Nước Mỹ - Nhân Quyền - Việt Nam

Trần Chung Ngọc

06 tháng 9, 2010

  1  2

PHẦN HAI

IV – Sơ lược về Mỹ và những Tội ác chiến tranh

V - Chất độc màu da cam

VI - Kết luận

IV. Sơ Lược Về Mỹ Và Những Tội Ác Chiến Tranh:

Tội ác chiến tranh của Mỹ trên thế giới và ở Việt Nam thì không có cách nào tả xiết. Nó thuộc loại vô nhân tính hay nói đúng hơn, đó là nhân tính Ki Tô, một nhân tính bắt nguồn từ niềm tin rằng nước Mỹ là nước của Thiên Chúa (God’s country) và người dân Mỹ là dân Chúa "(God’s people). Là dân Chúa, với tâm cảnh sợ Chúa, cho nên phải tuân theo những lời dạy của Chúa. Và những hành động của Mỹ phản ánh những lời dạy của Chúa trong Cựu Ước. Jerry Falwell, một nhà truyền giáo trên TV nổi tiếng của Mỹ và có nhiều ảnh hưởng trên xã hội và chính trường Mỹ, đã đưa lên những quan điểm có thể nói là chung cho nhiều người Ki Tô Mỹ: “Nước Mỹ có nhiều công dân sợ Chúa hơn bất cứ nước nào khác” [The Unfinished War, p. 127: America has more God-fearing citizens per capita than any other nation on earth; p. 124: God promoted America to a greatness no other nation has ever enjoyed because her heritage is one of a republic governed by laws predicated on the Bible.]

Sau đây là một đoạn điển hình nói lên quan điểm của một kẻ ngu đạo như Jerry Falwell, p.129:

Nhà thờ địa phương là một đạo binh có tổ chức được trang bị để cho trận chiến, sẵn sàng tấn công kẻ thù. Lớp học ngày chủ nhật là tiểu đội tấn công. Nhà thờ phải là một đạo binh có kỷ luật, sẵn sàng tấn công. Tín đồ Ki Tô Giáo, giống như các nô lệ và binh lính, không được chất vấn. [41]

Falwell đưa ra kế hoạch mà các tín đồ Ki Tô phải làm để rao giảng “phúc âm” [sic] trên khắp thế giới:

Điều quan trọng là phải oanh tạc lãnh thổ, đến gần bờ biển và oanh tạc kẻ thù. Điều quan trọng là phải gửi đến những tài liệu [để truyền đạo]. Điều quan trọng là phải đưa đến những chương trình phát thanh và dùng tiện nghi gọi điện thoại để nghe lời cầu nguyện. Điều quan trọng là phải dùng mọi ảnh hưởng bên ngoài đó tràn ngập trên thành trì của kẻ thù.

Nhưng sau cùng Thủy Quân lục chiến phải tiến vào, mặt đối mặt với kẻ thù, và kéo lên ngọn cờ, nghĩa là, xây nhà thờ ở địa phương.

Tôi muốn nói đến những Thủy quân lục chiến đã được Gót kêu gọi để tiến qua sự oanh tạc và hố cá nhân và, với lưỡi lê trong tay, đối đầu với kẻ thù mặt đối mặt và từng người một đem chúng vào sự quy phục Phúc Âm của Ki-tô, đưa họ vào ngôi nhà của Gót, kéo lên ngọn cờ và coi đó như là an toàn.. Các ngươi và Ta được kêu gọi để chiếm hữu cho đế khi Ông ta (Giê-su) trở lại. [42]

Có lẽ đọc xong đoạn trên chúng ta cho rằng Jerry Falwell chỉ là một tên điên, không hơn không kém, và đó chỉ là quan điểm cá nhân, nhưng không hẳn vậy. Giáo sư Capps viết, những quan điểm của Falwell đáng chú ý vì chúng tiêu biểu cho cảm nghĩ chung của nhiều nhóm Ki Tô Giáo (They are significant because they represent the general feeling of a host of Christian groups). Lính Mỹ ở Việt Nam đã viết trên mũ sắt “Kill a gook for God”. Và Bush con đã theo đúng kế hoạch này ở Iraq. Sau cuộc tấn công ở Iraq với “nhiệm vụ đã hoàn thành” [mission accomplished] thì các nhà truyền giáo Tin Lành đã đổ xô vào Iraq với “Viện trợ Ki-Tô” (Christian aid) để mua linh hồn cho Chúa. Những quan điểm của Falwell phản ánh ảnh hưởng nặng nề của cuốn Thánh Kinh trên đầu óc ông ta

