 |
08-Feb-2012 |
Bản Tin Mật (Confidential) số 10 (Bulletin No 10, pp. 25-27) của Vatican:
“Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa,
giáo hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo và biến
đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để có thể áp dụng chúng vào đời
sống của những tín đồ của Ki-Tô. ”
1. 2.
Nhân đọc bài:
Triết lý giải thoát của Ấn độ giáo và Phật giáo
với Mầu nhiệm Cứu độ của Kitô giáo: Từ cái nhìn đối sánh đến ý kiến
đối thoại
của
Đăng Trình, do hoctran đăng trên www. lamhong. org
From: To Chuc Giao Diem <giaodiemonline@yahoo.com>
Date: 2012/1/10
Subject: Chuyển tiếp: Kính gửi….
.…
Tôi được Giao Điểm chuyển cho bài viết
trên của Đăng Trình đăng trên www.
lamhong. org . Bận vì
sửa soạn ăn Tết nên đến nay tôi mới có thì giờ ngó đến bài viết này.
Đọc xong rồi thì lại không thể không viết một bài để giải hoặc Ki Tô
Giáo, theo đúng chủ trương của Giao Điểm từ 20 năm nay. Tại sao lại
phải giải hoặc Ki Tô Giáo ? Hi vọng bài này sẽ giải đáp phần nào và
cho thấy đây là vấn đề cần thiết trong thời đại ngày nay, nhất là đối
với người Việt Nam, vì hệ lụy của Ki Tô Giáo trên dân tộc Việt Nam
không phải là nhỏ.
I. “Cứu Rỗi” Hay “Cứu Độ"?
Đọc bài Triết lý giải thoát của Ấn độ
giáo và Phật giáo với Mầu nhiệm Cứu độ của Kitô giáo: Từ cái nhìn
đối sánh đến ý kiến đối thoại của Đăng Trình tôi thấy nội dung
không có gì lạ, lại vẫn chỉ là ... theo sách lược của giáo hội Ca-tô
trong vài thập niên gần đây:
Làm ra vẻ hiểu biết nhưng hời hợt về
các tôn giáo khác, nhất là Phật Giáo, và cuối cùng xuyên tạc hạ thấp
các tôn giáo khác rồi đề cao những gì Ki Tô Giáo tin, tin nhưng mà
không hiểu.
Trong phần đầu của bài viết, ông ta viết một số điều phổ thông quen
thuộc về triết lý giải thoát của Ấn Độ Giáo và Phật Giáo. Về Phật
Giáo, ông ta viết qua loa về Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị
Nhân Duyên v…v… Sau đó, ông ta hạ một câu:
“Tuy nhiên, những
phương cách giải thoát ấy có thật sự mang lại hạnh phúc cho con người
và nhân quần xã hội không, đặc biệt là trong bối cảnh của xã
hội kim tiền hôm nay, khi mà chính con người đang thấy những phát
kiến khoa học giúp nối dài cánh tay sản xuất, thật sự đưa ra những
giải đáp tích cực và thức thời cho họ về vô vàn các vấn nạn mà trong
làn sương mù hư ảo của thời mông muội ban sơ người ta không thể lý
giải được, và mở rộng những chân trời hưởng thụ của họ… Trong viễn
cảnh như thế, một cái nhìn đối sánh với Kitô giáo từ góc độ giải
thoát, thiết tưởng cần được luận bàn để những ai có ước vọng tìm
hiểu Chân Lý Cứu Độ có một cái nhìn, dẫu còn phiến diện, nhưng
cũng phần nào soi rọi được chút ánh quang nào đó cho nỗ lực tìm kiếm
sự thật.”
Và rồi ông ta bắt đầu nói về cái gọi là “Nhiệm
Mầu Cứu Độ” của Ki Tô Giáo, một cái thuộc loại “lông rùa,
sừng thỏ” mà ông ta không hề biết gì về nó, và trên thực tế không
hề có trên thế gian, nhưng ông ta coi đó là sự thật mà nhân
loại cần tìm kiếm.
Đặt câu hỏi: “Tuy nhiên, những phương cách giải
thoát ấy có thật sự mang lại hạnh phúc cho con người và nhân quần
xã hội không” thì có vẻ hơi thiếu đầu óc, vì ông ấy chưa từng
tu tập theo những phương cách giải thoát ấy thì làm sao ông ta biết
là nó có mang lại hạnh phúc hay không. Ý đồ hạ thấp tôn giáo khác
của ông ta thật rõ ràng, nhưng những điều ông ta viết về cái gọi
là “Nhiệm Mầu Cứu Độ”, nên hiểu là “Nhiệm Mầu Cứu Rỗi”, chẳng qua
chỉ là những kiến thức thuộc thế kỷ 17 mà ông ta được giáo hội nhồi
sọ để mà “tin”, chứ không phải để “tìm hiểu”. Cho nên ông ta cho
rằng cái điều mê tín “Nhiệm mầu Cứu Rỗi” mà ngày nay đã không còn
bất cứ một giá trị nào trong giới trí thức, ở trong cũng như ở ngoài
các Giáo hội Ki-tô, mới có thể mang lại hạnh phúc cho con người.
Lẽ dĩ nhiên, thứ hạnh phúc đó chỉ có được sau khi chết, và
từ xưa tới nay chưa có ai biết cái hạnh phúc đó như thế nào. Trên
thực tế thì đó chỉ là sự mong ước (wishful thinking) về một viễn
cảnh không chắc chắn. Và đối với người Việt Nam thì “Nhiệm mầu
Cứu Rỗi” chỉ là một ảo tưởng, không bao giờ có thể có, nếu Đăng
Trình chịu khó đọc Tân Ước, trong đó Chúa Giê-su đã khẳng định nhiều
lần là nhiệm vụ của ông ta là chỉ cứu người Do Thái mà thôi.
