|  | 07 tháng 9,  2010 | 
 1   2  
		PHẦN MỘT
		
			I – Nhân quyền - Tự do Tôn giáo
II - Nước Mỹ và Vấn nạn Nhân quyền
			III - Mỹ và Việt Nam
 
		
		Lời Nói Đầu: 
		Bài viết này là kết quả nghiên cứu, lẽ dĩ nhiên không đầy đủ vì 
			không thể nào đầy đủ, về nước Mỹ, xin hiểu là chính sách của chính 
			quyền Mỹ chứ không phải là người dân Mỹ, liên quan đến vấn nạn nhân 
			quyền và vài khía cạnh của cuộc chiến tranh Việt Nam, sau một thời 
			gian dài suy nghĩ, đắn đo. Đắn đo suy nghĩ vì nhiều lý 
			do. Là một người tỵ nạn được nước Mỹ bao dung mà viết lên 
			những sự thật về nước Mỹ mà đa số người dân Mỹ cũng như người Việt 
			di cư ít biết đến, hay không muốn biết đến, chắc chắn sẽ bị một số 
			người đồng cảnh ngộ di cư cho là vô ơn. Những người này không 
			ở trong lãnh vực nghiên cứu, học thuật trí thức, trong đó sự lương 
			thiện trí thức phải đặt lên hàng đầu. Lịch sử không thiên vị, 
			“History doesn’t take side”, người Mỹ thường nói.
			
		Sau cuộc chiến, nhiều trí thức Mỹ đã để tâm nghiên cứu về mọi khía 
			cạnh của cuộc chiến, và không ít các cựu quân nhân Mỹ, từ các tướng 
			lãnh cho đến những quân nhân thường, đã viết lại những nhận xét và 
			kinh nghiệm của họ trong cuộc chiến. Ngày nay chúng ta có rất 
			nhiều tài liệu thuộc loại như vậy, khoan kể đến những hồ sơ của 
			chính quyền Mỹ đã được giải mật. Đọc một số trí thức Mỹ viết 
			về nước Mỹ chúng ta thấy rõ sự lương thiện trí thức của họ trong 
			lãnh vực học thuật. Có những sự kiện về bộ mặt nhân quyền của Mỹ và 
			về cuộc chiến ở Việt Nam mà chỉ có những người quan tâm nghiên 
			cứu, không bị chi phối bởi thiên kiến hay cảm tính bè phái, 
			nghiên cứu qua phương pháp khoa học, tổng hợp và phân tích các 
			tài liệu, mới có thể đi đến những nhận thức tương đối không xa 
			với sự thật là bao nhiêu. 
		Cuộc chiến tranh Việt Nam cách đây trên 35 năm đã gây nên nhiều tổn 
			thất to lớn cho dân tộc, về vật chất cũng như về sinh mạng, đưa đến 
			một hậu quả không tránh được là sự chia rẽ, phân hóa giữa những quan 
			niệm, lập trường khác nhau. Ở hải ngoại, có một số người, dù 
			chỉ thuộc thiểu số, vẫn tiếp tục mang nặng tâm tư Quốc-Cộng của hơn 
			4 thập niên về trước, và không thể nguôi được sự thù hận. Sự 
			thù hận trên bắt nguồn từ nhiều lý do: lý do cá nhân, lý do tập thể, 
			phần lớn là tập thể CaTô Giáo, lập trường chính trị, và nhất là, 
			thiếu hiểu biết về những sự thực lịch sử, cho nên sự thù hận thường 
			là một chiều. 
		Đọc một số không ít những diễn đàn thông tin điện tử của người Việt 
			ở hải ngoại và ở trong nước, tôi thấy một hiện tượng rất rõ rệt. 
			Người trong nước rất ít khi nói đến phía Quốc Gia, và nếu có nói đến 
			thì cũng không có những luận điệu hận thù ngút trời như những người 
			ở hải ngoại. Trong khi đó thì ở hải ngoại chúng ta thấy tràn 
			ngập những bài rủa xả từ những cá nhân đến tập thể CS trong khi trên 
			thực tế CS chỉ còn trên mặt văn tự, nhiều khi với những từ rõ ràng 
			là thiếu văn hóa, chỉ chứng tỏ tư cách và giáo dục của người viết, 
			chứ không có một tác dụng nào. Chúng ta chỉ thấy những luận 
			điệu một chiều, đổ tất cả mọi tội lỗi và cái ác lên đầu CS, thường 
			là sai sự thực. Thí dụ như về cuộc chiến thì CS theo 
			lệnh Nga Tàu gây chiến ở Việt Nam, hay xâm lăng “cưỡng 
			chiếm” Nam Việt Nam v.. v… Họ không bao giờ cần tìm hiểu, hoặc 
			không muốn tìm hiểu hay không đủ khả năng tìm hiểu, nguồn gốc thực 
			sự của chiến tranh Việt Nam là từ đâu. Sự hiểu biết về lịch sử 
			của họ quả thật rất đáng tội nghiệp. Họ thường đổ tội cho ông 
			Hồ với luận điệu: “Nếu Hồ Chí Minh không phải là CS thì sẽ không 
			có chiến tranh, và trước sau gì Việt Nam cũng sẽ được Pháp trả lại 
			nền độc lập”. Thật là một lý luận quá ấu trĩ, vì họ không 
			hề biết là CS ở mỗi quốc gia một khác cho nên người Cộng sản cũng 
			vậy, điển hình là Cụ Hồ [Xin đọc bài “Vài Nét Về Cụ Hồ” trên
			https://www.sachhiem.net/ TCN/TCNls/TCNls04.php ]. CS hay 
			không thì Pháp đã quyết định trở lại Đông Dương để tái lập nền đô hộ 
			trên bán đảo này, và Mỹ, dù không có thiện cảm với chế độ thực dân, 
			vẫn ủng hộ Pháp trong trong quyết định này vì coi Đông Dương thuộc 
			chủ quyền của Pháp, và cần Pháp để dựng lên tổ chức SEATO [SouthEast 
			Asia Treaty Organiztion] để làm một lực lượng chung ngăn sự bành 
			trướng của cộng sản ở Đông Nam Á (Tổ chức này chỉ có 8 hội viên, và 
			Mỹ đã thất bại trong mục đích lợi dụng tổ chức này để cùng Mỹ tham 
			gia cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam. Pakistan rút ra khỏi tổ chức 
			năm 1973, và Pháp, năm 1974. Tổ chức này đã chính thức bị dẹp 
			bỏ ngày 30 tháng 6, năm 1977). Cho nên Mỹ đã đơn phương giúp 
			Pháp đủ mọi thứ vũ khí, từ máy bay, xe thiết giáp, đại bác cho đến 
			các loại súng nhỏ, tổng số lên tới 80% quân phí, trong mưu đồ tái 
			lập nền đô hộ của Pháp ở Việt Nam bằng quân sự. Đây là những 
			sự kiện lịch sử bất khả phủ bác vì đã có nhiều văn kiện chứng minh.
		Thí dụ, sau đây là một đoạn trong thư của Đại sứ Hoa Kỳ ở Paris gửi cho 
		Thủ Tướng Ramadier vào đầu năm 1947, bày tỏ sự cam kết của Mỹ để phục 
		hồi vị thế của Pháp ở Đông Dương (expressed Washington’s commitment to 
		restore France’s position in Indochina), trong cuốn Cracks In The 
		Empire: State Politics In The Vietnam War của Paul Joseph, trang 81:
	
	 Bất kể là có sự hiểu lầm nào trong đầu óc người Pháp về lập trường của 
		chúng ta đối với Đông Dương họ phải cám ơn là chúng ta đã hoàn 
		toàn công nhận vị thế chủ quyền của Pháp trong vùng đó và chúng ta không 
		mong rằng có bất cứ điều nào cho rằng chúng ta cố gắng phá ngầm vị thế 
		đó của Pháp và Pháp nên biết rằng chúng ta muốn giúp đỡ họ và chúng ta 
		sẵn sàng trợ giúp họ bất cứ theo cách nào thích hợp mà chúng ta có thể 
		để kiếm ra giải pháp cho vấn nạn Đông Dương. [1]
Bất kể là có sự hiểu lầm nào trong đầu óc người Pháp về lập trường của 
		chúng ta đối với Đông Dương họ phải cám ơn là chúng ta đã hoàn 
		toàn công nhận vị thế chủ quyền của Pháp trong vùng đó và chúng ta không 
		mong rằng có bất cứ điều nào cho rằng chúng ta cố gắng phá ngầm vị thế 
		đó của Pháp và Pháp nên biết rằng chúng ta muốn giúp đỡ họ và chúng ta 
		sẵn sàng trợ giúp họ bất cứ theo cách nào thích hợp mà chúng ta có thể 
		để kiếm ra giải pháp cho vấn nạn Đông Dương. [1]
	Độc giả có thể đọc thêm về chuyện Mỹ công nhận chủ quyền của Pháp 
		ở Đông Dương trong The Pentagon Papers, trang 7; Vietnam: A 
		History in Documents, Edited by Gareth Porter, trang 13; và America in Vietnam: A Document History, Edited by William Appleman 
		Williams et al…, trang 38. Tôi nghĩ rằng, nếu chúng ta có đủ can đảm và 
		lương thiện, chấp nhận sự thật lịch sử, dù có nhiều cay đắng đối với 
		chúng ta, chúng ta sẽ nhận thức được là kéo dài sự thù hận không có lợi 
		ích gì cho dân tộc và cho cá nhân chúng ta, và từ đó sự thù hận sẽ giảm 
		bớt. 
	
	 
  
		 
  
	
	Ngày nay, những sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam đã rõ, từ 
		những tác phẩm nghiên cứu hậu chiến của các chuyên gia có uy tín trong 
		lãnh vực học thuật cho đến những hồ sơ đã được giải mật của chính quyền 
		Mỹ v…v…. Trước những tài liệu nghiên cứu nghiêm chỉnh của các trí 
		thức Tây phương mà không có lý do gì để chúng ta cho rằng họ chống Mỹ 
		hay thân Cộng, chúng ta phải có can đảm nhìn lại lịch sử như nó là như 
		vậy, chúng ta không có quyền vì cảm tính phe phái, tôn giáo, hay vì thù 
		hận mà xuyên tạc lịch sử. Hơn nữa, sự thù hận một chiều vì thiếu ý 
		thức chính trị và lịch sử này đã đưa đến sự chia rẽ, phân hóa trầm trọng 
		trong cộng đồng hải ngoại, và nhiều khi phản tác dụng. 
	Sống trong một nước tự do dân chủ như nước Mỹ mà chúng ta không thể chấp 
		nhận bất cứ một quan điểm nào khác với quan điểm của chúng ta, do đó bạn 
		trở thành thù, đồng chí hướng trở thành đối nghịch chí hướng, cho nên một số người đã có những hành động côn đồ áp bức, phi tự do, phi 
		nhân quyền, làm xấu hổ lây đến cả cộng đồng v…v… Vấn đề chính là 
		chúng ta luôn luôn bám chặt vào quan điểm, định kiến của mình và cho đó 
		là phải, là đúng nhưng không biết rằng nhiều khi quan điểm, định kiến 
		của mình không có căn bản vững chắc, phần lớn chỉ là cảm tính cá nhân. 
		Đông, Tây có nhiều tư tưởng giống nhau. Khi xưa cụ Khổng đã từng 
		nói: “Quân tử hòa nhi bất đồng”, người quân tử tuy bất đồng ý 
		kiến nhưng vẫn hòa thuận với nhau. Và Voltaire đã từng nói: “ Tôi không đồng ý với những gì anh nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ cho đến chết 
		quyền của anh nói như vậy.”(I do not agree with 
		what you have to say, but I'll defend to the death your right to say 
		it.). Hiển nhiên những câu thời danh trên chỉ có thể áp dụng cho 
		lớp người có trình độ văn hóa tương đương, chứ không thể áp dụng giữa 
		quân tử và tiểu nhân, hay giữa những người có trình độ văn hóa quá khác 
		biệt.
	Bài viết này tập trung trên hai chủ đề: (a) những sự kiện về bộ mặt nhân 
		quyền của Mỹ, và (b) những sự kiện về cuộc chiến Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên, 
		trong một bài viết thuộc loại này, không ai có thể đưa ra tất cả những 
		sự kiện về hai chủ đề trên. Những sự kiện này chắc chắn sẽ làm cho 
		một số người Việt Quốc Gia chống Cộng cực đoan, hay người Ca-tô, không 
		hài lòng, hoặc vì sự hiểu biết của họ giới hạn về những chủ đề, hoặc vì 
		thiên kiến, thù hận, và cuồng tín tôn giáo đã ăn sâu vào trong não tủy 
		của họ. Thường họ không biết thế nào là phê bình hay đối thoại, 
		không đồng ý là họ lên tiếng đả kích cá nhân, chụp mũ đủ điều mà không 
		đưa ra bất cứ bằng chứng nào. Lẽ dĩ nhiên, trong việc làm tế nhị, 
		dễ bị đụng chạm và dễ bị xuyên tạc này, những trở ngại như đã nêu ở trên 
		là điều không thể tránh. Nhưng nếu chỉ vì những trở ngại ngoài mặt 
		này mà chúng ta, những con người trí thức, cứ tiếp tục xuyên tạc lịch 
		sử, bịt mắt bịt tai người dân, thì chúng ta quả là mang tội với dân tộc 
		vì như vậy là chúng ta đã chặn bước tiến của dân tộc.
		Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi phê bình và đối thoại trí thức, tập trung 
		trên các chủ đề, và miễn trả lời những phê bình nằm ngoài lãnh vực học 
		thuật trí thức.
	
	* * * 
	I.-  Nhân Quyền – Tự Do Tôn Giáo:
	Nhân Quyền 
		? 
	Tôi đã là một công dân Mỹ gốc Việt từ 30 năm nay, đi làm, đóng thuế đầy 
		đủ, và chưa hề phạm một tội nào đối với quốc gia mới của tôi là nước Mỹ. 
		Vấn đề tôi thích nhất ở nước Mỹ là tôi có tự do nghiên cứu về bất cứ 
		lãnh vực nào mà tôi muốn, không giới hạn, và tự do trình bày những công 
		cuộc nghiên cứu của tôi. Điều này, giới trí thức Mỹ đã làm nhiều 
		rồi như nội dung các tài liệu trong bài này sẽ chứng minh. 
	Tôi 
		thật tình cảm thấy bức xúc sau khi tìm hiểu về đất nước mới của tôi, tôi 
		thấy những điều mà chúng ta thường biết về nước Mỹ như: “Là nước giật 
		giải quán quân về dân chủ và nhân quyền”, những chiêu bài mà Mỹ thường 
		muốn xuất cảng trên khắp thế giới, hay những lý do mà Mỹ đưa ra để biện 
		minh cho việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam v…v… đã đưa đến cho tôi một kết 
		luận: “Nghe vậy mà không phải vậy.” Đây cũng là mối bức xúc 
		của nhiều trí thức Mỹ, và họ đã viết ra nhiều tác phẩm và tài liệu về 
		thực chất bộ mặt nhân quyền và những tội ác chiến tranh của nước Mỹ. 
		Nếu ai còn nghi ngờ nhận định trên của tôi, xin mời vào đọc vài website 
		điển hình sau đây, trong đó có hàng trăm bài viết về vấn nạn nhân quyền 
		và tội ác chiến tranh của nước Mỹ.
	- Documents on U.S. war crimes and violations of U.S. and international 
	laws 
  https://www.christusrex.org/www1/news/crimes-docs.html (Tài liệu về tội ác chiến tranh của Hoa kỳ và những vi phạm của Hoa kỳ và luật quốc tế)
		- American War Crimes And Crimes Against Humanity	https://www.christusrex.org/www1/ news/war-crimes-index.html (Tội Ác Chiến Tranh của Mỹ và Tội Ác Chống Nhân Loại)
	Về 
		chiến tranh Việt Nam, có thể đọc: 
	- American Terrorism and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974
 
		https://www.intellnet.org/resources/american_terrorism/Vietnamesevictims.html
	
	Hoặc cuốn: “The 
		War Behind Me: Vietnam Veterans Confront The Truth About U.S. War 
		Crimes, Inside the Army’s Secret Archive of Investigation” của 
		Deborah Nelson. 
	
