| 
	|  | 30  tháng 4, 2007 | 
   Không ai có 
		thể phủ nhận ngày 30/4/1975 là ngày đánh dấu một bước ngoặt khó quên 
		trong lịch sử Việt Nam và cũng là một biến cố lịch sử có ảnh hưởng không 
		ít không những chỉ trên khối người Việt lưu vong mà còn trên cả dân tộc 
		Việt Nam.  Nhưng hiển nhiên vì cảm tính cá nhân, không phải tất cả mọi 
		người dân Việt đều có cùng một quan điểm về ngày 30/4/75.      Đối với một 
		thiểu số người Việt lưu vong, thì ngày 30/4/75 là ngày mà họ gọi là ngày 
		“mất nước” làm như miền Nam là nước của riêng họ. Tuy rằng nước vẫn còn 
		đó, và càng ngày càng phát triển, ngày nay đã vượt trội hẳn cái “nước” 
		của họ khi xưa mà thực ra chỉ là cái “nước” nằm trong sự chi phối của 
		những đồng đô la viện trợ và sự chỉ đạo của các quan Toàn Quyền như 
		Nolting, Lodge, Martin. Ai có thể phủ nhận sự kiện này, xin mời lên 
		tiếng.  
		 Trước khi lên tiếng xin hãy nhớ lại những đồng lương của quân 
		đội, cảnh sát, lực lượng đặc biệt v…v… từ đâu mà có, rồi đến vụ đảo 
		chính Ngô Đình Diệm khi “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, chính sách 
		“Việt Nam Hóa” (Vietnamization) cuộc chiến chống Cộng khi muốn duỗi ra, 
		và cuối cùng là Hiệp Định Ba-Lê và cắt viện trợ để khai tử Việt Nam Cộng 
		Hòa, cái “nước” mà liên minh Vatican-Mỹ dựng lên hơn 20 năm trước.
		     Đối với một 
		thiểu số khác, phần lớn thuộc thế lực đen, những người như Linh Mục 
		Nguyễn Hữu Lễ thì ngày 30/4/75 là ngày “Quốc hận” trong khi từ chính xác 
		nhất phải là ngày “Công giáo hận.”  Tại sao?  Vì Công Giáo đã mất đi 
		quyền tự tung tự tác như dưới thời Diệm, Thiệu.  Lẽ dĩ nhiên “Quốc” và 
		“Công giáo” là hai từ hoàn toàn khác nhau, nếu không muốn nói là bất khả 
		tương hợp nếu xét trên những sự kiện lịch sử từ ngày các thừa sai Công 
		giáo đầu tiên đặt chân trên đất Việt và qua cuộc xâm lăng và đô hộ của 
		thực dân Pháp cho đến các chính quyền Diệm, Thiệu, nhất là Diệm.. Những 
		người không có mấy đầu óc thường lấy cái hận của mình hay của tôn giáo 
		mình làm cái hận của cả một quốc gia, không buồn để ý là nói như vậy chỉ 
		tỏ rõ trình độ thấp kém của mình.  Bày tỏ ý kiến cá nhân là quyền căn 
		bản của con người, miễn là những ý kiến bày tỏ không thuộc loại khích 
		động sự thù hận mà nước Mỹ quy vào một loại tội ác “hate crime”, nhưng 
		không ai có quyền lấy ý kiến của mình làm ý kiến của cả cộng đồng, của 
		cả dân tộc.  Cho nên từ “Quốc hận” là một từ của những kẻ vô trí cưỡng 
		đặt trên cả một quốc gia mối hận của những cá nhân hay tôn giáo họ.       Đối với một 
		thiểu số khác nữa thì ngày 30/4/1975 là ngày mà họ không ngớt lời lên án 
		“Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam” làm như “miền Nam” là một nước của 
		riêng những người sống ở miền Nam, mà không cần để ý đến miền Nam cũng 
		là một phần đất của nước Việt Nam.  Họ cũng quên đi tất cả những nguyên 
		nhân, yếu tố  nào đã đưa đến sự hình thành một miền Nam mà thực chất 
		không nằm trong tay người miền Nam, nói khác đi, một miền Nam không có 
		căn cước của một quốc gia độc lập, có đầy đủ chủ quyền...  Nhưng tại sao 
		Việt Cộng có thể “cưỡng chiếm” được miền Nam, có một câu hỏi cần được 
		đặt ra:     “Miền Nam 
		có hơn một triệu quân, gồm chính quy và nhân dân tự vệ, một thời cộng 
		với hơn nửa triệu quân Mỹ, với đầy đủ vũ khí, đạn dược, và có ưu thế 
		tuyệt đối về máy bay, xe tăng, tàu chiến, B52, và cả thuốc khai quang 
		Agent Orange để cho Việt Cộng không còn chỗ ẩn núp v..v.. nhưng tại sao 
		Mỹ lại phải “Việt Nam hóa” cuộc chiến, rồi “rút lui trong danh dự của 
		Mỹ”, để rồi cuối cùng Việt Cộng vẫn “cưỡng chiếm” được miền Nam?  
		Người dân miền Nam có dự phần nào trong cuộc “cưỡng chiếm” này 
		không?  Làm sao Việt Cộng có thể thực hiện được “đường hầm Củ Chi?”.  
		Vậy ngoài yếu tố quân sự, những yếu tố nào đã quyết định cuộc chiến?  
