|
07 tháng 3, 2010 |
LTS: Bài viết này được phát tán trên một số đông các hộp thư thân hữu. Tòa soạn xin phép tác giả để được đăng vào trang nhà. Những khám phá khoa học nhất là về vũ trụ và loài người cần phải được phổ biến để đẩy lui dần bức màn đêm của một số tôn giáo. Trong lúc đó các giả thuyết đó đã làm bừng lên một số triết thuyết của tôn giáo khác. Trường hợp trình bày sau đây là Phật giáo. Mặc dù bài viết trình bày các giả thuyết khoa học, nhưng một phần được đặt trong ánh sáng của triết lý tôn giáo nên có thể có vài khía cạnh thuộc về quan niệm chủ quan. Độc giả có thể bổ túc những khía cạnh thiếu chính xác nếu có. (SH)
Năm 2005
được nhân loại lấy làm năm Vật lý quốc tế, đồng thời kỷ niệm lớn 100 năm ngày ra
đời Thuyết tương đối của nhà bác học vĩ đại Albert Einstein.
Chúng ta, những con
người lương thiện hiện đang sống trên trái đất tươi đẹp này nên vui mừng vì sự
kiện đó. Vì rằng trong trực giác của con người đang bùng phát không thể diễn tả
thành lời dấu hiệu của lòng khao khát vươn lên sẵn sàng đón nhận những bước thay
đổi lớn lao trong lịch sử nhận thức của lòai người, kể cả về khoa học tự nhiên
lẫn khoa học xã hội.
Tại thời điểm này,
tôi tin rằng đang có hàng trăm, hàng ngàn “bộ óc” siêu việt trong số hơn 6 tỷ
con người sống trên trái đất đang mày mò suy nghĩ tìm cách bứt phá vươn lên, dám
chấp nhận từ bỏ những quan điểm xưa cũ tưởng như bất di bất dịch nhưng sự thực
lại là lỗi thời và đang trói chặt sự tiến hóa cao hơn của tri thức. Một bước
tiến mới, một sự thay đổi lịch sử nhận thức con người theo chiều hướng tốt và
cao hơn sẽ phải xảy ra. Cái sẽ phải xảy ra đó không thể nào khác được là phải
liên quan tới Einstein và sự tuyên bố sai lầm trong suốt 29 năm nghiên cứu về hố
đen trong vũ trụ của nhà khoa học người Anh Stephen Hawking.
Einstein thường hay
trích dẫn: “Khoa học thiếu tôn giáo thì khập khiễng, tôn giáo thiếu khoa học thì
mù lòa...”.
Sự nghiên cứu về hố đen của ông Stephen Hawking bị khập khiễng do thiếu tôn giáo
chăng? Đó là ý tưởng lớn khiến chúng ta cần mượn sự trợ giúp của triết lý “Sắc
bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc...” trong
kinh “Trái tim Tuệ giác Vô thượng” của Đức Phật Thích ca. Hạnh phúc thay! Sự bí
ẩn của hố đen thế là từ nay không còn bí ẩn nữa.
Để hiểu trọn vẹn
trong hố đen của vũ trụ có những gì, chúng ta cần kiên nhẫn biết khái quát theo
quan điểm khoa học về hố đen và những yếu tố vật lý khác có liên quan.
Hố đen trong vũ trụ là gì ?
Từ những thập kỷ
đầu của thế kỷ XX, các nhà khoa học thiên văn trên thế giới đã phát hiện ra
trong không gian bao la của vũ trụ có những vùng đặc biệt tối đen. Các loại kính
thiên văn hiện đại bậc nhất không nhận được bất cứ sự bức xạ nào gọi là của vật
chất phát ra, chỉ thấy tại đó tối đen như mực. Nhưng từ khoảng cách xa, mọi vật
thể như các hành tinh, các vì sao vẫn tồn tại và di chuyển theo những quỹ đạo có
liên quan tới vùng tối đen, và ánh sáng, sự dao động điện từ hay còn gọi là các
“hạt” phôtôn khi chuyển động có khối lượng tới đó cũng bị hút vào. Điều đó đã
buộc các nhà khoa học phải suy đoán tại vùng tối đen ấy không phải là vùng trống
rỗng mà là vùng có trường lực hấp dẫn cực lớn. Cái vùng tối đen như mực nhưng có
sức hút khủng khiếp, hút mọi thứ vào trong đó được khoa học đặt tên là Hố đen.
