|
24-Apr-2012 |
Nghiên cứu về phương pháp giải bệnh không phải dùng thuốc thuộc bộ môn
tâm năng dưỡng sinh - phục hồi sức khỏe đòi hỏi phải nghiên cứu sâu không những
về khoa học tự nhiên thuộc các lĩnh vực vật lý, y khoa, giải phẫu cơ thể con
người... mà còn cần phải hiểu rộng thêm về khoa học xã hội, các lý thuyết triết
học âm dương ngũ hành, tâm lý học, tâm linh học và tôn giáo cụ thể như Đạo
Phật.
Càng nghiên cứu, tác giả bài viết này lại càng thấy nhận thức của con
người nói chung còn hạn hẹp. Có những điều rất đơn giản, có ích lợi thiết thực
trong cuộc sống nhưng vì chưa hiểu, chưa nhận thức ra nên đã làm phức tạp hóa
thành ra khó hiểu. Thậm chí có thể vì lợi ích của bản thân hay của một nhóm
người, người ta lại quy định ra những luật lệ, nguyên lý theo ý nghĩ chủ quan
của mình. Ý nghĩ chủ quan đó nhầm tưởng là chân lý, nhưng thực ra không phải.
Ví dụ như cộng đồng xã hội chẳng mấy ai hiểu gì về Đạo Phật, không hiểu gì
về sự phát hiện vĩ đại của thái tử Tất Đạt Đa khi ngài phát hiện ra các quy
luật tiến hóa trong thế giới tự nhiên nên đã quy định, xếp loại sự phát hiện
đó là tôn giáo, không mang tính khoa học! Với tầm hiểu biết còn hạn chế, không
nhận thức và chứng minh được sự tồn tại của thế giới tự nhiên siêu vi mô, nên
đã khởi xướng “sáng tạo” ra đủ mọi học thuyết, đủ mọi chủ nghĩa... nào là chủ
nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm... Tinh vi hơn, còn phân loại đặt ra cái gọi
là chủ nghĩa duy vật biện chứng khoa học để rồi lấy đó làm nền tảng, làm “cơ
sở khoa học”, ai không theo quỹ đạo đó thì không phải là khoa học, là thuộc
dạng lạc hậu, “mê tín”, tôn giáo. Ngược lại, những người theo đạo có cảm nhận
và có “niềm tin tôn giáo” về hiện thực có tồn tại các “thế giới siêu hình”
lại không đủ trình độ làm bậc thầy của “đạo” khoa học để chứng minh nhận thức
của “đạo” khoa học cần phải xem lại, định nghĩa lại để nhận thức của con người
được gần với chân lý hơn, được tiến hóa cao hơn đúng với quy luật của thế giới
tự nhiên hơn.
Không loại trừ có nhiều nhóm người vì sự tham vọng danh lợi của
bản thân, có thể có chút hiểu biết về “tâm linh”, nắm bắt được sự nhận thức
còn hạn hẹp, có niềm tin mơ hồ của nhiều người tin vào “tâm linh”, “tôn giáo”
để kiếm tiền, xã hội thường gọi là loại đồng cốt, xem bói... Cao cấp hơn có
nhóm người lại lợi dụng “tôn giáo” để làm cái gọi là chính trị mong cầu sự
sùng bái danh lợi bản thân, mong được làm “lãnh tụ”, “giáo chủ”. Do đó xã hội
loài người càng trở nên phức tạp, đồng thau lẫn lộn không biết thế nào là phải,
là đúng để có hướng vươn lên. Viết đến đây, tác giả bỗng hiểu thế nào cũng
có người cho “ý kiến”: Cái ông này theo chủ nghĩa đảng phái, tôn giáo nào?
nói ra những suy tư của mình nhằm mục đích gì?
Xin trả lời ngay rằng tác giả
không theo bất cứ một thứ chủ nghĩa hay đảng phái, tôn giáo nào. Chỉ là một
con người bằng xương bằng thịt như những người bình thường khác, chỉ có mắc
một bệnh không giống ai đó là bệnh lãnh cảm với danh lợi
của bản thân nên thực sự cuộc sống có hoàn cảnh đúng nghĩa là con người thuộc loại vô sản. Vì có
chút hiểu biết cả khoa học lẫn tôn giáo mà cộng đồng xã hội đã quy định phân
loại như vậy nên viết ra để mọi người tham khảo, ai thấy có lợi cho bản thân
mình thì thử ứng dụng, không thấy có lợi thì thôi chứ không phải vì thuộc loại
vô sản nên tự quảng cáo “đánh bóng tên tuổi” để mong kiếm chút tài sản hoặc
chút hư danh trên cõi đời này cũng như để quảng bá cho một đạo giáo nào.