		Phải chăng là lòng yêu nước?  Chính Nghĩa?  Hợp với lòng dân và được dân 
		ủng hộ?  Ý chí chiến đấu của binh sĩ?  Khả năng chỉ huy của các cấp lãnh 
		đạo?  Và còn gì nữa?”    Những chính 
		khách vô thượng thiên tài của miền Nam khi xưa, những người hùng của 
		Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa rất anh dũng, rất giỏi giang, rất thanh liêm 
		v..v.. đâu, xin hãy tạm quên những cảnh trong cuộc “rút lui chiến thuật” 
		của quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ Quân đoàn I, Quân đoàn II, những cảnh 
		mà tôi chỉ muốn nói lên một câu:  “Trong lịch sử chiến tranh của 
		nhân loại, vì tình hình chiến sự, có nhiều đoàn quân phải rút lui hay bỏ 
		chạy, nhưng không có một đoàn quân nào lại gây tổn thương cho chính đồng 
		bào của mình qua những hành động như hãm hiếp, cướp bóc, hay tranh cướp 
		đường chạy trước những người dân lành mà quân đội có nhiệm vụ phải bảo 
		vệ và giúp đỡ”.  Hãy suy nghĩ một chút về câu trên và hãy 
		trả lời với tất cả sự lương thiện trí thức câu hỏi trên.    Điều hiển 
		nhiên là những quan điểm như “mất nước”, “Quốc hận”, “Việt Cộng cưỡng 
		chiếm miền Nam” chỉ là những quan điểm cá nhân của một thiểu số được đưa 
		lên những diễn đàn truyền thông hải ngoại làm như đó là những quan điểm 
		của cả cộng đồng người Việt di cư gồm gần 3 triệu người.  Chỉ có điều 
		những quan điểm như vậy phản ánh một trình độ rất thấp kém, vì không 
		hiểu ngay cả những từ đơn giản như thế nào là “nước”, là “Quốc”, và 
		“cưỡng chiếm”.  Những quan điểm cá nhân thiển cận này thường chỉ là 
		những “thùng rỗng kêu to”, hoàn toàn vô nghĩa và vô giá trị trước những 
		quyền lợi của cả dân tộc.  Và bây giờ tôi xin sang đến phần bày tỏ quan 
		niệm cá nhân của tôi.  Chỉ có một điều khác biệt, quan niệm của tôi 
		không dựa trên cảm tính cá nhân mà dựa trên trên lịch sử dân tộc Việt 
		Nam, trên những mặt tích cực của đất nước..    Là một người 
		đã từng phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong hơn 8 năm, cộng 
		với nhiều năm phục vụ trong ngành giáo dục ở Nam Việt Nam, phải rời bỏ 
		quê hương mà tôi nói rằng không có gì tiếc nuối, đau lòng, thì chỉ là tự 
		dối lòng.  Nhưng đây là những cảm tính cá nhân, và một người có ít nhiều 
		liêm sỉ, lương tri, và lương thiện trí thức thì phải biết gạt bỏ những 
		cảm tính cá nhân, và can đảm chấp nhận những sự thực lịch sử, dù có đau 
		lòng cách mấy đi chăng nữa.  Vậy những sự thực lịch sử đó là như thế 
		nào?  Không có cách nào khác là chúng ta cần phải phân tích những biến 
		cố lịch sử như chúng thực là như vậy.    Sau nhiều năm 
		nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam, quan điểm của tôi là ngày 30/4/75 
		tất nhiên phải đến, không có ngày 30/4 này thì cũng có ngày 30/4 khác.  
		Tại sao?  Có nhiều yếu tố quyết định mà những yếu tố chính là: 1) Lòng 
		yêu nước và truyền thống chống ngoại xâm của người Việt Nam;  2) Pháp trở lại Đông Dương để tái lập nền đô hộ 
		với sự trợ giúp của Mỹ; 3) Hiệp Định Genève; và 4) Tiếp nối sự nghiệp 
		chống ngoại xâm, thống nhất đất nước..      Ngày 2 tháng 
		9, 1945, ở quảng trường Ba Đình, ông Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc 
		lập.  Ai không đồng ý Việt Nam độc lập, muốn sống trở lại trong nền đô 
		hộ của Pháp, xin mời lên tiếng.  Có lẽ chỉ có Nguyễn Chí Thiện, một 
		“ngục sĩ viết thay cho dân” với câu thơ “Nay người dân (sic) 
		luyến tiếc (thực dân Pháp) vô chừng” trong bài Đồng Lầy.  
		Nhưng dù Pháp đã đầu hàng Nhật, mất quyền đô hộ ở Đông Dương, nay Pháp 
		lại muốn trở lại, dùng vũ lực để tái lập ách đô hộ trên đất nước Việt 
		Nam với hơn 80% quân phí do Mỹ đài thọ.  Trong thời đô hộ của Pháp và 
		thời chiếm đóng của Nhật, Việt Minh đã tổ chức chống Pháp và Nhật, với 
		sự giúp đỡ huấn luyện quân sự của Mỹ.  Nay trước nạn tái xâm lăng của 
		Pháp, với lòng yêu nước và truyền thống chống ngoại xâm của Việt Nam, 
		Việt Minh đã lãnh đạo quần chúng kháng chiến.  Cuộc kháng chiến gian khổ 
		kéo dài trong 9 năm, với nhiều hy sinh, kết thúc bằng chiến thắng Điện 
		Biên Phủ, chấm dứt nền đô hộ của Pháp bằng Hiệp Định Genève năm 1954, 
		tạm thời chia đất nước làm 2 vùng quân sự, chờ ngày Tổng Tuyển Cử để 
		thống nhất đất nước vào năm 1956.    Vấn đề cần đặt 
		ra là cuộc kháng chiến này có chính nghĩa không, và có đáp ứng được sự 
		khao khát của toàn dân không?  Hay là, theo một số người trong đầu có 
		một loại “gen” đặc biệt nên cho rằng: “Cuộc kháng chiến là vô ích, 
		Việt Nam chỉ cần nằm há miệng chờ cho cái trái độc lập rơi rụng từ cái 
		cây thực dân của Pháp?”  Dù sao thì cuộc kháng chiến cũng đã xảy ra 
		và chỉ chấm dứt với Hiệp Định Genève.  Nhưng tại sao với chiến thắng 
		Điện Biên Phủ mà Việt Minh lại phải ký Hiệp Định Genève và tinh thần của 
		Hiệp Định Genève là như thế nào?   Thứ nhất, dù 
		đang thắng thế quân sự nhưng sau 9 năm kháng chiến với nhiều tổn thất, 
		Việt Minh, một phần dưới sức ép của Nga Tàu, cũng muốn chuyển sự tranh 
		chấp quân sự thành tranh chấp chính trị mà họ tin rằng sẽ nắm phần 
		thắng.  Nếu không tin như vậy, không đời nào Việt Minh chịu ký Hiệp Định 
		Genève chỉ để kiểm soát non nửa đất nước, vứt bỏ mọi công lao hy sinh 
		kháng chiến, nhường hơn nửa đất nước cho lực lượng Quốc Gia khi đó vốn 
		vẫn còn thuộc quyền Pháp, dưới quyền cai trị của một phán quan Tây Ban 
		Nha như Ngô Đình Diệm, một người nổi tiếng là “chí sĩ” nằm chui trong 
		vài tu viện Công Giáo Âu, Mỹ trong suốt cuộc kháng chiến. Thành tích 
		“yêu nước” duy nhất của Ngô Đình Diệm là chống Cộng cho Chúa, theo sát 
		chính sách của Vatican dưới triều giáo hoàng Pius XII, làm quan cho 
		Pháp, dùng đèn cầy đốt hậu môn tra khảo những người Cộng sản yêu nước, 
		có thể nghĩ rằng để vinh danh Chúa, cũng như những Phán Quan Tây Ban Nha 
		khi xưa tra khảo và thiêu sống những kẻ “chống Chúa”, và tất nhiên không 
		hề có một công lao gì trong công cuộc kháng chiến của toàn dân..  Đặt 
		chúng ta vào vị thế của Việt Minh, chúng ta có thể chấp nhận một sự chia 
		cắt đất nước vĩnh viễn như vậy không?      Thứ nhì, trong 