Trước hết chúng ta hãy đọc một đoạn nhận định của Giáo sư Nguyen Dinh Hoa ở Úc:

Author: Professor Nguyen Dinh Hoa, Australia:

Ai cũng biết Mỹ là nước gây ra chiến tranh nhiều nhất trên thế giới. Và cũng không ngạc nhiên, khi các chuyên gia sắp hạng về Chỉ số hòa bình toàn cầu (Global Peace Index) sắp nước Mỹ đứng hạng 96 trong số 121 quốc gia, còn tệ hơn cả Yemen! Ông Abruzzese (Chủ bút Tổ Tin tức Kinh tế chịu trách nhiệm công bố danh sách này) cho biết lý do Mỹ bị điểm thấp là vìsố lần tham dự vào các cuộc chiến tranh, số quân nhân bị tử trận và chi phí cao cho ngân sách quốc phòng.

Thật ra, nếu có ai tính toán số người bị chết hay thương tật trong cáccuộc chiến do Mỹ chủ động thì con số chắc còn gấp 10 lần con số “nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản”, bởi vì Mỹ là nước gây hấn nhiều nhất, chủ động gây chiến tranh nhiều nhất, và phạm nhiều tội ác chiến tranh nhất thế giới. Đáng lẽ tổng thống Bush phải xây đài tưởng niệm những nạn nhân người Iraq, Afghanistan, Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật, Trung Quốc, Bosnia, v.v… do Mỹ trực tiếp hay gián tiếp tàn sát mới đúng.

Những ai còn nghi ngờ về phát biểu trên có thể tìm đọc cuốn sách “In the Name of Democracy: American War Crimes in Iraq and Beyond” (Nhân danh dân chủ: Những tội ác chiến tranh của Mỹ tại Iraq và các nơi khác) củaJeremy Brecher, Jill Cutler, và Brendan Smith. Trong sách, các tác giả tường thuật và phân tích những tội ác chiến tranh của Mỹ tại Iraq và các nước khác trên thế giới. Một số tội ác đã được đề cập ngắn trên báo chí Mỹ, nhưng đại đa số các tội ác tày trời và dã man khác chưa bao giờ được đề cập đến.

Trong phần sau đây tôi chỉ nói về Mỹ ở Việt Nam. Người Mỹ đã làm những gì ở Việt Nam để giúp Nam Việt Nam? Nhiều lắm ! Đại Cương là tàn phá đất nước Việt Nam, về sinh mạng cũng như về vật chất, để cứu Nam Việt Nam. Trong khi có nhiều tác giả ngoại quốc, nhất là Mỹ, viết về sự kiện này, thì điều lạ là chúng ta không hề thấy những người hăng say chống Cộng, cho Chúa cũng như cho “lý tưởng quốc gia”, nếu chúng ta có thể gọi “chống Cộng” là “lý tưởng quốc gia”, đả động đến khía cạnh này của cuộc chiến, vậy thực ra là họ chống Cộng hay chống quốc gia Việt Nam? Người Công giáo luôn luôn viết về cái ác của Cộng sản, nhiều khi thổi phồng quá đáng, mà không bao giờ nói về những cái “ác quán mãn doanh”, “vô ác bất tác”, “hung thần ác sát” và “cùng hung cực ác” [mượn những từ của Kim Dung] v..v.. của giáo hội Công giáo trong lịch sử nhân loại. Người quốc gia cũng vậy, không bao giờ viết đến số người vô tội bị tra tấn và giết dưới thời Ngô Đình Diệm nhân danh tố Cộng và đạo luật 1959, và những hành động rất ác ôn của lãnh chúa hung thần miền Trung là Ngô Đình Cẩn v..v… Lẽ dĩ nhiên, đây không phải là chuyện so sánh ác ít hay ác nhiều, và chẳng có ai phủ nhận là trong quá khứ, Cộng sản đã có những chính sách sai lầm có thể nói là rất ác, làm thất nhân tâm, mà tôi chỉ muốn nói lên vấn đề lương tâm trí thức khi chúng ta muốn lên án những sai lầm của phe địch mà không chịu sờ lên gáy xem xa hay gần. Chúng ta chỉ có thể kết tội đối phương khi chúng ta không phạm tội như họ. Những người Công Giáo chỉ có thể tranh đấu cho tự do dân chủ khi cấu trúc thần trị của Giáo hội Công giáo cũng là một cấu trúc tự do dân chủ.