	 
 
	
	Dân Chủ và Nhân Quyền là hai chiêu bài mà nước Mỹ quảng bá rộng rãi nhất 
		và muốn xuất cảng chúng trên khắp thế giới, lẽ dĩ nhiên theo quan niệm 
		về dân chủ và nhân quyền của Mỹ. Nước Mỹ thường tự hào là một thị 
		trấn trên một ngọn đồi (A city on a hill) nhìn xuống tất cả các quốc gia 
		khác ở dưới thấp, hay là một cái đầu tầu phun khói (đen) dẫn đầu kéo cả 
		đoàn toa thế giới đi theo quan niệm về dân chủ và nhân quyền trên đường 
		rầy của mình. Nước Mỹ cũng tự cho mình cái quyền làm “Quan tòa phán xét nhân quyền trên thế giới” [It presumes to be the 
		"Judge of Human Rights in the World"], vì thế hàng năm Mỹ thường tung ra 
		một bản phúc trình về tình trạng nhân quyền, trong đó có vấn đề tôn 
		giáo, của các nước khác. Tung ra để mà chơi thôi vì tuyệt 
		nhiên Mỹ không có một hành động nào tiếp theo đối với những nước mà Mỹ 
		cho rằng đáng quan tâm về vấn đề nhân quyền. Nhiều khi Mỹ còn phải 
		nhượng bộ trước phản ứng của các quốc gia khác, điển hình là với Trung 
		Quốc, Mỹ phải dẹp vấn đề nhân quyền và cho Trung Quốc hưởng quy chế Tối 
		Huệ Quốc. Hãy đọc Giáo sư Samuel P. Huntington viết trong cuốn Sự Xung Đột Giữa Các Nền Văn Minh Và Sự Tái Lập Trật Tự Thế Giới 
		(The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order). 
		Huntington là một lý thuyết gia chính trị thế giới nổi tiếng của Mỹ, 
		thường viết trong tập san Foreign Affairs. Uy tín của 
		Huntington không ai có thể phủ nhận. Ông ta là giáo sư đại học 
		Harvard, giữ chức vụ Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Chiến Lược John M. Olin và 
		Chủ Tịch Học Viện Harvard Nghiên Cứu Các Địa Phương Trên Thế Giới. 
		Ông cũng từng là Giám Đốc Kế Hoạch An Ninh cho Hội Đồng An Ninh Quốc Gia 
		dưới thời Tổng Thống Carter, và Chủ Tịch Hội Chính Trị Khoa Học Hoa Kỳ. 
		Ông viết, trg. 194:
	 
		Sự đầu hàng của Hoa Kỳ về vấn đề nhân quyền đối với Trung Quốc và các 
		thế lực khác ở Á Châu là một sự “đầu hàng vô điều kiện” (unconditional 
		surrender). Sau khi đe dọa Trung Quốc là sẽ rút bỏ quy chế Tối Huệ 
		Quốc nếu Trung Quốc không tiến bộ về nhân quyền, chính quyền Clinton mới 
		đầu chứng kiến sự bẽ mặt của ngoại trưởng Warren Christopher tại 
		Bắc Kinh, không có được ngay một hành động vuốt mặt mũi (denied even a 
		face-saving gesture), rồi đáp ứng bằng cách từ bỏ chính sách đã đưa ra 
		và tách quy chế Tối Huệ Quốc ra khỏi vấn đề nhân quyền.
	Tự Do Tôn Giáo?
	Về vấn đề 
		tôn giáo cũng vậy. Điều 18 trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân 
		Quyền quy định quyền tự do tôn giáo là quyền tin vào giáo 
		lý, sự thực hành, thờ phụng và lễ tiết (belief in teaching, 
		practice, worship and observance) của con người. Quyền tự do tôn 
		giáo, quy định như trên, và “quyền” (sic) nói bậy trong tòa của LM 
		Nguyễn Văn Lý, hay “quyền” thắp nến cầu nguyện nơi công cộng làm loạn 
		xã hội, hay “quyền” đòi đất ăn cướp được, hay “quyền” cắm cây thập ác 
		bậy bạ nơi không được cắm v..v… là những quyền khác nhau. Và 
		những biện pháp của chính quyền để đối phó với những chuyện làm bậy như 
		trên không phải là vi phạm quyền tự do tôn giáo. Nhưng Ca-tô Giáo ở 
		Việt Nam đã đồng nhất hóa tự do tôn giáo với làm loạn, với bất tuân luật 
		pháp quốc gia, và thế giới Âu Mỹ đã lạm dụng quyền tự do tôn giáo, đồng 
		nhất hóa tự do tôn giáo với tự do truyền đạo với những thủ đoạn bất 
		chính, để truyền bá Ki Tô Giáo trong những nước kém mở mang qua sách 
		lược kiêu căng truyền thống thường có tính cách xúc phạm nặng nề đến các 
		tôn giáo địa phương. 
	Không còn 
		rao bán được Phúc Âm trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, ngày nay 
		Ca-tô Rô-MaGiáo cùng Tin Lành đều đang tập trung nỗ lực truyền đạo bằng 
		cách mang "Phúc âm", thật ra là “họa âm”, và tiền của, vật chất để kiếm 
		linh hồn cho Chúa ở những nước kém mở mang mà sự nghèo khổ là một yếu tố 
		để cho đám dân ít học dễ dàng theo đạo. Số linh hồn kiếm được càng 
		nhiều thì hậu thuẫn chính trị của họ càng lớn, hậu thuẫn chính trị càng 
		lớn thì quyền lợi vật chất càng cao. Đó là mục đích tối hậu của 
		các nhà truyền giáo từ xưa tới nay chứ chẳng phải là vấn đề tâm linh đạo 
		đức hay cứu rỗi gì đâu. Đạo đức của giới chăn chiên Ca-tô, từ giáo 
		hoàng trở xuống tới các linh mục, đạo đức của mục sư Tin Lành, nhất là 
		những người giảng đạo trên TV, chúng ta đã biết. Cứu rỗi chẳng qua 
		chỉ là một cái bánh vẽ trên trời (A-Pie-In-The-Sky) như Mục sư Ernie 
		Bringas đã nhận định. Chỉ cần nhìn vào tài sản của các giáo hội 
		độc thần và quyền lực tôn giáo của các hàng giáo phẩm trên thế giới là 
		chúng ta thấy rõ sự thật. Nhưng sự nguy hại thật sự của những nỗ 
		lực truyền đạo này trong những nước kém mở mang là, do cái căn bản tự 
		cho là một tôn giáo chân thật duy nhất và chỉ được thờ một Thần Ki Tô và 
		tin vào sự hứa hẹn của các nhà truyền đạo về một sự "cứu rỗi" của 
		Giê-su, sự truyền đạo có tính cách mê hoặc này cộng với sách lược hạ 
		thấp, mạ lỵ các tôn giáo và nền văn hóa khác sẽ tạo nên một lớp người 
		bản xứ cuồng tín, nô lệ cho ngoại bang, sẵn sàng phản bội quốc gia, do 
		đó không tránh khỏi đưa đến những cảnh xáo trộn trong xã hội, bất hòa 
		trong những khối tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia yêu chuộng 
		hòa bình, tình tương thân tương ái giữa những đồng bào ruột thịt.
		Lịch sử truyền đạo ở Việt Nam là một trường hợp điển hình. 
	
	Thật 
		ra, tự do tôn giáo chỉ là một chiêu bài mà Mỹ dùng để ép những quốc gia 
		nhỏ bé, kém mở mang, mở đường cho sự tự do truyền đạo Ki-tô. Bởi 
		vì, hiện nay Do Thái cũng như các nước Hồi Giáo cấm không cho Ki Tô Giáo 
		vào truyền đạo; Nga sô còn đưa ra luật đặt Ca Tô Giáo ra ngoài vòng pháp 
		luật (outlaw Catholicism); các tín đồ Tin Lành và Ca Tô vẫn tiếp tục 
		giết nhau ở Bắc Ái Nhĩ Lan; Ấn Độ đòi trục xuất những nhà truyền giáo 
		ngoại quốc muốn mang Ki Tô giáo vào; Trung Quốc cấm Ki Tô giáo hành nghề 
		công khai v...v... Tất cả những biện pháp "vi phạm tự do tôn giáo" trên 
		đều có mục đích bảo vệ tín ngưỡng truyền thống quốc gia cùng tránh những 
		xáo trộn có thể xảy ra trong xã hội nếu các quốc gia trên cứ để cho 
		những nhà truyền đạo Tin Lành, Ca Tô lắm bạc nhiều tiền nhưng đạo đức 
		thấp kém, tự do truyền đạo mê hoặc quần chúng sau cái bình phong "tự do 
		tôn giáo" để đạt những mục đích chính trị đen tối. Ngày nay, không 
		ai còn coi Ki Tô Giáo là một lực lượng tôn giáo thuần túy mà trái lại 
		chỉ là những định chế coi nặng vấn đề quyền lợi chính trị và kinh tế. 
		Điều này rõ ràng hơn hết trong đạo luật về tự do tôn giáo của Mỹ.
	a) Về Cái Gọi Là Danh Sách CPC:
	Chúng ta biết rằng, tháng 10, 1998, quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua một đạo 
		luật về tự do tôn giáo thế giới (The International Religious Freedom 
		Act). Đạo luật này đã phơi bày cái bộ mặt đế quốc, đạo đức giả của 
		Ki Tô Giáo tại Hoa Kỳ về sách lược của Hoa Kỳ đối với vấn đề "vi phạm tự 
		do tôn giáo" trên thế giới, bao gồm những biện pháp chính trị, kinh tế, 
		văn hóa mà Hoa Kỳ có thể dùng để trừng phạt những nước mà Hoa Kỳ cho là 
		vi phạm. Mục đích chính của đạo luật này là mở đường cho các nhà 
		truyền giáo Ki Tô đi truyền đạo ở những nơi nào mà Hoa Kỳ có thể ép được 
		bằng áp lực kinh tế và chính trị. Đạo luật này qui định bộ Ngoại 
		Giao Hoa Kỳ phải đưa ra trước ngày 1 tháng 9, 1999, danh sách những nước 
		vi phạm trầm trọng tự do tôn giáo [CPC], và sau đó 90 ngày, Tổng Thống 
		Hoa Kỳ phải phúc trình cùng quốc hội biện pháp đối phó với quốc gia vi 
		phạm.. (The State Department has to complied with the act's 
		requirement to name by September, 1999, those countries deemed 
		responsible for "particularly severe violations of religious freedom". 
		When a country is so designated, the president has 90 days to report to 
		Congress on action to be taken). Có ai viết thư hỏi bộ ngoại giao Hoa Kỳ 
		xem sau khi đưa ra danh sách CPC, trong đó có Việt Nam trước đây, thì 
		chính quyền Mỹ đã có những biện pháp gì đối với các nước nằm trong danh 
		sách CPC? Đối với những giới theo sát thời cuộc thì biện pháp duy 
		nhất của chính phủ Mỹ đối với Việt Nam trước đây là, khi đó Việt Nam nằm 
		trong danh sách CPC, vì quyền lợi kinh tế của Mỹ, thúc Việt Nam ký Hiệp 
		Ước Thương Mại với Mỹ tuy Việt Nam cứ chần chừ, chưa muốn ký.
	Đó là thực 
		chất của cái gọi là danh sách CPC. Vì tự do tôn giáo chỉ là một chiêu 
		bài, và cách sử dụng chiêu bài này còn tùy thuộc quyền lợi chính trị và 
		kinh tế của Hoa Kỳ. Chúng ta biết rằng Sudan, Do Thái và Saudi 
		Arabia là những nước vi phạm tự do tôn giáo nhất trên thế giới. 
		Nhưng điều chắc là Hoa Kỳ chỉ kể đến Sudan và bỏ qua Do Thái và Saudi 
		Arabia vì Do Thái và Saudi Arabia đều là đồng minh của Hoa Kỳ trên chính 
		trường quốc tế. Saudi Arabia còn là nước xuất cảng dầu nhiều nhất 
		trên thế giới, và không có một chính trị gia Hoa Kỳ nào khuyên chính phủ 
		ngưng mua dầu của Saudi Arabia như là một hành động phản đối sự vi phạm 
		tự do tín ngưỡng của quốc gia này. Stephen Chapman viết trên tờ 
		Chicago Tribune ngày 2 tháng 11, 1997 như sau:
	"Những người Mỹ đề nghị ngưng giao thương với những quốc gia vi phạm 
		tự do tín ngưỡng hãy bắt đầu từ nơi khác. Thí dụ như ở Saudi 
		Arabia, nơi đây mọi tôn giáo ngoại trừ Hồi Giáo đều bị cấm ngặt và một 
		tín đồ Hồi Giáo cải đạo theo đạo khác có thể bị tử hình. Nhưng 
		chính sách độc tài tôn giáo của Saudi Arabia không gây phản đối tại 
		Washington khi Hoa Kỳ đem nửa triệu quân vào để bảo vệ Saudi Arabia 
		chống Saddam Hussein. Không có ai ở ngoài một bệnh viện tâm thần 
		lại đề nghị Hoa Kỳ ngưng mua dầu của Saudi Arabia, xứ cung cấp nhiều dầu 
		nhất." [2]
	Phê bình 
		đạo luật về tự do tôn giáo của Hoa Kỳ, Giáo sư luật tại đại học Emory, 
		Abdullahi Ahmed An-Na'im nói: "Nhiều người nhớ lại những lời hoa mỹ 
		thiên Ki Tô trước đây và tin rằng Hoa Kỳ chỉ quan tâm đến sự hỗ trợ các 
		thừa sai Mỹ ở ngoại quốc."(Emory University law professor Abdullahi 
		Ahmed An-Na'im says many remember the early pro-Christian rhetoric and 
		believe the United States is only interested in aiding American 
		missionaries abroad.) J. Paul Martin, Giám đốc trung tâm nghiên 
		cứu nhân quyền tại đại học Columbia còn đi xa hơn nữa. Ông nói: "Ở các nước như Nga sô, Pháp, Bỉ, và Đức, nhiều người coi đạo luật về tự 
		do tôn giáo của quốc hội Hoa Kỳ là một phần của chủ nghĩa đế quốc rộng 
		lớn hơn của Mỹ" (J. Paul Martin, executive director of Columbia 
		University's Center for the study of Human Rights, goes further. 
		In such countries as Russia, France, Belgium, and Germany, he says, many 
		see Congress' action as "part of a larger American imperialism".)
	Đây chính là bộ mặt thật của chiêu bài tự do tôn giáo. Những người 
		chống Cộng cực đoan không hiểu được điều này, làm như các phúc trình về 
		nhân quyền của Mỹ, kể cả cái gọi là danh sách CPC về tôn giáo, là có giá 
		trị lắm, và phụ họa với vài dân biểu Mỹ, Việt dốt nát về đường lối chính 
		trị sau chiêu bài nhân quyền của Mỹ, khoan kể đến hồ sơ nhân quyền của 
		Mỹ, ngu ngơ đòi đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC. Ngày nay, Ki 
		Tô Giáo đang suy thoái khắp nơi, kể cả trong nước Mỹ. Các học giả 
		như Sam Harris, Richard Dawkins, Christopher Hitchens v…v… đã vạch ra 
		những tác hại của Ki Tô Giáo trong lịch sử thế giới. Nhưng những 
		nhà truyền giáo Tin Lành và cả Ca-tô vẫn muốn mang những đồ phế thải của 
		Âu Mỹ để truyền bá trong những nước nhỏ, kém phát triển. Họ có thể thành 
		công hay không? Rất có thể nếu con người đi giật lùi về thời Trung 
		Cổ. 
	b) Về Phúc Trình Hàng Năm Của Bộ Ngoại Giao Mỹ Về Nhân Quyền 
	 
	
	Điều nhận xét đầu tiên của tôi sau khi đọc một số tài liệu về thực chất 
		bộ mặt nhân quyền của nước Mỹ là từ 34 năm qua, mỗi năm Bộ Ngoại Giao Mỹ 
		đều tung ra một bản phúc trình về tình trạng nhân quyền của các quốc gia 
		khác trên thế giới mà Mỹ cho rằng đáng quan tâm, nhưng bao giờ cũng 
		bỏ sót một quốc gia có thể nói là vi phạm nhân quyền vào bậc nhất trên 
		thế giới: nước Mỹ. 
		Cũng vì vậy mà những dân biểu như Loretta Sanchez hay Frank Wolf, Chris 
		Smith, thường không biết đến những thành tích khủng khiếp về nhân quyền 
		của nước Mỹ, hay có biết cũng cố lờ đi, được một số dân Việt Nam tỵ nạn 
		chống Cộng cực đoan với tâm cảnh của Lê Chiêu Thống và Trần Ích Tắc, van 
		xin để chống Cộng cho họ, cho nên cứ trơ trẽn xía vào nội bộ Việt Nam 
		về vấn đề nhân quyền mà không biết ngượng.
		Nói theo ngôn từ trong cuốn Thánh Kinh thì 
		những dân biểu này “Chỉ nhìn thấy cái kim trong mắt người khác mà 
		không thấy cái đà trong mắt mình.” Thái độ trịch thượng có thể 
		nói là kiêu căng ngạo mạn một cách ngu xuẩn này làm cho người dân Việt 
		chán ghét và thực tế là vô tác dụng. Việt Nam gần đây cấm cửa 
		không cho Sanchez nhập cảnh Việt Nam nữa. Cũng phải thôi. 
		Chủ quyền quốc gia không phải là để cho những chính khách ruồi bu đến 
		quấy nhiễu. Việt Nam là một nước nhỏ, không thể như Trung Quốc, 
		phản biện thẳng với Mỹ về vấn đề nhân quyền, nhưng ít ra có thể nhắc nhở 
		cho những dân biểu hay chính khách Mỹ muốn xía vào nội bộ Việt Nam sau 
		chiêu bài nhân quyền hãy nhìn lại những gì Mỹ đã làm ở Việt Nam trong 
		cuộc chiến vừa qua, và nhìn lại hồ sơ nhân quyền của Mỹ trên thế giới, 
		trước khi nói đến nhân quyền của Việt Nam.
	Nhân quyền không đơn giản như là “quyền” [sic] thắp nến cầu nguyện ở nơi 
		công cộng, hay “quyền” đòi đất do thực dân Pháp cướp của đất nước thưởng 
		công cho vì đã giúp Pháp thành công xâm chiếm Việt Nam hay cướp của Phật 
		Giáo, “quyền” phát ngôn bậy bạ trong tòa như Nguyễn Văn Lý, “quyền” cắm 
		cây thập ác bậy bạ nơi không được phép cắm, hay “quyền” yêu cầu ngoại 
		quốc can thiệp vào chuyện nội bộ của Việt Nam v…v… mà nó rộng hơn nhiều. 
		Nhân quyền không có nghĩa là quyền làm những việc vi phạm luật pháp quốc 
		gia, và việc vi phạm nhân quyền có nhiều mức độ khác nhau, từ những tội 
		ác chiến tranh cho đến cưỡng bách người khác đạo phải vào đạo của mình, 
		hay muốn áp đặt quan niệm dân chủ và nhân quyền của quốc gia mình trên 
		những quốc gia khác, như sẽ được trình bày trong phần sau. 
		Nhưng trước hết chúng ta hãy tìm hiểu về nhân quyền.
	c) Vài Nhận Định Về Bản Tuyên 
		Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền:
	Tranh đấu cho Nhân Quyền, người ta thường viện đến bản Tuyên Ngôn Quốc 
		Tế Nhân Quyền, được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp thuận và tuyên bố 
		ngày 10 tháng 12 năm 1948. Bản Tuyên Ngôn này được thông qua với 
		48 phiếu thuận, 0 phiếu chống, và 8 vắng mặt trong số này có 6 thuộc các 
		quốc gia chư hầu của Nga Sô dưới thời Stalin, còn 2 nước kia là Saudi 
		Arabia và Nam Phi. 48 quốc gia trên tổng số 195 quốc gia trên thế 
		giới, nghĩa là chỉ có 25% các quốc gia trên thế giới đã tạo nên Bản 
		Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền theo quan niệm của Mỹ. Trước khi đưa 
		ra vài nhận định về bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này, chúng ta hãy 
		đọc một số điều khoản trong bản Tuyên Ngôn lên hệ đến hồ sơ nhân 
		quyền của nước Mỹ.
	Ðiều 1: Mọi 
		người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm, cũng như quyền 
		lợi. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm. Sự đối xử giữa 
		con người với nhau phải trong tinh thần huynh đệ. [3]
	Ðiều 2: Mọi 
		người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do công bố trong Bản Tuyên 
		Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như chủng tộc, màu da, phái 
		tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, 
		quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn 
		cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con 
		người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế 
		chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh 
		thổ đó. Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, 
		không được tự trị hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền. [4]
	Ðiều 3: Mọi 
		người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể.
	[Everyone has the 
		right to life, liberty and security of person.]
	Ðiều 5: Không một người nào phải chịu cực hình, tra tấn, hay bất kỳ hình thức 
		đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách nhục mạ.
	[No one shall be 
		subjected to torture or to cruel, inhuman or degrading treatment or 
	punishment.]
	