		Hiệp Định Genève năm 1954 không có một điều khoản nào quy định việc chia 
		cắt Việt Nam thành hai miền Nam, Bắc riêng biệt vĩnh viễn.  Sông Bến Hải 
		không phải là ranh giới chia đôi đất nước mà chỉ là nằm trên vĩ tuyến 17 
		phân định vùng rút quân của lực lượng Liên Hiệp Pháp và Quân Đội Nhân 
		Dân Việt Nam (Việt Minh), chờ ngày đất nước thống nhất qua một cuộc bầu 
		cử trên toàn quốc vào tháng 7/1956.     Tuy rằng tôi 
		đã trình bày vấn đề này trước đây, tôi nghĩ cũng cần nhắc lại vài điểm 
		chính trong Hiệp Định Genève.      Hiệp Định 
		Genève gồm hai phần:  Phần “Thỏa hiệp Ngưng Chiến Song Phương”
		giữa Pháp và Việt Minh (Bilateral armistice agreement between 
		France and the VietMinh) làm căn bản cho Phần “Tuyên Ngôn Đa 
		Phương Có Tính Cách Quyết Định” (The multilateral Final 
		Declaration), đồng ký bởi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào, Cambod, Pháp, 
		Anh, Mỹ, Trung Quốc, Nga Sô Viết, và Việt Nam Quốc Gia. Ngoại Trưởng 
		Trần Văn Đỗ của Việt Nam Quốc Gia lên tiếng phản kháng, không đồng ý với 
		nội dung bản Tuyên Ngôn, điều duy nhất ông ta có thể làm được, vì thực 
		tế là chính quyền Bảo Đại do Pháp dựng lên và khi đó vẫn còn nằm dưới 
		cái dù của Pháp, cho nên không có một tư cách quyết định chính trị nào 
		trong Hội Nghị Genève.   Phải 8 tháng sau Hiệp Định Genève, đến tháng 
		3/1955, dưới áp lực của Mỹ, Pháp mới hoàn toàn trao trả độc lập cho Nam 
		Việt Nam, để Mỹ vào thay thế, và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam mới có cơ 
		hội đốt lon của Pháp để đeo lon theo kiểu Mỹ.       Phần “Thỏa 
		Hiệp...”, gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Tướng Pháp Henri Delteil, 
		Quyền Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương, và ông Tạ 
		Quang Bửu, Thứ Trưởng Quốc Phòng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.  Có vài 
		điều khoản chính như sau:      Điều khoản 1 
		(Article 1) nói về sự thiết lập “một đường ranh giới quân sự tạm 
		thời” (A provisional military demarcation line) [Vĩ tuyến 17] 
		để quân đội hai bên rút quân về: Lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam 
		ở phía Bắc, và lực lượng Liên Hiệp Pháp (French Union) [trong đó có 
		quân đội quốc gia nằm dưới cái dù của Pháp] ở phía Nam làn ranh giới.      Điều khoản 8 
		ấn định quyền kiểm soát hành chánh ở phía Bắc Vĩ Tuyến 17 thuộc 
		Việt Minh và ở phía Nam thuộc Pháp (Civil administration in the 
		regroupment zone to the North of the 17th parallel was to be 
		in the hands of the Vietminh, and the area to the South of the parallel 
		was to be in the hands of the French)      Điều khoản 
		14, đoạn (a) [Article 14, Paragraph (a)] viết rõ: “Trong khi chờ 
		đợi cuộc Tổng Tuyển Cử để Thống Nhất Việt Nam, quyền hành chánh dân sự 
		trong mỗi vùng rút quân nằm trong tay các phe có quân đội rút quân 
		(nghĩa là Pháp và Việt Minh) theo tinh thần của bản Thỏa Hiệp.”  
		(Pending the general elections which will bring about the Unification of 
		Vietnam, the conduct of civil administration in each regrouping zone 
		shall be in the hands of the party whose forces are to be regrouped 
		there in virtue of the present Agreement).      Điều khoản 
		14, đoạn (c) viết:  “Mỗi phe sẽ tự kiềm chế để không có bất cứ 
		hành động  trả thù hay kỳ thị nào đối với những cá nhân hay tổ chức vì 
		những hoạt động trong khi có cuộc tranh chấp quân sự, và phải bảo đảm 
		quyền tự do dân chủ của họ.” (Each party undertakes to refrain 
		from any reprisals  or discrimination against persons or organizations 
		on account of their activities during the  hostilities and to guarantee 
		their democratic liberties) [Có ai còn nhớ đến chiến dịch Tố Cộng của 
		Ngô Đình Diệm không? Chiến dịch này có vi phạm điều khoản trên không?]      Bản “Tuyên 
		Ngôn...” gồm 13 đoạn, liên quan đến cả Cambod và Lào, có một đoạn đáng 
		để ý: Đoạn (6) 
		[Paragraph (6)] nguyên văn như sau: 
		    “Hội Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của 
		Thỏa Hiệp về Việt Nam là dàn xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm 
		chấm dứt những đối nghịch quân sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM 
		THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI 
		PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY  ĐẤT ĐAI .  Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là 
		thi hành những điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp 
		ngưng chiến sẽ tạo nên căn bản cần thiết để trong tương lai gần đạt tới 
		một sự dàn xếp chính trị ở Việt Nam”      (The 
		Conference recognizes that the essential purpose of the Agreement 
		relating to Vietnam is to settle military questions with a view to 
		ending hostilities and that THE MILITARY DEMARCATION LINE IS PROVISIONAL 
		AND SHOULD NOT IN ANY WAY BE INTERPRETED AS CONSTITUING A POLITICAL OR 
		TERITORIAL BOUNDARY.  The Conference expresses its conviction that the 
		execution of the provisions set out in the present Declaration and in 
		the Agrrement on the cessation of hostilities creates the necessary 
		basis for the achievement in the near future of a political settlement 
		in Vietnam.)      Chỉ cần đọc 
		vài đoạn trong bản Thỏa Hiệp cũng như bản Tuyên Ngôn, không cần phải 
		diễn giải lôi thôi làm gì, chúng ta có thể thấy ngay là không làm gì có 
		chuyện chia nước Việt Nam thành hai miền độc lập về chính trị và quân 
		sự.  Huyền thoại về một miền Nam độc lập như một quốc gia riêng biệt chỉ 
		là sản phẩm do Mỹ tạo ra về sau, tuy trong bản Tuyên Ngôn Đơn Phương 
		(Unilateral Declaration) của Mỹ về Hội Nghị Genève, Mỹ không bao giờ nói 
		đến “Nam” hay “Bắc” mà chỉ nói đến một nước Việt Nam (Kahin & Lewis: 
		 Nowhere in its unilateral declaration did the US speak of a “South” or 
		“North” Vietnam.  Every reference of the American representative was to 
		a SINGLE VIETNAM.).    Như chúng ta 
		đã biết, cuộc Tổng Tuyển Cử để thống nhất đất nước không được miền Nam 
		thi hành dù miền Bắc đã nhiều lần thúc giục.  Có hai luận cứ để bào chữa 
		cho chính quyền Ngô Đình Diệm từ chối không thi hành Thỏa Hiệp Genève 