Tuy nhiên, từ trước
đấy các nhà khoa học cỡ lớn, cụ thể như Einstein đã hình dung ra hiện tượng suy
sụp hấp dẫn tồn tại trong không gian vũ trụ của những Siêu sao có khối lượng cực
lớn. Ví dụ có một Siêu sao với khối lượng cực lớn, tương ứng với khối lượng đó
là một trường hấp dẫn cực mạnh bao quanh và trong quá trình toả sáng nó sẽ bị
mất năng lượng. Sự mất năng lượng lớn đến một lúc nào đó sẽ tạo ra đối áp suất
khiến cho cấu trúc vật chất của Siêu sao đổ sụp vào trong. Tức là Siêu sao đã
“chết”, kích thước của nó co lại một cách cực kỳ nhanh chóng và cuối cùng trở
thành một hố đen, một vùng gồm toàn trường lực hấp dẫn mạnh. Toàn bộ những gì có
khối lượng nếu nằm trong phạm vi trường lực hấp dẫn của hố đen đều bị hút vào
trong và mất tích trong đó. Quá trình bị hút vào trong và bị mất tích như thế
nào thì chưa ai hình dung ra được.
Sự suy sụp hấp dẫn
của Siêu sao để biến nó thành một hố đen gợi lên một ý: khối lượng có thể biến
thành năng lượng. Tôi ngờ rằng tư duy về việc này Einstein đã nảy ra công thức
bất hủ E=m.c²¬¬ , và đây cũng là một vế “Sắc bất dị không...” trong kinh Phật để
nói lên cái vô thường của vạn vật trong vũ trụ. Một ngôi sao to lớn hùng vĩ là
thế rồi cuối cùng cũng phải “chết” và đổ sụp vào trong, biến thành một khoảng hư
vô không trông thấy, chẳng có hình dáng kích thước gì cả. Dấu vết của nó chỉ để
lại một vùng gồm toàn lực vô hình, và những cái gì là khối lượng có hình thể chỉ
thấy có vào chứ không có ra. Dường như hiện tượng hố đen cố tình chọc tức định
luật bảo toàn năng lượng - khối lượng của vật chất.
Khái quát về hố đen
như trên chưa thể dễ hiểu để xem xét bên trong nó có gì, chúng ta cần phải biết
thêm khái quát các chiều của không gian.
Các chiều của
không gian
Hình học phi Euclide trên mặt cong của trái đất |
Bất cứ ai đi học
tại các trường phổ thông đều được tiếp xúc với hình học phẳng Euclide. Hình học
phẳng Euclide mô tả rất tốt trên mặt phẳng trong hệ không gian 3 chiều. Không
gian 3 chiều được biểu diễn bằng 3 phương x, y, z vuông góc với nhau. Hai phương
vuông góc tạo thành mặt phẳng, phương còn lại vuông góc với mặt phẳng đó. Tiên
đề của hình học phẳng là 2 đường thẳng song song không bao giờ cắt nhau, hình
chiếu của một điểm lên một mặt phẳng chỉ là một điểm. Nghĩa là chỉ tồn tại một
hình và một bóng của hình đó. Trong quá trình tiến hóa của tri thức, người ta
thấy rằng hình học Euclide mặc dù độc quyền thống trị thế giới lâu đến thế song
vẫn hoàn toàn không phải là hình học duy nhất. Có thể xây dựng một hình học khác
không kém phần lôgíc và nó không mâu thuẫn nội tại hơn so với hình học Euclide.
Thế là hình học Hipecbon hay còn gọi là hình học phi Euclide ra đời. Hình học
phi Euclide nhằm mô tả không gian, mặt phẳng thay bằng mặt cong, ít nhất là thêm
một chiều nữa vào để trở thành không gian 4 chiều. Bạn hãy hình dung đơn giản là
tại không gian 3 chiều có một phương vuông góc với một mặt phẳng thì nay phương
đó vuông góc với mặt cong. Tiên đề 2 đường thẳng song song không bao giờ cắt
nhau thì nay 2 đường thẳng song song đó cắt nhau. Ví dụ 2 đường kinh tuyến song
song với nhau trên mặt hình cầu cắt nhau tại 2 điểm cực Bắc và Nam. Hình chiếu
của một điểm lên mặt phẳng chỉ là một điểm nhưng lên mặt cong sẽ không phải chỉ
một điểm nữa mà là một hình khác tập hợp bởi nhiều điểm. Tức là không phải chỉ
một hình một bóng như hình học phẳng Euclide, một hình có thể có nhiều bóng tuỳ
theo độ cong của mặt cong. Không gian càng có nhiều chiều thì độ cong càng lớn,
số bóng của hình càng nhiều. Sức tưởng tượng của đa số chúng ta có giới hạn, nên
thư giãn một tý cho vui bằng câu chuyện ông Tôn ngộ không trong truyện Tây du ký
có thể biến hóa thành hàng trăm ông Tôn ngộ không giống nhau như đúc trong khắp
không gian mà không biết ông nào là thật ông nào là giả. Chúng ta đang quen với
cái chỉ có một hình một bóng, nay nếu thấy chỉ một hình mà có tới 5, 10, thậm
chí hàng trăm, hàng ngàn cái bóng thì khó có thể tin và chấp nhận được cái vô lý
khủng khiếp ấy dù nó là sự thật khoa học tại không gian nhiều chiều, không gian
cong.