Nguyên nhân tác giả hiểu biết về các loại “đạo” là do bà Phạm Thị Mai
Cương, nguyên thứ trưởng Bộ tài chính, hiện đang là Giám đốc Trung tâm Tâm
năng dưỡng sinh - phục hồi sức khỏe khuyến nghị nên tham gia vào Hội đồng khoa
học của Trung tâm để nghiên cứu phương pháp giải bệnh không phải dùng tới thuốc
có thực là khoa học hay không? Vì đây là một bộ môn mới phát triển, nhận thức
của con người còn chưa rõ, có thể dễ có sự lập lờ danh giới giữa khoa học và
niềm tin tôn giáo.
Thấy đây là việc có ích cần phải tham gia nghiên cứu để
hiểu thực chất của phương pháp chữa bệnh không mất tiền nên đã nhận lời. Quả
thật, càng nghiên cứu về bộ môn TNDS này lại càng thấy đó là bộ môn thật sự
khoa học rất có ích lợi cho con người cũng như cộng đồng xã hội. Không những
thế lại càng nhận thấy quan niệm nhận thức về Đạo Phật là tôn giáo tín ngưỡng
từ xưa đến nay của cộng đồng xã hội cần phải định hướng lại cho đúng. Sự phát
hiện và tư tưởng của thái tử Tất Đạt Đa, (xưa nay mọi người thường tôn kính
gọi là Đức Phật Thích Ca), là biện chứng khoa học rất cần thiết và rất có lợi
cho con người cũng như cộng đồng xã hội chứ không phải là thứ tôn giáo, tín
ngưỡng ai “có duyên thì nghe, không có duyên thì không nghe”. “Có
duyên thì nghe...” nhưng nghe mà không hiểu sẽ lại trở thành “mê tín” có hại cho xã hội.
Xuất phát từ phương pháp luyện tập TNDS, người luyện tập thu được kết
quả có sức khỏe, giải được các bệnh tật mà không phải tốn tiền mua thuốc có
những nét giống như sự “Thiền” của Đạo Phật. Có người đã đặt vấn đề vậy chăng
phương pháp luyện tập TNDS mang hình thức tôn giáo? Có thể nói chính xác và
đúng đắn rằng ông Nguyễn Văn Chiều người đã khởi xướng ra môn luyện
tập TNDS này do bị tai nạn điện giật “chết lâm sàng”, (nguồn điện cao thế 600KV)
đã tình cờ khai thác được tiềm năng của bản thân và tiếp cận hiểu được quy
luật của tự nhiên, giải bệnh không cần dùng thuốc mà thái tử Tất Đạt Đa đã
phát hiện ra cách đây hơn 2500 năm. Và
sự phát hiện ra quy luật ứng dụng khai thác tiềm năng đang có sẵn trong con
người của thái tử Tất Đạt Đa, (từ nay nói ngắn gọn là Đức Phật), bằng việc “Thiền
định” là sự phát hiện khoa học chứ không
phải là “mê tín”, tôn giáo. Đức Phật đã ứng dụng việc khai thác tiềm năng
bằng sự “Thiền định” trong vòng 49 ngày dưới gốc cây bồ đề nơi rừng sâu yên
tĩnh, nên trí tuệ của một con người bình thường như những người khác, trí tuệ
ngài đã trở nên uyên bác, siêu phàm. Ngài đã khám phá ra nhiều quy luật của
thế giới tự nhiên mà sau này các nhà khoa học lỗi lạc được cả thế giới ca tụng
mới nhận thức khám phá ra.
--o0o--
Phát hiện khoa học đầu tiên của Đức Phật cần nói đó là tính tương đối
của không gian và thời gian trong vũ trụ.
Năm 1905, ngài Einstein, nhà bác
học được cả thế giới, nhất là giới khoa học vật lý tôn vinh là nhà khoa học
vĩ đại của mọi thời đại vì đã phát hiện và chứng minh được không gian, thời
gian mang tính tương đối chứ không phải là tuyệt đối không thay đổi như nhận
thức của nhà bác học Newton trước đó. Thế nhưng có lẽ bị sự nhận thức Đạo Phật
là tôn giáo nên mọi người trong cộng đồng xã hội không để ý tới nên không biết
rằng điều đó Đức phật đã phát hiện ra trước tới hơn 2400 năm. Điều này được
thể hiện ở kinh sách “Diệu pháp liên hoa”, ngài đã mô tả thời gian tại các
cảnh giới (nói theo ngôn ngữ khoa học đó là các hệ quy chiếu khác nhau) trong
vũ trụ là khác nhau. Ví dụ 1 ngày trên cõi cung trời đạo lợi tương đương với
1 thế kỷ đã trôi tại trần gian, tại trái đất nơi cộng đồng xã hội con người
đang sinh sống. Không tin cứ ra các hiệu sách Phật giáo mua quyển “Diệu pháp
liên hoa” đó về mà xem. Nếu là những người có lương tri khoa học và muốn có
sự công bằng xã hội thì tại sao cộng đồng xã hội tôn vinh Einstein là nhà khoa
học có trí tuệ lỗi lạc lại không tôn vinh Đức phật cũng là nhà khoa học có
trí tuệ lỗi lạc?