		cũng như không chịu tổ chức Tổng Tuyển Cử là Chính Quyền Diệm không ký 
		vào bản Thỏa Hiệp và dưới chế độ Cộng Sản không có bầu cử tự do.  Vào 
		năm 1956 ở miền Nam, hai luận cứ trên nghe có vẻ có tính cách thuyết 
		phục và hợp lý.  Nhưng ngày nay, khi nghiên cứu lịch sử, chúng ta thấy 
		rằng cả hai hai luận cứ này đều không có cơ sở chính đáng, chẳng qua chỉ 
		là chính sách “cường quyền thắng công lý” của Mỹ cộng với chủ trương 
		Chống Cộng Cho Chúa của chính quyền Ngô Đình Diệm.  Bảo rằng Diệm không 
		ký vào Hiệp Định Genève nên Hiệp Định vô giá trị cũng như Luật sư Trần 
		Thanh Hiệp nói rằng Nguyễn Văn Lý không tuân phục luật pháp Việt Nam nên 
		luật pháp Việt Nam vô giá trị.          Nhưng vấn đề 
		chính là, thứ nhất, trong Hiệp Định có điều khoản qui định rằng Pháp là 
		phe phải tôn trọng Hiệp Định Genève và những chính quyền nối tiếp Pháp 
		trước cuộc Tổng Tuyển Cử năm 1956 đều phải có bổn phận thi hành những 
		điều khoản đã được ký kết giữa Pháp và Việt Minh [Kahin & Lewis: The 
		Vietminh’s interests were further safeguarded by the provision that any 
		administration succeeding the French prior to the 1956 elections would 
		legally assume France’s obligations and be “responsible for ensuring the 
		observance and enforcement of the terms and provisions” of the 
		agreements entered between the Vietminh and France.)      Thứ nhì, 
		Việt Minh có cần phải tổ chức bầu cử không tự do vào thời đó không, khi 
		mà chiến thắng Điện Biên Phủ và tiếng tăm của Hồ Chí Minh đã vang rền 
		trên thế giới?  Lý do chính để Mỹ và Diệm phá cuộc Tổng Tuyển Cử năm 
		1956 là, chính Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower và báo chí Mỹ, tờ Time 
		ngày 22/11/1954, và tờ Look ngày 25/1/1955, đã ước tính là trong 
		cuộc Tổng Tuyển Cử Tự Do (Free Elections) vào năm 1956 thì ông Hồ Chí 
		Minh sẽ được ít nhất là 80% số phiếu trên toàn quốc.  Mỹ muốn ngăn chận 
		Cộng Sản vì cái thuyết Domino sai lầm của mình nên không muốn có Tổng 
		Tuyển Cử mà kết quả chắc chắn là Cộng Sản sẽ thắng trên toàn quốc.  Mặt 
		khác, các cuộc bầu cử dưới chế độ Ngô Đình Diệm có tự do và không gian 
		lận hay không?  Vì vậy Giáo sư Mortimer T. Cohen đã châm biếm trong cuốn
		From Prologue To Epilogue In Vietnam , xuất bản năm 1979, trang 
		227 và 251, như sau:      “Nhưng 
		Eisenhower biết rằng trong một cuộc bầu cử tự do, 80% dân chúng sẽ bầu 
		cho Hồ Chí Minh thay vì Bảo Đại.  Diệm có khá gì hơn Bảo Đại 
		không?  Làm sao mà khá hơn?  Không một người nào ở Việt Nam có 
		thể thắng Hồ Chí Minh trong cuộc Tổng Tuyển Cử tự do. Ông ta là 
		George Washington của nước Việt Nam.  Giáo sư Brown gọi ông ta là một kẻ 
		“phản bội”, nhưng trong 15 năm, từ 1954 đến khi ông ta chết vào tháng 
		9/1969, cái tên phản bội này sẽ thắng bất cứ ứng cử viên nào khác.  
		Các ông không thể đánh bại một người có tên tuổi bằng một người không 
		tên tuổi...      Nhiều sử 
		gia lý luận như các luật sư – hay giáo sư đại học - nhấn mạnh là: vì 
		Việt Nam Cộng Hòa không ký Hiệp Định Genève cho nên không có bổn phận 
		phải hợp tác trong việc tổ chức bầu cử để thống nhất đất nước. Điều này 
		giống  như là một tên hiếp dâm bảo nạn nhân là cô ta đã làm hư hại xe 
		của hắn. Chuyện làm hư hại xe chẳng liên hệ gì đến chuyện hiếp dâm.  Lý 
		do mà hắn hãm hiếp là vì hắn muốn làm tình.  Lý do Diệm không muốn có 
		cuộc Tổng Tuyển Cử là vì ông ta nghĩ rằng mình sẽ thua...”      (But 
		Eisenhower knew then that 80 percent of the people in a free election 
		would vote for Ho Chi Minh over Bao Dai.  Would Diem do any better than 
		Bao Dai?  Why should he?  No one in Vietnam could beat Ho Chi Minh in an 
		open election.  He was the George Washington of the nation.  Professor 
		Brown calls him a “traitor”, but for fifteen years, from 1954 to his 
		death in September of 1969, this traitor would have easily won over any 
		other candidate.  You can’t beat somebody with nobody...      Several 
		historians, arguing like lawyers – or professors – insist that because 
		the Republic of Vietnam had not signed the Geneva Accord, it was not 
		obligated to cooperate in holding elections for unification.  It’s like 
		a rapist telling the victim she damaged his car. This had nothing to do 
		with it.  The reason he does what he does is he wants to copulate.  The 
		reason Diem did not hold unification elections was that he thought he’d 
		lose them...)     Qua phần phân 
		tích những tài liệu ở trên, chúng ta thấy rằng: 1) Hiệp Định Genève 
		không chia đôi đất nước thành hai miền độc lập về chính trị và đất đai; 
		và 2) Mỹ và Diệm đã cố ý không thi hành điều khoản Tổng Tuyển Cử để 
		thống nhất đất nước. Trước tình hình như vậy, Bắc Việt không còn con 
		đường nào khác là phải tiếp nối sự nghiệp thống nhất đất nước.  Nhưng 
		những tài liệu viết bởi chính người Mỹ cho biết, dù miền Nam từ chối 
		không thi hành Tổng Tuyển Cử, Bắc Việt vẫn hi vọng đi đến một giải pháp 
		chính trị, hòa bình để thống nhất đất nước..    Giải pháp quân 
		sự của Bắc Việt chỉ là chuyện bất đắc dĩ trước sự can thiệp sâu đậm của 
		Mỹ có tính cách xâm lăng vào Việt Nam.  Và đây chỉ là, như trên đã nói, 
		tiếp nối sự nghiệp chống xâm lăng và thống nhất đất nước.  Khi xưa, 
		chúng ta ở miền Nam tin tưởng rằng Mỹ giúp miền Nam vì lý tưởng tự do 
		dân chủ, cũng như ngày nay, nhiều người tin rằng ông Bush xâm chiếm Iraq 
		[người Mỹ gọi là “invasion and occupation”] cũng là để cho tự do dân 
		chủ. Không có gì là xa sự thực hơn.     Không phải là 
		sau Hiệp định Genève Mỹ mới can thiệp vào Việt Nam mà Mỹ đã can thiệp 
		vào Việt Nam từ trước đã lâu.  Mỹ đã đồng lõa với thực dân Pháp trong 
		mưu toan tái lập nền đô hộ của Pháp trên dân Việt Nam. Những người 
		thực sự tin rằng Mỹ là “đồng minh” của Nam Việt Nam, muốn giúp dân Việt 
		Nam để chống lại Cộng Sản, để cho dân Việt Nam, hay ít ra là dân miền 
		Nam,  được tự do dân chủ, nên nhớ kỹ rằng chính Mỹ đã đài thọ hơn 80% 
		chiến phí cho Pháp trong cuộc chiến tiền-Genève, từ 1945 đến 1954, để 