Mô tả khái quát như
vậy để thấy không thể xác định được vị trí thật của một hình thể cụ thể trong
cái không gian nhiều chiều hơn số chiều của không gian chúng ta đang nhận thức.
Một hình thể cụ thể nào đó nằm trong không gian nhiều chiều bản thân nó vẫn tồn
tại và cả cái không gian nhiều chiều chứa nó đại diện cho nó. Nghĩa là bất cứ vị
trí nào trong không gian nhiều chiều cũng có cái bóng của hình thể nói trên mà
không thể xác định vị trí thật của nó. Điều đó để ngầm hiểu rằng khối lượng m
chuyển thành năng lượng E trong công thức E=m.c² hình thể của khối lượng m vẫn
tồn tại ở một vị trí nào đó trong năng lượng E, và tại vị trí bất kỳ nào đó
trong năng lượng E cũng đều có thể thấy cái bóng của hình thể khối lượng m .
Điều này tương tự như trong kinh Phật, Phật nói: Phật ở khắp mọi nơi, bất cứ chỗ
nào cũng có thể gặp Phật, pháp thân của ông bao trùm khắp không gian, thực tế
cái bóng của ông vẫn tồn tại nhưng vị trí thật thì không biết ở đâu.
Không gian nhiều
chiều khái quát như vậy nhưng có lẽ vẫn cần khái quát thêm một đại lượng vật lý
rất quen thuộc nữa đó là: Bản chất ánh sáng.
Khái quát bản
chất ánh sáng
Cách đây vài chục
năm, có một tạp chí đã nêu những bí ẩn của thiên nhiên mà khoa học chưa thể giải
thích được. Một trong những bí ẩn ấy là: Theo tính toán của một số nhà khoa học
thì tổng của tất cả các phản ứng nhiệt hạch xảy ra trên mặt trời sản sinh ra số
hạt phôtôn (ánh sáng) không đủ với số lượng mà thực tế mặt trời đã phát ra trong
không gian. Vậy thì mặt trời lấy đâu ra số phôtôn để phung phí như vậy?
Nếu tạp chí đó
không phải là báo lá cải và thông tin khoa học về sự tính toán đó là chính xác
thì chúng ta có thể hình dung rõ nét hơn về diện mạo không gian cũng như bản
chất ánh sáng. Bản chất của ánh sáng là gì? Có thể nói toạc ra rằng cho đến nay
khoa học vẫn chưa hiểu được rõ ràng. Chỉ có thể định nghĩa khái quát: ánh sáng
vừa mang tính sóng vừa mang tính hạt. Mang tính sóng vì sự truyền của ánh sáng
trong không gian có tính sóng, có sự giao thoa khi gặp nhau; mang tính hạt gọi
là hạt phôtôn, vì khi chuyển động ánh sáng có khối lượng. Diện mạo của hạt
phôtôn như thế nào? Đó là câu hỏi khó nên chúng ta đành phải chấp nhận với những
quan niệm thuật ngữ mà vật lý hiện đại đang dùng: ánh sáng là dao động điện từ.
Mô hình sự truyền của ánh sáng trong không gian được mô tả khái quát thế này:
Giả sử electron gặp phản electron sẽ huỷ nhau sinh ra năng lượng, sinh ra phôtôn
tức ánh sáng. Khởi đầu là sinh ra mạch điện trường khép kín, mạch điện trường
khép kín xuất hiện tức điện trường biến thiên sẽ sinh ra mạch từ trường khép kín
tương ứng. Mạch từ trường khép kín xuất hiện tức biến thiên từ trường lại sinh
ra mạch điện trường khép kín tương ứng... Cứ thế, cái này xuất hiện làm tiền đề
cho cái kia xuất hiện nối tiếp nhau như một chuỗi móc xích dịch chuyển trong
không gian với tốc độ gần bằng 300.000 km/s. Nếu trong quãng đường truyền theo
kiểu dây xích đó không gặp trở ngại làm mất năng lượng thì nó sẽ truyền mãi mãi
trong không gian.