Albert Einstein
Vấn đề thứ hai cần phải kể đến tính khoa học về nhận thức vũ trụ của
Đức Phật. Theo Đức Phật thì vũ trụ là “vô thỉ vô chung”, nghĩa là không biết
được điểm đầu xuất phát từ đâu cũng như điểm kết thúc của vũ trụ vào thời gian
nào. Nói chính xác khoa học là vũ trụ rộng mênh mông, không có giới hạn và
nhất là không thể tính tuổi của vũ trụ. Khoa học vật lý vũ trụ
hiện đại ngày nay trên thế giới lại “phát hiện” ra học thuyết vũ trụ được hình
thành từ vụ nổ BigBang, và khoa học đã công bố tuổi của vũ trụ vào cỡ 13,7
tỷ năm, (từ khi vũ trụ co về một điểm kỳ dị không có kích thước và bùng nổ
lan rộng ra, nhiệt độ nguội dần đã tạo ra mọi ngân hà, thiên hà, thế giới vật
chất trong vũ trụ như trái đất hiện nay). Nhưng
thời gian trôi tại các Hố đen rất chậm (xem bài "Vận
Tốc Ánh Sáng Trong Không Gian Của Hố Đen", cùng tác giả), và mới đây,
các nhà khoa học Tây Ban Nha khẳng định, vũ
trụ sẽ ngừng giãn nở vào một ngày nào đó trong tương lai và khi ấy thời gian
cũng ngừng trôi. Nếu vậy thì đâu là điêm kết thúc? Dù sao đây cũng còn
là lý thuyết cho đến khi nào có một lý thuyết khoa học khác chứng minh điều
mới lạ.
Thuyết tương đối của
Einstein về phương diện không gian và thời gian chỉ là
tương đối trùng hợp với sự phát hiện của Đức Phật từ hơn 2500 trước đã được
chính khoa học chứng minh là đúng. Qua đó mới thấy tầm hiểu biết và nhận thức
của Đức Phật về vũ trụ rất khoa học đáng phải học tập. Ngài đã hiểu rõ sẽ có
tình huống “ếch ngồi đáy giếng” nếu nói về tuổi của vũ trụ nên đã lịch sự nói
vũ trụ là “vô
thỉ vô chung”.
Điều phát hiện khoa học thứ ba của Đức Phật, rất hiện thực khách quan,
nên hiểu biết nhất là đối với những người muốn luyện tập TNDS để có sức khỏe
tốt cả thân lẫn tâm cũng nên nghe để có niềm tin khoa học trong việc tu dưỡng.
Trong kinh sách, Đức Phật nói ai cũng là phật, phật chưa thành, nhưng vì còn
mắc nghiệp chướng, nghiệp chướng gây nên sự vô minh nên chưa hiểu, chưa nhận
thức được ra. Nhưng con người qua tiến hóa, chăm chỉ tu dưỡng thân-tâm rồi
cũng sẽ nhận thức, ngộ ra thành phật. Trong kinh sách, Ngài dành hẳn 1 chương
nói về ông lão “thường bất khinh” để nói điều đó. Chương sách đó mô tả một
ông lão như người “lẩn thẩn” gặp ai dù là người sang trọng quyền quý hay là
kẻ ăn mày, ăn xin, “khố rách áo ôm”, ông lão “thường bất khinh” cũng tôn trọng,
kính cẩn chào lạy: “Xin kính chào vị phật chưa thành”.
Với cái trí bình thường
thì cho hiện tượng ông lão “thường bất khinh” đó là điên rồ, lẩn thần, vô lý...
Tại sao lại “kính trọng tất cả các loại người” một cách “vớ vẩn” thế? Phải
hiểu sâu xa rằng: ý Đức Phật muốn nói trong mỗi một con người, ai cũng như
ai đều có trong Tâm một tiềm năng rất lớn, một kho tàng tri thức khổng lồ nhưng
chưa ai biết cách để khai thác. Ai khai thác được cái tiềm năng đang sẵn có
của mình thì sẽ có trí tuệ, tri thức như Đức Phật. Vì thế ai cũng là Phật nên
cần phải tôn trọng.
Ngày nay, nền khoa học kỹ thuật thế giới đã phát triển
tương đối cao và có bằng chứng để chứng minh sự phát hiện khoa học: Ai cũng
là Phật, vì tạo hóa đã sinh ra ai cũng có những tiềm năng vô cùng to lớn trong
cơ thể con người, nhưng chẳng ai biết mình có cái tiềm năng, kho tàng tri thức
khổng lồ, to lớn đó nên vẫn là “Phật chưa thành” của Đức Phật.