Chúng ta hãy đọc vài đoạn trên Internet:

http://www.intellnet.org/resources/american_terrorism/Vietnamesevictims.html

American Terrorism and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974

Phần tài liệu bằng tiếng Anh có thể đọc trên: http://www.sachhiem.net/TCN/ TCNts/TCNts25.php

* Những tội phạm chiến tranh thuộc binh chủng Thủy, Lục, Không quân Hoa Kỳ đã tàn sát 3 triệu người ở Việt Nam, trong rất nhiều nơi như Mỹ Lai. Hầu hết các nạn nhân là đàn bà và trẻ con.

CIA có ngay cả một chương trình khủng bố chính thức của quốc gia Mỹ ở Việt Nam, được biết là “Chiến Dịch Phụng Hoàng” hay “Kế Hoạch Phụng Hoàng”. [Kế hoạch Phụng Hoàng còn được biết dưới tên “Kế Hoạch Ám Sát” (Douglas Valentine, The Phoenix Program, p. 191: “Phoenix was labeled an Assassination Program”).] Qua Kế Hoạch Phụng Hoàng, nhiều trăm ngàn người đã bị tra tấn đến chết trong những “trung tâm thẩm vấn” trên khắp Nam Việt Nam. Những trung tâm tra tấn này được dựng lên bởi Mỹ rõ ràng cho mục đích đó. Phụ nữ luôn luôn bị hãm hiếp như là một phần của tra tấn trước khi bị giết. Khủng bố, hãm hiếp và giết người hàng loạt một cách đại qui mô trên khắp miền quê là chính sách của tập thể Lục Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Thủy Quân Hoa Kỳ. Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai là một chiến dịch trong Kế Hoạch Phụng Hoàng.

Chính sách diệt chủng dân Việt Nam của Mỹ có nguồn gốc từ ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến.

Mỹ đã ủng hộ Pháp trong toan tính lấy lại quyền cai trị đẫm máu của thực dân Pháp ở Đông Nam Á.

* Quá nhiều “con em của chúng ta” đã phạm phải những tội ác cuồng dâm chống nhân loại. Lính Mỹ tra tấn tù binh. Lính Mỹ hiếp người qua đường hậu môn, hãm hiếp và bạo sát đàn bà và con gái. Lính Mỹ tàn sát toàn thể đàn ông, đàn bà, trẻ con trong nhiều làng – kể cả con nít - ở nhiều, nhiều nơi như Mỹ Lai và Thanh Phong.

* John Kerry, Trung Úy Thủy Quân, làm chứng trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện năm 1971 như sau:

“Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Thành Cát Tư Hãn, bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này.”

V. Chất Độc Màu Da Cam:

Tất cả những tội ác chiến tranh như trên của Mỹ ở Việt Nam, mỗi tội chỉ xảy ra trong một thời gian và không gian nào đó và đã qua. Nhưng còn một tội ác chiến tranh khác vẫn còn di hại ở Việt Nam cho tới ngày nay mà không biết bao giờ mới hết. Đó là di hại của chất độc màu da cam [agent orange] dùng trong chiến tranh hóa học của Mỹ ở Việt Nam. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn Không Thể Chuộc Lỗi [Failure to Atone] của Bác sĩ Allen Hassen, trang 271, nội dung là những “Sự thật chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ tình nguyện người Mỹ tại Việt Nam”:

Thảm Kịch Và Di Họa: Trong suốt một thập kỷ, từ năm 1961 đến năm 1971. Quân đội Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất trong lịch loài người tại miền Nam Việt Nam. Theo số liệu thống kê, trong cuộc chiến tranh hóa học này, khoảng 3 triệu hecta rừng cây và đồng ruộng Việt Nam đã phải hứng chịu 80 triệu lít chất diệt cỏ và làm rụng lá cây (hay còn gọi là chất khai quang). Cho đến ngày nay, khi mà cuộc chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng hơn 30 năm, nhưng những “cơn mưa hóa chất” do những chiếc máy bay MỸ phun từ trên trời xuống vẫn để lại hậu quả nặng nề: cuộc sống của hàng triệu người Việt Nam đã, đang và vẫn sẽ còn bị âm thầm hủy hoại không biết đến bao giờ!