Trong
Ca-tô Giáo, những gì mà Giáo hội không hiểu, không giải thích được,
thì họ dạy cho tín đồ đó là “mầu nhiệm” và tín đồ chỉ có việc tin
không cần phải thắc mắc. Và vì cái gọi là “đức vâng lời” trong Ca-tô
Rô-ma Giáo cho nên các tín đồ cứ tin mà không hiểu mình tin cái gì.
Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu thực chất về cái gọi là “Mầu Nhiệm
Cứu Độ” (sic) của ông Đăng trình.
Theo điều giảng của Ca-tô Giáo trên trang nhà:
https://2010menchuayeunguoi.blogspot.com/2010/01/goc-cua-tu-mau-nhiem-la-gi-vay.html
Từ "mầu nhiệm" như
trong mầu nhiệm (bí tích) cứu chuộc. Gốc của từ mầu nhiệm là gì vậy?
- Quá sức người hiểu; Mầu nhiệm
- Khó hiểu: Mầu nhiệm
- Kín đáo: Nhiệm mật
Theo nghĩa thông dụng, mầu nhiệm là “những gì không
thể biết được”, hay những kiến thức, những chân lý còn được giữ kín chưa
tiết lộ cho ai biết.
Vài thí dụ điển hình về “mầu nhiệm”: Bí đặc, không làm
sao giải thích được là một mẩu bánh làm bằng bột, sau khi được ông
linh mục hoa tay làm phép lẩm bẩm vài câu chữ La-tinh thì mẩu bánh
đó lại biến thành thân thể thực sự của Giê-su để cho tín đồ ăn và tin
rằng “Chúa ở trong ta” thì Ca-tô giáo gọi đó là “bí tích” hay “mầu
nhiệm ban thánh thể”. Hoặc nước lã được ông linh mục hoa tay làm phép
cũng biến thành nước có thể chữa được người mù hay đủ mọi thứ bệnh
như Alexandre de Rhodes lừa bịp người dân khi xưa cũng gọi là “mầu
nhiệm nước thánh”. Như vậy, khi Đăng Trình viết về “ước vọng tìm hiểu
“Nhiệm mầu Cứu Rỗi” thì thực ra đó chỉ là một ảo vọng, chứng tỏ ông
ta viết ra những điều mà không hiểu mình viết cái gì.
Vậy mà Ca-tô
Giáo tự nhận là văn minh tiến bộ nhất thế giới, đi đến các nước kém
mở mang nhưng có nền văn hóa cao như Việt Nam để văn minh hóa các dân
tộc mọi rợ trong đó.
Trong Ki Tô Giáo không làm gì có “cứu độ” mà chỉ
có “Cứu Rỗi”. “Cứu
độ” là từ, nói một cách nhẹ nhàng là Ca-tô Giáo “mượn mà không hỏi”
của Phật Giáo, theo sách lược của Giáo hội đã chỉ thị mật cho các
Giám mục địa phương.
Chứng minh:

ảnh minh họa trên wikipedia.org
cho
từ "cứu rỗi" (salvation)
Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng của John Paul II, 1995,
bản dịch với sự đóng góp của Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt, cựu thẩm phán Nguyễn
Cần (Lữ Giang), Kỹ sư Trần Văn Trí, Giáo sư Trần Văn Nhượng, trang
76, có Chương với chủ đề “Tại Sao Nhân Loại Cần Được Cứu Rỗi? ”
và Giáo hoàng đã giảng, ngoài viện ra câu John 3: 16 trong Tân
Ước: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất
của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng
được sống đời đời. ” nhưng rồi quảng cáo cho “ơn Cứu Rỗi” của
Giê-su: “Thiên Chúa đã không sai Con Ngài xuống thế gian để luận phạt nhưng
để nhờ ngài mà thế gian được Cứu Rỗi. ”. Lẽ dĩ nhiên,
chỉ cứu rỗi những người tin Giê-su, còn những người không tin thì
vẫn bị luận phạt như thường. Chúng ta hãy tìm hiểu:
“Cứu rỗi” khác
với “Cứu độ” như thế nào.
“Độ” là dìu dắt, cứu giúp, qua sông. Trong Phật Giáo, khi nói đến
“Phật độ” thì có nghĩa là những giáo lý của Đức Phật có tác dụng dìu
dắt, mở mang trí tuệ con người để con người tự mình tu tập để qua sông,
nghĩa là qua bờ bên kia, bờ bên này là mê, bờ bên kia là ngộ, là giải
thoát khỏi vòng luân hồi. Còn “Cứu Rỗi” trong Ca-tô Giáo là nghĩa
của chữ “salvation”. Tự điển Anh-Việt dịch Salvation là: Cứu vớt
linh hồn một người khỏi tội lỗi và các hậu quả của nó; sự cứu rỗi
linh hồn; Còn theo Tự điển The American Heritage Dictionary
thì nghĩa thần học của “salvation” là “Sự giải thoát phần hồn của
con người khỏi năng lực hay sự trừng phạt của tội tổ tông; cứu chuộc (Salvation:
The delivrance of man of his soul from the power or penalty of original
sin; redemption), nếu con người thực sự có một phần hồn riêng biệt
với thể xác, một điều hoang tưởng của nền thần học Ki Tô Giáo mà khoa
học ngày nay đã bác bỏ. Và “Cứu Rỗi” chỉ là một niềm tin, một niềm
hi vọng cho một đời sau của các tín đồ Ki Tô Giáo.