Cập nhật thông
tin khoa học thế giới, được biết các nhà khoa học nghiên cứu về bộ não con
người đã phát hiện ra bộ
não con người có khoảng 100 tỷ tế bào nơ-ron thần kinh, nhưng đáng tiếc là thông thường cả một đời người, số lượng tế bào nơ-ron
thần kinh chỉ sử dụng liên kết hoạt động chưa đến 1% tổng số lượng tế bào thần
kinh của não bộ. Nếu số lượng tế bào nơ-ron liên kết sử dụng lớn hơn 1% , giả
dụ ai đó liên kết sử dụng vào khoảng 10% trong tổng số hay nhiều hơn nữa thì
người đó sẽ trở thành thiên tài, có thể nói là phi thường, có trí tuệ khoa
học phát triển vượt xa các nhà bác học hiện đang là thần tượng của cả thế giới
như ông Newton hay Einstein. (Xem tham khảo đoạn trích thông tin theo www.dacbietthuvi.net :
“ Não Người có số Nơ-ron nhiều hơn tổng số phân tử trong Vũ Trụ
… những nghiên cứu về não bộ của con người cho thấy: trong suốt cuộc đời chúng
ta chỉ sử dụng chưa tới 1% tổng số liên kết thần kinh. Mỗi tế bào có
thể liên kết với hơn 20.000 tế bào khác. Và bạn biết đó, với hơn 100 tỉ tế
bào thì số liên kết được tạo ra thật "siêu khổng lồ" thậm chí nhiều
hơn tổng số phân tử trong vũ trụ này. Hay nói cách khác, không có việc
gì mà con người không thể làm được, với điều kiện là phải được kích
thích đúng phương pháp. .”)
(SH chú thích: mời xem video http://www.brainhealthhacks.com/2010/12/01/how-many-neurons-does-a-human-brain-have-and-more-importantly-how-many-connections/ giải thích bằng Anh ngữ)
Như vậy, chính khoa học hiện đại đang thừa nhận trong con người đang có
một tiềm năng vô cùng to lớn nhưng chưa được khai thác, ai cũng có thể trở
thành vĩ nhân, bác học, thiên tài, có sức thông tuệ như Phật, nói ngắn gọn
là trở thành Phật hiểu biết mọi quy luật của thế giới tự nhiên hữu hình cũng
như vô hình nếu khai thác được tiềm năng to lớn mình đang có, tức là số lượng
tế bào nơ-ron thần kinh được liên kết sử dụng lớn hơn 1% tổng số đang có trong
bộ não. Mặc nhiên câu chuyện ông lão “thường bất khinh” trong kinh Phật đã
chứng minh Đức Phật đã phát hiện về điều mà khoa học hiện đại ngày nay mới
khám phá về tiềm năng còn lãng phí trong bộ não con người.
Những điều phát hiện khoa học của Đức Phật nêu trên, khiến chúng ta phải
suy nghĩ học tập và nhận thức Đức Phật là nhà bác học vĩ đại, đừng nên xếp
ngài vào hàng “tôn giáo”. Những gì ngài nói và thể hiện bằng việc làm cụ thể
chẳng hạn như việc “thiền định” đều có ý nghĩa và là khoa học phản ánh quy
luật đúng đắn của thế giới tự nhiên. Chúng ta những con người cụ thể sẽ mãi
mãi là “phật chưa thành” nếu như không hiểu và không biết cách ứng dụng những
phát hiện khoa học về phương pháp khai thác tiềm năng con người của Đức Phật.
Và sự “Thiền định” chính là phương pháp khai thác tiềm năng con người mà Đức
Phật đã phát hiện ra.
Lý giải chứng minh việc thiền định là phương pháp khai
thác tiềm năng con người, ứng dụng làm tăng số lượng tế bào nơ-ron thần kinh
liên kết sử dụng lớn hơn 1% tổng số tế bào trong não, không cần phải dài dòng,
bất cứ ai là phật tử hoặc nghiên cứu về đạo phật cũng đều biết lịch sử quá
trình đi đến giác ngộ thành Đạo của Đức Phật. Trước khi giác ngộ thành Đạo,
Đức Phật đã theo học đủ các môn phái, các loại đạo đang hiện hành tại thời
của ngài, kể cả cái đạo khổ hạnh, hành hạ cái thân xác bản thân nhưng cũng
chẳng thu được kết quả gì. Cuối cùng, ngài phải đi một mình vào rừng sâu, tìm
nơi yên tĩnh chẳng ai quấy rối để dễ bề “thiền định”, tức ngồi “luyện thân
bất động, tĩnh tâm vô thức”. Trong vòng 49 ngày cực kỳ gian khổ cuối cùng tiềm
năng trong cơ thể con người của ngài được khai mở, ngài đã chứng ngộ thấy được
toàn bộ các cảnh giới và các quy luật của thế giới tự nhiên.
Từ chỗ theo học đủ các môn phái, các loại Đạo đều không có kết quả, cuối
cùng ứng dụng ngồi “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức”, trong đạo Phật
gọi là ngồi “thiền” lại có kết quả trí tuệ được mở mang, khai sáng thấy và
hiểu được các quy luật của thế giới tự nhiên, của trời đất, vũ trụ thì rõ ràng
phương pháp “thiền”, ngồi “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức” là phương
pháp khai thác tiềm năng đang tiềm ẩn trong con người.