	Ðiều 
		29: Mọi người đều có bổn phận đối với cộng đồng nào mà chỉ trong 
		đó mới có thể phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách của mình. 
	Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải 
		chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ 
		nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự 
		do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng 
		về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân 
		chủ. Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này 
		cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên 
		Hiệp Quốc. [5]
	Ðiều 30: Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này cho phép một nước, một nhóm 
		hay một cá nhân nào được quyền viện dẫn bất cứ lý do gì để có những việc 
		làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận trong 
		bản Tuyên Ngôn này. [6]
	Có ba 
		điều rất căn bản mà chúng ta cần biết về Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân 
		Quyền: 
	¨   Thứ nhất, 
		
	Khi Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ra đời thì Mỹ và đồng minh 
		vừa đánh bại Đức Quốc Xã, Nhật Bản, và ảnh hưởng của Nga Sô đang bành 
		trướng trên nửa hoàn cầu. Khi đó Mỹ ở thế mạnh nhất về chính trị, 
		kinh tế, và quân sự. Anh và Pháp đang lo củng cố hoặc tái lập 
		quyền cai trị ở các thuộc địa. 
	¨  Thứ nhì, 
		
	Bản Tuyên Ngôn không có giá trị công pháp quốc tế (not 
		legally binding), vì không có một định nghĩa rõ ràng thế nào là nhân 
		quyền, chỉ đưa ra một số điều khoản mơ hồ mà Liên Hiệp Quốc, hình thành 
		theo sự vận động và quan niệm của Mỹ, dưới sự chi phối của Mỹ, cho đó là 
		nhân quyền, do đó, theo nguyên tắc, không nước nào, cơ quan nào có thể 
		dựa vào Bản Tuyên Ngôn 
		để ép buộc bất cứ quốc gia nào phải thi hành những điều khoản trong bản 
		Tuyên Ngôn. (Mary E. Williams, Human Rights, p. 16: 
		declarations are not legally binding; Robert W. Lee, The United 
		Nations Conspiracy, p.101: the UN later adopted its vague, 
		non-binding Declaration of Human 
		Rights), nghĩa là các quốc gia không có bổn phận phải thi hành những 
		điều khoản trong Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền. Chúng 
		ta cũng nên biết là Liên Hiệp Quốc 
		được thành hình và Bản Hiến 
		Chương Liên Hiệp Quốc là dập theo khuôn của Hiến Pháp Hoa Kỳ, và Bản 
		Tuyên Ngôn Nhân Quyền là dập theo khuôn của Bản Nhân Quyền (Bill of 
		Rights) của Mỹ. 
	Thật vậy, chúng ta hãy đọc những lời nhận định sau đây: 
	“Bản Hiến 
		Chương LHQ được xây dựng trên cùng những nguyên tắc của Hiến Pháp chúng 
		ta (Mỹ). Mục đích của tổ chức và những cơ quan chuyên biệt của nó 
		cũng giống như của chúng ta.” (Francis X. Gannon, Biographical 
		Dictionary of the Left, 1971, Vol. II, p.6); Một nhận 
		định khác như sau: “Nguyên thủy, LHQ phần lớn là một quan niệm của 
		Hoa Kỳ. Triết lý đằng sau nó chứng tỏ ảnh hưởng của truyền thống Hoa 
		Kỳ”. (Richard E. Stebbins, The United States in World 
		Affairs, 1950, p. 278); Và nữa, “ Tinh thần và phương pháp của 
		LHQ dập theo khuôn của nền dân chủ Hoa Kỳ” (Adlai E. Stevenson, 
		Department of State Publication 7505, 1973, p. 14). Do đó, 
		Mỹ đã từng thống trị Liên Hiệp Quốc trong nhiều thập niên. Tuy 
		nhiên, thời gian qua, với sự tham gia của nhiều quốc gia và sự phát 
		triển của Liên Hiệp Quốc, ảnh hưởng của Mỹ đã bị sút giảm đi nhiều. 
		Điển hình là đầu tháng 5, 2001, Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu hất Mỹ ra 
		khỏi Ủy Ban Nhân Quyền Quốc Tế trong đó Mỹ liên tục là một thành viên từ 
		năm 1948, trong khi Trung Quốc, Việt Nam, Cuba đều được bầu làm thành 
		viên. Điều này làm chính quyền Mỹ nổi giận và dùng áp lực tiền 
		bạc, giở trò ăn hiếp (bullying) Liên Hiệp Quốc. Hội Ân Xá Quốc Tế 
		của Hoa Kỳ (Amnesty International USA) lên án sự đuổi Mỹ ra khỏi Ủy Ban 
		Quốc tế Nhân Quyền, chứng tỏ Hội này chỉ là một công cụ của chính quyền 
		Mỹ.. Và Quốc Hội Hoa Kỳ đã bỏ phiếu sẽ không trả Liên Hiệp 
		Quốc số tiền Hoa Kỳ nợ là 582 triệu đô-la mà Hoa Kỳ hứa sẽ trả trong năm 
		nay, nếu Liên Hiệp Quốc không theo những điều kiện Hoa Kỳ đặt ra.
		
	Những biện pháp có tính cách hăm dọa ỷ mạnh về tiền bạc này đã 
		gây nên nhiều phản ứng trong giới các nhà ngoại giao và bình luận gia. 
		Phần lớn đều cho rằng đó là những hành động kiêu căng vô lối, thí dụ như 
		lời phát biểu của dân biểu Tom Lantos ở California: “Điều này (không 
		trả nợ) sẽ dạy cho các quốc gia một bài học. Nếu họ muốn số tiền nợ này, 
		họ sẽ phải bỏ phiếu cho Mỹ trở lại Ủy Ban Nhân Quyền” 
	(This will 
		teach countries a lesson. If they would like to get this payment, 
		they will vote the US back on the commission). Một nhà ngoại 
		giao Âu Châu ở Liên Hiệp Quốc phê bình: “Cố đòi cho được loại điều 
		kiện trên, nói thẳng ra, đó là tống tiền” (To insist on that sort of 
		conditionality – frankly, that’s blackmail, said one European diplomat 
		at the UN). David Malone, cựu đại sứ tại Liên Hiệp Quốc của Canada 
		phát biểu: “Liên Hiệp Quốc đã chán ngấy tiến trình nội bộ của Mỹ về 
		vấn đề trả nợ” (People in the UN system are fairly fed up with the 
		US domestic process on the payment of dues). Lee Hamilton, một cựu 
		dân biểu ở Indiana nói: “Từ chối không trả nợ rồi chỉ trả với điều 
		kiện, Hoa Kỳ đã tạo ra sự bực tức to lớn cho mọi người vì sự kiêu căng 
		của chúng ta” (The US already created enormous resentment for our 
		arrogance by refusing to pay its dues and then only doing so with 
		significant conditions attached).
	Dư 
		luận báo chí Mỹ cho thấy người dân cũng không lấy gì làm hãnh diện về 
		những hành động vô lối của chính phủ mình. Mike Giocondo viết 
		trong tờ Chicago Tribune như sau, với nhan đề: Hoa Kỳ Như Là Kẻ Đi Hà 
		Hiếp (US As Bully) (theo nghĩa ỷ mạnh hiếp yếu, bất kể đến luật 
		pháp):
	
	 	“Trong đời tôi, tôi không thể tin rằng Quốc Hội lại bỏ phiếu không trả 
		nợ cho LHQ chỉ vì Hoa Kỳ mất đi ghế ngồi trong Ủy Ban Quốc Tế Nhân 
		Quyền.
Trong con giận dữ, Quốc Hội phản ứng và bỏ phiếu cho biện pháp là chúng 
		ta không nên tiếp tục trả một món tiền nợ mà chúng ta đã thỏa thuận trả 
		cho cơ quan quốc tế.
	Thật là đáng buồn khi phải nói rằng đây không phải là lần đầu tiên Hoa 
		Kỳ đã giữ lại không trả tiền vì Hoa Kỳ không đồng ý với những hành động 
		của LHQ.
	Tôi nghĩ rằng, Hoa Kỳ, như là một quốc gia hội viên, hãy ngưng xử sự như 
		một đứa trẻ hư, lấy lại trái banh đi về nhà 
		và chỉ chơi lại khi mọi người khác chơi theo luật của 
		nó...
	Đâu là một thế giới, tình lân bang giữa các quốc gia mà LHQ đặt nền tảng 
		trên đó?
	Có 
		nhiều đường lối ngoại giao khác mà Hoa Kỳ có thể theo thay vì treo sức 
		toàn năng của đô-la trên LHQ.
	Hoa Kỳ, như là một quốc gia lãnh đạo, một lần nữa lại dùng thái độ của 
		một đứa trẻ chuyên đi hà hiếp bắt nạt làm gương cho các quốc gia khác 
		khi nó không đồng ý với việc làm của LHQ.” 
		[7]
		 
	Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền không có giá trị công pháp quốc tế, 
		như chúng ta đã biết. Bởi vậy cho nên khi đó, 1948, Pháp đang công 
		khai mở cuộc tái xâm lược Đông Dương với 80% quân phí do Mỹ đài thọ, 
		hòng tái lập thuộc địa ở Việt, Cambốt, Lào, một hành động vi phạm trắng 
		trợn mọi nhân quyền của người dân Việt Nam, những quyền ghi trong Bản 
		Tuyên Ngôn, mà không có sự phản đối của Liên Hiệp Quốc. Và, việc 
		Mỹ đơn phương tạo nên cuộc chiến Quốc Cộng ở Việt Nam, đơn phương xóa bỏ 
		hiệp định Geneva, nuốt lời tuyên bố của chính phủ Mỹ (tuy không ký vào 
		bản Hiệp Định Geneva nhưng sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết 
		(self-determination) của các dân tộc), đổ quân và vũ khí vào miền Nam, 
		ném bom tàn phá ruộng nương, nhà thờ, trường học, nhà thương, chùa chiền 
		v..v.. trên toàn đất nước Việt Nam, trải thuốc khai quang Agent Orange 
		v..v.., để lại nhiều di hại cho người dân Việt Nam cho tới tận ngày nay, 
		không đếm xỉa gì tới nhân quyền và lòng khao khát hòa bình của người dân 
		Việt, muốn sống tự do và bình đẳng theo lý trí và lương 
		tri của mình trong cộng đồng quốc tế, cũng không có sự chống đối nào của 
		Liên Hiệp Quốc. Vậy thì, giá trị của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân 
		Quyền là ở đâu? 
	Những 
		hành động của Mỹ, sau khi vận động và tung ra Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế 
		Nhân Quyền, đã vi phạm trầm trọng hầu như tất cả các điều khoản trong 
		Bản Tuyên Ngôn, nhất là Điều 30 trong Bản Tuyên Ngôn ở trên. Tuy vậy, 
		bộ máy tuyên truyền của Mỹ vẫn thường xuyên đề cao nước Mỹ về tôn trọng 
		nhân quyền. Nhưng ngày nay thế giới đã nắm rõ hồ sơ nhân quyền của Mỹ và 
		bất cứ lúc nào cũng có thể đưa ra để bác bỏ thái độ trịch thượng của Mỹ 
		về nhân quyền, như Trung Quốc đã từng làm hàng năm trong nhiều năm qua 
		mà Mỹ không hề phản bác. Họ cũng không biết rằng tất cả những gì 
		nước Mỹ tự nhận về dân chủ, về nhân quyền, cũng giống những gì Ca-tô 
		Rô-MaGiáo thường tự nhận là tôn giáo thánh thiện tông truyền v…v…, trên 
		thực tế không có gì xa với sự thật hơn.
	¨  Và
		thứ ba, 
		
	điều rõ ràng là những điều khoản trong bản tuyên ngôn phản ánh những chế 
		độ, văn hóa và xã hội Tây phương vì năm 1948, Liên Hiệp Quốc nằm trong 
		sự thao túng của các cường quốc Âu Mỹ. Bởi vậy, một số lãnh tụ Á 
		Châu, như Thủ Tướng Mã Lai Mahathir Mohamad, đã cho rằng Bản Tuyên Ngôn 
		Quốc Tế Nhân Quyền là sản phẩm của những quốc gia Tây phương, không hiểu 
		gì về các xã hội Đông phương, có tính cách xâm lược văn hóa của chính 
		sách đế quốc Tây phương (Some Asian leaders, like Malaysian Prime 
		Minister Mahathir Mohamad, denounce it (the Declaration) as Western 
		cultural imperialism), và đề nghị phải duyệt lại bản Tuyên Ngôn Nhân 
		Quyền này. Phải chăng vì vậy mà cho tới ngày nay, đường đi tới 
		sự thực hiện bản Tuyên Ngôn trên bình diện quốc tế vẫn còn xa lắc, xa 
		lơ? (Doug Cassel: "The Universal Declaration still is a long way 
		from universal reality"). Doug Cassel là Giám Đốc Trung Tâm Nhân 
		Quyền Quốc Tế tại đại học Northwestern, Illinois.
	Những sự kiện trên chứng tỏ rằng Nhân Quyền chỉ là một chiêu bài của một 
		số cường quốc Âu Mỹ, với hậu thuẫn của bom đạn và ưu thế kinh tế, 
		để ép những tiểu nhược quốc nào có thể ép được phải theo quan niệm lưỡng 
		chuẩn (double standard) về nhân quyền, dân chủ, đường lối chính trị, 
		quyền lợi kinh tế của Tây phương với Mỹ đương nhiên đứng đầu. 
		Tuy nhiên, trong thế kỷ 20, tình hình thế giới đã thay đổi nhiều. 
		Trước đây, quyền lực của Tây phương đối với các thuộc địa, và quyền bá 
		chủ của Mỹ trong thế kỷ 20, sau đệ nhị thế chiến, đã có tác dụng bành 
		trướng nền văn hóa Tây phương trên khắp thế giới. Nhưng tình hình 
		thế giới đã thay đổi, cán cân quyền lực không còn ngả về Tây phương. 
		Sự vươn lên của Á Châu, chiến tranh Việt Nam đã đưa đến sự cáo chung của 
		chế độ thực dân trên thế giới, cho nên Tây phương không còn khả năng để 
		ép các quốc gia khác phải theo ý mình. Trong khi đó thì những nền 
		văn hóa khác Tây phương đang phục hồi mạnh mẽ. Hai cuộc Thế Chiến 
		đều xảy ra ở Tây phương, các cuộc chiến tranh tôn giáo cũng đều xảy ra ở 
		Tây phương, vật chất đè bẹp đạo đức, tội ác lan tràn, đạo đức của giới 
		chăn chiên suy sụp v..v... Những sự kiện này làm cho người Á Đông 
		thấy rõ sự băng hoại và thất bại của những chủ lực tinh thần ở Tây 
		phương, và những giá trị Tây phương không còn hấp dẫn. Đây là nói về 
		những giá trị văn hóa, tâm linh chứ không phải là “giá trị” của 
		Coca-Cola, nhạc Rock, phim ảnh đồi trụy, băng đảng mà một số người Á 
		Đông lao đầu vào sự vọng ngoại một cách ngu xuẩn. 
	Chúng ta 
		cũng nên biết, Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền là dập theo khuôn của Bản 
		Nhân Quyền (Bill of Rights) của Mỹ. Chúng ta hãy đọc những lời 
		phát biểu sau đây của một số chính khách Mỹ. “”Ngày Nhân 
		Quyền”, ngày 10 tháng 12 mỗi năm, bắt nguồn từ Bản Tuyên Ngôn Quốc 
		Tế Nhân Quyền. Rất nhiều nguyên tắc của nó nằm trong bản Hiến Pháp 
		của chúng ta cho nên Hoa Kỳ phải rất lấy làm hãnh diện về sự hiện hữu 
		của nó.” (Alexander Uhl, The US and The UN: Partners for Peace, 
		1962., p. 29); “Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền là một sự xác nhận 
		bao quát về những quyền chính trị và kinh tế căn bản trong Hiến 
		Pháp của chúng ta và căn bản lập pháp của Hoa Kỳ.” (Richard N. 
		Gardner, In pursuit of World Order, 1964, p. 241); “Bản Tuyên 
		Ngôn Quốc tế Nhân Quyền nằm trong truyền thống Hiến Pháp và Bản Nhân 
		Quyền (Bill of Rights) của chúng ta.” (President Richard Nixon, 
		Weekly Compilation of Presidential Documents, 1971, p. 1632); “Mối 
		liên kết giữa Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Bản Nhân Quyền của 
		chúng ta thật là rõ ràng.” (President Gerald Ford, Ibid., 1974, p. 
		1521). 
	Những người 
		chống Cộng thường dựa vào chiêu bài nhân quyền, dựa vào một bản văn chỉ 
		có giá trị theo quan niệm của Mỹ, nhưng vô giá trị trong cộng đồng quốc 
		tế, mơ tưởng có thể đạt những mục đích chính trị thời thượng. Tại 
		sao lại vô giá trị trong cộng đồng quốc tế ? Phần phân tích sau 
		đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề. 
	Trước hết, 
		những người đứng đàng sau bản Tuyên Ngôn, thí dụ như Charles Malik, một 
		cựu chủ tịch đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, chủ trương đưa ra một huyền 
		thoại về bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền để lừa dối dư luận quốc tế như sau:
	“Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, được chấp nhận bởi Đại Hội Đồng ở 
		Paris năm 1948 mà không có một phiếu chống nào, là một trong những tài 
		liệu căn bản của thời đại này...Thông điệp trong đó không thuộc một hệ 
		thống pháp lý riêng biệt nào, một tôn giáo riêng biệt nào, một quan điểm 
		về đời sống riêng biệt nào. Thông điệp trong đó là kết quả của sự 
		tổ hợp và xét đến quan điểm của mọi hệ thống pháp lý, mọi tôn giáo, mọi 
		nền văn hóa, và mọi quan điểm về đời sống con người. (Charles Malik,
		Man in the Struggle for Peace, p. 89)”
		