Để cho vấn đề được rõ ràng hơn, chúng ta cần phải biết người Ki-Tô-Giáo
[Ca-tô và Tin lành] tin tưởng vào cái gì khi theo đạo Giê-su (Jesuism). Chẳng
cần phải nói ai cũng biết là họ tin tưởng vào ơn “Cứu Rỗi” của con
một người thợ mộc Do Thái, người mà họ cho là Chúa, Giê-su .
Nhưng thực ra “Cứu Rỗi” là gì? Nền Thần học Ki Tô Giáo có thể soi
sáng cho chúng ta về vấn đề này.
Theo https://vi.
wikipedia. org
thì:
Trong thần học, sự cứu rỗi là một ý niệm trừu tượng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cơ Đốc giáo định nghĩa cứu rỗi là giải cứu khỏi sự câu thúc của tội lỗi và sự đoán phạt để có thể nhận lãnh sự sống đời đời của Thiên Chúa…
Tội lỗi ở đây chúng ta nên hiểu là “tội tổ tông” do sự sa ngã của Adam và Eve truyền lại cho nhân loại, theo luận điều thần học về một huyền thoại của dân tộc Do Thái trong thời bán khai. Vậy thực chất của ơn “cứu rỗi” là như thế nào và các tín đồ Ki Tô Giáo phải tin như thế nào mới có hi vọng được cứu rỗi. Chúng ta hãy đọc vài câu nói lên đức tin và hi vọng căn bản của người Ki Tô Giáo trong Kinh Tin Kính của các Tông đồ [Apostle’s Creed) :
Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu KiTô là con một Đức Chúa Cha
cũng là Chúa chúng tôi…
chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây thánh
giá, chết và táng xác,
xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại…
ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại…
Tôi tin hằng sống vậy.
Tôi tin…Tôi tin…Tôi tin… là căn bản hiểu biết và niềm hi vọng trong
Ki Tô Giáo. Với đức tin này người Ki Tô Giáo hi vọng ở những gì.
Vì tin rằng Chúa Giê-su "ngày sau bởi trời lại xuống phán
xét kẻ sống và kẻ chết” và tin rằng “xác loài người
ngày sau sống lại”, người Ca-tô Việt Nam rất hi vọng được Chúa
Giê-su, đến ngày phán xét, ngày “cánh chung”, họ được Chúa xếp vào
loại cừu, những người tin Chúa, phân biệt họ với loài dê, những người
không tin Chúa mà Chúa sẽ đầy xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng
của Chúa lòng lành thiêu đốt, rồi hóa phép làm cho thân xác của họ,
bất kể chết từ bao giờ, chết trên giường bệnh, già, bình thường, hay
chết tan xác ngoài mặt trận, sống lại, hợp với linh hồn của họ mà
sau khi chết đã được giữ [ai giữ?] trong một kho chứa của Chúa,
và rồi, cả hai phần hồn và phần xác, được Chúa cho lên thiên đường
để sống đời đời cùng Chúa. Chúng ta nên nhớ, Ca-tô Rô-ma Giáo tự
nhận là tôn giáo văn minh tiến bộ nhất trên thế giới, tuyệt đối không
có chút mê tín nào.
Nhưng tại sao gần đây chúng ta lại thấy Ca-tô Giáo thường dùng từ “Cứu độ”
thay vì “Cứu rỗi”, trong khi “cứu rỗi” là niềm tin chính của họ. Vì họ theo
đúng sách lược “mượn mà không được phép” của cái đạo đã mang danh là đạo
Chích [Xin đọc “Thiên Hồ! Đế Hồ” của Cụ Phan Bội Châu].
Chứng minh:
Trước hết, chúng ta hãy đọc một tài liệu của
Linh Mục Kirati
Boonchua, giáo sư triết tại đại học Chulalongkorn, Thái Lan:
Niềm Hãnh Diện Của Ki Tô Giáo: Mượn Và Mô Phỏng
Ki Tô Giáo không có cái gì là của mình cả. Ki Tô Giáo chỉ có
thể mượn [nôm na là ăn cắp] và mô phỏng các tôn giáo
khác. Điều này có đáng xấu hổ không? Tại sao Ki Tô Giáo
lại phải xấu hổ? .
Giê-su không thiết lập một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ
chính thức cho Ki Tô Giáo. Do đó, Ki Tô Giáo không hề có một hệ thống triết
lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức của Ki Tô Giáo để có thể phô trương trước
các tôn giáo khác. Chưa bao giờ có được một cái gì thực sự là của chính
mình, đó là điều duy nhất mà Ki Tô Giáo có thể phô trương. Chúng ta, những
tín đồ Ca Tô, hân hoan chấp nhận là triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính
thức của chúng ta ngày nay đều là mượn và mô phỏng từ ngôn ngữ và văn hóa của
những miền đất mà Ki Tô Giáo nảy nở trong đó. Chúng ta, những tín đồ Ca
Tô, là những chuyên gia về kỹ thuật xảo trá... ”
The Proud of Christianity: Borrowing and Imitation
Christianity possesses nothing of its own. Christianity can only borrow
and imitate others. Is it shameful? Why Christianity have to shame
? .
Jesus did not establish philosophical system, school of art and official
language for Christianity. Therefore, Christianity possesses no Christian
philosophy, art and official language in order to show to others.