		Pháp tái lập nền đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam, đưa Việt Nam trở 
		lại vòng nô lệ Pháp, trong khi Mỹ đã biết rõ chế độ thực dân Pháp 
		đối với dân Việt Nam là như thế nào?  Lịch sử Việt Nam sẽ lên án 
		hành động đế quốc thực dân này.  Nếu chúng ta coi Pháp là quân xâm lăng 
		thì Mỹ cũng là kẻ xâm lăng không kém.  Chỉ sau khi Pháp thất trận Mỹ mới 
		đưa ra chiêu bài giúp Việt Nam, bảo vệ nền tự do (sic) của Nam Việt Nam 
		trong khi, như chúng ta đã biết, theo Hiệp Định Genève, Nam Việt Nam 
		không phải là một quốc gia độc lập mà chỉ là một vùng rút quân của Pháp 
		và những lực lượng quân sự dưới quyền Pháp, trong đó có lực lượng quốc 
		gia, chờ ngày Tổng Tuyển Cử trên toàn thể đất nước vào năm 1956. Cuộc 
		kháng chiến chống Pháp đã chứng tỏ lòng người dân Việt muốn gì.  Và đây 
		là quyền tự quyết của Việt Nam mà Mỹ đã hứa là sẽ không can thiệp trong 
		một bản tuyên ngôn đơn phương (unilateral declaration) sau khi Hiệp Định 
		Genève được ký kết.        Thật vậy, 
		Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Walter Bedell Smith xác định trong bản Tuyên 
		Ngôn tại Washington D.C. về Hiệp Định Genève và cuộc Tổng Tuyển Cử năm 
		1956 để thống nhất đất nước như sau:      “Trong 
		trường hợp những quốc gia nay bị chia đôi ngoài ý muốn, chúng ta sẽ tiếp 
		tục tìm kiếm giải pháp thống nhất qua bầu cử tự do, giám sát bởi Liên 
		Hiệp Quốc để bảo đảm là bầu cử được thi hành nghiêm chỉnh” và “Hoa Kỳ sẽ 
		tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp”      (In the 
		case of nations divided against their will, we shall continue to seek to 
		achieve unity through free elections, supervised by the United Nations 
		to ensure that they are conducted fairly...  The US will refrain from 
		the threat or the use of force to disturb them)     Nhưng trong 
		cuốn The United States In Vietnam: An Analysis In Depth Of The 
		History Of America’s Involvement In Vietnam, hai Giáo sư đại học 
		Cornell, George McTurnan Kahin và John W. Lewis, viết, trang 59:      “Tuy 
		Hoa Kỳ nói rằng “sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá 
		những sự Thỏa Hiệp” nhưng điều hiển nhiên chúng ta thấy ngay sau đó là 
		Hoa Kỳ đã sửa soạn dùng mọi phương cách khác để ủng hộ chế độ Saigon 
		[do Mỹ  dựng lên] trong việc không tôn trọng những điều khoản trong 
		Thỏa Hiệp”       
		(Though the US said it would “refrain from 
		the threat or the use of force to disturb” the agreements, it soon 
		become evident that it was prepared to use every other means to back up 
		the Saigon regime in its departure from their central provisions).  
		     
		[Tưởng chúng ta không nên quên là ngay từ sau 
		Hiệp Định đình chiến 1954, Mỹ đã gửi Lansdale ra ngoài Bắc để  phá hoại, 
		tuyên truyền, và cổ võ giáo dân Công giáo di cư vào Nam với những khẩu 
		hiệu như “Chúa đã vào Nam” và “Đức Mẹ đã di cư vào Nam” v..v.. để dụ đám 
		giáo dân thấp kém.  Vì vậy hơn 800 ngàn Giáo dân Công giáo đã ào ào, các 
		Cha chạy trước, các con theo sau, kéo vào Nam]      Do đó, mọi lý 
		do Mỹ dùng để can thiệp vào Việt Nam trở thành vô giá trị, không thể 
		biện minh được, trước những sự kiện trên.  Sự thật là, Mỹ tự ban cho 
		mình quyền của một cảnh sát quốc tế, ép buộc mọi quốc gia phải theo sự 
		xếp đặt của mình, nghĩa là, như trên đã nói, áp dụng luật rừng và cường 
		quyền thắng công lý của kẻ mạnh.  Nhưng thực ra, theo những tài liệu 
		hiện hữu của một số học giả Mỹ, cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam có 
		nhiều tính cách xâm lăng và nằm trong chủ trương bá quyền của Mỹ trên 
		khắp thế giới chứ không phải chỉ riêng ở Việt Nam.  Mỹ đã can thiệp vào 
		nội bộ của nhiều nước: El Salvador, Dominican Republic, Philippines, 
		Thailand v..v..    Mặt khác, 
		trong thời điểm đó, hơn ¼ thế giới theo Cộng Sản, Cuba ở ngay sát nách 
		Mỹ là Cộng Sản, toàn thể Đông Âu theo Cộng Sản, và hai Cộng Sản gộc là 
		Nga và Tàu, tại sao Mỹ không chống ở những nơi đó  mà lại đi chống ở một 
		nước nghèo, nhỏ, xa xôi như Việt Nam, vừa mới giành được độc lập sau một 
		cuộc chiến đấu gian khổ dài 9 năm, nhân dân mệt mỏi, tài nguyên kiệt 
		quệ, và nhất là không có khả năng gây bất cứ sự nguy hại nào cho Mỹ?
		    Mục Sư Tin 
		Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Stanford, 
		viết trong cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri 
		 (Vietnam: Crisis of Conscience, Association Press, N.Y., 1967), trang 
		79: 
		   
		Thật là khôi hài, ngay khi mà chúng ta nói rằng 
		chúng ta phải “chặn đứng Cộng Sản” ở Việt Nam, thì ở những nơi khác 
		chúng ta lại sống chung với Cộng Sản, soạn thảo những hiệp ước với Nga 
		Sô, mở rộng giao thương với Đông Âu, ủng hộ Tito ở Nam Tư.  Ở những nơi 
		khác, chúng ta rõ ràng quyết định là sống chung hòa bình với Cộng Sản, 
		và khuyến khích những xã hội Cộng Sản độc lập, không cần đến sự liên kết 
		với nhau trong khối Cộng sản.    (It is ironic 
		that at precisely the moment we are saying that we must “halt communism” 
		in Vietnam, we are coming to terms with it elsewhere, working out new 
		treaty agreements with Russia, extending trade in Eastern Europe, giving 
		support to Tito in Yougoslavia.  Elsewhere, we have clearly decide to 
		coexist with communism, and to encourage independent Communist societies 
		that will be increasingly free of the need for alliance with one 
		another.)    Mục sư Brown 
		nhận định không sai.  Ngày 4 tháng 11, 1956, xe tăng Nga tiến vào 
		Budapest, thủ đô Hung Gia Lợi, một sự xâm lăng trắng trợn để dẹp một 
		chính quyền Cộng Sản ngỏ ý cho dân được bầu cử tự do.  Mỹ chỉ can thiệp 
		bằng miệng, dùng đài phát thanh VOA khuyến khích dân Hung chống trả, hứa 
		suông là sẽ đem quân vào can thiệp, rồi án binh bất động.  Việt Nam 
		không có quân xâm lăng từ ngoài vào.  Vậy tại sao lại là Việt Nam?     Vậy thì, thực 
		chất cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam là gì?  Phải chăng đó chỉ là một 
		cuộc xâm lăng ngụy trang đàng sau chiêu bài giúp Nam Việt Nam để có tự 
		do dân chủ.  9 năm dưới chế độ Ngô Đình Diệm có tự do dân chủ không?  