Phương pháp “thiền”
trong Đạo Phật và phương pháp ngồi “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức”
trong Tâm năng dưỡng sinh giống nhau về bản chất đó là phương pháp ứng dụng
khai thác tiềm năng trong cơ thể con người. Nhưng phương pháp “thiền” trong
Đạo Phật khác với phương pháp luyện tập “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức”
trong bộ môn TNDS ở chỗ:
Thứ nhất, sự “thiền” trong Đạo Phật có nhiều loại theo các môn phái khác
nhau. Ví dụ sự thiền định theo môn phái Bắc tông khác với sự thiền định theo
môn phái Nam tông hoặc môn phái mật tông hay phổ độ chúng sinh. Khi các môn
đồ thực hành “thiền” phải quán tưởng niệm các câu kinh, câu mật chú theo các
thày đã thành đạo thuộc các môn phái đó hướng dẫn để lại nên có lẽ không còn
nguyên bản chính gốc của Đức Phật Thích Ca, người đã phát hiện ra sự “thiền”.
Ứng dụng “thiền” theo môn phái nào mới đúng? Khó quá, vì đó là cái đúng tương
đối, môn phái nào cũng nhận thức môn phái của mình mới là đúng theo tinh thần
của Đạo Phật và các trưởng môn cũng ứng dụng có hiệu quả nhất định trên thực
tế. Có điều dễ thấy là môn phái nào sự ứng dụng có thể hợp với người này nhưng
không hợp với người kia. Điều đó nói lên sự khác nhau về nội dung một đằng
“thiền” quán tưởng niệm chú để kêu gọi mong cầu sự gia trì của các “đức phật
đã thành” khai thông trí tuệ, một đằng “tĩnh tâm vô thức” quán tưởng đơn giản
chỉ để thu năng lượng trực tiếp vào cơ thể mình mà không phải qua khâu trung
gian gia trì hộ niệm của các “đức phật đã thành”.
Thứ hai, mục đích của sự “thiền” trong Đạo Phật rất rộng, đỉnh cao nhất
là tiến tới sự giác ngộ có trí tuệ phật để không bị nghiệp lực níu kéo không
cho giải thoát khỏi quy luật luân hồi. Trong khi đó mục đích của phương pháp
luyện tập TNDS chỉ giản đơn thiết thực giới hạn ở mức cân bằng năng lượng trong
cơ thể của bản thân để giải bệnh phục hồi sức khỏe trong cuộc sống hiện tại.
Thứ ba, Vì mục đích của sự “thiền” trong đạo phật là tiến tới đỉnh
cao để thấy được bản thể vũ trụ, “thấy được chính mình” và trở thành Phật,
nên rất khó có thể có thành tựu đạt hiệu quả ngay trong một kiếp người hiện
tại. Đức Phật cũng đã từng nói để đạt được thành tựu trở thành Phật có thể
phải tu dưỡng trong nhiều kiếp. Nghĩa là để khai thác được toàn bộ tiềm năng
to lớn trong con người, đòi hỏi phải rất kiên trì, công phu tu dưỡng, không
dễ gì đạt được hiệu quả ngay trong một thời gian ngắn, một kiếp người. Cũng
là khai thác tiềm năng trong cơ thể con người, nhưng luyện tập TNDS chỉ tập
trung khai thác trong phạm vi nhỏ, mục đích không cao siêu mà chỉ phục vụ cho
việc có sức khỏe, giải được các bệnh trên cơ thể nên dễ đạt được hiệu quả trong
thời gian ngắn và có ý nghĩa thiết thực ngay trong cuộc sống của kiếp người
hiện tại.
Thực tế cũng đã chỉ cho chúng ta thấy, sự khai thác được tiềm năng trong
con người để có công năng trông thấy các cảnh giới khác, trông thấy “ma”, (người
đã khuất) như những người gọi là nhà “ngoại cảm” là việc khá khó khăn. Chẳng
thế mà hầu như các nhà “ngoại cảm” trước khi có công năng khác thường, tức
khai thác được tiềm năng của bản thân, (tăng được mối liên kết của nhiều tế
bào nơ-ron thần kinh còn chưa được sử dụng trong não bộ) cũng phải xẩy ra những
biến cố, những cú sốc mạnh hệ thần kinh trong não như bị “điên khùng”, hoặc
“chết lâm sàng”. Không trải qua các cú sốc, chỉ dựa vào sự “thiền” để khai
thác tiềm năng trong con người để trông thấy các các trường năng lượng siêu
hình trong không gian như các nhà “ngoại cảm” lại càng khó. Để khai thác tiềm
năng tới mức đó đòi hỏi, người tu “thiền” phải dành nhiều thời gian để chỉ
có chuyên tu “thiền”, tức là phải thoát tục, không sống cuộc sống của người
bình thường, ngả hẳn theo đúng nghĩa là “thầy tăng” đi tu trong chùa theo đạo
Phật, không theo đạo làm Người.