Never having any authentic thing of its own is the only thing Catholics
can show off. We, Catholics, delightfully accept that our present
philosophy, art and official language are borrowed and imitated from
the language and culture of the lands where Christianity has grown.
We, Catholics, are experts in manipulation.
(Lecture of Father Kirati Boonchua, Professor of philosophy at the
Faculty of Arts, Chulalongkorn University) in “Life Review” a Catholic
program in Bangkok, broadcasting on 8 December 1985)
Về thủ đoạn “mượn” những điều hay trong Phật Giáo,
chúng ta hãy
đọc đoạn sau đây trong Bản
Tin Mật (Confidential) số 10 (Bulletin No 10, pp. 25-27) của Vatican:
(*)
“Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa, giáo
hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo
và biến đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để
có thể áp dụng chúng vào đời sống của những tín đồ của Ki-Tô. ”
(In the Buddhist countries, in order to make its own cultural garnment,
the Church can and must take on the good elements of the Buddhist tradition
and transform them giving them a Christian meaning so as to adapt them
to the life of the followers of Christ. )
Bởi vậy, gần đây chúng ta thấy Ca-tô Giáo, từ trên xuống dưới,
đều đổi cái điều mê tín hoang đường “cứu rỗi” của Ca-tô Giáo thành
“Cứu độ” để nhập nhằng lừa dối những đầu óc thấp kém. Lấy cái hay
của người khác để dùng cho mình là điều ai cũng nên làm. Nhưng dùng
kỹ xảo biến đổi nó đi và nhận là của mình thì đó là trò đạo văn, ma giáo,
bất lương trí thức. Một thí dụ điển hình của trò này cũng nằm trong
Bản Tin số 10 trên:
“Toàn thể Phật Giáo đặt căn bản trên Tứ Diệu Đế: Khổ, Nguồn
gốc của Khổ, Diệt Khổ và Thoát Khổ. Tại sao sự truyền bá Phúc âm
của Ki-Tô không thể cũng được thâu tóm trong bốn chân lý trên? Sự
đau khổ chân thật của con người là tội lỗi. Giê-su đến để giải thoát
con người khỏi sự đau khổ – tội lỗi. “ [Xin nhớ, khi giáo hội
nói đến “sin” thì có nghĩa đó là “original sin”, tội tổ tông mà Thiên
Chúa giáng cái tội của chính Thiên Chúa lên đầu nhân loại]
(The whole of Buddhism is based on the four thuths: sorrow, the cause
of sorrow, the destruction of sorrow and liberation from sorrow. Why
could not the spreading of the Gospel of Christ be summed up also in
these four truths? The true sorrow of Man is sin. Jesus came to liberate
Man from sorrow-sin. )
Chúng ta thấy ngay thủ đoạn bất lương của Ca Tô Giáo Rô Ma trong
đoạn trên: ngoài việc “mượn” từ “cứu độ” của Phật Giáo còn xuyên tạc
ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, nghĩa là bốn chân lý chân thật của Phật Giáo,
và biến đổi chúng thành ra hai điều mê tín hoang đường cho người Ca
Tô. Bốn chân lý cao thượng của Phật Giáo có tính phổ quát mà mọi người
chúng ta có thể chiêm nghiệm hàng ngày.
Tỳ
Kheo Thích Nhật Từ, Tiến sĩ Phật học, đã vạch trần sự xuyên tạc của
Mục sư Tống Tuyền Th
về ý nghĩa của “Khổ” trong PhậtGiáo. Quan niệm về “Khổ” trong Phật
Giáo không dính dáng gì đến cái gọi là “Tội” của Ki Tô Giáo, nhất lại
là cái tội tổ tông hoang đường của Ki Tô Giáo mà một Giê-su hoang đường
đã chuộc tội một cách hoang đường, tự trèo lên cây thập giá để cho
người ta đóng đinh. Còn nếu tội là tội thế gian như giáo hoàng loạn
luân, linh mục hiếp dâm, nữ tu hành hạ trẻ em v.v... trong lịch sử
Ca Tô Giáo thì nếu Giê-su, một người Do Thái đã chết cách đây đã 2000
năm, thực sự có thể giải thoát những tội đó cho những người sống, cho
tín đồ phạm những tội đó, thì ai muốn tin cứ việc tin, và cứ việc phạm
tội. Nhưng hãy nên nhớ một điều, luật pháp thế tục bắt người phạm
tội phải đền tội, và Chúa có muốn chuộc cũng không được. Làm sao mà
một người có đầu óc có thể chấp nhận cái luận điệu quái gở, vô đạo
đức và vô giá trị đó. Chúa chết rồi, lấy cái gì để chuộc? Giáo hội
Ca-tô đã phải bỏ ra hàng tỷ đô-la trong các vụ linh mục loạn dâm để
bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Cha cũng như Chúa” chứ
không phải để chuộc những tội đó. Chúng ta nên nhớ, Ca-tô Rô-ma Giáo
tự nhận là tôn giáo mạc khải, tông truyền, thánh thiện nhất trên thế
giới, và các tín đồ cũng tin và thường khoe rằng mình đang ở trong
một “hội thánh”...
II. Lý Trí Đối Với Đức Tin:
Một Con Đường Đi Tới Hiểu Biết, Một Con
Đường Đi Tới Mê Tín.