Về ảnh hưởng của chất độc da cam, ngày nay chúng ta đã có rất nhiều tài liệu. Chúng ta có thể đọc một số chi tiết trong bài:

"ĐẠO ĐỨC CHÍNH QUYỀN MỸ Trong Vấn Nạn CHẤT ĐỘC MÀU DA CAM Và Sự Vô Sỉ Của Một Số Người Việt Lưu Vong," trên: http://www.sachhiem.net/TCN/ TCNkh/TCNkh18.php

Sau đây là một đoạn trong đó, tài liệu từ trên tờ Chicago Tribune, ngày 8 tháng 12, 2009, của Jason Grotto trong bài trên trang nhất với đầu đề: “Chất Độc Màu Da Cam: Dị Tật Bẩm Sinh Gây Đau Khổ Cho Việt Nam; Mỹ Chậm Giúp Đỡ” (Agent Orange: Birth Defects Plague Vietnam; U.S. Slow To Help).

Nhiều thập niên sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, vấn đề gây tranh cãi nhất về việc sử dụng chất độc khai quang của quân đội Mỹ là sự tác hại trên sức khỏe của không biết bao nhiêu người Việt mà kể, [the impact on the health of untold numbers of Vietnamese].

Năm ngoái, chính phủ Mỹ đã bỏ ra $13.7 tỷ đô-la để đền bù cho hơn một triệu cựu quân nhân dự cuộc chiến ở Việt Nam, nhiều người trong số này đã bị nhiễm độc bởi chất độc trừ sâu bọ. Thêm nhiều triệu đô-la nữa đã được dùng để đền bù cho những gia đình cựu quân nhân có con sinh ra bị dị dạng bẩm sinh. Nhưng các viên chức Mỹ nổi khùng, không thừa nhận mối liên hệ giữa chất độc khai quang và những bệnh tật ở Việt Nam [But U.S. officials bristle at acknowledging connections between the defoliants and illnesses in Vietnam]

Agent Orange Victims Pin

Quý độc giả có thể đọc cuốn “Chất Độc Màu Da Cam” của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Giao Điểm xuất bản năm 2005. Đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc của một khoa học gia người Việt ở Úc. Cuốn sách viết về mức độ tác hại to lớn của chất độc màu da cam trên đất đai, mùa màng, môi trường và con người ở Việt Nam với những dữ kiện khoa học khó ai có thể phủ bác, nhất là càng ngày càng có nhiều nghiên cứu về chất độc màu da cam trong thế giới Tây phương mà những kết quả nghiên cứu không những đồng thuận với công cuộc nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuấn mà còn tiến xa hơn nữa trong việc khẳng định ảnh hưởng của chất độc màu da cam trên con người và môi sinh. Nội dung cuốn sách, ngoài việc đưa ra những tác hại của chất độc màu da cam và lên án chính sách diệt chủng của Mỹ, chúng ta còn thấy trong đó tiềm tàng lòng yêu dân tộc của tác giả.

Chúng ta hãy đọc thêm một tài liệu trong “The United States, its abandonment of law and worse” của Christopher King:

Không thỏa mãn với việc dùng các loại bom chùm và bom napalm trên những thường dân, nhiều chục triệu lít chất độc màu da cam đã được phun trên đất nước Việt Nam trong cuộc chiến của Mỹ chống dân Việt Nam. Thảm họa trên môi trường và nhân loại đã giết khoảng 400000 người và gây nên khoảng 500000 vụ dị tật bẩm sinh. Ảnh hưởng trực tiếp và bền bỉ của chất dioxin vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Chất dioxin cũng còn làm hư hại đến DNA của con người cho nên ảnh hưởng của nó sẽ còn kéo dài trong dân chúng Việt Nam mãi mãi. Từ trước đến nay, chưa từng có một nước nào khác gây nên những điều như vậy cho một nước khác. [43]