Cần hiểu một thực tế logic khoa học rằng: Tạo hóa đã sinh làm con người,
không ai tránh khỏi phải ăn uống để có sức khỏe duy trì sự tồn tại, phải mặc
quần áo để bảo vệ thân thể, phải có quan hệ gia đình, xã hội...vì ai cũng có
cha mẹ, hoặc vợ hay chồng, con cái, bè bạn... Đó là cái “duyên” cái đạo làm
người nên khó có nhiều thời gian và điều kiện để thoát tục dứt bỏ mọi “duyên
nợ” vào chùa thực hành chuyên tu “thiền” thành phật.
Cách tốt nhất là hiểu
đúng và tin vào sự phát hiện khoa học: Sự “thiền” hay
“tĩnh tâm vô thức” là phương pháp khai thác tiềm năng đang ẩn chứa trong cơ
thể con người của Đức Phật. Không có điều kiện tu dưỡng khai thác tiềm năng của bản thân để trở thành
phật, có trí tuệ phật ngay trong kiếp này, thì rất nên khai thác tiềm năng
dần dần trong phạm vi điều kiện có thể, như luyện tập TNDS để có sức khỏe tốt
cả thân lẫn tâm phục vụ cái đạo đang làm Người hiện tại. Đã có sức khỏe tốt
cả thân lẫn tâm thì cuộc sống sẽ hạnh phúc, tâm hồn luôn luôn thanh thản, an
vui. Người luyện tập TNDS theo đạo làm Người tưởng như không phải là phật tử
theo Đạo Phật, nhưng suy cho cùng lại chính là “phật tử” hiểu và ứng dụng sự
phát kiến và lời dạy của Đức Phật có hiệu quả và khoa học nhất.
Tại sao thực hành “thiền”, hay “tĩnh tâm vô thức”, sức khỏe của con người
mau chóng phục hồi và có thể giải được bệnh tật? Quan sát cuộc sống xung quanh,
chúng ta thấy có những quy luật rất giản đơn nhưng chẳng ai để ý đến để tìm
hiểu xem tại sao nó thế. Ví dụ như tại sao trong vòng một ngày đêm, chu trình
sống của con người phải chia làm hai giai đoạn thức và ngủ? Nếu cuộc sống của
con người chỉ có thức, không có ngủ hoặc ngược lại, liệu có được không? Hiển
nhiên khoa học y sinh học trả lời rằng: không thể được! Nếu chỉ có thức không
có ngủ mỗi ngày vài tiếng đồng hồ thì sau một thời gian nhất định con người
sẽ bị suy nhược hệ thần kinh dẫn đến ốm đau, bệnh tật, cơ thể héo mòn. Vậy
sự ngủ có tác dụng gì? Ngủ thì bộ não con người tạm dừng mọi suy nghĩ, ý thức
nhận biết để “bộ máy” cơ thể tự hồi phục, cân bằng lại những năng lượng đã
bị tiêu hao trong lúc ý thức hoạt động. Để ý thêm sẽ thấy những người bị mệt
mỏi, hay ốm đau bệnh tật thường hay ngủ li bì, nếu bệnh nặng thì hay mê man
bất tỉnh, thời gian ngủ sẽ kéo dài nhiều hơn thức.
Có thể kết luận là sự ngủ,
tức ý thức không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào trong não bộ thì bộ phận tự
điều chỉnh cơ thể cân bằng lại những năng lượng đã bị tiêu hao mới hoạt động.
Đó là quy luật khách quan phản ánh thực tế sự sống của con người. Một nhận
xét khách quan nữa là tục ngữ có câu: “...giận đến bầm
gan, tím ruột”, nghĩa
là sự “sân hận” quá mức, tức sự hoạt động của tư duy, ý thức quá mạnh (cái
tâm không yên ổn, bị loạn động) sẽ ảnh hưởng tới nội tạng. Thực tế cũng thấy
ai có tâm trạng hồi hộp, bồn chồn lo lắng thì nhịp tim sẽ tăng nhanh. Không
chỉ sân hận hay hồi hộp mà mừng vui quá mức cũng gây sốc, ảnh hưởng tới các
bộ phận của cơ thể. Có trường hợp, có người nhận được tin vui, tâm trạng mừng
vui quá mức đến nỗi đứt cả dây thần kinh liên quan tới mắt thành ra mù lòa.
Chẳng thế mà trong đạo phật, Đức Phật đã khuyên nên tránh mọi sự “tham,
sân, si, hỷ, ái...” thái quá. Điều đó phản ánh cái tâm hồn con người phải thư thái, thanh thản thì bộ máy cơ thể con người mới bình yên không bị ảnh hưởng gây
ra sự trục trặc.