(Reason versus Faith: A Path to Knowledge, a Path to Superstition)
Đối với những người am hiểu ít nhiều về tôn giáo thì ai cũng biết Phật
Giáo là tôn giáo của “Trí Tuệ”, còn Ca-tô Rô-ma Giáo là tôn giáo của
“Đức Tin”. Thật vậy, căn bản những niềm tin trong Ca-tô Rô-ma Giáo
nằm trong Kinh Tin Kính của Ca-tô Rô-ma Giáo, trong đó là một loạt
những “Tôi tin… Tôi tin…Tôi tin…”. Trong Phật Giáo cũng có
Kinh Nền Tảng Đức Tin, nghĩa là Kinh Đức Phật thuyết cho người dân
Kalama, trong đó là một loạt những điều Đức Phật khuyên “Đừng vội
tin…Đừng vội tin…Đừng vội tin”, đừng vội tin ngay cả những lời
Đức Phật nói, mà phải dùng lý trí để chiêm nghiệm xem điều đó có mang
lại lợi ích cho tha nhân và cho chính mình hay không? Đó là sự khác
biệt quan trọng giữa “đức tin” và “lý trí”. Khác biệt như thế nào.

Trong cuốn “Science & Religion: Opposing Viewpoints, Greenhaven
Press, CA, 1988”, chúng ta có thể đọc trong phần Dẫn Nhập (Introduction),
trang 14, về sự khác biệt đi tới sự thật của khoa học và tôn giáo như
sau: “Khoa học leo từng bậc thang một của lý trí để tìm kiếm
sự thật trong khi tôn giáo quỳ trước bàn thờ của đức tin. Phương
pháp luận của khoa học gồm có sự quan sát và thí nghiệm trong khi tôn
giáo ôm lấy sự mạc khải của thần linh. (Science climbs the ladder
of reason in its search for truth while religion kneels before the
altar of faith. The methodology of science includes observation and
experimentation while religion embraces divene revelation). Tinh
thần Phật Giáo cũng là tinh thần khoa học, leo từng bậc thang của lý
trí để có thể phân biệt chân giả, và tu tập bản thân để thăng tiến
tâm linh.

Trong cuốn “The Final Superstition: A Critical Evaluation
of the Judeo-Christian Legacy”, Promotheus Books, New York, 1994,
học giả Ca-tô Joseph L. Daleiden đã để ra nguyên Chương 10 để viết
về đề tài: “Lý Trí Đối Với Đức Tin: Một Con Đường Đi Tới Hiểu Biết,
Một Con Đường Đi Tới Mê Tín” (Reason versus Faith: A Path to Knowledge,
a Path to Superstition). Tại sao tác giả lại nhận định như vậy? Vì
theo định nghĩa của H. L. Mencken thì Faith hay Đức Tin là "một
kiểu tin phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực" (an
illogical belief in the occurrence of the improbable). Theo định nghĩa
trong tự điển thì Faith hay Đức Tin là "sự tin chắc vào một
cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực" (Firm
beliefin something for which there is no proof. )Mặt khác. định
nghĩa của Reason hay Lý Trí trong tự điển là "khả năng có
những tư tưởng hợp lý, suy lý, hoặc phân biệt" (The capacity
of rational thought, inference, or discrimination) hay "suy
xét đúng, phán đoán hợp lý" (good judgment, sound sense).
Theo những định nghĩa trên thì hiển nhiên là Đức Tin trong tôn giáo
và Lý Trí là hai từ có nghĩa loại trừ hỗ tương (mutual exclusive),
có cái này thì không có cái kia. Thật vậy, khi chúng ta dùng lý trí
để xác định và chấp nhận một điều gì thì chúng ta không cần đến đức
tin, và khi chúng ta tin vào điều gì mà không cần biết, không cần hiểu,
không cần đến bằng chứng v…v…thì lý trí trở nên thừa thãi. Trong Phật
Giáo cũng có chữ “Tín”, tin ở Phật, tin ở Thầy, Tổ, nhưng chúng ta
phải hiểu là lòng tin trong Phật Giáo là do sự hiểu biết, do sự chứng
nghiệm bản thân qua quá trình tu tập, chứ không phải mù lòa tin bướng
tin càn, tin mà không hiểu rõ tại sao mình lại tin như vậy.
Đăng Trình viết: “Trên bình diện tư tưởng giải thoát, trong Ấn
giáo và Phật giáo hay Cứu độ của Kitô giáo, được xem là có cùng ý nghĩa. ”, vậy
chúng ta hãy đi vào một chút chi tiết về giáo lý giải thoát của Phật
Giáo và niềm tin “cứu rỗi” của Ki Tô Giáo để xem cái gọi là “cùng ý
nghĩa” của Đăng Trình là như thế nào. Tôi xin nhắc lại, Phật Giáo
là đạo của “trí tuệ”, còn Ca-tô Rô-ma giáo là đạo của “đức tin”. Hiểu
biết không thể nào có cùng nghĩa với mê tín.
Bài phân tích này dựa phần lớn vào những tài liệu hiện hữu, vào
kinh điển Phật Giáo và Thánh Kinh Ca Tô, và nhất là dựa vào sự suy
lý dưới ánh sáng của luận lý học (logic), của khoa học và những hiểu
biết thông thường (common sense). Tuy nhiên, tôi cần phải minh định
một điều: Bài khảo luận này không phải là một bài thuộc môn học so
sánh các tôn giáo, lại càng không phải là một bài so sánh giáo lý Phật
Giáo và Ca Tô Giáo để phân định đúng sai, hay dở. Chúng ta không thể
nào so sánh, hay nói khác đi, lấy một giáo lý làm chuẩn để phê phán
một giáo lý khác, điều mà John Paul II đã làm khi viết cuốn
Crossing
The Threshold of Hope, vì từ tinh thần, triết lý cho tới các phương
pháp hành trì, các tôn giáo đều khác nhau. Bài này chỉ có mục đích
duy nhất là trình bày khách quan những sự khác biệt căn bản trong giáo
lý giải thoát của Phật Giáo và Ca Tô Giáo, những mâu thuẫn tự tại trong
các giáo lý này, nếu có, để cho bạn đọc có thể có một ý niệm rõ ràng
hơn về vấn đề giải thoát trong hai tôn giáo.