Trong cuốn “What Are Our Herbicides Doing To Us? Defolation” của Thomas Whiteside, George Wald viết trong Lời Nói Đầu, trang xiii, xvi:

Tôi thấy không có cách nào ra khỏi kết luận là ở Nam Việt Nam chúng ta đã phá hủy một cách có hệ thống một quốc gia và dân chúng của quốc gia đó – chính cái quốc gia mà chúng ta nói rằng chúng ta chiến đấu để duy trì quốc gia đó..

Những phương thức của chúng ta ngày nay ở Việt Nam gồm có những cuộc hành quân chống quần chúng dân sự gần như là có tính cách diệt chủng hơn là khởi một cuộc chiến như người Mỹ thường hiểu trong quá khứ, được chấp nhận bởi những nước văn minh và qui định trong Luật Quốc Tế. Sự dùng bừa bãi những chất hơi cay, chất sát trùng và chất khai quang nổi bật trong những phương thức đó. [44]

Trước những ảnh hưởng độc hại của chất khai quang bị báo chí Mỹ phanh phui qua nghiên cứu của một số chuyên gia, Seymour M. Hersh viết trong cuốn “Chemical & Biological Warfare: America’s Hidden Arsenal”, A Doubleday Anchor Book, New York, 1969, trang 126:

Hai mươi khoa học gia và bác sĩ, gồm có 7 người đã được giải Nobel, viết một thư ngỏ cho tổng thống Johnson thúc đẩy ông ta ra lệnh chấm dứt dùng những chất hóa học ở Việt Nam. Tài liệu này được gửi tới các đại học và các khoa học gia trong nước; vào thàng 2, 1967, hơn 5000 khoa học gia, nay gồm 17 người đã được giải Nobel và 129 thành viên của viện Hàn Lân Khoa Học Quốc Gia đã ký. Những chữ ký này được gửi đến tổng thống Johnson vào ngày 14 tháng Hai sau một cuộc họp báo và thư phản đối được đăng trên trang nhất của báo chí trên toàn quốc. [45]

Và trong số “Les Collections de L’Histoire: Indochine Vietnam Colonizsation, Guerres et Communisme”, Avril-Juin, 2004, Pierre Journod, Phụ Trách những chương trình nghiên cứu ở Trung Tâm Nghiên Cứu Lịch Sử Quốc Phòng (Chargé de recherches au Centre d’ Études de l’Histoire de la Défense (CEHD)), Pháp, viết trong bài “Les Ravages de l’Agent Orange”, trang 80:

Vào tháng Tư năm 2003, những khoa học gia của đại học Columbia, từ một cuộc nghiên cứu sâu rộng những sổ hành trình của những phi công Mỹ và những nghiên cứu mới về dịch tễ học ở Việt Nam đã đưa ra những kết quả điều tra của họ. Điều bất ngờ thứ nhất: tất cả những con số cho tới ngày nay, về số lượng chất khai quang đã trải, dung lượng dioxin, và số người bị nhiễm độc, đều thấp dưới sự thật.

Đối với Mỹ, có một sự nguy hiểm nghiêm trọng phải thừa nhận là họ đã chỉ huy, theo Đô Đốc Elmo R. Zumwlat, khi đó là vị chỉ huy những cuộc hành quân dưới nước, “cuộc chiến tranh thí nghiệm hóa học lớn nhất chưa từng có”. Và phải đền bù về tinh thần lẫn vật chất. [46]