		Chính quyền Thiệu có tự do dân chủ không? Và tự do dân chủ như thế nào?  
		Nhất đĩ nhì Cha?    Ngày nay, 
		chúng ta có thể đọc vài tài liệu về thực chất cuộc can thiệp của Mỹ vào 
		Việt Nam, do chính người Mỹ viết, và viết sau khi chiến tranh Đông Dương 
		đã chấm dứt từ lâu.   
		Có lẽ không có gì rõ ràng hơn là 
		đoạn sau đây của Daniel Ellsberg trong cuốn Secrets: A Memoir of 
		Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255: 
		   
		Không làm gì có 
		chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối 
		tiếp trong một phần tư thế kỷ.. 
		   Dùng ngôn từ thực tế, 
		đứng về một phía 
		(Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ, sau 
		đến toàn là Mỹ.  Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu 
		tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng 
		cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và  những 
		kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân 
		đội và phi công, của Mỹ. 
		   Cuộc chiến đó không có gì là “nội chiến”, sau 1956 hay 1960, như nó đã 
		không từng là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ 
		ủng hộ. 
		Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả 
		lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định 
		về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì 
		không phải là một cuộc nội chiến. 
		   Bảo rằng chúng ta “xía 
		vào” cái gọi là “đích thực là một cuộc nội chiến”, như hầu hết các tác 
		giả Mỹ, và ngay cả những người có khuynh hướng tự do chỉ trích cuộc 
		chiến cho rằng như vậy cho đến ngày nay, đơn giản chỉ là che dấu một 
		sự thực đau lòng hơn, và cũng chỉ  là một huyền thoại như là luận điệu 
		chính thức về một “cuộc xâm lăng từ miền Bắc”. 
		   Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà 
		chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm,  sự xâm lăng của 
		Mỹ. 
		   (There had been no 
		First and Second Indochina Wars, just one continuous conflict for almost 
		a quarter of century. 
		   In practical terms, on 
		one side, it had been an American war almost from its beginning: at 
		first French-American, eventually wholly American.  In both cases it was 
		a struggle of Vietnamese – not all of them but enough to persist – 
		against American policy and American financing, proxies, technicians, 
		firepower, and finally, troops and pilots. 
		   It was no more a 
		“civil war” after 1955 or 1960 than it had been during the US-supported 
		French at colonial reconquest.  A war in which one side was entirely 
		equipped and paid by a foreign power – which dictated the nature of the 
		local regime in its own interest – was not a civil war.  To say that we 
		had “interfered” in what is “really a civil war”, as most American 
		writers and even liberal critics of the war  do to this day, simply 
		screened a more painful reality and was as much a myth as the earlier 
		official one of “aggression from the North”.  In terms of the UN Charter 
		and our own avowed ideals, it was a war of foreign aggression, American 
		aggression.) 
		   Tại sao Daniel 
		Ellsberg lại có thể viết như vậy.  Vì Ellsberg là viên chức trong chính 
		quyền Mỹ, đã từng đọc được những tài liệu mật nhất của Mỹ và biết rõ 
		nhất về thực chất cuộc chiến ở Việt Nam.  Chính ông là người đã tiết lộ 
		Tài Liệu Ngũ Giác Đài.  Và ông viết đoạn trên năm 2002 chứ không phải 
		là trong thời kỳ “phản chiến” sôi nổi trên đất Mỹ.  Nếu chúng ta đã 
		đọc một số những sách viết về cuộc chiến Việt Nam, viết sau 1975, của 
		các học giả và cựu quân nhân Mỹ, thì chúng ta sẽ thấy rằng đa số đồng ý 
		với Daniel Ellsberg về điểm này. 
		   Sau đây là một tài 
		liệu khác về bản chất của cuộc chiến ở Việt Nam cách đây trên 30 năm.  
		Trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War 
		and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991), 
		John Carlos Rowe and Rick Berg viết, trang 28-29: 
		  
		Cho tới năm 1982 – 
		sau nhiều năm tuyên truyền liên tục mà hầu như không có tiếng nói chống 
		đối nào được phép đến với đại chúng – trên 70% dân chúng vẫn coi cuộc 
		chiến (ở 
		Việt Nam) “căn bản là sai lầm và phi đạo đức”, chứ không 
		chỉ là “một lỗi lầm.” 
		   Tưởng cũng nên nhớ lại 
		vài sự kiện.  Mỹ đã dính sâu vào nỗ lực của Pháp để tái chiếm thuộc 
		địa cũ của họ, biết rằng kẻ thù là phong trào quốc gia của Việt Nam.  
		Số tử vong vào khoảng nửa triệu.  Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức hiến 
		thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam 
		một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70000 “Việt 
		Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa 
		miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm. 
		 
		   Trong những năm 
		1961-62, Tổng thống Kennedy phát động cuộc tấn công thẳng vào vùng quê 
		Nam Việt Nam với những cuộc thả bom trải rộng, thuốc khai quang trong 
		một chương trình được thiết kế để lùa hàng triệu người dân vào những 
		trại (ấp chiến lược?) nơi đây họ được bảo vệ bởi những lính gác, giây 
		thép gai, khỏi quân du kích mà Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ. 
		 
		    Mỹ khẳng định là đã 
		được mời đến, nhưng như tờ London Economist đã nhận định chính xác, 
		“một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng trừ phi được mời bởi một chính phủ 
		hợp pháp.”  Mỹ chưa bao giờ coi những tay sai mình dựng lên là có quyền 
		hợp pháp như vậy, và thật ra Mỹ thường thay đổi những chính phủ này khi 
		họ không có đủ thích thú trước sự tấn công của Mỹ hay tìm kiếm một sự 
		dàn xếp trung lập được mọi phía ủng hộ nhưng bị coi là nguy hiểm cho 
		những kẻ xâm lăng, vì như vậy là phá ngầm căn bản cuộc chiến của Mỹ 
		chống Nam Việt Nam.  Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ 
		đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp 
		chống nhân lọại trên khắp Đông Dương. 