		 Không có gì 
		hoang đường và xa sự thực hơn những lời viết trên nếu chúng ta nhớ rằng 
		chỉ có 48 nước trong tổng số 195 nước trên thế giới là tác giả của Bản 
		Tuyên Ngôn Nhân Quyền, và nếu chúng ta xét đến bối cảnh lịch sử quốc tế 
		sau Đệ Nhị Thế Chiến, và nhất là xét đến bản chất các hệ thống pháp lý, 
		tôn giáo, văn hóa khác nhau trên hoàn cầu. Cũng vì vậy mà Robert 
		W. Lee đã phê bình câu trên như sau:
Không có gì 
		hoang đường và xa sự thực hơn những lời viết trên nếu chúng ta nhớ rằng 
		chỉ có 48 nước trong tổng số 195 nước trên thế giới là tác giả của Bản 
		Tuyên Ngôn Nhân Quyền, và nếu chúng ta xét đến bối cảnh lịch sử quốc tế 
		sau Đệ Nhị Thế Chiến, và nhất là xét đến bản chất các hệ thống pháp lý, 
		tôn giáo, văn hóa khác nhau trên hoàn cầu. Cũng vì vậy mà Robert 
		W. Lee đã phê bình câu trên như sau:
	“Hãy suy nghĩ về điều trên một lát. Có cái gì có thể lố bịch và 
		vô nghĩa hơn là toan tính đổ “quan điểm của mọi hệ thống [Cộng Sản 
		và Tư Bản], mọi tôn giáo [Ki Tô Giáo và Hồi Giáo], mọi nền văn 
		hóa [Tây phương và Nam Phi], và mọi quan điểm về đời sống [luân thường và phi luân] vào một cái bình nấu cho chảy, hòa lẫn với 
		nhau để thành một cái gì giống như một chính sách về nhân quyền thích 
		đáng? Một tiền lệ chúng ta có thể nghĩ tới là toan tính nổi tiếng 
		của Frankenstein khi lắp các phần riêng biệt lại với nhau. Ông ta 
		đã sáng tạo ra một con quỷ.” [8]
	
	Thứ đến, 
		không phải chỉ có mình Thủ Tướng Mã Lai Mahathir Mohamad mới cho rằng 
		Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền là sản phẩm của những quốc gia Tây 
		phương và có tính cách xâm lược văn hóa của chính sách đế quốc Tây 
		phương như đã trích dẫn ở trên. Thủ Tướng Lý Quang Diệu của Singapore 
		cũng cho rằng “Những bài thuyết giảng về nhân quyền chỉ là những vận 
		dụng của thái độ kiêu căng Tây phương, sẽ không có ảnh hưởng gì đến Bắc 
		Kinh” (Newsweek, Nov. 29, 1993: “Human-rights lectures, says Lee, 
		are exercices in Western arrogance that will not influence Beijing.”); 
		và Thủ Tướng Nhật Hosokawa cũng tuyên bố “Những quan niệm về nhân 
		quyền của Tây Phương không thể áp dụng một cách mù quáng vào Á Châu” 
		(New York Times, May 2, 1994: Japan’s Prime Minister Hosokawa: “Western 
		human rights concepts could not be “blindly applied” to Asia”)
	Trong cuộc Hội 
		Nghị Quốc Tế Nhân Quyền ở Vienna năm 1993 mà kết quả là một thất bại lớn 
		cho Mỹ và Tây phương, Bilahar Kausikan, một viên chức cao cấp trong bộ 
		ngoại giao Singapore, đã phát biểu: 
	“Lần đầu tiên từ khi bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền được 
		chấp nhận vào năm 1948, những quốc gia không hoàn toàn đắm mình trong 
		những truyền thống Do Thái – Ki Tô và qui luật thiên nhiên (của Thần 
		Ki-Tô. TCN) được đứng lên hàng đầu; tình trạng chưa từng có đó 
		sẽ định nghĩa chính trị thế giới mới về nhân quyền.” [9]
	Điều này có 
		nghĩa là ngày nay, nhiều quốc gia không còn thuộc quyền thống trị của 
		thế giới Tây phương, cho nên những quan niệm về nhân quyền của Tây 
		phương không còn khả năng để áp đặt trên toàn thể thế giới. Tưởng 
		chúng ta cũng nên biết, trong Hội Nghị Vienna, những quốc gia Á Châu đã 
		họp ở Bangkok và chấp thuận một bản tuyên ngôn nhấn mạnh rằng nhân quyền 
		phải được xét đến “trong bối cảnh của những đặc tính quốc gia và địa 
		phương, và những nền tảng lịch sử văn hóa tôn giáo khác nhau” (human 
		rights must be considered in the context of national and regional 
		particularities and various historical religious and cultural 
		backgrounds), và rằng “theo dõi vấn đề nhân quyền là vi phạm chủ 
		quyền quốc gia” (that human rights monitoring violated state 
		sovereignty) và sau cùng “viện trợ kinh tế với điều kiện, dựa trên 
		tiêu chuẩn nhân quyền là đối ngược với quyền phát triển” 
	(and that 
		conditioning economic assistance on human rights performance was 
		contrary to the right of development). 
	Thật vậy, 
		Đông và Tây có những quan niệm về nhân quyền khác hẳn nhau. Căn 
		bản quan niệm về nhân quyền của Tây phương xuất phát từ truyền thống tôn 
		giáo Tây phương: Ki Tô Giáo. Quyền của con người là do đấng sáng tạo, 
		hay Gót, phú cho (rights are endowed by a Creator). Vì thế trong 
		các xã hội Tây phương, những quyền cá nhân (đều do con người định ra và 
		cho rằng đó là quyền của đấng sáng tạo ban cho) phải được tôn trọng và 
		không được vi phạm, bất kể bối cảnh xã hội mà cá nhân đang sống trong đó 
		là như thế nào, và chính quyền có bổn phận bảo vệ những quyền cá nhân 
		đó.. Nhưng đây cũng chỉ là lý thuyết trên đầu môi chót lưỡi. 
		Vì bản chất Ki Tô Giáo là một tôn giáo vi phạm nhân quyền vào bậc nhất 
		thế giới do ảnh hưởng của Thánh Kinh. Tây phương, nhất là Mỹ, tôn 
		trọng những quyền lặt vặt của con người nhưng lại thản nhiên tàn sát con 
		người trong những cuộc xâm chiếm thực dân, đế quốc, hay trong những cuộc 
		can thiệp vào những cuộc xung đột địa phương. Việt Nam, Iraq, 
		Afghanistan v…v… là những thí dụ điển hình. Bản chất Ki Tô 
		Giáo là mối liên hệ Chủ-Tớ [Master-servant, “kẻ tôi tớ hèn mọn”]. 
		Con người là vật sáng tạo của Gót, cho nên trên thực tế chỉ là nô lệ của 
		Gót, phải tuân theo mọi luật lệ của Gót. Chúng ta thường nghe 
		người Việt theo Ki Tô Giáo hãnh diện tự nhận là “tôi tớ, hay tỳ nữ hầu 
		việc Chúa”. 
	Các 
		cường quốc Âu Mỹ có thể phần nào, phần nào thôi, tôn trọng nhân quyền 
		trong các nước của họ và theo quan niệm về nhân quyền của họ, nhưng có 
		bao giờ tôn trọng nhân quyền trong các nước nhỏ yếu, đang phát triển 
		đâu. Lịch sử thế giới đã chứng tỏ như vậy. Quan niệm nhân 
		quyền của Á Đông đặt căn bản trên sự kiện là con người không phải là một 
		thực thể riêng biệt, mà có liên hệ tới toàn thể cộng đồng. Do đó, 
		Á Đông đặt quyền lợi của cộng đồng trên quyền của cá nhân, và những 
		quyền cá nhân được coi là thứ yếu so với những yêu cầu của quốc gia 
		[Protection of the rights of individual was frankly acknowledged 
		to be secondary as compared to the needs of the state]. Các xã hội 
		Tây phương đặt nặng chủ nghĩa cá nhân và quyền tự do cá nhân (Western 
		societies emphasize individualism and personal freedom), trong khi các 
		nền văn hóa Á Đông đặt giá trị của sự tự kiểm và trật tự xã hội cao hơn 
		quyền của cá nhân. (Asian cultures place a higher value on 
		self-discipline and order.) Trong những xã hội ổn định Tây phương, 
		tự do ngôn luận có thể coi là một quyền công dân căn bản, trong khi ở 
		những xã hội chưa được ổn định như ở Việt Nam, hậu quả của một 
		cuộc chiến tranh làm lòng người chia rẽ, phân hóa, và trước sự tiếp tục 
		đánh phá hay phá ngầm của ngoại lai và tay sai hải ngoại hay bản địa, 
		chính quyền có thể xét đến ảnh hưởng của sự tự do này, trong một số 
		trường hợp đặc biệt trong bối cảnh xã hội, và coi đó là gây sự hỗn loạn 
		trong xã hội, do đó có phương hại đến sự ổn định xã hội, ngăn cản sự 
		phát triển kinh tế v..v.. Những vụ Ca-tô giáo làm loạn ở Tòa Khâm 
		Sứ, Thái Hà, Tam Tòa, Đồng Chiêm và vụ Nguyễn Văn Lý nói bậy trong Tòa 
		Án, Ngô Quang Kiệt nói bậy về hộ chiếu Việt Nam v…v… là những thí dụ 
		điển hình. Chừng nào mà người dân ý thức được trách nhiệm của mình 
		chỉ là một phần trong cộng đồng xã hội thì khi đó tự nhiên tự do, dân 
		chủ sẽ đến.
	Tại sao Á 
		Đông không chấp nhận quan niệm về nhân quyền của Tây phương? Ngoài 
		những bất đồng về văn hóa, xã hội, nhân sinh v..v.. giữa những nền văn 
		minh khác nhau, Á Đông còn coi sách lược lưỡng chuẩn (double standard) 
		về nhân quyền của Tây phương, nhất là của Mỹ, như là một sự áp đặt để 
		đạt những mục đích kinh tế, tôn giáo. Tây phương, với bản chất đế 
		quốc, chưa bao giờ tôn trọng nhân quyền ở các nơi khác trên thế giới. 
		Noam Chomsky, một học giả lừng danh của Mỹ, đã viết: 
	“Thật ra chính sách ngoại giao của Mỹ là đặt căn bản trên nguyên tắc 
		không liên quan gì đến nhân quyền, mà là liên quan nhiều đến sự tạo ra 
		một bầu không khí thuận lợi cho ngoại thương” [10]
	Sau Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền thì Liên Hiệp Quốc chấp thuận một 
		số Giao Ước Quốc Tế (International Covenant). 
	Sau đây chúng ta hãy xét 
		đến vài điều khoản trong Giao Ước Quốc tế Về Quyền Dân Sự và Quyền Chính 
		Trị (The International Covenant on Civil and Political Rights: The CP 
		Covenant), và Giao Ước Quốc Tế về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội, và Văn 
		Hóa (The International Covenant on Economic, Social, and Cultural 
		Rights: The ESC Covenant), được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp thuận 
		ngày 6 tháng 12 năm 1966. 
	Điều khoản 1: 
		các quốc gia hứa sử dụng tối đa tài nguyên để đạt những tiêu chuẩn về 
		nhân quyền quy định trong Giao Ước; Điều khoản 7: 
		chính phủ phải trả lương tối thiểu (minimum wage) và đời sống thoải mái 
		(decent living) cho công nhân; Điều khoản 9: 
		quyền được hưởng phụ cấp an sinh xã hội (social security) và bảo hiểm xã 
		hội (social insurance); Điều 
		khoản 11: 
		chính phủ phải cung cấp đủ lương thực, y phục, và nhà ở (require 
		governments to assure adequate food, clothing and housing); Điều khoản 12 
	: phải có nền y tế xã hội bắt buộc, tạo điều kiện để bảo đảm cho mọi 
		người dịch vụ y tế và săn sóc người dân khi đau ốm (mandates socialized 
		medicine through creation of conditions which assure to all medical 
		service and medical attention in the event of sickness) (Âu Châu, Gia Nã 
		Đại và một số nước xã hội chủ nghĩa đều áp dụng điều khoản này, riêng có 
		Hoa Kỳ thì không, vì sự thao túng của bác sĩ đoàn và các cơ sở bảo hiểm 
		sức khỏe); Điều khoản 13: cho quyền các chính phủ kiểm soát giáo 
		dục, và dùng các trường học như là các trung tâm dạy giáo điều thiên 
		Liên Hiệp Quốc, bằng cách khẳng định rằng mọi cơ chế giáo dục phải đẩy 
		mạnh những hoạt động của Liên Hiệp Quốc.. 
		(Article 13 provides for government control of education, and the use of 
		schools as pro-UN indoctrination centers, by asserting that all 
		educational institutions must further the activities of the UN).
	Độc giả có thể thấy rõ ý nghĩa của những điều khoản trên mà tôi không 
		cần phải phê bình để thấy chúng có thể áp dụng chung cho toàn thể thế 
		giới hay không?. 
	Vài điều khoản khác cho thấy bản giao ước quốc tế đưa ra những quyền của 
		con người nhưng rồi với loại ngôn từ tránh né, mơ hồ, có tác dụng làm 
		giảm hiệu lực của chính những điều đã quy định. Sau đây là vài thí dụ:
	Điều Khoản 18:
	1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tri và tôn giáo...
	2. Sự tự do bày tỏ tôn giáo hay tín 
		ngưỡng của mọi người chỉ chịu những hạn chế quy định bởi luật pháp 
		và cần thiết để bảo vệ sự an toàn công cộng, trật tự, sức khỏe, hay đạo 
		đức hay quyền căn bản và tự do của người khác. [11]
	Điều Khoản 19:
	1. Mọi 
		người đều có quyền tự do phát biểu ý kiến...
	2. Việc 
		thực thi những quyền quy định trong mục 2 của điều khoản này đi cùng với 
		những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Nó có thể phải chịu một số hạn chế, 
		nhưng những hạn chế này chỉ có thể do luật pháp đặt ra. 
		[12]
	Điều khoản 21 :
	1. Công 
		nhận quyền hội họp trong hòa bình
	2. Không 
		hạn chế nào được đặt trên sự thực thi quyền trên ngoài những hạn chế được áp đặt để 
		tuân theo luật pháp. 
		[13]
	Chúng ta 
		thấy ngay rằng, mọi quyền của con người, theo tinh thần của những bản 
		văn trên, đều phải nằm trong vòng luật pháp của mỗi nước. 
		Nếu luật pháp của mỗi quốc gia mỗi khác thì định nghĩa về nhân quyền của 
		mỗi quốc gia cũng mỗi khác. Không có lý do gì để lấy nền luật pháp 
		của Mỹ hay của bất cứ nước nào, hay quan niệm về nhân quyền của bất cứ 
		nước nào, để dựa vào đó mà coi nền luật pháp đó, hay quan niệm về nhân 
		quyền đó, làm tiêu chuẩn chung cho mọi nền luật pháp và quan niệm về 
		nhân quyền chung cho toàn thể thế giới. 
	Vài sự kiện 
		có thể cho chúng ta thấy rõ điều này. Chúng ta còn nhớ: Chính 
		quyền Clinton cũng phải rút lui trong việc can thiệp cho một công dân Mỹ 
		khỏi bị đánh đòn ở Singapore , và về trường hợp Nguyễn Tường Vân, một 
		công dân Úc gốc Việt, một tín đồ Ca-tô, can tội buôn ma túy bị bắt quả 
		tang ở Singapore và bị kết án tử hình treo cổ, dù được các viên 
		chức trong chính quyền Úc cùng những viên chức trong Giáo hội 
		Ca-tô như Tổng Giám Mục Phillip Aspinall của Anh Giáo Úc Ðại Lợi, hay 
		Hồng Y George Pell, Tổng Giám Mục địa phận Sydney, người đã viết thư để 
		xin sự trợ giúp của Giáo Hoàng John Paul II, trước khi qua đời Giáo 
		Hoàng John Paul II đã gởi lời xin tha mạng tới Chính Phủ Singapore, 
		nhưng tất cả đều vô hiệu trước nền pháp luật của Singapore, và Nguyễn 
		Tường Vân vẫn bị hành quyết. Thật là không hiểu nổi. Chính 
		quyền Mỹ can thiệp cho một thanh niên can tội phá phách ở nước ngoài, 
		trong khi đi can thiệp vào nhiều nước trên thế giới, giết hại nhiều nhân 
		mạng. Giáo hội Ca-tô can thiệp cho một tín đồ can tội buôn lậu ma 
		túy bị bắt quả tang ở nước ngoài, trong khi đó thì lại bao che cho các 
		linh mục can tội loạn dâm. Ấy thế mà Mỹ vẫn tự cho mình là quan 
		tòa phán xét nhân quyền trên thế giới, Giáo hội Ca-tô vẫn tự nhận 
		là “thánh thiện, tông truyền”, là gương đạo đức cho cả thế giới, thật 
		chẳng có một chút liêm sỉ nào. 
	Ở đây chúng ta cần hiểu 
		rõ, khi chúng ta nói về nước Mỹ là nói về cấu trúc quyền lực chỉ đạo 
		nước Mỹ chứ thường dân Mỹ thì có rất nhiều người tử tế, tốt bụng, giầu 
		lòng bác ái. Cũng vậy, khi chúng ta nói về Giáo hội Ca-tô là nói về cấu 
		trúc quyền lực thần trị (theocracy) chỉ đạo của Vatican chứ giáo dân 
		thường thì cũng có rất nhiều người hiền lành, tử tế, tốt bụng và giầu 
		lòng bác ái. Họ tin nhưng mà không biết mình bị lừa dối bởi những luận 
		điệu thần học mê hoặc của giáo hội. 
	Những hình phạt như “đánh đòn” hay “treo cổ” là những biện pháp quy định 
		trong luật pháp quốc gia của Singapore, tất cả đều trái với quan niệm về 
		nhân quyền của Mỹ. Ngoài ra, Nhật Bản cho rằng khi bắt được quả 
		tang một người phạm tội thì người đó không cần phải có luật sư, chỉ việc 
		mang ra tòa xét xử và định tội. Điều này cũng trái với quan niệm 
		về nhân quyền của Mỹ, mọi tội phạm đều có quyền gọi một cú điện thoại 
		cho luật sư của mình. Điều khoản 20 trong bản Giao ước lại “đòi 
		hỏi chính quyền phải ra luật ngăn cấm mọi tuyên truyền cho chiến tranh 
		và mọi ủng hộ cho sự căm thù quốc gia, sắc dân hay tôn giáo có tác dụng 
		tạo nên sự khích động cho những vấn đề kỳ thị, thù nghịch hay bạo lực”
		(Article 20 of the CP covenant “requires States parties to prohibit 
		by law any propaganda for war and any advocacy of national, racial or 
		religious hatred that constitutes incitement to discrimination, 
		hostility or violence..). Điều khoản này là một món quà vô giá để 
		cho nhiều quốc gia biện minh cho những hành động mà Tây phương cho là 
		phi dân chủ, phi tự do.
	Giới thức 
		giả Âu Mỹ đã nhiều lần vạch ra cái mặt trái của bình phong Nhân Quyền. 
		Báo Chicago Tribune ngày 16 tháng 8, 1999, có đăng bài bình luận của 
		Salim Muwakhil về chủ đề "Hoa Kỳ xuất cảng: bom, súng và đạo đức giả" 
		(U.S exports: Bombs, guns and hypocrisy) trong đó tác giả vạch trần sự 
		đạo đức giả của chính quyền Clinton trong sách lược lên án việc dùng 
		súng ở trong nước và khuyến cáo người dân nên đối thoại thay vì bạo lực, 
		trong khi lại tích cực bán vũ khí ra các nước ngoài và thay thế những 
		lời đối thoại bằng bom đạn trong cuộc không chiến đang tiếp diễn chống 
		Iraq. (It (the word hypocrisy) helps us understand how an administration 
		so dedicated to arms sales abroad can condemn the spread of guns at home 
		with such enthusiam. It also accounts for the ability of 
		administration officials to urge dialogue over violence, even as they 
		eagerly substitute bombs for words in an ongoing air war with Iraq.). 
		Tác giả cũng cho biết: 
	“Hoa Kỳ đứng đầu trong số lượng bán vũ khí trên hoàn cầu, chiếm hơn 55% 
		thị trường. Hoa Kỳ bán vũ khí cho những quốc gia đối đầu nhau như 
		Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, Eritrea và Ethiopia, Saudi Arabia và Israel, India 
		và Pakistan; đưa vũ khí vào các điểm nóng trên thế giới như Sri Lanka, 
		Indonesia, Columbia, Trung Đông và Đông Phi.” [14]
	Bán võ khí cho các dân tộc giết nhau để kiếm lời phải chăng là những 
		hành động đạo đức tôn trọng nhân quyền? Tác giả Salim Muwakhil, đã 
		kết luận bằng câu: 
	"Trong sự tìm kiếm giải pháp cho sự bạo hành đang lan tràn trong xã 
		hội của chúng ta, chúng ta đừng có loại phần còn lại của thế giới" 
		[15] 
	