Đó là đại khái những gì về chất độc màu da cam đã dùng bừa bãi trên đất nước Việt Nam để lại những độc hại trên con người và môi sinh dai dẳng cho đến ngày nay. Tác hại của chất độc màu da cam trên đất nước Việt Nam đã là chuyện rõ như ban ngày. Trong khi có nhiều tổ chức và cá nhân Âu Mỹ lên tiếng lên án hành động dùng chất độc màu da cam của Mỹ ở Việt Nam, một hình thức của chiến tranh hóa học mà Liên Hiệp Quốc đã cấm, đòi Mỹ phải bồi thường cho những nạn nhân của chất độc màu da cam, điều mà Mỹ đã làm đối với các cựu quân nhân Mỹ bị nhiễm độc chất độc màu da cam, và đóng góp để giúp đỡ những nạn nhân của chất độc màu da cam ở Việt Nam thì có một số nhỏ người Việt lưu vong, điển hình là những thành viên trong Hội khoa học dỏm VAST, một hội khoa học chẳng có một công trình khoa học nào, như mù chẳng nhìn thấy gì, và còn vô sỉ, lên tiếng phủ nhận sự tác hại của chất độc màu da cam, dựa theo vài tài liệu bất lương của Mỹ. Họ chống Cộng nhưng thực ra là họ chống Việt Nam. Họ không ý thức được rằng, đa số những người bị nhiễm chất độc màu da cam là những người miền Nam, dân thường cũng như quân nhân, những người đã cùng họ sinh sống trên cùng một mảnh đất và có cùng một lý tưởng mà họ gọi là “lý tưởng quốc gia”. Thật là không thể nào vô nhân tính hơn.

 

VI. Kết Luận:

Qua phần trình bày ở trên, chúng ta có thể có một kết luận tổng hợp ngắn:

Mỹ là một cường quốc mạnh nhất thế giới, mạnh về kỹ thuật và vũ khí, nhưng kém về đạo đức, tâm linh. Cho nên chính sách của Mỹ, chính quyền Mỹ, bị ảnh hưởng nhiều của Thánh Kinh Ki Tô Giáo, với tâm cảnh của dân Chúa, điển hình là Bush con, nên tự cho mình quyền tự tung tự tác trên chính trường quốc tế. Mỹ có một thành tích khủng khiếp về nhân quyền. Nhưng Mỹ vẫn tự cho mình cái quyền phán xét nhân quyền trên thế giới. Nguyên nhân hai cuộc chiến ở Việt Nam, tiền và hậu Geneva, theo như nhận định của Daniel Ellsberg, là vì bản chất đế quốc dẫn đến cuộc xâm lăng của Mỹ:

Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ.

Dùng ngôn từ thực tế, do một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ.

[In practical terms, on one side, it had been an American war almost from its beginning: at first French-American, eventually wholly American. In both cases it was a struggle of Vietnamese – not all of them but enough to persist – against American policy and American financing, proxies, technicians, firepower, and finally, troops and pilots.]

Mỹ quên đi rất nhanh những tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, như Bác Sĩ Allen Hassan nhận định: “Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người khác gây cho họ - nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho người khác…” Mọi chính sách của Mỹ đều có tính cách lưỡng chuẩn. Mỹ phán xét nhân quyền của nước khác như không bao giờ nhìn đến vấn đề nhân quyền của Mỹ trên thế giới và bỏ qua những vi phạm nhân quyền trầm trọng trong các nước đồng minh của Mỹ. Vì vậy Mỹ vẫn để cho mấy dân biểu của Mỹ xía vào chuyện nội bộ Việt Nam một cách trơ trẽn trịch thượng. Mỹ đền bù cho các cựu quân nhân Mỹ bị nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam nhưng không thừa nhận tội ác dùng chiến tranh hóa học ở Việt Nam và không có sự đền bù nào cho những nạn nhân của chất độc màu da cam người Việt Nam. Thật đúng như nhận định của Ramsey Clark, Nguyên Chưởng Lý Mỹ dưới triều Lyndon Johnson:

“Tội ác lớn nhất từ sau Đệ Nhị Thế Chiến là chính sách đối ngoại của Mỹ.”

Tôi quan niệm rằng, nếu những tài liệu mà tôi dẫn chứng trong cuốn sách này hiện có đầy trong các thư viện của các trường đại học, trong các thư viện công cộng, trong các tiệm sách, trong Internet v...v.., viết bởi các học giả Âu Mỹ mà không tạo thành "vấn đề" đối với người Mỹ thì không có lý do gì lại có vấn đề đối với những người Việt di cư. Trong những tài liệu tôi dùng, tuyệt đối không có một tài liệu nào của Cộng sản. Nhưng tôi biết sẽ có một số người cho rằng tôi chống Mỹ theo sách lược của CS. Những người thuộc loại này thật không đáng để tôi phải quan tâm, họ không thuộc giới nghiên cứu học thuật trí thức.