		   (As late as 1982 – 
		after years of unremitting propaganda with virtually no dissenting voice 
		permitted expression to a large audience – over 70% of the general 
		population (but far fewer “opinion leaders”) still regarded the war as 
		“fundamentally wrong and immoral,’ not merely “a mistake”.. 
		   It is worth recalling 
		a few facts.  The US was deeply committed to the French effort to 
		reconquer their former colony, recognizing throughout that the enemy was 
		the nationalist movement of Vietnam.  The death toll was about half a 
		million.  When France withdrew, the US dedicated itself at once to 
		subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south a 
		terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking 
		resistance which, from 1959, was supported from the northern half of the 
		country temporarily divided by the Geneva settlement that the US had 
		undermined.   
		   In 1961-1962, 
		President Kennedy launched a direct attack against rural South Vietnam 
		with large-scale bombing and defoliation as part of a program designed 
		to drive millions of people to camps where they would be “protected” by 
		armed guards and barbed wire from the guerillas whom, the US conceded, 
		they were willinggly supporting.  The US maintained that it was invited 
		in, but as the  London Economist accurately observed, “an invader is an 
		invader unless invited in by a government with a claim to legitimacy.”  
		The US never regarded the clients it installed as having any such claim, 
		and in fact it regularly replaced them when they failed to exhibit 
		sufficient enthusiam for the American attack or sought to implement the 
		neutralist settlement that was advocated on all sides and was considered 
		the prime danger by the aggressors, since it would undermine the basis 
		for their war against South Vietnam.  In short, the US invaded South 
		Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with 
		numerous and quite appalling crimes against humanity throughout 
		Indochina.) 
		   Từ những tài liệu 
		trên, những người còn mơ mộng Mỹ là “đồng minh” của mình, hay dựa thế 
		Mỹ, hay nói đúng hơn là dựa vào vài cái nghị quyết ấm ớ của Hạ Viện Mỹ, 
		vào vài lời tuyên bố của một số dân biểu cắc ké chống Cộng thời thượng 
		v..v.. để lật đổ chế độ Cộng sản không Cộng sản ngày nay ở Việt Nam thì 
		không hiểu gì về chính trị Mỹ và người Mỹ.  Mỹ không có đồng minh.  Mỹ 
		là một thị trấn trên đồi (A city on the hill), Mỹ là cái đầu tầu kéo cả 
		thế giới theo sau, và Mỹ chỉ coi những người địa phương, những “gooks”, 
		mà Mỹ ve vuốt ủng hộ trên đầu môi chót lưỡi để tạo áp lực thay cho Mỹ, 
		hoặc khuyến khích khích khuấy động, như là đầy tớ.  Đối với Mỹ, đồng 
		đô-la quyết định hết thẩy.  Nếu vài cái nghị quyết của Hạ Viện hay của 
		Quốc Hội Âu Châu, nếu những lời kêu gọi nhân quyền của Sanchez, Smith 
		v..v.. mà có hiệu lực thì Cộng sản Việt Nam đã dẹp tiệm từ lâu rồi.  Đây 
		là những sự thực ngay trước mắt mà giới chống Cộng cực đoan hay chống 
		Cộng cho Chúa không nhìn thấy.    Qua sự phân 
		tích những sự kiện lịch sử và qua một số tài liệu đã dẫn chứng ở trên, 
		chúng ta có thể thấy rằng, như trên đã nói, ngày 30 tháng 4 tất nhiên 
		phải đến, vì đó là niềm khao khát nếu không phải của toàn dân thì cũng 
		của đa số người dân.. Bất kể là Tàu, hay Nga, hay Mỹ có muốn Việt Nam 
		thống nhất hay không, điều này không quan trọng, người Việt Nam muốn và 
		đã thực hiện được, thế là đủ.  Đối với những người còn mang nặng  trên 
		vai cuộc xung đột Quốc – Cộng trong quá khứ, và còn muốn tiếp tục cuộc 
		Thánh Chiến Chống Cộng, thì họ chỉ có thể nhìn thấy khía cạnh tiêu cực 
		của ngày 30/4/75, vì thế chúng ta mới thấy xuất hiện những từ như “mất 
		nước”, “Quốc Hận”, hay “cưỡng chiếm” và luận điệu “cái gì ở Việt Nam 
		cũng xấu”..  Nhưng nhìn vào khía cạnh tích cực của ngày 30/4/75, và tạm 
		quên đi mình vốn là người Việt Quốc gia, đã từng đóng góp cho miền Nam 
		về quân sự cũng như về giáo dục, để nhìn vấn đề trên quan điểm đất nước, 
		dân tộc, tôi xin có vài quan điểm sau đây về ngày 30/4/75.  Đây chỉ là 
		những quan điểm cá nhân, tuyệt đối cá nhân.      Ngày 30/4/75 
		là ngày mà không ai có thể phủ nhận là ngày Việt Nam lấy lại hoàn toàn 
		nền độc lập và thống nhất của nước nhà sau gần một thế kỷ bị người Pháp 
		đô hộ, và sau một cuộc chiến tranh bất đắc dĩ đầy bi thảm mà nguyên nhân 
		chính là sự can thiệp dựa trên “cường quyền thắng công lý” của ngoại 
		bang: sự liên kết giữa Vatican và Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về để chống Cộng, 
		xóa bỏ hiệp định Genève trong đó có điều khoản qui định một cuộc tổng 
		tuyển cử để thống nhất đất nước, và Mỹ đã hứa không dùng võ lực để can 
		thiệp vào nội bộ Việt Nam nhưng lại phản bội lời hứa ngay sau đó.. Đây 
		là những sự kiện lịch sử bất khả phủ bác.     Ngày 30/4/1975 
		không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ quyền trở lại tay 
		người Việt Nam,  mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ những kẻ có tâm 
		cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc chính 
		kiến hay phe phái nào, đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt 
		kẻ đối thoại, bất kể là họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc 
		gia nào. Tôi ở phe thua trận, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ, cũng như 
		ngày 30/4/1975, đã mang đến cho tôi một niềm hãnh diện được làm một 
		người Việt Nam, một người Việt Nam không Quốc Gia không Cộng Sản, không 
		Nam không Bắc, một người Việt Nam không từ bỏ gốc gác tổ tiên, không từ 
		bỏ lịch sử khi vinh khi nhục của quốc gia, và lẽ dĩ nhiên rất hãnh diện 
		với lịch sử chống xâm lăng của dân tộc.    Khía cạnh tích 
		cực nhất của ngày 30/4/75 là trên đất nước không còn cảnh bom đạn, cảnh 
		đồng bào bắn giết nhau, và nhất là đất nước đã vắng bóng quân xâm lược.  