	Câu này có 
		nghĩa: trong khi chúng ta tìm cách bảo vệ nhân quyền trong xã hội của 
		chúng ta, chúng ta cũng phải nghĩ đến nhân quyền trong phần còn lại của 
		thế giới. Một mặt tìm cách bảo vệ nhân quyền trong xã hội của 
		chúng ta, mặt khác lại chà đạp lên nhân quyền ở những nơi khác trên thế 
		giới là một hành động phi luân (amoral), đạo đức giả.
	
	II. Nước Mỹ Và Vấn Nạn Nhân 
		Quyền:
	Bây giờ chúng ta hãy điểm qua bộ mặt nhân quyền của Mỹ trên thế giới. 
		Khoan kể đến những bản hồ sơ chi tiết về nhân quyền của Mỹ mà Trung Quốc 
		tung ra hàng năm để phản ứng việc Bộ Ngoại Giao Mỹ để Trung Quốc vào 
		trong bản Phúc Trình hàng năm về nhân quyền của các nước, chúng ta hãy 
		duyệt qua một số nhận định của những trí thức Tây phương, phần lớn là 
		Mỹ, về bộ mặt nhân quyền của Mỹ.
	Mỹ, với bản 
		chất đế quốc thấm nhuần văn hóa trịch thượng, bạo tàn của Ki Tô 
		Giáo và với tâm cảnh “cowboy shooting Indians”, chưa bao giờ tôn trọng 
		nhân quyền ở các nơi khác trên thế giới, khoan kể đến tinh thần kỳ thị, 
		coi các dân tộc khác đều là thấp kém. Và Mỹ, với những tội ác 
		chiến tranh trên thế giới, đã vi phạm nhân quyền đến độ Noam Chomsky 
		phải viết: 
	“Nếu những luật của Nuremberg (tòa án xử tội phạm chiến tranh 
		trong Đệ Nhị Thế Chiến) được áp dụng thì sau mỗi cuộc chiến tranh, 
		mọi tổng thống Hoa Kỳ đều đã phải bị treo cổ.” [16]
	
	Vậy có lẽ 
		chúng ta cũng nên biết qua về vài điều trích từ Nguyên Tắc VI 
		trong 7 điều khoản của những luật của Nuremberg:
	Những tội ác sau đây 
		có thể bị trừng phạt như là tội ác theo luật quốc tế:
	a. Tội ác chống hòa bình:
	i. Đặt kế hoạch, sửa soạn, khởi sự hoặc tiến hành một cuộc chiến 
		tranh xâm lăng hay một cuộc chiến tranh vi phạm các hiệp ước, thỏa 
		thuận, bảo đảm quốc tế.
	ii. Can dự vào một kế hoạch chung hay âm mưu để hoàn thành bất cứ 
		hành động nào ghi trong mục (i) [17]
	b. 
	Tội Ác 
		Chiến Tranh:
	Vi phạm những luật hay 
		quy tắc chiến tranh gồm có, nhưng không chỉ giới hạn như giết người, 
		giết hay đối xử tồi tệ những tù nhân chiến tranh, giết những người bị 
		bắt cóc, ăn cướp của công hay của tư, cố tình phá hủy thị trấn, thành 
		phố, làng mạc, hay những sự tàn phá triệt hạ không thể biện minh cho sự 
		cần thiết quân sự. [18]
	Mỹ tự nhận 
		là cái đầu tầu kéo cả thế giới theo về nhân quyền, nhưng thực ra bộ mặt 
		nhân quyền của Mỹ là một bộ mặt lem luốc nhất thế giới. Trong cuộc 
		chiến ở Việt Nam, Mỹ đã vi phạm tất cả các điều khoản trong hai mục 
		trên: “Tội Ác Chống Hòa Bình” và “Tội Ác Chiến Tranh” như tôi sẽ trình 
		bày trong một phần sau. Trước hết chúng ta hãy đọc vài tài liệu 
		sau đây:
	Năm 1986, 
		Mỹ là quốc gia duy nhất đã bị Tòa Án Quốc tế (World Court) kết án là 
		khủng bố quốc tế - dùng võ lực bất hợp pháp, cho những mục tiêu chính 
		trị (Introducing Noam Chomsky, Ibid. p. 84: In 1986, the U.S. was 
		the only country comdemned by the World Court for international 
		terrorism – for “unlawful use of force” for political ends) và Mỹ đã phủ 
		quyết một nghị quyết của Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc kêu gọi mọi 
		quốc gia, trong đó có Mỹ, phải tôn trọng luật lệ quốc tế. Cường 
		quyền đã thắng công lý. Tại sao Mỹ không dám công nhận quyền của 
		Tòa Án Quốc Tế Le Hague? Vì nếu công nhận thì Mỹ sẽ là quốc gia 
		đầu tiên bị đưa ra Tòa Án Quốc tế về những tội ác chiến tranh (war 
		crimes) trong đó có những tội ác ở Việt Nam. 
	Uỷ Ban Nhân 
		Quyền Liên Hiệp Quốc, trong cuộc họp khai mạc cuối tháng 3, 1999, Tổng 
		Thư Ký Hội Ân Xá Quốc Tế, Pierre Sane, thay vì thường tố cáo Trung Quốc, 
		đã tố cáo Hoa Kỳ vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền một cách đại quy mô đối 
		với các dân thiểu số ngay trong nước Mỹ (As the UN Human Rights 
		Commission opened its annual session Monday, Amnesty International 
		departed from its traditional criticism of China and instead denounced 
		the US: "Human Rights violations in the US of America are persistent, 
		widespread and appear to disproportionately affect people of racial or 
		ethnic minority backgrounds," said Amnesty's secretary general, Pierre 
		Sane.), và khuyến cáo Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc hãy chú ý đến những vi phạm 
		nhân quyền ở Sudan, Turkey, Algeria, Cambodia, Rwanda, Burundi, và Congo 
		(Không có Việt Nam trong danh sách này).
	Vince Hayner viết về “Những Vi Phạm Của Hoa Kỳ” (US Violations) 
		như sau:
	“Sự 
		loại Hoa Kỳ ra khỏi Ủy Ban Nhân Quyền là một bất ngờ cần được hoan 
		nghênh. Trong khi các chính trị gia, ký giả và dân thường hỏi tại 
		sao, câu trả lời ở ngay trước mắt chúng ta.
	Hoa Kỳ có một thành tích khủng 
		khiếp về nhân quyền. 
		Ngoài chuyện hàng ngày áp bức chính dân của mình, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục vi 
		phạm nhân quyền ở các nơi như Vieques (Porto Rico) bằng Hải Quân Hoa Kỳ, 
		và ở quanh thế giới trong những xí nghiệp bóc lột nhân công tàn tệ 
		(sweatshops) cho những xí nghiệp Hoa Kỳ, và điều có lẽ đáng lo ngại nhất 
		là, giết hại hơn 1 triệu dân Iraq trong chiêu bài trừng phạt, đó là chỉ 
		kể vài sự kiện.
	Hi 
		vọng rằng sự loại Hoa Kỳ ra khỏi Ủy Ban Nhân Quyền là một dấu hiệu mà 
		các thành viên khác của LHQ sẽ không dung dưỡng cho những hành động 
		không hề thay đổi, đơn phương tấn công nhân quyền của Hoa Kỳ.”
		[19]
	Tuy nhiên, 
		dù sao Mỹ cũng là quốc gia có thể nói là tôn trọng quyền của người dân 
		vào bậc nhất. Cũng vì vậy mà tôi mới có thể viết lên bài này. 
		Nhưng chúng ta cần phải hiểu rằng, người dân đây chỉ là dân Mỹ sống trên 
		đất Mỹ. Vấn đề ở đây không phải là Mỹ tôn trọng quyền của người 
		dân Mỹ trên đất Mỹ, mà là trên bình diện quốc tế, Mỹ có tôn trọng nhân 
		quyền ở các nơi khác trên thế giới hay không? Những sự kiện trong 
		lịch sử Mỹ ở Việt Nam, Indonesia, Guatamala, El 
		Salvadore, Nicaragua v..v. đã chứng tỏ, đúng như Vince Hyaner đã 
		viết ở trên: Hoa Kỳ có một thành tích khủng khiếp về nhân quyền.
	
	Riêng về Việt Nam thì sự 
		vi phạm nhân quyền của Mỹ khủng khiếp đến độ không có cách nào kể hết. 
		Sự vi phạm thứ nhất là Mỹ đã dùng cường quyền thắng công lý, can thiệp 
		vào Việt Nam bất kể luật quốc tế và những điều khoản trong Bản Tuyên 
		Ngôn Quốc tế Nhân Quyền. Nói thẳng ra là Mỹ đã xâm lăng Việt 
		Nam, gây nên cuộc chiến hậu Geneva ở Việt Nam. Sự vi phạm thứ 
		hai là trong cuộc chiến Mỹ đã có những hành động vô cùng man rợ, và tàn 
		bạo ở Việt Nam. Nếu chúng ta để tâm nghiên cứu lịch sử, từ sự 
		thành lập nước Mỹ bởi những người thanh giáo di dân sang từ Âu Châu cho 
		đến văn hóa, tôn giáo của Mỹ thì chúng ta sẽ hiểu tại sao Mỹ lại có thể 
		có những hành động như vậy. 
	 
	
	III. Mỹ - Việt Nam
	Người ta đã đưa ra nhiều lý do để biện minh cho vai trò của Mỹ trong 
		cuộc chiến Việt Nam, rằng Mỹ đến Việt Nam vì những mục đích cao thượng, 
		chính đáng, để bảo vệ tự do dân chủ cho miền Nam Việt Nam, để ngăn chặn 
		Cộng sản vô thần bành trướng v… v… và v… v… Nhưng giáo sư 
		Mortimer Cohen đã có một nhận định rất chính xác về những 
		lý do biện minh cho sự can thiệp vào Việt Nam của Mỹ trong cuốn From 
		Prologue To Epilogue In Vietnam, Publisher Retriever Bookshop, N.Y., 
		1979, trang 208:
	Trong 21 năm bị lôi cuốn vào Đông Dương, Chính Phủ Mỹ đã đưa ra 
		những “lý do” về những hành động của mình. Những lý do này vô 
		giá trị. Lý do duy nhất mà Mỹ vào Đông Dương là để ngăn chận 
		vùng này khỏi rơi vào tay Cộng Sản bằng một cuộc bầu cử, một cuộc cách 
		mạng nội bộ... Và đó cũng đủ để gọi là lý do.
	Thêm nhiều lý do. Và thêm nhiều lý do nữa. Chúng mọc lên như 
		măng tháng 5. Trước khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, những lý 
		do có thể chứa đầy một cuốn sách. Không lý do nào hợp lý.
		[20]
	Vậy thực 
		chất cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam là như thế nào. Ngày nay 
		chúng ta đã có khá nhiều tài liệu bạch hóa vấn đề này. Thứ nhất, 
		chẳng phải là Mỹ đến để bảo vệ tự do dân chủ cho mìền Nam. Chính 
		quyền Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên tuyệt đối không phải là một chính 
		quyền tôn trọng tự do dân chủ. Hơn nữa chúng ta hãy đọc vài tài 
		liệu về cái gọi là “bảo vệ tự do dân chủ” cho miền Nam mà Mỹ và một số 
		người Quốc Gia coi như là một quốc gia riêng biệt, độc lập.
	Trong cuốn The Vietnam War and American Culture của hai giáo sư 
		John Carlos Rowe & Rick Berg ở đại học Iowa, Columbia University Press, 
		1991, trang 72, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây: 
	Bảo vệ sự “tự do” của người dân Việt Nam ư? Trong 
		những tài liệu nội bộ (của Mỹ) những sự thực ác nghiệt về những 
		mục đích của Mỹ về cuộc chiến tranh (ở Việt Nam) đã nói ra rõ 
		ràng – không gì rõ hơn là trong một bản ghi nhớ của Thứ Trưởng Quốc 
		Phòng John McNaughton, viết thay cho Bộ Trưởng McNamara (với một bản sao 
		chỉ để cho George Bundy đọc) về những mục đích chiến tranh của Mỹ: 
		70% để duy trì danh dự quốc gia của chúng ta, 20% để cho Nam Việt Nam 
		khỏi bị Trung Quốc chiếm đóng, và 10% để cho người dân Việt Nam được 
		hưởng một lối sống tốt hơn và tự do hơn. [21]
	