Sự “thiền” hay “tĩnh tâm vô thức” là sự dừng mọi ý nghĩ trong
đầu, giống như trạng thái con người lúc ngủ cũng dừng mọi ý nghĩ để tâm hồn
được tĩnh lặng, vì thế hệ thống tự điều chỉnh cơ thể trong con người mới được
khởi động hoạt động. Sự “thiền” hay “tĩnh tâm vô thức” khác với trạng thái
ngủ ở chỗ khi ngủ thì hệ thống tự điều chỉnh cơ thể ở thể bị động và hoạt động
mạnh yếu tùy theo cơ địa của mỗi con người, còn sự “thiền”, hay “tĩnh tâm vô
thức” ở thể chủ động kích hoạt hệ thống tự điều chỉnh cơ thể hoạt động không
phải đợi đến lúc ở trạng thái ngủ mới có thể hoạt động.
Ai đã từng trải qua thời học sinh, sinh viên có thể sẽ biết tại những
kỳ thi chuyển cấp, quan trọng dễ gây ra tâm lý căng thẳng, hồi hộp lo lắng
đối với học sinh. Nếu học sinh nào lúc bước vào phòng thi trong tâm trạng lo
lắng, hồi hộp (tâm lý mất bình tĩnh) thì sẽ rối trí chẳng thể nhớ được kiến
thức đã học để làm bài thi. Nhưng khi thi xong, tâm lý bình tĩnh trở lại, lại
nhớ rất rõ những kiến thức đã học mà khi tại phòng thi mất bình tĩnh không
thể nhớ được. Do vậy sự làm chủ tinh thần của bản thân muốn bình tĩnh là bình
tĩnh được ngay rất cần thiết trong cuộc sống. Việc luyện tập TNDS, trong đó
sự “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức” chính là phương pháp luyện tập làm
chủ được tinh thần của bản thân để lúc nào cũng tỉnh táo, thanh thản, bình
tĩnh giữ thăng bằng cho tâm hồn không bị những nghịch cảnh bên ngoài tác động
khiến cho sóng não tăng mạnh, đột biến bất ngờ ảnh hưởng tới hệ thần kinh liên
quan tới các bộ phận trong cơ thể cũng như không có được trạng thái tinh thần
sáng suốt để giải quyết các công việc.
Luyện tập để làm chủ tinh thần của bản
thân là một việc tưởng như dễ, nhưng thực tế lại rất khó. Cứ thử ngồi “luyện
thân bất động, tĩnh tâm vô thức” sẽ thấy chỉ sau một thời gian rất ngắn, chừng
5 đến 7 phút sẽ có bao nhiêu ý nghĩ ập đến mà ý nghĩ nào cũng “quan trọng”
cần phải nghĩ khiến người luyện tập thấy sốt ruột. Không có nghị lực, tính
kiên trì và sự hiểu rõ tác dụng rất tốt của việc luyện “tĩnh tâm vô thức” người
luyện tập sẽ thấy nghi ngờ và bỏ cuộc. Do khó như vậy, mới phải rèn luyện,
luyện “thiền” thường xuyên, kiên trì mỗi ngày. Hôm nay chỉ “tĩnh tâm vô thức”
được có 5 phút, ngày mai cố gắng nâng lên 7 phút...cứ như vậy sau một thời
gian mới có hiệu quả đúng nghĩa của sự “tĩnh tâm vô thức” liên tục trong vòng
60 phút của buổi tập. Lúc đó mới thực sự làm chủ được tinh thần của bản thân
mình.
Làm chủ được tinh thần của bản thân rất có lợi, ví dụ nếu bị bệnh mất
ngủ, đêm cứ thao thức nghĩ vẩn vơ không sao chợp mắt được, muốn ngủ chỉ cần
“tĩnh tâm vô thức” khoảng 5 ÷ 10 phút rồi quán tưởng: Giấc ngủ đã đến để cơ
thể khỏe mạnh, thì giấc ngủ đến ngay.
Đức Phật thực tế đã trải nghiệm việc “thiền” hay “tĩnh tâm vô thức” nên
hiểu rất rõ sự khó khăn khi thực hành. Ngài coi đó là cái nghiệp của từng con
người, có người luyện tập dễ “thiền định” đúng nghĩa với trạng thái “trong
lìa niệm, ngoài lìa cảnh” nhưng có người mặc dù ngồi “thiền” cả buổi, nhưng
thực chất việc “tĩnh tâm vô thức”, “trong lìa niệm, ngoài lìa cảnh” đúng nghĩa
chưa chắc đã được 10 phút liên tục. Ngài hiểu cái tính tham lam, ích kỷ hay
sự sân, si, ái thường dễ tạo ra các luồng ý nghĩ trong đầu con người, hình
tượng hóa đó là những “con ma”, “cái quỷ” nó đến quấy rối, phá không cho người
“thiền” được khai thác tiềm năng của bản thân, đi đúng đường chính đạo để được
gặp “phật” tại tâm của chính mình.
