác Hạnh sưu tầm -

● 2024-01-29 - NOEL - Ba Giáo Hoàng John Paul II, Benedict XVI, Francis I Thú Nhận Đã Bịp Chiên- Cừu Chuyện Jesus Ra Đời - Ri Nguyen -

● 2024-01-29 - Một dàn đồng ca, ngày càng đặt câu hỏi về quyền lực của Giáo hoàng - John L. Allen Jr. -

● 2024-01-29 - Tỷ lệ phá thai nơi người công giáo lại cao hơn nơi người ngoài công giáo! - Lê Hải Nam -

● 2024-01-29 - Kinh Khải Huyền Cho Biết Jesus Là Một Tên Ác Qủy Đê Tiện, Man Rợ - Ri Nguyễn -

● 2024-01-29 - Vatican Cho Phép Linh Mục Hiếp Dâm Trẻ Con - Đó là chính sách! - Ri Nguyen -

● 2024-01-28 - Quận Utah cấm Kinh Thánh ở các trường tiểu học và trung học cơ sở - Ri Nguyen -

● 2024-01-26 - Chiên Hô Hào Các Bạn Chiên Đừng Đọc Sachhiem.net: "Nhận Diện!" - SH vs Nguyễn Trọng Nghĩa -


▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 >>>