	
	 Chúng ta có 
		thể thấy một đoạn tương tự trong cuốn Cuộc Chiến Bất Tận: Cuộc Đấu 
		Thanh Của Việt Nam Để Giành Độc Lập (The Endless War: Vietnam.s 
		Struggle For Independence, Columbia University Press, New York, 1989) 
		Giáo Sư James P. Harisson viết, trang 4:
Chúng ta có 
		thể thấy một đoạn tương tự trong cuốn Cuộc Chiến Bất Tận: Cuộc Đấu 
		Thanh Của Việt Nam Để Giành Độc Lập (The Endless War: Vietnam.s 
		Struggle For Independence, Columbia University Press, New York, 1989) 
		Giáo Sư James P. Harisson viết, trang 4:
	“Ngày 24 tháng 3, 1965, Thứ Trưởng Quốc Phòng John T. 
		McNaughton tuyên bố là trong khi thực ra chỉ có 10% nỗ lực của Mỹ 
		để giúp người dân Nam Việt Nam, 20% có mục đích giữ Nam VN (và những 
		lãnh thổ lân cận) khỏi rơi vào tay Trung Quốc, và phần lớn nhất, 70%, 
		là để “tránh một cuộc thất bại nhục nhã của Mỹ.” [22]
	Xét 
		đến những hành động của Mỹ tại Việt Nam, cách đối xử của Mỹ đối với Việt 
		Nam, những chiến dịch vô nhân đạo mà Mỹ tung ra ở Việt Nam, số thường 
		dân bị thương vong ở Việt Nam v..v.. mà ngày nay chúng ta có hàng đống 
		tài liệu, tài liệu của chính Mỹ, thì 10% để giúp dân Việt Nam không thể 
		để trên cán cân cân bằng với 90% có tính cách tàn phá, hủy diệt Việt 
		Nam. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong một đoạn sau.
	Về lý do 
		ngăn chận Cộng sản thì thực ra cũng không phải là lý do chính đáng vì 
		chính sách chống Cộng lưỡng chuẩn của Mỹ.
	Bảo rằng Mỹ 
		giúp Nam Việt Nam chống Cộng sau Hiệp Định Genève, nhưng tại sao lại là 
		Việt Nam? Thuyết Domino của Mỹ cho rằng, theo học giả Gareth 
		Porter: ““lý thuyết domino” cho rằng những nước không cộng sản trong 
		vùng Đông Nam Á sớm muộn sẽ bị lần lượt lật đổ nếu miền Nam Việt Nam mất 
		vào tay cộng sản. Căn cứ theo những suy diễn bình thường, các chiến lược 
		gia Mỹ đã thổi phồng hiểm họa cộng sản, và họ đã tin vào những nguy cơ 
		bị chính họ phóng đại ấy.” Nhưng vấn đề không phải là ở thuyết 
		Domino mà là Mỹ đã nuốt lời hứa là sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết 
		của các dân tộc. Mỹ tự ban cho mình quyền của một cảnh sát quốc tế, ép 
		buộc mọi quốc gia phải theo sự xếp đặt của mình, nghĩa là, áp dụng luật 
		rừng và cường quyền thắng công lý của kẻ mạnh, muốn can thiệp vào nước 
		nào thì can thiệp. Nhưng thực ra, theo những tài liệu hiện hữu của 
		một số học giả Mỹ, cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam nằm trong chủ 
		trương bá quyền của Mỹ trên khắp thế giới chứ không phải chỉ riêng ở 
		Việt Nam. Mỹ đã can thiệp vào nội bộ của nhiều nước: El Salvador, 
		Nicaragua, Guatamala, Dominican Republic, Indonesia, Philippines, 
		Thailand v..v.. (Xin đọc cuốn 9-11 , Seven Stories Press, New 
		York, 2001, của Noam Chomsky, hoặc cuốn “The Chomsky Reader, 
		Edited by James Peck, Pantheon Books, New York, 1987). Vài tài 
		liệu sau sẽ chứng tỏ sự thực này:
	 
	 Cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri 
	(Vietnam: Crisis of 
		Conscience, Association Press, N.Y., 1967) viết bởi ba giới chức tôn 
		giáo: Mục sư Tin Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo Học, đại học 
		Stanford; Linh mục Michael Novak, Giáo sư về Nhân Bản Học, đại học 
		Stanford; và Tu sĩ Do Thái Abraham J. Heschel, giáo sư về đạo đức và 
		huyền nhiệm Do Thái tại trường Thần Học Do Thái ở Mỹ, mở đầu bằng câu:
Cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri 
	(Vietnam: Crisis of 
		Conscience, Association Press, N.Y., 1967) viết bởi ba giới chức tôn 
		giáo: Mục sư Tin Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo Học, đại học 
		Stanford; Linh mục Michael Novak, Giáo sư về Nhân Bản Học, đại học 
		Stanford; và Tu sĩ Do Thái Abraham J. Heschel, giáo sư về đạo đức và 
		huyền nhiệm Do Thái tại trường Thần Học Do Thái ở Mỹ, mở đầu bằng câu:
	Những trang sách sau đây xuất sinh từ sự cùng quan tâm 
		của chúng tôi rằng: quốc gia của chúng ta (Mỹ) bị lôi cuốn vào 
		cuộc xung đột ở Việt Nam mà chúng tôi thấy không thể nào biện minh được 
		trong ánh sáng thông điệp của các nhà tiên tri hay của Phúc Âm của 
		Giê-su ở Nazareth. [23]
	Trong cuốn sách này, 
		Mục sư Tin Lành Robert McAffee Brown viết ở trang. 67 rằng
	Ngay cả quyền hiện 
		diện của chúng ta ở đó (Việt Nam) cũng bị chất vấn, trong ánh 
		sáng của luật quốc tế, bởi những người có địa vị cao trong chính 
		phủ của chúng ta, trong đó có các Thượng Nghị Sĩ Morse, Church, Gore, và 
		Gruening. Nhưng ngay cả khi có quyền, bản chất những gì chúng ta 
		đang làm ở Việt Nam cũng đáng bị lên án. [24]
	Mặt khác, 
		trong thời điểm đó, hầu như toàn thể Đông Âu đều theo Cộng Sản, Cuba ở 
		ngay sát nách Mỹ là Cộng Sản, và hai Cộng Sản gộc là Nga và Tàu, tại sao 
		Mỹ không chống ở những nơi đó mà lại đi chống ở một nước nghèo, 
		nhỏ, xa xôi như Việt Nam, vừa mới giành được độc lập sau một cuộc chiến 
		đấu gian khổ dài 9 năm, nhân dân mệt mỏi, tài nguyên kiệt quệ, và nhất 
		là không có khả năng gây bất cứ sự nguy hại nào cho Mỹ? 
	Mục Sư Tin 
		Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Stanford, 
		cũng viết trong cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri đó 
		ở trang 79 rằng:
	Thật là khôi hài, ngay khi mà chúng ta nói rằng chúng ta 
		phải “chặn đứng Cộng Sản” ở Việt Nam, thì ở những nơi khác chúng ta lại 
		sống chung với Cộng Sản, soạn thảo những hiệp ước với Nga Sô, mở rộng 
		giao thương với Đông Âu, ủng hộ Tito ở Nam Tư. Ở những nơi khác, 
		chúng ta rõ ràng quyết định là sống chung hòa bình với Cộng Sản, và 
		khuyến khích những xã hội Cộng Sản độc lập, không cần đến sự liên kết 
		với nhau trong khối Cộng sản. [25]
	Walter 
		J. Rockler, nguyên công tố viên tòa án xử tội phạm chiến tranh 
		Nuremberg, đã viết như sau về quan niệm nhân quyền của Mỹ:
	"Cái mà chúng ta gọi là quan tâm đến nhân quyền thật là lố bịch. 
		Chúng ta đã thả xuống Việt Nam một số lượng bom gấp đôi số lượng bom mà 
		các quốc gia liên hệ đến cuộc Đệ Nhị Thế Chiến thả lên đầu nhau. 
		Trong cuộc chiến này, chúng ta đã giết hàng trăm ngàn thường dân. 
		Ngay gần đây, chúng ta bảo trợ, huấn luyện và ủng hộ những đoàn quân địa 
		phương của Guatamala, El Salvadore, và Nicaragua Contras ở Trung Mỹ, 
		trong sự tàn sát ít nhất là 200 ngàn người..." [26]
	
	Và Robert 
		Scheer cũng viết như sau trên tờ Times:
	"Chẳng phải là chúng ta có một lịch sử "diệt chủng" hay sao, mới đầu 
		là thổ dân Mỹ, và sau là ở Việt Nam, khi quân đội Hoa Kỳ lùa những dân 
		làng trung thành, hầu hết là Công Giáo, vào sống an toàn trong những Ấp 
		Chiến Lược, trong khi biến những vùng Phật Giáo ở thôn quê Nam 
		Việt Nam thành những vùng tự do thả bom một cách toàn diện?" [27]
	
	Chúng ta hãy đọc thêm vài nhận định của tướng lãnh Mỹ, chính khách Mỹ:
	
	Tướng David Sharp, Nguyên Chỉ Huy Trưởng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, phát 
		biểu, năm 1966:
	“Tôi tin rằng nếu chúng ta đừng xía những bàn tay dơ bẩn, đẫm máu, nắm 
		đầy đô-la vào việc của những quốc gia trong Thế Giới Thứ Ba đầy những 
		người thất vọng, bị khai thác, thì những quốc gia này sẽ tìm ra giải 
		pháp cho chính họ. Và nếu bất hạnh là cuộc cách mạng của những 
		quốc gia này phải dùng đến bạo lực là vì những người có của từ chối 
		không chịu chia sẻ với những người không có bằng phương pháp hòa bình 
		nào, thì những gì họ chiếm được sẽ là của chính họ, không phải là của 
		kiểu Mỹ mà họ không muốn và nhất là không muốn bị nhét xuống cổ họng bởi 
		người Mỹ.” [28]
	
	Thượng 
		Nghị Sĩ Wayne Morse, Đảng dân Chủ - Oregon, nhận định, năm 1967:
	
	“Theo sự phán xét của tôi, 
		chúng ta sẽ trở thành kẻ có tội vì là sự đe dọa lớn nhất cho nền hòa 
		bình thế giới. Đó là một sự thực xấu xa, và người Mỹ chúng ta 
		không thích đối diện với nó. Tôi thật không muốn nghĩ rằng một 
		trang sử của Mỹ sẽ được viết ra liên quan đến chính sách vô pháp của 
		chúng ta ở Đông Nam Á.” [29]
	Ramsey Clark, Nguyên Chưởng Lý Mỹ dưới 
		triều Lyndon Johnson, nhận định:
	“Tội ác lớn nhất từ sau Đệ Nhị 
		Thế Chiến là chính sách đối ngoại của Mỹ.”
	"The greatest crime since World War II has been U.S. foreign policy."
		
	[Ramsey 
		Clark,  
	former U.S. Attorney General 
		under President Lyndon Johnson]
	Từ những tài liệu điển 
		hình ở trên của chính những người Mỹ cao cấp trong tôn giáo, trong chính 
		quyền, và các bậc trí thức khoa bảng trong các đại học Mỹ, chúng ta thấy 
		Mỹ không có bất cứ một lý do nào chính đáng để có thể can thiệp vào Việt 
		Nam. Nếu không có lý do nào chính đáng thì bản chất cuộc can thiệp 
		của Mỹ vào Việt Nam là một cuộc xâm lăng.
	Thật vậy, 
		chiến tranh Việt Nam chấm dứt nhưng 27 năm sau
		Daniel Ellsberg còn viết trong cuốn
		Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 
		2002, p.255:
	“Theo tinh thần Hiến Chương Liên 
		Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó 
		là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ”.
	(In terms of the UN Charter and our own avowed ideals, it was a war of 
		foreign agression, American aggression.)
	 
	
	 
 
	
	 
	Và trong cuốn Chiến 
		Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, 
		Columbia University Press, New York, 1991), hai Giáo sư ở đại học Iowa, 
		John Carlos Rowe và Rick Berg, viết, trang 28-29:
	Khi Pháp rút lui, Mỹ 
		lập tức dấn thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có 
		lẽ khoảng 70000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 
		được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève 
		mà Mỹ phá ngầm… Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ 
		đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp 
		chống nhân loại trên khắp Đông Dương. [30]
	
	 Noam Chomsky viết trong cuốn The Chomsky Reader, Edited by James 
		Peck, năm 1984, dưới đầu đề Cuộc Xâm Lược Nam Việt Nam 
	[The 
		Invasion of South Vietnam]:
Noam Chomsky viết trong cuốn The Chomsky Reader, Edited by James 
		Peck, năm 1984, dưới đầu đề Cuộc Xâm Lược Nam Việt Nam 
	[The 
		Invasion of South Vietnam]:
	 
		 Cuộc xâm lược của Mỹ vào Nam Việt Nam là tiếp theo sự ủng hộ của chúng 
		ta trong toan tính của Pháp tái chinh phục thuộc địa cũ, sự phá “quá 
		trình hòa bình” năm 1954 [Hiệp định Geneva] của chúng ta, và một cuộc 
		chiến tranh khủng bố chống dân chúng Nam Việt Nam.
	Có một sự dàn xếp chính trị vào năm 1954, Hiệp định Geneva… Chúng 
		ta tiến ngay vào việc phá ngầm Hiệp định, đặt ở Nam Việt Nam một chế độ 
		hung bạo, khủng bố, lẽ dĩ nhiên là bác bỏ (với sự ủng hộ của chúng ta) 
		cuộc tổng tuyển cử đã được dự phóng. Rồi chế độ đó trở thành một
	cuộc tấn công khủng bố chống dân chúng ở Nam Việt Nam, đặc biệt đối với 
		lực lượng kháng chiến chống Pháp mà chúng ta gọi là Việt Cộng. Chế 
		độ đó đã giết có thể vào khoảng 80000 người (có nghĩa là chúng ta đã 
		giết, với vũ khí và lính đánh thuê của chúng ta) khi mà John F. Kennedy 
		lên làm Tổng Thống năm 1961. 
	Trong những năm 1961 và 1962 Kennedy khởi sự một cuộc chiến chống Nam 
		Việt Nam. Có nghĩa là, trong 1961 và 1962 , không lực Mỹ bắt đầu 
		bỏ bom và trải thuốc khai quang rộng rãi ở Nam Việt Nam, nhắm trước hết 
		vào những vùng nông thôn mà 80% dân chúng sống trong đó. Đây là một phần 
		của chương trình lùa nhiều triệu người dân vào trong những trại tập 
		trung mà chúng ta gọi là “ấp chiến lược” nơi đó họ bị bao vây bởi các 
		lính canh gác và giây thép gai, được “bảo vệ”, như chúng ta nói vậy, 
		trước quân du kích mà chúng ta thừa nhận rằng người dân tự 
		nguyện ủng hộ. Đây là điều mà chúng ta gọi là “xâm lược” hay “tấn 
		công bằng vũ khí” khi một nước nào đó làm như vậy. Chúng ta gọi đó 
		là “bảo vệ” khi chúng ta làm như vậy. 
		[31]
	
	Nghiên cứu 
		kỹ vấn đề, chúng ta thấy cuộc xâm lăng của Mỹ vào Nam Việt Nam có nguồn 
		gốc từ chính nền văn hóa của Mỹ. Sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam 
		là sự hội tụ của 3 yếu tố: chính trị, thần học Ki-tô Giáo, và kinh tế. 
		Những yếu tố này đan quyện với nhau tạo thành chính sách và hành 
		động của Mỹ, không riêng gì ở Việt Nam mà còn ở trên khắp thế giới. 
	Yếu Tố Chính Trị:
	Như 
		trên chúng ta đã biết, Ramsey Clark, Nguyên Chưởng Lý Mỹ dưới triều 
		Lyndon Johnson, nhận định:
	“Tội ác lớn nhất từ sau Đệ Nhị Thế 
		Chiến là chính sách đối ngoại của Mỹ.”
	Mục đích 
		chính của Mỹ không phải là để tạo nên một miền Nam dân chủ tự do. 
		Người Mỹ không có thực tâm, không có ý tốt giúp Việt Nam, cũng như ngày 
		nay không có thực tâm, ý tốt giúp Iraq. Người nào tin rằng Mỹ thực 
		tâm giúp Nam Việt Nam để bảo vệ những giá trị tự do dân chủ cho người 
		dân Nam Việt Nam là đang nằm mơ. Hãy xét đến thực chất của các 
		chính quyền Ngô Đình Diệm và “Diệm không Diệm” của Nguyễn Văn Thiệu. 
		Hãy xét đến những chiến dịch quân sự dã man nhất của Mỹ ở Việt Nam đối 
		với người dân trong cuộc chiến. 
	Can thiệp 
		vào Việt Nam, chính trị của Mỹ không đặt căn bản trên sự hiểu biết về 
		Việt Nam, điều mà tất cả các học giả ngày nay đều công nhận, và đó 
		là yếu tố làm cho Mỹ thất bại ở Việt Nam. Mỹ can thiệp vào Việt 
		Nam là dựa trên những gì người Mỹ nghĩ về chính họ, nói khác đi 
		là đặt trên nền văn hóa Mỹ. 
	Sau thế 
		chiến thứ II, những cường quốc thực dân Âu Châu như Anh, Pháp, Hòa Lan 
		đều trở nên suy yếu, Mỹ đương nhiên là quốc gia mạnh nhất về quân sự 
		cũng như kinh tế. Mỹ độc tôn về vũ khí nguyên tử, tự cho mình là 
		cái đầu tầu kéo cả thế giới theo, hoặc là một thị trấn ở trên một ngọn 
		đồi (A city on a hill) mà thế giới phải nhìn lên ngưỡng mộ và dập theo 
		những giá trị đạo đức xã hội của Mỹ. Mặt khác, Mỹ có những hành 
		động trịch thượng, kiêu căng vô lối, tự cho mình có quyền định đoạt số 
		phận của Việt Nam. Chúng ta hẳn còn nhớ, sau Thế Chiến II, trước 
		khi giúp Pháp trở lại Đông Dương, Tổng Thống Mỹ Roosevelt đã hỏi Tưởng 
		Giới Thạch là “Có muốn Đông Dương không?”. Và Tưởng Giới 
		Thạch đã trả lời: “Điều này không giúp gì cho chúng tôi. Chúng 
		tôi không muốn. Họ không phải là người Tàu. Họ sẽ không chịu hòa nhập vào dân Tàu” 
	(Backfire, p. 43: Mr. 
		Roosevelt asked Chiang: “Do you want Indo-China?” The 
		Generalissimo replied: “It’s no help to us. We don’t want 
		it. They are not Chinese. They would not assimilate into the 
		Chinese people.”)
	 