		Một khía cạnh tích cực khác của ngày 30/4/1975 là nó mở đầu cho một cuộc 
		di dân vĩ đại chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.  Qua nhiều năm, hơn 
		hai triệu người, đi chính thức cũng như vượt biên, hiện đang sống ở nước 
		ngoài.  Sau một thời gian khó khăn trong việc hòa nhập vào một xã hội 
		mới, sau khi đã ổn định được đời sống qua công ăn việc làm, đa số người 
		Việt lưu vong không từ bỏ quê hương.  Như là một nghịch lý, khối người 
		Việt lưu vong cũng đã đóng góp không ít cho quốc gia dân tộc, và đã giúp 
		cho chế độ bên nhà bền vững, một chế độ mà một số hội đoàn, tổ chức hữu 
		danh vô thực, kể cả thế lực đen và tổ chức lãnh tiền của NED Mỹ để chống 
		phá Việt Nam, thường hô hào cần phải lật đổ, giải thể, hay cất lên tiếng 
		kêu vô vọng trong sa mạc: “Cha đã tiên phong góp phần giải phóng quê 
		hương Cha, và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con”..  mà không bao giờ nhìn thấy đất nước ngày nay đã 
		phát triển như thế nào, đời sống của người dân đã cải tiến ra sao, số 
		lượng khách ngoại quốc du lịch Việt Nam là bao nhiêu, và số lượng người 
		Việt ở nước ngoài về thăm quê hương là như thế nào. Từ 1986, số tiền người Việt lưu vong gửi về mỗi 
		năm không ít, và ngày nay mỗi năm có mấy trăm ngàn “Việt kiều” về thăm 
		quê hương, mang về mỗi năm trên dưới 3 tỷ đô la, và không phải là không 
		có những chuyên gia mang những kiến thức mới về Việt Nam hay những nhà 
		doanh nghiệp về làm ăn ở Việt Nam.  Đất nước đã mở mang phát triển về 
		nhiều mặt tuy chính quyền còn nhiều điều bất cập.  Nhưng không ai có thể 
		phủ nhận là, qua thời gian, chính quyền Việt Nam đã cải tiến rất nhiều, 
		và tôi hi vọng chính quyền tiếp tục đặt nặng nỗ lực trên vấn đề cải tiến 
		xã hội, mở mang dân trí, và coi dân là trọng.      Riêng đối 
		với cá nhân tôi, ngày 30/4/1975 là ngày tôi quyết định ly hương và cho 
		đến bây giờ tôi vẫn không hối tiếc gì về quyết định này.  Không được 
		sống trên quê hương đất tổ, nhưng cả thế giới đã mở ra trước mắt tôi.  
		Không gian như thu hẹp lại, và tôi có thể đi khắp thế giới, đến bất cứ 
		nơi nào tôi muốn, để mở rộng tầm mắt.  Và ngày nay, tôi muốn về thăm quê 
		hương khi nào cũng được. Đối với tôi, sự mất mát trong một giai đoạn đã 
		được đền bù bằng những món ăn tinh thần mà trước đây tôi không bao giờ 
		nghĩ tới.  Từ 1975, định cư ở Mỹ, tôi mới có cơ hội và phương tiện để 
		tìm hiểu về Phật Giáo.  Tôi cho đó là một hồng phúc của tổ tiên để lại.  
		Ngoài ra, tôi cũng còn có cơ hội để tìm hiểu thực chất về các tôn giáo 
		khác, đặc biệt là về Ki Tô Giáo nói chung, Ca Tô giáo Rô Ma (Roman 
		Catholicism) nói riêng, cũng như về lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam 
		mà tôi tin rằng nếu ở lại Việt Nam tôi không thể nào có phương tiện và 
		cơ hội để có được những sự hiểu biết này.  Qua những kiến thức mới thu 
		thập được này, tôi đã từ một người “Quốc gia” trở thành một người “của 
		Quốc Gia”, Quốc gia Việt Nam.    Hi vọng những 
		hiểu biết này, qua những công cuộc nghiên cứu trí thức, có thể phần nào 
		đóng góp cho việc tìm hiểu những vấn đề nhức nhối giữa những khối người 
		Việt có chính kiến khác nhau về cuộc chiến tranh trên ba mươi năm trước, 
		cũng như về thực chất các tôn giáo chính ở Việt Nam . 
		   
 
 
 Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
 Chống Cộng Theo Gương David (Trần Chung Ngọc)
 Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng (Trần Chung Ngọc)
 Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar
 Dư Luáºn Quần ChĂºng
 Ma Quân Quấy Nhiễu Sư Tăng - Nhưng Thất Bại (Trần Chung Ngọc)
 MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM - 2 (Trần Chung Ngọc)
 MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM - 3 (Trần Chung Ngọc)
 MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM -1 (Trần Chung Ngọc)
 Một trong ba thứ (Trần Chung Ngọc)
 NED và Lê Quốc Quân
 NGÀY 30/4/1975 (Trần Chung Ngọc)
 Ngáp Lớn Trong Tòa Mỹ Bị Tù - Còn Nguyễn Văn Lý ? (Trần Chung Ngọc)
 Nhân chuyện ông Triết đi Mỹ
 Nhân Quyền của Mỹ & Dự Luật H.R. 3096 (Trần Chung Ngọc)
 Nhũng Điều Tưởng Tượng Điên Rồ Của Bộ Giáo Dục Texas (Geoffrey R. Stone)
 Những Người Máy Chống Cộng (Trần Chung Ngọc)
 Nước Mỹ - Nhân Quyền - Việt Nam - 1 (Trần Chung Ngọc)
 Nước Mỹ - Nhân Quyền - Việt Nam - Phần 2: Tội ác chiến tranh (Trần Chung Ngọc)
 Phải Chăng Chiếc Khăn Quàng Là Giải Pháp Cho Tòa Khâm Sứ? (Trần Chung Ngọc)
 Richard Dawkins: Haiti Và Sự Đạo Đức Giả ... (Trần Chung Ngọc)
 Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 3. Về Chiến Tranh Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
 Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 3. Về Lá Cờ Vàng (Trần Chung Ngọc)
 Thử Phân Tích Vài Đoạn Trong Bài Diễn Văn Nhậm Chức (Trần Chung Ngọc)
 Tâm Thư Gửi Những Ai Quan Tâm (Trần Chung Ngọc)
 Tại Sao Lại Việt Nam ? (Trần Chung Ngọc)
 Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Thần? (Trần Chung Ngọc)
 Tản Mạn về Chống Cộng (Trần Chung Ngọc)
 Tản Mạn Xung Quanh Chuyến Về Việt Nam Thứ Tư Của Tôi (Trần Chung Ngọc)
 Viết Mà Chơi - Ai Chống Cộng Và Ai Không Chống ? (Trần Chung Ngọc)
 Vài Nhận Định Khi Đọc Lời Phát Biểu Của Ông Ngô Quang Kiệt (Trần Chung Ngọc)
 Vài Ý Kiến Về Vấn Đề Bang Giao Với Vatican (Trần Chung Ngọc)
 Vấn Đề Nhân Quyền Trước Luật Pháp Quốc Gia (Phúc Lâm sưu tầm)
 Đôi Hàng Về Chuyện Cờ Vàng Cờ Đỏ (Trần Chung Ngọc)
 ĐĐ Thích Nhật Từ và Xóm Đạo (Trần Chung Ngọc)
 “Religulous” Điểm Phim Cuối Tuần (Trần Chung Ngọc)
 
 
			  
 |