Mỗi một mắt xích
mạch điện trường khép kín hay mạch từ trường khép kín là một “hạt” phôtôn ánh
sáng, khối lượng nghỉ của phôtôn bằng không, nghĩa là mạch điện trường hay từ
trường khép kín không xuất hiện. Mô hình sự truyền của ánh sáng trong không gian
như vậy thì rõ ràng là tại mỗi điểm bất kỳ trong không gian đều ẩn chứa thế năng
sản sinh ra “hạt” phôtôn. Triết lý “sắc bất dị không...” của Phật học lại thắng
thế và là một sự tổng quát khoa học uyên bác. Tại cái không gian tưởng là trống
rỗng không có gì nhưng lại ẩn chứa cái thế năng sản sinh ra “hạt” phôtôn ánh
sáng có khối lượng và cái đang có khối lượng, ánh sáng trông thấy đó khi “nghỉ”
lại bằng không. Phải nói là Phật Thích ca trông thấy những cái mà người thường
không trông thấy, soi xét thế giới vi mô rất tinh tế, không thể cứ gán ghép lung
tung là tôn giáo hay không có cơ sở khoa học. Khoa học không biết đến Phật học
thì khập khiễng thật! Còn cái sự vô lý và bí ẩn của thế giới tự nhiên khi mà
khoa học chưa thể giải thích được vì sao số lượng phôtôn do quá trình phản ứng
nhiệt hạch sinh ra không đủ với số lượng mặt trời đã phung phí phát vào không
gian đăng trong tạp chí vừa nói khiến chúng ta, những nhà khoa học cự phách,
phải tự xét lại “trí tuệ uyên bác” của mình.
Không những thế,
khi đã hiểu về cái tính “sắc bất dị không...” hay mỗi một vị trí bất kỳ trong
không gian đều có thế năng để tạo ra mạch “điện trường khép kín”, tức tạo ra
phôtôn ánh sáng mà vẫn nhận thức vận tốc ánh sáng là hằng số bất di bất dịch
trong toàn vũ trụ thì nhận thức đó là sai lầm đáng tiếc. Đơn giản ở chỗ, thế
năng ở một điểm bất kỳ sinh ra phôtôn ánh sáng của hệ không gian 3 chiều khác
với hệ không gian 4 chiều. Ngay cái quan điểm không gian là trường điện từ đã
phản ánh rất rõ ràng tốc độ dao động điện từ phụ thuộc vào trường điện từ, mà
trường điện từ trên trái đất không thể giống trường điện từ trong hố đen vũ trụ.
Điều khẳng định 3 đại lượng vật lý (không gian, thời gian, vận tốc ánh sáng) có
liên quan chặt chẽ với nhau là sự thật chứ không phải cứ băn khoăn, nghi ngờ.
Nói qua về bản chất
ánh sáng như vậy là tương đối rõ nhưng trước khi “nhìn” vào trong lỗ đen phải
phác qua “dụng cụ để nhìn” là Thuyết tương đối của Einstein.
Khái quát
Thuyết tương đối của Einstein
Cuối thế kỷ 19,
giới khoa học xôn xao về vấn đề Ete vũ trụ, họ cho rằng tồn tại một chất Ete nào
đó trong không gian, chất này có thể sẽ cản vận tốc truyền của ánh sáng khi nó
cùng chiều chuyển động với trái đất. Để phát hiện ra chất Ete và cũng là để
chứng minh nguyên lý tương đối về vấn đề cộng vận tốc, nhà khoa học Michelson đã
chế tạo ra dụng cụ đo và thực tế đo đi đo lại vận tốc ánh sáng theo mọi phương
so với phương chuyển động của trái đất. Thật kỳ lạ là vận tốc truyền của ánh
sáng theo mọi phương là như nhau, nghĩa là nó có tính độc lập, không phụ thuộc
vào nguồn chuyển động.