	 Có lẽ 
		không có cuốn sách nào đi thẳng vào những vấn đề như giải thích cuộc 
		chiến, tại sao nó lại xẩy ra, tại sao người Mỹ lại lâm vào cuộc chiến 
		như vậy để cuối cùng đi đến thất bại v..v.. bằng cuốn Kết Quả Ngược 
		Chiều: Việt Nam – Những Huyền Thoại Khiến Chúng Ta Chiến Đấu, 
		Những Ảo Tưởng Giúp Chúng Ta Thua, Cái Di Sản Vẫn Ám Ảnh Chúng Ta Ngày 
		Nay (Backfire: Vietnam – The Myths That Made Us Fight, The 
		Illusions That Helped Us Lose, The Legacy That Haunted Us Today, 
		Ballantine Books, New York, 1985) của Giáo sư Loren Baritz, Trưởng Khoa 
		Lịch Sử, Đại Học Rochester. Sau đây là một đoạn giải thích của 
		Giáo sư Loren Baritz, trang 10-11:
Có lẽ 
		không có cuốn sách nào đi thẳng vào những vấn đề như giải thích cuộc 
		chiến, tại sao nó lại xẩy ra, tại sao người Mỹ lại lâm vào cuộc chiến 
		như vậy để cuối cùng đi đến thất bại v..v.. bằng cuốn Kết Quả Ngược 
		Chiều: Việt Nam – Những Huyền Thoại Khiến Chúng Ta Chiến Đấu, 
		Những Ảo Tưởng Giúp Chúng Ta Thua, Cái Di Sản Vẫn Ám Ảnh Chúng Ta Ngày 
		Nay (Backfire: Vietnam – The Myths That Made Us Fight, The 
		Illusions That Helped Us Lose, The Legacy That Haunted Us Today, 
		Ballantine Books, New York, 1985) của Giáo sư Loren Baritz, Trưởng Khoa 
		Lịch Sử, Đại Học Rochester. Sau đây là một đoạn giải thích của 
		Giáo sư Loren Baritz, trang 10-11:
	Người Mỹ không biết gì về người Việt Nam không phải là chúng ta đần độn, 
		mà vì chúng ta tin vào một số điều về chính chúng ta... Muốn hiểu sự 
		thất bại của chúng ta, chúng ta cần phải suy nghĩ về thế nào là một 
		người Mỹ... Huyền thoại về Mỹ như là một thị trấn trên một ngọn đồi uẩn 
		hàm rằng Mỹ là gương mẫu đạo đức cho phần còn lại của thế giới, một thế 
		giới cho rằng sẽ đặc biệt ngưỡng mộ chúng ta. Điều này có nghĩa là 
		chúng ta là một dân tộc được [Thiên Chúa, lẽ dĩ nhiên của Ki Tô 
		Giáo] chọn, mỗi người trong đó, vì được sự ưu đãi và sự hiện diện của 
		Thiên Chúa, có thể vật chết dễ dàng 100 kẻ thù ngoại đạo...
	Có vô số cách để người Mỹ biết trong lòng – nơi duy nhất mà những huyền 
		thoại có thể sống được – là chúng ta được chọn để dẫn giắt thế giới 
		trong vấn đề đạo đức công cộng và dạy cho thế giới trong đức tính chính 
		trị. Chúng ta tin rằng những sự tốt đẹp trong nước chúng ta kết 
		thành sức mạnh đủ để triệt hạ đối thủ của chúng ta, những người, theo 
		định nghĩa, là kẻ thù của đức tính, của tự do, và của Thiên Chúa. 
		[32] 
	[Người 
		Mỹ tin tưởng như vậy. Nhưng sự thực ra sao? Một số thống kê của 
		chính Mỹ, chứng tỏ rằng về những tệ đoan xã hội, tội ác trong xã hội, 
		Mỹ chiếm giải quán quân trên thế giới. Không ai có thể phủ nhận Mỹ 
		là nước giàu nhất và mạnh nhất về quân sự. Nhưng còn về các vấn đề 
		đạo đức xã hội, đạo đức thế giới, đức tính của con người, thì Mỹ không 
		có gì để so sánh với các quốc gia Á Châu. Tổng thống Bush mở cuộc 
		xâm chiếm Iraq cũng không ít thì nhiều có niềm tin như vậy. Sống ở 
		Mỹ chúng ta không lạ gì khi thấy những nhóm “da trắng ưu việt” (white 
		supremacists) có những hành động bạo động ác ôn đối với những người da 
		màu mà chúng cho là thấp kém trong khi tuyệt đại đa số chúng không tốt 
		nghiệp nổi Trung Học.] 
	
	Tuy vậy, 
		sau Thế Chiến II, lực lượng đối đầu Mỹ duy nhất trong thời đó là Nga Sô 
		Viết và Nga Sô lại là Cộng Sản vô thần, do đó đương nhiên là kẻ thù của 
		Thiên Chúa, cũng là kẻ thù của dân được Thiên Chúa chọn: Mỹ. Cuộc 
		chiến tranh lạnh đã mang đến cho Mỹ sự sợ hãi Cộng Sản vì ảnh hưởng của 
		Cộng Sản càng ngày càng lan rộng trên thế giới, khắp Đông Âu, và ở các 
		nước thuộc địa ở Phi Châu và Á Châu. Chủ thuyết của Truman (The 
		Truman doctrine) năm 1947 đưa đến sự viện trợ $400 triệu về quân sự và 
		kinh tế cho Hi Lạp để chống những du kích quân có sự ủng hộ của Cộng 
		Sản. Thất nghiệp và lạm phát ở Âu Châu khiến cho ảnh hưởng của 
		Cộng Sản lan vào cả những nước như Ý, Pháp, Hòa Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào 
		Nha, và Bỉ, và cho tới ngày nay ảnh hưởng của Cộng Sản cũng chưa hết 
		hẳn. Truman đưa ra kế hoạch Marshall năm 1948 với $12.6 tỷ đô-la 
		viện trợ để giữ Tây Âu khỏi rơi hẳn vào vòng ảnh hưởng của Cộng Sản.
	Nhưng năm 
		1949 có 3 biến cố làm cho sự sợ hãi Cộng Sản của Mỹ lên đến độ hoang 
		tưởng. (From Communist fears to paranoia). Nga sô chặn đường bộ 
		tới Tây Bá Linh khiến cho Mỹ phải tổ chức không vận để hàng ngày cung 
		cấp các phẩm vật cho một thị trấn có 2 triệu người. Sau cùng Nga 
		Sô phải nhường bước. Cũng năm 1949, Nga Sô cho nổ quả bom nguyên 
		tử đầu tiên tạo nên một làn sóng sợ hãi khắp nước Mỹ. Sau cùng, 
		cuối năm 1949, Mao Trạch Đông đuổi Tưởng Giới Thạch ra khỏi lục địa. 
		Một quốc gia đông dân nhất thế giới, vừa mới là đồng minh của Mỹ cách đó 
		4 năm, nay đã rơi vào tay Cộng Sản. Từ sự sợ hãi Cộng sản đến mức 
		hoang tưởng, Mỹ đã quyết định ngăn chận sự bành trướng của Cộng Sản.
	
	
	 Muốn hiểu 
		về nguyên nhân cuộc chiến tranh Việt Nam, về tại sao dù không có một lý 
		do nào chính đáng mà Mỹ lại can thiệp vào Việt Nam, chúng ta cần hiểu rõ 
		hơn về nước Mỹ, hay nói đúng hơn, về “ý tưởng quốc gia của Mỹ” (idea of 
		America). Tôi đã đọc rất nhiều sách viết về cuộc chiến ở Việt Nam 
		nhưng tôi không thấy cuốn nào đào sâu khía cạnh này như cuốn “Chiến tranh chưa chấm dứt: Việt Nam và lương 
			tâm nước Mỹ” ( The Unfinished War: Vietnam and the American 
			Conscience, Beacon Press, Boston, 1982) của Walter H. Capps, 
			Giáo sư Đại Học Santa Barbara, California, nguyên Giám đốc trung tâm 
			nghiên cứu các định chế dân chủ Robert Hutchins (Former director of 
			the Robert Hutchins Center for the study of Democratic 
			Institutions). Đây là một cuốn sách cần phải đọc để hiểu rõ 
			người Mỹ và hiểu thái độ kiêu căng tự tôn của Mỹ, đưa đến những hành 
			động bất chấp đạo đức, bất chấp luật lệ quốc tế. Vấn đề chính 
			là chính sách ngăn chận Cộng sản không phải là vì tự thân lý thuyết 
			Cộng sản mà vì vị thế tối cao cầm đầu thế giới như Mỹ vẫn tự 
			cho Mỹ cái vị thế đó. Giáo sư Capps đã phân tích trong cuốn 
			sách trên, trang 37:
Muốn hiểu 
		về nguyên nhân cuộc chiến tranh Việt Nam, về tại sao dù không có một lý 
		do nào chính đáng mà Mỹ lại can thiệp vào Việt Nam, chúng ta cần hiểu rõ 
		hơn về nước Mỹ, hay nói đúng hơn, về “ý tưởng quốc gia của Mỹ” (idea of 
		America). Tôi đã đọc rất nhiều sách viết về cuộc chiến ở Việt Nam 
		nhưng tôi không thấy cuốn nào đào sâu khía cạnh này như cuốn “Chiến tranh chưa chấm dứt: Việt Nam và lương 
			tâm nước Mỹ” ( The Unfinished War: Vietnam and the American 
			Conscience, Beacon Press, Boston, 1982) của Walter H. Capps, 
			Giáo sư Đại Học Santa Barbara, California, nguyên Giám đốc trung tâm 
			nghiên cứu các định chế dân chủ Robert Hutchins (Former director of 
			the Robert Hutchins Center for the study of Democratic 
			Institutions). Đây là một cuốn sách cần phải đọc để hiểu rõ 
			người Mỹ và hiểu thái độ kiêu căng tự tôn của Mỹ, đưa đến những hành 
			động bất chấp đạo đức, bất chấp luật lệ quốc tế. Vấn đề chính 
			là chính sách ngăn chận Cộng sản không phải là vì tự thân lý thuyết 
			Cộng sản mà vì vị thế tối cao cầm đầu thế giới như Mỹ vẫn tự 
			cho Mỹ cái vị thế đó. Giáo sư Capps đã phân tích trong cuốn 
			sách trên, trang 37:
		Mỹ càng ngày càng hoảng sợ về Nga Sô có thể nắm quyền trên thế 
			giới. Không phải là người Mỹ sợ tự thân lý tưởng Cộng sản mà 
			là sức mạnh của một cường quốc khác có khả năng thách đố vị thế tối 
			cao của Mỹ trên thế giới. [33]
		Mỹ can thiệp vào Việt Nam cũng không phải vì ông Hồ là cộng sản, hay 
			ông Hồ là con bài của Nga sô. Giáo sư Capps viết, trang 36:
		Những cơ quan ngoại giao và tình báo của Mỹ đã kiểm tra cẩn thận 
			để xem xem có phải là ông Hồ liên kết với Nga Sô hay không. 
			Vào thời đó họ không kiếm ra một bằng chứng nào như vậy; thật ra họ 
			biết rất rõ ông Hồ trước hết là một người Việt quốc gia, đối với ông 
			ta dạng thức Cộng sản của chính quyền là một cơ cấu thích hợp để vứt 
			bỏ nền cai trị áp bức của thực dân. Phúc trình của một nhân 
			viên Bộ Ngoại Giao vào thời đó đặt vấn đề là: Phải nên coi ông Hồ 
			như là “biểu tượng của chủ nghĩa quốc gia và sự tranh đấu cho tự do 
			của tuyệt đại đa số quần chúng.” [34]
		Một tài liệu tương tự trong cuốn Cracks In The Empire, South 
			End Press, Boston, 1981, của Paul Joseph, Giáo sư xã hội học, đại 
			học Tufts, như sau, trang 83:
		
		“Dù rằng thiếu bằng chứng, Washington tiếp tục cho rằng cuộc đấu 
			tranh chống Pháp 
			(ở Việt Nam) là do sự hứng khởi và chỉ đạo từ Liên Bang Sô Viết. 
			Thí dụ, trong bức công điện gửi cho Thủ Tướng (Pháp) Ramadier, đại 
			sứ Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là một phong trào mà “triết lý 
			và tổ chức chính trị đều phát khởi từ và bị kiểm soát bởi điện 
			Kremlin. Tuy vậy tình báo Mỹ đã cố gắng, và thất bại, để kiếm ra 
			bằng chứng là có mối liên hệ kiểm soát giữa Moscou và Hồ Chí Minh. 
			Một công điện của Bộ ngoại giao gửi cho đại sứ Mỹ ở Trung Quốc viết 
			“Bộ không có bằng chứng nào về sự nối kết trực tiếp giữa ông Hồ và 
			Moscow nhưng cứ cho rằng có.” [35]
		