III. Quan Niệm Giải Thoát Trong Ca-Tô Rô-Ma Giáo
Chúng ta đã biết rằng Ca Tô Giáo là đạo cứu rỗi (Salvation Religion),
và Phật Giáo là đạo Giác Ngộ (Religion of Enlightenment). Sự khác
biệt này hết sức quan trọng nếu chúng ta muốn đi sâu vào vấn đề giải
thoát trong mỗi tôn giáo.
Nói một cách ngắn gọn, thì sự giải thoát trong Ca Tô Giáo là sự "giải
thoát khỏi tội qua một Đấng Cứu Rỗi" (Salvation from sin through
a Savior). Tội này thường được biết là tội tổ tông chứ không phải
các tội thường xẩy ra trong dân gian. Nhưng vì ngày nay, tội tổ
tông đã trở thành một điều hoang đường, nên để lừa dối con chiên, giữ
họ trong bóng tối của sự hiểu biết, giáo hội cứ nói một cách nhập nhằng
trống không là “sin” (tội lỗi), không giải thích đó là tội lỗi như
thế nào, để mê hoặc con chiên tin rằng Giê-su có thể giải thoát mọi
tội lỗi của mình, bất kể tội lỗi đó là như thế nào. Ingersoll đã nhận
định: “Ca-tô Giáo còn tồn tại vì con chiên thì đần độn [stupid],
và các linh mục thì xảo quyệt (cunning)”.
Nguyên thủy, giáo lý giải thoát này được đặt căn bản trên một số
tín điều mà các tín đồ Ca Tô phải tin, và đức tin này là tuyệt đối,
không có bàn cãi, suy luận, hoặc hiểu. Thí dụ, trong cuốn
Crossing
The Threshold of Hope, GH John Paul II đã đưa ra một số tín điều
như: "
Thánh Phao Lồ ý thức thâm sâu rằng Chúa Ki-Tô là căn
nguyên, là tuyệt đối. ", "Chúa
Ki-Tô là bí tích
của Thiên Chúa vô hình", “
Giáo Hoàng là một bí nhiệm" và
khẳng định: "
Điều mặc khải nàydứt khoát, con người chỉ
còn có thể hoặc chấp nhận, hoặc chối bỏ. " Cho nên các
tín đồ Ca Tô chỉ còn có việc tin và tuân phục Giáo Hoàng. Lý trí hay
khả năng suy luận của con người trở nên thừa thãi, vì không cần dùng
đến trong một đức tin thuộc loại trên.
Muốn được giải thoát, một tín đồ Ca Tô phải tin vào nhiều tín điều
(dogma) lắm, nhưng đại cương gồm có những tín điều chính sau đây:
1. Tin rằng có một vị Thần của Do Thái, được coi là Đấng Toàn Năng,
Toàn Trí, Toàn Thiện, đã tạo dựng ra thế giới chúng ta đang sống, được
coi là thế giới duy nhất, và loài người. Từ tín điều này, con người
phải tin rằng Adam và Eve là Nguyên Tổ của loài người, có thể vì không
muốn suốt đời bị ngu đần, không biết thế nào là phải là trái, nên
cưỡng lời Thần ăn trái cây trên Cây Hiểu Biết để cho sáng mắt ra, biết
thế nào là phải trái, nên bị coi là sa ngã gây thành tội Tổ Tông mà
các thế hệ loài người cho tới ngày tận thế đều vướng phải cái tội tổ
tông này và bị luận phạt.
2. Tin rằng Giê-Su (Jesus Christ) , một nhân vật lịch sử sống trong
thời thống đốc Pontius Pilate, là người con duy nhất của Thiên Chúa,
được phái xuống trần để chuộc cái tội tổ tông cho nhân loại, những
người tin vào Người sẽ không bị luận phạt, được sống đời đời, lẽ dĩ
nhiên sau khi chết. (John 3: 16)
3. Tin ở thuyết Chúa Ba Ngôi: Cha , Con và Thánh Ma (Holy Ghost) đều
là một.
4. Tin rằng Giê-Su được sinh ra từ một trinh nữ (Virgin Birth)
5. Tin rằng Giê-Su tự nguyện leo lên cây Thập giá để cho người ta
đóng đinh, hành động này là để chuộc tội tổ tông cho nhân loại, chết,
xuống ngục tổ tông, nhưng sống lại sau ba ngày, và sau 40 ngày [đeo
hỏa tiễn] bay lên trời ngồi bên phải Chúa Cha.
6. Tin rằng bột bánh Thánh là thịt của Giê-Su, rượu lễ là máu của
Giê-Su, ăn uống vào sẽ được hiệp thông với Giê-Su, lẽ dĩ nhiên qua
ngả Vatican vì Vatican có quyền dứt phép thông công của các tín đồ.