Kết quả thực nghiệm
đo vận tốc ánh sáng đó không những đã phủ định sự tồn tại của chất Ete mà còn
gây ra mâu thuẫn lớn với nguyên lý tương đối khiến cho giới khoa học ngỡ ngàng
không hiểu cái nào là đúng cái nào là sai. May thay! Năm 1905, với bộ óc uyên
bác hiểu được vấn đề, Einstein đăng một bài báo, trong đó ông nói một cách đơn
giản là hai tiên đề nguyên lý tương đối và tính độc lập của vận tốc ánh sáng,
không những không đối lập với nhau mà còn cho phép giải thích được nhiều điều
nếu đồng thời chấp nhận chúng. Và đó là cơ sở ra đời
Thuyết tương
đối
Thuyết tương đối
của Einstein tương đối trừu tượng và khó hiểu đối với những người không chuyên
về vật lý. Nội dung chính của Thuyết tương đối phản ánh hiện tượng khi một hệ
quy chiếu chuyển động với vận tốc nhanh cỡ gần với vận tốc ánh sáng thì tại hệ
đó xảy ra hiệu ứng biến đổi không gian, thời gian, kích thước, khối lượng. Tốc
độ chuyển động càng nhanh thì hiệu ứng biến đổi càng lớn. Einstein đã đưa ra
nhiều công thức tính toán nhưng điển hình nhất là công thức E=m.c² (trong đó E:
năng lượng, m: khối lượng, c: vận tốc ánh sáng). Công thức này phản ánh giữa
năng lượng và khối lượng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Để mô tả những nét
chính của Thuyết tương đối thật dễ hiểu, chúng ta hãy theo dõi ví dụ sau đây:
Giả sử có một con tàu chứa một số hành khách đi du lịch xuất phát từ một sân bay
trên trái đất (coi trái đất là hệ đứng yên), bay vào khoảng không vũ trụ với vận
tốc cực nhanh cỡ khoảng 0,7 vận tốc ánh sáng. Với vận tốc này, tại con tàu bắt
đầu xảy ra hiệu ứng tăng khối lượng, khi khối lượng tăng thì trường hấp dẫn cũng
tăng theo tương ứng. Trường hấp dẫn tăng của con tàu là nguyên nhân làm co không
gian, co kích thước và thời gian trôi chậm lại phù hợp với độ co của không gian.
Chúng ta là những người quan sát đứng trên trái đất (hệ đứng yên) sẽ nhận thấy:
Con tàu khi chưa chuyển động có khối lượng là m, kích thước đường kính: d , thời
gian trôi như chúng ta là: t
Khi bắt đầu xảy ra
hiệu ứng thì những thông số đó đã khác, khối lượng là m’ > m , kích thước đường
kính d’ < d , thời gian trôi t’ > t . Nếu con tàu tiếp tục tăng vận tốc để tiến
tới xấp xỉ vận tốc ánh sáng thì khối lượng của nó sẽ tiến tới lớn vô cùng, thời
gian trôi chậm vô hạn và kích thước đường kính của con tàu sẽ tiến tới bằng
không. Hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng, co không gian, co kích thước, trôi
chậm thời gian đã đạt đến đỉnh điểm của sự chuyển trạng thái từ khối lượng thành
năng lượng theo công thức E=m.c². Chúng ta có thể hình dung một sự vô lý nhưng
có thật là: con tàu có hình thể kích thước đàng hoàng chuyển động nhanh bằng vận
tốc ánh sáng lại trở thành không có hình thể, kích thước bằng số không. Mắt
chúng ta không thấy hình thể con tàu nữa, giờ đây nó là vô hình, nhưng trong trí
não vẫn hình dung ra có một khối năng lượng, một khoảng trường lực hấp dẫn vô
hình tương đương với khối lượng tăng vô cùng lớn của con tàu đang chuyển động
với vận tốc ánh sáng trong không gian. Hình dáng độ lớn của “khối năng lượng” đó
thế nào thì quả thật ngoài trí tượng tượng của con người.
Theo nguyên lý
tương đối, con tàu đó vẫn tồn tại, khách du lịch trên tàu vẫn sống thoải mái như
chẳng có chuyện gì xảy ra. Đối với họ thì chẳng có cái kích thước, không gian
nào bị co hay thời gian bị trôi chậm cả, sự biến đổi không gian, thời gian nếu
có thì có lẽ chỉ xảy ra trên trái đất. Theo lịch trình đã quy uớc, sau một năm
khách du lịch quay trở về trái đất, tất nhiên là họ tính theo thời gian trôi tại
con tàu, thì thời gian trôi tại trái đất đã qua vài thế kỷ.
Như vậy là chúng ta
đã sơ bộ phác qua những yếu tố cơ bản cần thiết dựa vào nó để xé toang bức màn
bí mật bấy lâu nay đã che phủ lỗ đen trong vũ trụ, cũng là lúc giải mã được cái
câu triết lý sâu sắc “sắc bất dị không, không bất dị sắc...” tồn tại hơn 2500
năm đến nay trong Phật giáo mà nhân loại chúng ta chẳng mấy ai hiểu ý nghĩa thực
nên đã khập khiễng và mù lòa như lời của Einstein đã nói. Cần phải sớm chấm dứt
tình trạng khập khiễng và mù lòa càng nhanh càng tốt, do đó bản Tuyên ngôn về lỗ
đen vũ trụ hay còn gọi là Tuyên ngôn văn hóa Phật học “sắc bất dị không...” ra
đời.