Tuyệt đại đa số những tác phẩm viết nghiêm chỉnh về cuộc chiến ở Việt Nam đều viết bởi các tác giả có uy tín trong xã hội như học giả, giáo sư đại học, bộ trưởng, cựu tướng lãnh, chính trị gia v..v.., những người đặt sự lương thiện trí thức lên hàng đầu. Trường phái gọi là “chính thống” này thường viết sau khi tham khảo rất nhiều tài liệu và dựa trên những sự kiện lịch sử, và phân tích sự việc như chúng là như vậy. Phần lớn những tác phẩm thuộc loại này viết sau năm 1975, có khi cả nhiều năm sau. Không có lý những học giả của Mỹ trong các đại học lớn lại viết về chiến tranh Việt Nam với mục đích xuyên tạc sự thật để bôi nhọ quốc gia của họ. Kết luận của trường phái gọi là “chính thống” (orthodox) này là: “Cuộc can thiệp (intervention) hay xâm lăng (invasion) của Mỹ vào Việt Nam là bất chính và là một sự sai lầm lớn lao.” Điều này đúng hay sai? Những tài liệu trích dẫn trong phần trên đã có câu trả lời rõ ràng.

Cũng như những bài viết của tôi về Ca-tô Rô-MaGiáo không phải là để chống Ca-tô Rô-MaGiáo mà chỉ đưa ra những sự thật về đạo này mà tôi nghĩ trong thời đại ngày người dân cần phải biết, bài viết này cũng không phải là để chống Mỹ mà chỉ đưa ra một số sự thực về nước Mỹ liên quan đến vấn đề nhân quyền và những gì Mỹ đã làm ở Việt Nam. Nhiều trí thức Mỹ đã lên tiếng về những vấn đề này và ngày nay chúng ta không thiếu những tài liệu khả tín. Có những sự kiện lịch sử mà tôi tin rằng rất ít người dân Mỹ bình thường biết đến, khoan nói đến những người Việt di cư. Quần chúng Mỹ thường ít để tâm đến những vấn đề này, họ chỉ quan tâm đến đời sống cá nhân sao cho thoải mái. Nhưng đối với người Việt thì khác. Chiến tranh đã chia rẽ lòng người, thù hận một chiều kéo dài, do đó những thông tin trong bài viết này là những thông tin mà tôi cho rằng những người tin tưởng và mượn chiêu bài dân chủ và nhân quyền của Mỹ để tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam cần phải biết.

Nhìn cuộc chiến ở Việt Nam đơn giản chỉ là cuộc chiến giữa lý tưởng tự do dân chủ của người Việt Quốc gia đối với lý tưởng độc tài sắt máu của người Việt Cộng sản là không hiểu gì về cuộc chiến cả. Do đó kéo dài hận thù đối với Cộng sản là một hành động vô trí, bắt nguồn từ cái nhìn rất thiển cận của mình về cuộc chiến.

Hiện nay chúng ta có rất nhiều tài liệu về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua, gồm cuộc chiến chống Pháp và cuộc chiến chống Mỹ, nhiều đến độ có lẽ không bao giờ chúng ta có thể biết hết và đọc hết. Người Việt Quốc Gia thường cho Nam Việt Nam là đồng minh trước hết là của Pháp, rồi sau là của Mỹ, để chống Cộng cho họ. Nhưng sự thật khá đau lòng, trong cả hai cuộc chiến, Nam Việt Nam chỉ là tay sai, con cờ của Pháp và Mỹ. Pháp chưa bao giờ coi “thành phần quốc gia” là “đồng minh” của họ. Mỹ còn tệ hơn nữa vì là ông chủ chi tiền, và đó là điều để Mỹ quyết định mọi việc. Hiệp Định Geneva năm 1954 được ký kết giữa Việt Minh và Pháp. Hiệp Định Paris năm 1973 trên thực tế được ký kết giữa Bắc Việt và Mỹ, giúp cho Mỹ “rút lui trong danh dự” và xóa sổ Nam Việt Nam, theo đúng “kế hoạch mầu nhiệm” của Thiên Chúa đã được an bài để hợp với lòng người Ki Tô Giáo Việt Nam vì họ tin rằng mọi sự xảy ra trên thế gian này đều do sự quan phòng của Thiên Chúa... [Linh mục Peter Hoàng Omi: Nếu chúng ta có một đức tin mạnh mẽ vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa thì chúng ta phải biết cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những sự kiện xảy ra trong đời ta và trong Giáo Hội. Quí anh chị em nên biết một điều là chẳng có gì xảy ra ngoài sự xếp đặt trong Tình Yêu Quan Phòng của Thiên Chúa. Chẳng có thế lực trần gian nào có thể lèo lái Thiên Chúa theo ý của mình được!... Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người và mỗi dân nước, và chương trình của Thiên Chúa thì tuyệt hảo.]