Thế nào là chính đạo? Chính đạo đó là con
đường, là quy luật đúng đắn của tự nhiên dẫn con người gặp được “phật” tại
tâm của chính mình. Gặp được phật tại tâm của chính mình, nghĩa là đã khai
thác được tiềm năng, kho tàng trí tuệ to lớn đang ẩn chứa có sẵn trong tâm
con người thì đương nhiên trí tuệ của con người sẽ là trí tuệ “phật”. Nói cách
khác con người đã trở thành phật. Đó là lý do vì sao Đức phật khuyên con người
theo đạo phật phải sống lương thiện, không làm điều độc ác hại người và tránh
mọi sự “tham, sân, si...” Lý do đó rất logic khoa học, nếu trong bộ não của
con người còn có ý nghĩ tham lam, ích kỷ hay si ái quá thì không thể luyện
“thiền” để bộ não được tĩnh lặng không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào, không
thể “trong lìa niệm, ngoài lìa cảnh” được. Muốn có sự “thiền”, tâm hồn yên
tĩnh đúng với trạng thái “trong lìa niệm, ngoài lìa cảnh” để khai thác tiềm
năng, kho tàng tri thức khổng lồ đang có sẵn trong tâm của mình thì điều kiện
đầu tiên bắt buộc phải có đó là phải sống lương thiện, không được có trong
đầu những ý nghĩ tham lam ích kỷ, mưu mô hại người... Tiếp thu được điều đó
từ Phật trong tâm, nên ông Chiều nhà “ngoại cảm” do đã bị chết lâm sàng, người
sáng lập ra phương pháp luyện tập TNDS cũng đã khuyến cáo người luyện tập TNDS phải sống thiện, thực hiện 6 điều nên làm và 6 điều không được làm để việc
luyện tập TNDS cho con người có được sức khỏe, giải trừ tối đa bệnh tật trong
người mới có hiệu quả.
Tóm lại, luyện tập TNDS cũng như sự “thiền” trong Đạo phật là phương
pháp khai thác tiềm năng trong cơ thể con người đúng quy luật khách quan của
thế giới tự nhiên. Không có một vĩ nhân nào có thể ép buộc, uốn nắn được quy
luật đó cũng như có thể “thiền” hay “tĩnh tâm vô thức” hộ cho mỗi cá nhân con
người được. Tự mỗi một cá nhân con người phải tu dưỡng, phấn đấu nếu muốn khai
thác tiềm năng của chính mình để có sức khỏe tốt, cuộc sống hạnh phúc cả thân
lẫn tâm hay cao hơn là trở thành “Phật đã thành”. Sự “thiền” trong đạo phật
là sự khai thác tiềm năng của con người ở mức cao, mong cầu đến mức “giác ngộ”,
hiểu và thấy được các các “cảnh giới”, mọi quy luật của thế giới tự nhiên hữu
hình cũng như vô hình thuộc về Đạo Phật. Còn luyện tập TNDS là khai thác tiềm
năng của chính mình phục vụ cho con người có sức khỏe tốt, sống an vui cùng
cộng đồng xã hội nên thuộc về đạo làm Người.
Luyện “thiền” hay luyện tập TNDS là phương pháp khoa học có lợi ích không
những đối với riêng cá nhân mỗi con người mà còn đối với cộng đồng xã hội con
người. Bởi lẽ giản đơn rằng người luyện “thiền” hay luyện tập TNDS phải là
người đã xác định suộc sống lương thiện, có đạo đức tình thương yêu con người
thì mới có hiệu quả khai thác được tiềm năng trong cơ thể con người của mình,
mới thu được năng lượng để có sức khỏe tốt cả thân lẫn tâm. Trong cộng đồng
xã hội hầu hết mọi người tham gia luyện tập TNDS, tức là hầu hết con người
sống trong cộng đồng xã hội đó đều có tâm, có đức, hướng thiện, biết thương
yêu giúp đỡ lẫn nhau. Hầu hết con người trong cộng đồng xã hội đều có tâm,
đức tốt đẹp như thế thì làm sao có chỗ đứng của sự tham lam, nhũng nhiễu, ác
độc, ích kỷ sống với phương châm lẽ sống “mọi người vì mình”? Đương nhiên lẽ
sống “mình vì mọi người” sẽ là lẽ sống chung của xã hội nếu xã hội đó có đa
số, đông đảo người tham gia vào luyện “thiền”, tham gia vào phong trào luyện
tập TNDS-PHSK.
Hà nội, ngày 18/4/2012
Lê văn Cường
Các bài cùng tác giả
▪
Tuyên Ngôn Về Hố Đen Vũ Trụ Và Triết Lý “Sắc Bất Dị Không...” -
Lê văn Cường
▪
Sự “Cong” Của Vận Tốc Ánh Sáng -
Lê văn Cường
▪
Vận Tốc Ánh Sáng Trong Không Gian Của Hố Đen -
Lê văn Cường
▪
Giải Thích Hiện Tượng Những Hạt Neutrino Chuyển Động Nhanh Hơn Vận Tốc Ánh Sáng -
Lê văn Cường
▪
Hiểu Biết Về Tâm Năng Dưỡng Sinh Và Đạo Phật -
Lê văn Cường
▪ ▪