Tuyên ngôn về
hố đen vũ trụ và “sắc bất dị không...”
Như đã giới thiệu
khái quát, hố đen là một thực thể vô hình trong vũ trụ, giới khoa học gọi là một
khoảng không gian cong với độ cong rất lớn, có nhà khoa học gọi đó là hệ không
gian - thời gian 10 chiều nếu quy ước hệ không gian - thời gian của chúng ta là
4 chiều (3 chiều không gian và một chiều thời gian). Trong hệ không gian - thời
gian 10 chiều đó có những cái gì không ai biết, chỉ biết rằng không thể tồn tại
bất cứ cái gì gọi là vật chất, bởi trường lực hấp dẫn mạnh khủng khiếp, hút tất
cả những hình thể có khối lượng, kể cả ánh sáng lởn vởn xung quanh vào trong.
Những hình thể có khối lượng bị hút vào trong rồi đi đâu? Đó là vấn đề trớ trêu
của tạo hóa chỉ ra rằng: Định luật bảo toàn năng lượng - khối lượng với những
nhận thức bất di bất dịch của chủ nghĩa duy vật không còn ngôi vị thống soái.
Tri thức của con người sẽ không thể tiến hóa nếu vẫn còn tính cố chấp, bảo thủ
tự coi mình là vĩ đại trong thế giới tự nhiên.
Điều lôgíc ai cũng
có thể nhận thấy cái hố đen có không gian - thời gian 10 chiều đó không thể đồng
nhất từ trong ra ngoài. Thế năng trọng trường P=m.g.h của trường hấp dẫn đã chỉ
ra chiều của không gian phải tăng từ ngoài vào trong. Nghĩa là tại vị trí bán
kính ngoài cùng không gian - thời gian 10 chiều của lỗ đen có số chiều xấp xỉ
như không gian - thời gian 4 chiều của chúng ta.
Con tàu chở khách
đi du lịch của Einstein như đã ví dụ. khi chuyển động cực nhanh đến một cái
ngưỡng nào đó mới bắt đầu xảy ra hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng, co không
gian... Từ cái ngưỡng xảy ra hiệu ứng, tốc độ con tàu càng cao thì hiệu ứng biến
đổi càng mạnh, không gian - thời gian của con tàu càng cong, số chiều càng tăng
lên. Kết quả cuối cùng của hiện tượng là không gian - thời gian có số chiều, có
độ cong do nguyên nhân trực tiếp là hiệu ứng biến đổi, nguyên nhân gián tiếp là
sự chuyển động nhanh. Nếu như quay ngược lại hình ảnh cuộn phim biến đổi không
gian - thời gian của con tàu đó chúng ta sẽ thấy chính số chiều, độ cong của
không gian - thời gian trên con tàu lại là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp
của kết quả hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng... cũng như sự chuyển động nhanh
của con tàu. Do vậy, giả sử con tàu của Einstein đi với tốc độ hết sức bình
thường, chẳng có hiệu ứng nào xảy ra với tốc độ đấy, nhưng lọt vào lỗ đen thì
chính số chiều và độ cong không gian - thời gian của lỗ đen sẽ gây ra hiệu ứng
biến đổi tăng khối lượng, giảm kích thước, trôi chậm thời gian và giảm tốc độ
của con tàu. Con tàu càng vào sâu trong hố đen thì hiệu ứng biến đổi càng lớn,
tốc độ con tàu càng giảm theo quan sát của chúng ta đứng bên ngoài. Hiệu ứng
biến đổi của con tàu sẽ dừng lại khi độ cong hay số chiều không gian - thời gian
của con tàu cân bằng với độ cong, số chiều không gian - thời gian của hố đen.
Kích thước con tàu chúng ta thấy ở bên ngoài là dương, có hình thể rõ ràng,
nhưng khi vào trong không gian - thời gian của hố đen hình thể, số dương đó giảm
dần, thu nhỏ lại về số không chứ chưa dám kết luận là trở thành số âm.