		Không có bằng chứng nhưng cứ cho là có, đó là cái cớ để Mỹ can thiệp 
			vào Việt Nam. Chúng ta đã biết, Mỹ tự cho mình cái quyền can 
			thiệp vào bất cứ nước nào mà Mỹ muốn. Mỹ chỉ cần đưa ra một cớ 
			nào đó, dù không phải là sự thật, và điều đó cũng đủ để Mỹ can thiệp 
			vào nội bộ bất cứ nước nào. Nhưng Mỹ chỉ dám đụng đến các nước 
			nhỏ, ít khả năng phản kháng, chứ Mỹ không dám đụng đến các cường 
			quốc khác như Nga sô, Trung Quốc. Ngày nay khí thế của Trung 
			Quốc đang càng ngày càng lên, lan sang cắm dùi, gây ảnh hưởng ở Phi 
			Châu, những thuộc địa trước của khối Tây phương và Mỹ. Trước 
			tình trạng như vậy Mỹ chỉ còn có thể phàn nàn và than phiền.
		Trong 
			cuốn Can Thiệp Và Cách Mạng: Mỹ Đối Đầu Với Những Phong Trào Nổi 
			Giậy Trên Khắp Thế Giới (Intervention and Revolution: America’s 
			Confrontation With Insurgent Movements Around The World, A Meridian 
			Book, New York, 1972), Sử gia kiêm nhà khoa học chính trị (historian 
			and political scientist) Richard J. Barnet, đã từng là nhân viên Bộ 
			Ngoại Giao cũng như Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, viết, trang 301:
		Sự hiện diện của một sự đe dọa của Cộng Sản, ngay chỉ là có thể có 
			sự đe dọa của Cộng Sản (như ở Cộng Hòa Dominique) cũng đủ để 
			cho Mỹ biện minh cho những sự can thiệp của Mỹ. Nhận định là 
			có sự đe dọa cũng đủ để ngăn ngừa mọi chất vấn có thể đặt ra về sự 
			cần thiết hay đạo đức để dẹp bỏ sự đe dọa. Mỹ càng ngày càng 
			nói trắng ra khi tuyên bố là Mỹ có quyền đơn phương quyết định là 
			một sự xung đột ở bất cứ nơi nào trên thế giới là sự đe dọa đối với 
			nền an ninh quốc gia của Mỹ hay trật tự thế giới và Mỹ sẽ làm gì để 
			đối phó. [36]
		Một 
			trong những lý do Mỹ đưa ra để biện minh cho sự can thiệp của Mỹ vào 
			Việt Nam là Mỹ đơn phương quyết định rằng chế độ Cộng Sản ở Việt Nam 
			sau Genève là sự đe dọa cho nền an ninh quốc gia của Mỹ, trong khi 
			không có bất cứ một bằng chứng nào chứng tỏ như vậy. Cộng sản hay 
			không thì Việt Nam cũng là một quốc gia nhỏ, nghèo, kém phát triển 
			và ở xa Mỹ nửa vòng trái đất, làm sao có thể đe dọa nền an ninh của 
			Mỹ được. Cho nên Mỹ đã chọn Việt Nam làm tiền đồn chống Cộng, 
			chống Cộng cho chỗ đứng và uy tín của Mỹ trong vùng, bất kể 
			là sau ngày tuyên bố đất nước độc lập, 2 tháng 9, 1945, Ông Hồ Chí 
			Minh đã viết 8 bức thơ gửi Tổng Thống Truman và Bộ Ngoại Giao Hoa 
			Kỳ, yêu cầu Hoa Kỳ ủng hộ tinh thần nền độc lập của Việt Nam và còn 
			ngỏ ý Việt Nam có thể là một thị trường lớn cho những sản phẩm của 
			Mỹ, nhưng Mỹ không hề trả lời.. Mỹ chọn Việt Nam làm tuyến đầu 
			chống Cộng, làm phòng tuyến cuối cùng chống sự bành trướng của Cộng 
			Sản ở Á Châu, vì cho rằng Việt Nam là một nước nhỏ yếu không có khả 
			năng chống lại ý định của Mỹ, cho nên Mỹ sẽ thành công trong mục 
			đích chống Cộng cùng lúc tạo uy tín của Mỹ trên thế giới. Mặt 
			khác Mỹ còn muốn chứng tỏ cho thế giới biết là vũ khí và chiến thuật 
			của Mỹ có thể đối phó với chiến thuật du kích của Cộng Sản. Và Việt 
			Nam cũng là chiến trường để cho Mỹ dùng hết vũ khí cũ, thử các vũ 
			khí mới kể cả vũ khí hóa học.
		Yếu Tố Tôn 
			Giáo:
		Một tính toán chính trị sai lầm, đan quyện với một ý đồ 
			đế quốc thực dân mới (thực dân kinh tế), cộng với tâm cảnh của những 
			“cao-bồi bắn dân Da Đỏ” (cowboys shooting Indians) trong những phim 
			“Westerns”, tự cho rằng Mỹ là khuôn mẫu “thiện” của cả thế giới, vì 
			Mỹ tin tưởng ở Thiên Chúa (In God We Trust), vì Mỹ là “quốc gia của 
			Thiên Chúa” (God Country), theo tinh thần Ki Tô Giáo và lịch sử Ki 
			Tô Giáo: kẻ nào không tin Thiên Chúa của Ki-tô Giáo là kẻ ác. Cho 
			nên với quan niệm trắng đen, thiện chống ác, và đã tin vào ưu thế 
			của vũ khí, để can thiệp vào Việt Nam bất kể lý do, bất kể đạo đức, 
			bất kể pháp lý, đưa đến kết quả là thất bại sau khi tàn phá đất nước 
			Việt Nam một cách man rợ, vô nhân tính. Noam Chomsky đã châm 
			biếm, cho rằng Mỹ đã thắng một phần ở Việt Nam (A partial victory) 
			vì đã thành công để lại cho Việt Nam một di sản tan hoang đất nước, 
			khó có cơ hội phục hồi về xã hội và kinh tế, cộng với cuộc cấm vận 
			của Mỹ kéo dài trong 19 năm. Hãy nghĩ tới một Việt Nam sau 
			cuộc chiến, mọi mặt đều kiệt quệ đến tận xương tủy, cộng với sức ép 
			của Mỹ (Ấn Độ muốn viện trợ cho Việt Nam 100 con trâu cũng bị Mỹ 
			ngăn chận), Việt Nam vươn lên được tới tình trạng ngày nay, kể ra đó 
			đúng là một phép lạ, một phép lạ do con người đích thân tạo ra, chứ 
			không như những loại phép lạ ngụy tạo như ở Fatima, Lourdes v…v…. 
			Trong phép lạ này cũng có phần của đa số người Việt hải ngoại, những 
			người không chịu nghe theo lệnh của bọn người áo đen, bọn bán phở và 
			viết báo chống Cộng, yêu cầu Mỹ đừng bỏ cấm vận, hô hào dân tỵ nạn 
			đừng gửi tiền về, đừng về Việt Nam, đừng mua hàng Việt Nam v..v...
		Là một 
			nước mà 80% theo Ki Tô Giáo, Mỹ bị ảnh hưởng của cuốn Thánh Kinh rất 
			nhiều. Không ai hiểu Mỹ bằng người Mỹ, nhất là giới trí thức Mỹ. Mục 
			Sư Tin Lành Robert McAfee Brown viết (Ibid., trang 14) về khía cạnh 
			tôn giáo của cuộc chiến: 
		Đây là cuộc chiến của “những kẻ tốt chống kẻ xấu” (good guys 
			versus bad guys), “những kẻ tin Chúa chống những kẻ vô thần” (the godly versus the ungodly), “ánh sáng chống tối tăm”, là 
			“cuộc đối đầu giữa những quốc gia nô lệ và quốc gia trong thế giới 
			tự do” (the antagonists are the “slave nations” and the nations 
			of the “free world”), cuộc chiến chống “những kẻ man rợ đe dọa 
			những dân tộc văn minh, luật pháp và trật tự, và lối sống của người 
			Mỹ” (Barbarians threaten civilized peoples, law and order, and 
			the American way of life). Đó là cách nhìn lịch sử của 
			những người tin vào một cuộc chiến giữa thiện và ác trong ngày tận 
			thế (Their view of history is apocalyptic)...
		Trong những phim “cao-bồi”, bao giờ cũng có hai phe riêng biệt. 
			Một phe chiến đấu cho luật pháp và trật tự, phe kia vô luật pháp và 
			vô trật tự. Nếu trong chuyện phim có những dân da đỏ, sự xung 
			đột là giữa những người da màu dã man và những người da trắng văn 
			minh, yêu hòa bình. Kết cục bao giờ cũng là cảnh tàn bạo. 
			Phe thắng là phe có nhiều vũ khí tối tân hơn hoặc rút súng nhanh 
			hơn. Khi mà, trong vài trường hợp, những kẻ xấu (da màu) tiêu 
			diệt một nhóm nhỏ những kẻ tốt (da trắng), đó là một sự tàn sát độc 
			ác và tàn nhẫn (it is a cruel and heartless massacre); khi mà 
			những kẻ tốt (da trắng) giết vô số những kẻ xấu (da màu) [when 
			the good guys kill huge numbers of bad guys], đó là một sự chiến 
			thắng của công lý và văn minh (it is a victory for justice)
		Nhận 
			định của một giới chức Ki-tô Giáo như trên thật là rõ ràng trong 
			cuộc chiến ở Việt Nam với những motto: “Kill a gook for God” viết 
			trên mũ sắt của lính Mỹ, “A good VC is a dead one”, và Hồng Y 
			Spellman sang Việt Nam ủy lạo binh sĩ Mỹ rằng họ đang chiến đấu để 
			bảo vệ nền văn minh Ki-tô Giáo, một nền văn minh quy thần, hạ thấp 
			phẩm giá con người, rất xa lạ đối với nền văn minh nhân bản và nhân 
			chủ của Việt Nam.
		Mỹ đã 
			thất bại ở Việt Nam trong những mục đích tham chiến và bảo vệ nền 
			văn minh Ki Tô Giáo. Trước thế giới, Mỹ không còn là 
			“một thị trấn trên một ngọn đồi”. Nhưng không phải chỉ có vậy. 
			Morris Dickstein viết trong Gates of Eden: American Culture in 
			the Sixties, Basic Books, New York, 1977, trang 271:
		Ở Việt Nam chúng ta không chỉ thua một cuộc chiến tranh và mất đi 
			một tiềm lục địa, chúng ta cũng còn mất đi lòng tự tin lan tràn khắp 
			xã hội rằng vũ khí và mục tiêu của Mỹ bằng cách nào đó nối kết với 
			công lý và đạo đức, không chỉ với sự theo đuổi quyền lực. Mỹ 
			đã thất bại về quân sự, nhưng “ý tưởng quốc gia” của Mỹ, huyền thoại 
			về nước Mỹ mà chúng ta ấp ủ, còn bị một cú làm cho tiêu tan hơn. [37]
		Có lẽ chúng ta cũng nên biết chút ít về “Ý tưởng quốc gia và huyền 
			thoại về nước Mỹ”. Như trên chúng ta đã biết, Mỹ tự nhận là 
			một thị trấn trên một ngọn đồi, và là cái đầu tầu kéo cả thế giới 
			theo ý định của Mỹ. Lý do là, Mỹ là một cường quốc, và bất kể 
			tiến bộ về những gì, nhưng trên thực tế lại rất ấu trĩ về tâm linh. 
			Thật vậy, ảnh hưởng của cuốn Thánh Kinh vẫn đè nặng trên tâm tư 
			người Mỹ, từ nguyên thủ quốc gia xuống đến thường dân, trong khi 
			cuốn Thánh Kinh đã không còn mấy giá trị tôn giáo cũng như trí thức 
			trong thế giới Tây phương, khoan nói đến thế giới Hồi giáo và thế 
			giới Đông phương. Mỹ vẫn tin rằng sự giầu mạnh của Mỹ là do ân 
			sủng của Gót [God] tuy rằng không có một người Mỹ nào biết Gót là 
			cái gì. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong cuốn “The 
			Unfinished War: Vietnam and the American Conscience” của Giáo sư 
			Walter H. Capps để hiểu rõ hơn ảo tưởng và ý thức tôn giáo của người 
			Mỹ.
		Phương pháp giải quyết của Do Thái-Ki tô là đặt căn bản trên ý 
			tưởng an ủi là, chừng nào mà một người giữ vững đức tin thì Gót sẽ 
			đứng về phía họ và hắn ta, hoặc ít nhất là chính nghĩa của hắn ta 
			sau cùng sẽ thắng.
		Trang 112: The Judeo-Christian approach is based on the comforting 
			idea that, so long as a man keeps faith, God will be on his side and 
			he, or at least his cause, will eventually triumph.
		Gót đã nâng nước Mỹ lên địa vị vĩ đại mà không có nước nào được như 
			vậy vì gia sản của Mỹ là một thể chế cộng hòa cai quản bởi những 
			luật khẳng định trong Thánh Kinh
		Trang 124: God promoted America to a greatness no other nation 
			has ever enjoyed because her heritage is one of a republic governed 
			by laws predicated on the Bible.
		Tại sao 
			Mỹ thất bại ở Việt Nam? David Lamb (UPI reporter 1960’s; Los 
			Angeles Time’s first peacetime bureau in VN) đã đưa ra một nhận định 
			khá đúng trong cuốn Vietnam, Ngày Nay (“Vietnam, Now” , 
			Public Affairs, NY, 2002) trang 85,91:
		Sai lầm lớn của người Mỹ là không hiểu lịch sử, văn hóa và trạng 
			thái tâm lý đặc trưng của Việt Nam. Họ quá tin chắc vào sức 
			mạnh quân sự sẽ thắng cuộc chiến, không bao giờ buồn để ý đến chuyện 
			tìm hiểu là họ chiến đấu với ai... Mỹ đã tới Việt Nam để xây 
			dựng nhưng rút cuộc là phá hủy. Mỹ tới rừng rú Việt Nam để 
			chiếm lòng dân, nhưng trong cuộc chiến lâu dài nhất – cuộc chiến đầu 
			tiên mà Mỹ thất trận –đã khám phá ra rằng những dụng cụ chiến tranh 
			không thể thay thế cho sinh khí của tinh thần quốc gia [của người dân Việt]. [38]
		Nhưng 
			nghiên cứu kỹ vấn đề, căn bản không phải là “Sai lầm lớn của 
			người Mỹ là không hiểu lịch sử, văn hóa và trạng thái tâm lý đặc 
			trưng của Việt Nam” mà chính là căn bản pháp lý của sự can thiệp 
			của Mỹ vào Việt Nam. Như vài tài liệu trên đã chứng tỏ, Mỹ 
			không có lý do nào chính đáng để can thiệp vào Việt Nam từ 1945 đến 
			1975. Mỹ đã bất kể đến công pháp quốc tế, không dựa trên pháp lý, mà 
			dựa trên “luật rừng” và “cường quyền thắng công lý” để can thiệp vào 
			Việt Nam với ý đồ “bành trướng thế lực và ảnh hưởng trên toàn khu 
			vực” như Gareth Porter đã viết trong bài : “Biện giải vấn đề Việt 
			Nam 30 năm sau — Bàn cờ domino Châu Á hay sự khống chế của Hoa Kỳ?“, 
			Hà Minh dịch trên Talawas:
		Trước vai trò chính của quân đội Hoa Kỳ trong việc quyết định can 
			thiệp sâu hơn vào Việt Nam, sự tương đồng lịch sử giữa việc chiếm 
			đóng Việt Nam và Iraq càng trở nên hiển nhiên. Trong cả hai trường 
			hợp, ưu thế quân sự toàn cầu của Mỹ đã nuôi dưỡng ý đồ bành trướng 
			thế lực và ảnh hưởng trên toàn khu vực. Và trong cả hai trường hợp, 
			các lãnh đạo an ninh quốc gia đã giả định rằng họ có thể dùng vũ lực 
			mà không sợ nguy cơ mở rộng chiến tranh, sự giả định này phụ thuộc 
			nặng nề vào hiệu quả răn đe đối với kẻ thù. Họ đã sai lầm nghiêm 
			trọng tại cả hai nơi: Việt Nam và Iraq. 
		Yếu Tố Kinh Tế:
		Viết về 
			chiến tranh Việt Nam, chúng ta không thể bỏ qua yếu tố kinh tế. Phải 
			chăng những lý do Mỹ đưa ra về sự can thiệp vào Việt Nam chỉ là, như 
			Tướng Telford TayLor, cố vấn trưởng của Mỹ tại Tòa Án Nuremberg để 
			xử các tội phạm chiến tranh Đức quốc Xã (Chief counsel for the 
			prosecution, with the rank of Brigadier General, at the Nuremberg 
			war-crimes trials), đã viết trong cuốn: “Nuremberg Và Việt Nam: 
			Một Tấn Thảm Kịch Của Mỹ” (Nuremberg and Vietnam: An American 
			Tragedy, New York Times Book, 1970, trang 103): “che dấu ý 
			định khai thác Nam Việt Nam như là một căn cứ quân sự Mỹ để “ngăn 
			chặn” Cộng Sản, hay thống trị Đông Nam Á và những tài nguyên thiên 
			nhiên khổng lồ ở đó” [only to conceal the intention to exploit 
			South Vietnam as an American military base to “contain” Communism, 
			or to dominate Southeast Asia and its enormous natural resources].
			
		Tây phương đã đến Á Châu như là những đế quốc thực dân, Á Châu 
			không có mấy lý do để tin tưởng rằng Mỹ nhân đạo hơn những người da 
			trắng đã đến trước. Và chúng ta đã biết, mục đích chính của Mỹ 
			không phải là giúp dân Việt Nam.
		Hành động can thiệp vào Việt Nam của Mỹ không nằm ngoài chủ trương 
			của Mỹ là thiết lập một trật tự thế giới ổn định (a stable world 
			order), theo ý định của Mỹ, mà trong cái gọi là trật tự thế giới 
			này, Mỹ nắm Ngân Hàng Quốc Tế (World Bank), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế 
			(IMF, International Monetary Fund). Mỹ đã dùng những cơ quan 
			này để cho các nước nhỏ đang mở mang vay nhẹ lãi, hỗ trợ những dự án 
			có lợi cho Mỹ, và khi cần có thể làm sụp đổ nền kinh tế địa phương. 
			Thật vậy, theo Mục sư Robert McAfee Brown (Ibid., trang 24) thì:
		Trật tự thế giới ngày nay rất lợi lộc cho những nhà tư 
			bản Mỹ, những người ngồi trên chóp của đống lợi nhuận. Ngoại 
			viện của Mỹ cho những kém mở mang được coi như là một chủ nghĩa đế 
			quốc mới; không phải là đế quốc quân sự mà là đế quốc đô-la. 
			Đế quốc đô-la không hiển nhiên như đế quốc thực dân; nó không toan 
			tính thiết lập một văn phòng chính trị thực dân. Nó mua chuộc 
			những chính trị gia bản xứ sẵn sàng bán linh hồn và xen vào nội bộ 
			của quốc gia qua những phương pháp kinh tế chứ không phải là chính 
			trị. Nó cũng có hiệu lực như là thực dân quân sự nhưng khó mà 
			có thể lột mặt nạ của nó ra. [39] [Chúng ta hãy 
			nhìn kỹ vài bộ mặt chính trị gia được Mỹ mời đến dự ngày độc lập của 
			Mỹ tại Tòa Đại Sứ ở Việt Nam, và Võ Văn Ái ở Quê Mẹ, người hàng năm 
			lãnh tiền của NED alias CIA]
		
		Trong cuốn Turning Points in World History: The Vietnam War, yếu tố kinh tế 
			cũng được nói tới ở trang 50:
		
		Trong ngôn từ chiến lược và kinh tế, Đông Nam Á cũng là vấn đề quan 
			trọng đối quyền lợi của Mỹ. Đông Nam Á rơi vào tay Cộng Sản sẽ 
			đe dọa chuỗi đảo trải dài từ Nhật tới Phi Luật Tân, cắt đường hàng 
			không của Mỹ tới Ấn Độ và Nam Á và dẹp bỏ phòng tuyến phòng vệ đầu ỡ 
			Thái Bình Dương. Úc và Tân Tây Lan (New Zealand) sẽ bị cô lập. 
			Vùng (Đông Nam Á) có nhiều tài nguyên thiên nhiên và chiến lược, gồm 
			có thiếc, cao su, gạo, nguồn dầu dừa, quặng sắt, đồng, tungsten, và 
			dầu hỏa. Mỹ không chỉ bị cắt đứt, không tơ hào gì được những nguồn 
			tài nguyên đó, mà tiềm năng về những thị trường to lớn để tiêu thụ 
			những sản phẩm của Mỹ cũng bị đe dọa. [40]
		
		
		Ở trên tôi đã đưa ra sơ lược ba yếu tố chính trị, tôn giáo, và kinh 
			tế đã góp phần trong cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Căn 
			bản là Mỹ đã chọn 
			Việt Nam 
			làm địa bàn chống Cộng ở Đông Nam Á, bất kể là người Việt Nam có 
			muốn hay không. Mỹ đã quyết định dùng vũ lực để chống Cộng ở 
			Việt Nam, Nam Việt Nam là phòng tuyến không cho Cộng Sản vượt qua, 
			vậy những “nếu” hay “tại vì” đặt ra để giải thích cuộc can thiệp của 
			Mỹ vào Việt Nam đều không thích hợp. Mỹ sẽ nhảy vào can thiệp nếu có 
			nguy cơ miền Nam rơi vào tay Cộng Sản, bất kể là Mặt Trận Giải Phóng 
			Miền Nam gồm 100% người Nam hay 100% người Bắc. Nguy cơ này 
			càng ngày càng hiện rõ từ năm 1961 đến cao điểm vào những năm 
			1964-1965, cho nên Mỹ đã ồ ạt đem quân vào Việt Nam. 
	 
		
		[XIN XEM TIẾP PHẦN 2]