7. Tin rằng đến ngày cánh chung Giê-Su sẽ trở lại thế gian để phán
xét và luận tội mọi người. Người nào tin Giê-Su thì được lên Thiên
Đường, người nào không tin sẽ bị vĩnh viễn đầy hỏa ngục. (Matthew 25:
31-46)
Sáu tín điều đầu là để mê hoặc tín đồ, đồng thời để tạo quyền lực
cho giới chăn chiên trên đám tín đồ thấp kém ở dưới. Tín điều số 7 là niềm
tin chính của tín đồ về một cái bánh vẽ ở trên trời nhưng lại có tác dụng
mạnh mẽ nhất để động não tín đồ. Đây chính là cái mà Đăng Trình gọi là “Mầu
nhiệm cứu độ (sic)”. Nhưng Đăng Trình không biết rằng, trong giới trí thức
Ki Tô Giáo ngày nay, cái mà Đăng Trình gọi là “Mầu nhiệm cứu độ (sic)” chỉ
là điều mê tín đã lỗi thời, do đó đã không còn bất cứ một giá trị nào. Tòa
Thánh đã công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về
nguồn gốc con người, và phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục,
vậy tất cả những gì nói về Thiên Chúa và Giê-su của Ki Tô Giáo chẳng qua chỉ
là những luận điệu thần học cổ xưa. Nhận thức được như vậy nên
dân Âu Châu và cả ở Mỹ Châu, tín đồ Ki Tô Giáo phần lớn đã bỏ đi lễ
nhà thờ, vì không còn mấy người còn tin vào cái huyền thoại cứu rỗi
đã lỗi thời này, [Xin đọc bài: “Huyền Thoại Cứu Rỗi” https://sachhiem.
net/TCN/TCNtg/TCN36. php]
của Linh mục James Kavanaugh, và bài “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế:
Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ” của Giám mục John Shelby Spong: https://sachhiem.
net/TCN/TCNtg/TCN37. php. ]
Học giả Russell Shorto, sau khi duyệt qua những tác phẩm nghiên cứu
về Giê-su trong vòng 200 năm gần đây, đã đưa ra một kết luận trong
cuốn “Sự thật trong Phúc Âm” như sau:
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã
khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Công giáo bảo thủ
cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết
về Giê-su chỉlà huyền thoại... Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều
thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống
với một ảo tưởng– họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục
sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ
gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người
còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
(Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, New York,
1997 : Most important, the impact of the scientific perspective is
having now that even scholars working under a conservative Catholic
imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth... Scholars
have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with
a vision – for decades; they have taught it to generations of priests
and ministers, who do not pass it along to their flocks because they
fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary
Christians. )
a) Ai Còn Tin “Nhiệm Mầu Cứu Độ” ?
Nhưng trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại và trước những
kết quả nghiên cứu về Ki Tô Giáo trong ánh sáng của khoa học, ngay
cả những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cũng không còn tin vào cái gọi
là “Mầu nhiệm cứu độ (sic)” của Đăng Trình. Sau đây là vài tài liệu
điển hình của giới lãnh đạo trí thức trong Ki Tô Giáo:
Malachi Martin, giáo sư tại viện nghiên cứu Thánh Kinh của giáo
hoàng tại Rô-ma dưới triều đại giáo hoàng John XXIII (Professor at
the Pontifical Biblical Institute of Rome, served in the Vatican under
Pope John XXIII), đã viết trong cuốn
“Sự Suy Thoái Và Sụp Đổ của
Giáo Hội Rô-Ma” (The Decline and Fall of the Roman Church) như
sau, trang 230:
Giáo Hoàng John XXIII nói trong buổi khai mạc Công Đồng Vatican
IIngày 11 tháng 10, 1962, rằng “những giáo lý và quan niệm sai
lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại
bỏ chúng… Nhưng nếu Roncalli (John XXIII)không thấy
là điều giảng dạy mới của mình dẫn tới đâu, thì hàng trăm nhà
thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập niên 1960-70, sau
khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan,
và về nhiều giáo lý căn bản khác.
(Martin, Malachi, The Decline and Fall of the Roman Church, p.
230: Pope John XXIII told the opening session of his council on October
11, 1962, that “false doctrines and opinions still abound, ” but that
“today men spntaneously reject” them…But if Roncalli did not see
where his new teaching was leading, hundreds of theologians and bishops
did. In the sixties and the seventies after Roncalli’s death, they
drew these conclusions and abandoned belief in original sin, in the
Devil, and in many other fundamental doctrines. )

Trong cuốn "Theo
Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Của
Quyền Lực Thánh Kinh" (Going By
the Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority), Mục
sư Ernie Bringas, tốt nghiệp môn thần học tại đại học United Theological
Seminary ở Dayton, Ohio, đưa ra nhận định:
Với sự tái khám phá phương pháp khoa học trong thế kỷ 16
ở Âu Châu và sự tiến triển tiếp theo của thời đại Khai sáng trong
thế kỷ 18, một sự phân tích Thánh Kinh một cách thuần lý hơn là điều
không thể tránh được. Trong một thế giới đang trở thành hướng theo
tinh thần khoa học, những mô tả về Chúa đi trên sóng, về ma quỷ,
thiên thần, những câu chuyện về sự sống lại của Chúa, và nhiều hiện
tượng khác, càng ngày càng khó có thể chấp nhận như là những sự thực
lịch sử.
Trong những năm 1835-1836, cuốn "Khảo Sát Cặn Kẽ Về
Đời Sống của Giê-su" (The Life of Jesus Critically Examined) của D.