Căn cứ vào nguyên
lý tương đối, con tàu của Einstein vẫn tồn tại khi nó chuyển động cực nhanh gây
ra hiệu ứng biến đổi không gian - thời gian của chính nó thì tại không gian -
thời gian của hố đen nó cũng tồn tại như vậy. Các khách du lịch trên con tàu vẫn
sống bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Đối với họ, thế giới xung quanh
vẫn là thế giới vật chất không có gì khác lạ. Nhưng đối với chúng ta, con tàu và
những vị khách du lịch đó đang ở trong hố đen, một thế giới siêu hình hoàn toàn
khác biệt, tất cả đều trong trạng thái vô hình, gọi là “khối lượng” không có
kích thước, hình thể cũng được mà gọi là “năng lượng siêu hình” cũng không sai.
Quả là “sắc bất dị không, không bất dị sắc...” Cái mà chúng ta tưởng là thật hóa
ra không phải thật, cái mà tưởng là đã “chết” hóa ra không “chết”. Cái “Tưởng
là...” của chúng ta rõ ràng không phải là chân lý khoa học trong thế giới tự
nhiên. Về mặt lý thuyết, con tàu chuyển động của Einstein đi chu du khắp vũ trụ
với tốc độ cực lớn gây hiệu ứng biến đổi không gian... của chính nó, có thể trở
về trái đất yên bình trong tương lai. Nhưng con tàu đó lọt vào hố đen, do chính
không gian - thời gian của hố đen gây hiệu ứng biến đổi thì quả thực là đến giờ
phút này không ai có thể nghĩ ra cách thoát khỏi trường lực hấp đẫn mạnh khủng
khiếp ấy để trở về trái đất an toàn.
Bí mật của hố đen
đã được khám phá. Nhân danh tri thức của con người, chúng ta có quyền tuyên bố
rằng:
- Các bộ môn khoa học cơ bản, nhất là ngành vật lý thiên văn vũ trụ của nhân
loại đang khập khiễng, đang dựa trên nền tảng của sự nhận thức chưa chuẩn.
- Tại các hố đen đầy rẫy trong vũ trụ là các thế giới siêu hình theo quan điểm
nhận thức của chúng ta nhưng lại là hữu hình theo quan điểm nhận thức của “những
người” tại thế giới siêu hình đó.
- Trí tuệ của loài người còn đang tiến hóa, chưa đạt đến đỉnh cao nên đừng tùy
tiện nghĩ đến chuyện “cải tạo” thế giới tự nhiên phục vụ ý muốn chủ quan của
mình mà có thể sẽ vô tình phá vỡ sự cân bằng của nó.
- Có những lý trí, nền văn minh cao đang tồn tại trong không gian vũ trụ ngoài
sức tưởng tượng của con người, chỉ khi nào trình độ phát triển trí tuệ chung của
nhân loại tương đối cao mới nhận biết được điều đó.
- “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc...”
đó là tư tưởng của Đức Phật Thích ca mang tính khoa học để giải mã những điều
tuyên bố trên chứ không phải theo nhận thức để áp dụng phương pháp tu luyện tính
Không đang hiện hành trong tôn giáo Phật.
Có những điều tưởng
là vô lý không tin được, nhưng lại là sự thực khách quan. Đầu thế kỷ XX , khoa
học của nhân loại cũng đã va vấp vào sự vô lý không thể tin được như sự mâu
thuẫn giữa tính độc lập của vận tốc ánh sáng và nguyên lý tương đối; nhưng cũng
đã vượt qua vì đức khiêm tốn tự xét trình độ có giới hạn của mình dám chấp nhận
sự vô lý trớ trêu để thu được kết quả tốt đẹp: mở rộng nhận thức để tiến hóa cao
hơn. Đầu thế kỷ XXI này, lịch sử lại lập lại, sự vô lý không thể tin được lại ập
đến thử thách tri thức loài người một lần nữa. Tin và chấp nhận hay không tuỳ
các bạn, đối với tôi sự vô lý và không tin được đó là sự phản ánh trình độ phát
triển trí tuệ của chúng ta chưa cao, nhưng lại toát lên trình độ uyên bác, vĩ
đại của một vĩ nhân mà nhân loại chưa hiểu, vẫn tưởng là tôn giáo, và vẫn thờ
phụng theo kiểu tôn giáo rất ngây thơ, có thể nói là sự lầm lạc đáng thương.