F. Strauss đã quy một số chuyện trong Tân Ước là "huyền thoại" và
định nghĩa những câu chuyện phi lịch sử như trên là sự biểu thị của một chuỗi
những ý tưởng tôn giáo. Ngày nay, kết quả những cuộc nghiên cứu phân tích tiếp
tục hỗ trợ và xác nhận sự khẳng định này. Đa số các học giả coi những chuyện
trong Tân Ước và bảy giáo lý giáo hội đưa ra sau đây đều là huyền thoại:
1. Đức Mẹ đồng trinh
2. Hiện thân của Chúa (Gót hiện thân thành người, nghĩa
là, Gót là Giê- su. )
3. Nhiệm vụ chuộc tội của Chúa [kế hoạch cứu rỗi]
4. Sự sống lại của Chúa.
5. Sự thăng thiên của Chúa (Thân xác Chúa bay lên trời 40
ngày sau khi sống lại)
6. Chúa trở lại trần (để làm sống lại những người
chết cho ngày phán xét cuối cùng)
7. Ngày phán xét cuối cùng (Gót phán xét mọi người
khi Giê su trở lại trần thế)
(With the rediscovery of the scientific method in 16th-century
Europe and the subsequent evolvement of the Enlightenment during the 18th-century,
it was inevitable that a more rational analysis of Scripture would occur. In
a world becoming scientifically oriented, descriptions of walking on water,
of demons, angels, resurrection stories, and other phenomena grew increasingly
unacceptable as historical realities.
In 1835-1836, The Life of Jesus Critically Examined, by D. F.
Strauss, referred to some NT narratives as "myth" and
defined those unhistorical elements as expressing a series
of religious ideas. Today, analytical studies continue to
support and confirm this assertion. The majority of scholars
regard the following NT accounts and Church-developed doctrines
as myth:
1. The virgin birth
2. The Incarnation (God in human form; that is, God as Jesus)
3. The work of Atonement (plan for salvation)
4. The resurrection
5. The ascension (Jesus' bodily ascent into heaven 40 days after the
resurrection)
6. The Second Coming (the return of Jesus to raise the dead and to
summon all to the Last Judgment)
7. The Last Judgment (the judgment of all by God at Christ's Second
Coming)
Trong cuốn Một Ki Tô Giáo Mới Cho Một Thế Giới Mới (A New Christianity For A new World), xuất bản năm 2001. Giám Mục John Shelby Spong liệt kê ra 5 tín điều căn bản của Ki Tô Giáo như sau:
- Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa.
- Tư cách thần linh của Giê-su vì sinh ra từ một Nữ Trinh.
- Cái chết của Giê-su là để chuộc tội cho nhân loại, và máu
của Giê-su là năng lực cứu rỗi (saving power of his blood).
- Thân xác Giê-su sống lại. Ngôi mộ trống là một sự thật
cũng như chuyện Giê-su hiện ra sau khi chết.
- Giê-su sẽ trở lại để phán xét nhân loại.
Và Giám mục Spong đưa ra nhận định như sau:
Ngày nay, tôi thấy những tín lý căn bản này mà chúng ta thường hiểu
theo truyền thống, không những chỉ là ngây ngô mà còn có thể phải dứt khoát
loại bỏ. Trong thế hệ của chúng ta, không một tín điều nào ở trên được
các học giả Ki Tô danh tiếng xác nhận.
[Today I find each of these fundamentals, as traditionally understood,
to be not only naïve, but eminently rejectable. Nor would any of them
be supported in our generation by reputable Christian scholars. ]
Chúng ta thấy, vì vẫn sống trong bóng tối, theo nhận định của Mục
sư Ernie Bringas, nên phần lớn tín đồ Ki Tô Giáo vẫn còn tin vào những
điều không thể tin được thuộc thế kỷ 17 . Đặc biệt là đối với các
tín đồ Ca-tô Việt Nam, niềm tin cũ kỹ bắt nguồn từ một đầu óc cũ kỹ
(an astrolabe mind) rõ rệt nhất. Trong khuôn khổ bài này hiển nhiên
tôi không thể luận về những gì mà các tín đồ Ca-tô phải tin. Tôi đã
luận về những điều tín đồ Công Giáo tin trong cuốn “Đức Tin Công Giáo”,
Giao Điểm xuất bản trước đây. Và cũng đã có rất nhiều nhà Thần Học
và các học giả chuyên về tôn giáo viết về “đức tin Ca-tô” rồi. Trong
bài này tôi chỉ bình luận về vài điểm dựa theo những hiểu biết mới
nhất hiện nay về tín ngưỡng Ca Tô Giáo.
Tòa Thánh Vatican và các giới chức lãnh đạo Ca Tô gần đây đã công nhận
thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc loài
người và phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục, nhưng lẽ
dĩ nhiên đa số tín đồ kém hiểu biết vẫn sống trong bóng tối vì bị các
bề trên dấu kín, đâu có biết tới điều này. Và dù có biết đi chăng
nữa họ cũng không dám đối diện với sự thật, vì đối diện với sự thật
là thú nhận rằng niềm tin tôn giáo của mình không còn giá trị. Thật
là tội nghiệp, vì tin vào những gì đã không còn giá trị thì thực ra
có thể gọi đó là “đức tin” hay không?
Điều đáng nói là Giáo hội, đối với đám giáo dân đông đảo này Tòa
Thánh vẫn chính thức rao truyền cho giáo dân phải tin vào thuyết sáng
tạo, vẫn mang cái câu trong Tân Ước, John 3: 16, để lừa dối tín đồ,
vẫn mê hoặc tín đồ về một ngày cánh chung của Chúa (Mathhtew 25: 31-46),
và vẫn nhồi vào đầu óc tín đồ là Giáo hội là một Hội Thánh, duy nhất,
thánh thiện, tông truyền v. v… bất kể cái lịch sử ô nhục đẫm máu của
Giáo hội kéo dài suốt mười mấy thế kỷ cho đến tận ngày nay.