“Sắc bất dị không...” lại hiểu theo cái lối dùng ý chí bế bịt tất cả các giác
quan cảm xúc của con người, cố tập theo cái tính Không tự nghĩ: Không yêu -
ghét, không vui - buồn, không nghe, không nhìn, không học, không làm... Để mong
được ngộ đạo và có trí tuệ Phật, để “trốn việc quan đi ở chùa”. Hoặc thù hận đến
điên cuồng cuộc sống văn minh đầy đủ tiện nghi vật chất, hay ngược lại lại lấy
sự đầy đủ tiện nghi vật chất làm thú vui hạnh phúc của con người. Hơn 2500 năm
qua, thực tế có thấy người nào tu luyện theo cái kiểu cách ấy mà đạt công quả có
trí tuệ siêu phàm, bố thí hỷ xả giúp ích cho đời như ông Newton hay ông Einstein
chỉ biết thuần túy về khoa học đâu? Danh hiệu Phật, đại Bồ tát trong Phật giáo
chỉ dành cho những người có lòng từ bi hỷ xả bố thí trí tuệ, sức lực (hoặc vật
chất nếu có) lớn cho xã hội loài người mà không cầu mong được đáp ứng lại. Không
có trí tuệ, sức lực... để bố thí cho xã hội ấm no, hạnh phúc mà chỉ phá rối, thù
oán ngu xuẩn thì làm sao có danh hiệu đại Bồ tát để khi chết được lên cõi “thiên
đàng”?
Có những người muốn
biết về cõi thiên đàng, cõi Niết bàn hay cõi Tây phương cực lạc ở đâu để họ có
hướng tu dưỡng. Không ai trả lời được câu hỏi đó nên thường lảng tránh hoặc
giảng giải với ý nghĩa mơ hồ. Vì vậy mới có những kẻ lợi dụng xúi giục những tín
đồ mê muội ôm bom liều chết phá hoại cuộc sống của người khác cũng như của chính
bản thân mình để hòng linh hồn được “đón” lên cõi “thiên đàng”, hay cõi “niết
bàn”... Đau đớn thay! Chỉ khi nào trí tuệ con người đạt đến đỉnh cao vời vợi,
tức là đã thật sự “...tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác vô thượng,..”, lúc đó
mới tự “soi sáng như thật rằng...” : Loài người đang tu mù! Các trò nhố nhăng
đang diễn ra trên thế giới này đều là giả dối, vô vị. Chỉ vì thiếu tri thức,
không hiểu giá trị của cuộc sống làm người và vì sự duy trì tồn tại của cái thân
xác vật chất mà anh này lừa bịp anh kia, đang tâm huỷ hoại lẫn nhau, thậm chí
còn sui nhau tự phá hỏng cuộc đời “làm người” đáng quý của mình mà tạo hóa đã
ban tặng.
Một con người đã
làm nên lịch sử như Đức Phật Thích ca, có trí tuệ siêu phàm hiểu được các tinh
hoa của khoa học từ thế giới vi mô đến thế giới vĩ mô trước chúng ta, những bác
học hiện đại ngày nay hơn 2500 năm. Ông là Thánh nhân chưa dám nói là vĩ đại
nhất, nhưng ra đời sớm nhất trong số các Thánh nhân của loài người, chúng ta
thấy ông đâu có sui ai đi lật đổ, đảo chính phá rối trật tự xã hội hoặc sui ai
ôm bom liều chết tử vì Đạo... mà chỉ sui làm việc thiện, thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau. Vì trong tri thức “soi sáng như thật rằng...” cõi “Thiên đàng”, cõi “Tây
phương cực lạc”... hay gọi theo khoa học là khoảng không gian - thời gian 10
chiều của hố đen đang tồn tại trong vũ trụ không có chỗ chứa cho những kẻ ngu
dốt và tàn ác sát sinh, dù là người bị súi giục.
Hỡi những con người
chưa được “tỉnh thức bình yên”, hãy tự soi xét lại mình, sám hối và sớm giác ngộ
buông tay dao, tay lựu đạn để dắt tay nhau cùng học hỏi, tìm hiểu về chân lý giá
trị đích thực của cuộc sống Làm Người trước khi hành động.
Lê văn
Cường
Các bài cùng tác giả
▪
Tuyên Ngôn Về Hố Đen Vũ Trụ Và Triết Lý “Sắc Bất Dị Không...” -
Lê văn Cường
▪
Sự “Cong” Của Vận Tốc Ánh Sáng -
Lê văn Cường
▪
Vận Tốc Ánh Sáng Trong Không Gian Của Hố Đen -
Lê văn Cường
▪
Giải Thích Hiện Tượng Những Hạt Neutrino Chuyển Động Nhanh Hơn Vận Tốc Ánh Sáng -
Lê văn Cường
▪
Hiểu Biết Về Tâm Năng Dưỡng Sinh Và Đạo Phật -
Lê văn Cường
▪ ▪