Ngày nay chúng ta biết rằng thực chất cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam là một cuộc xâm lăng, không phải là giúp Việt Nam tranh đấu cho những giá trị tự do và dân chủ theo đúng nghĩa của tự do và dân chủ. Noam Chomsky viết trong cuốn “The Chomsky Reader”, trang 318: “Một sự duyệt lại những tài liệu lịch sử cho ta một hình ảnh khác về nước Mỹ: rằng Mỹ thường năng nổ chống lại, và ngay cả với bạo lực, những yếu tố này: nhân quyền, dân chủ hóa, và nâng cao mức sống” [A revi * he historical record suggests a different picture, namely that the U.S. has often opposed with tremendous ferocity, and even violence, these elements – human rights, democratization, and the raising of living standards.] Bản chất của hai chế độ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu nói rõ hơn gì hết sự thật này. Mỹ can thiệp vào Việt Nam vì quan niệm chính trị và tư tưởng thống trị của Mỹ sau Đệ Nhị Thế Chiến, ngoài những mục đích kinh tế của giới tài phiệt.

Người Mỹ đã làm những gì ở Việt Nam để giúp Nam Việt Nam? Nhiều lắm ! Đại Cương là tàn phá đất nước Việt Nam, về sinh mạng cũng như về vật chất, để cứu Nam Việt Nam, một hình ảnh suy rộng của tỉnh Bến Tre trong dịp Tết Mậu Thân. Trong khi có nhiều tác giả ngoại quốc, nhất là Mỹ, viết về sự kiện này, thì điều lạ là chúng ta không hề thấy những người hăng say chuốc gia”, đả động đến khía cạnh này của cuộc chiến, vậy thực ra là họ chống Cộng hay chống quốc gia Việt Nam?

Thực chất cuộc chiến là chống ngoại xâm: mới đầu là chống toan tính của Pháp-Mỹ-Vatican muốn tái áp đặt nền đô hộ trên đất nước Việt Nam (1945-1954), và sau là chống trình tự đế quốc của Mỹ muốn áp đặt trên đầu người dân Việt Nam sau thời thuộc địa (1954-1975) những “giá trị” của Mỹ. Mà giá trị của Mỹ là gì? Alexis de Tocqueville đã có một nhận xét khá chính xác về “giá trị” của Mỹ: “Khi chúng ta đào sâu vào đặc tính quốc gia của người Mỹ, chúng ta thấy rằng họ chỉ tìm giá trị của mọi thứ trên thế giới trong câu trả lời của câu hỏi: Nó mang đến bao nhiêu tiền” Có vẻ như loại giá trị này đã gây nhiều ảnh hưởng trên thế giới, kể cả Việt Nam.

Đó đích thực là một cuộc chiến của người Việt Nam chống ngoại xâm, danh từ “giải phóng” không thích hợp vì Việt Nam đã là một quốc gia độc lập từ ngày 2.9.1945, không còn ở trong hoàn cảnh bị đô hộ, cho nên không cần phải giải phóng. Pháp-Mỹ dùng quân sự muốn tái lập nền đô hộ của Pháp trên đất nước Việt Nam nên Việt Nam kháng chiến chống lại và kết quả là trận Điện Biên Phủ. Mỹ dựng lên chính quyền Công giáo Ngô Đình Diệm để làm tiền đồn chống Cộng cho Mỹ, sau đó mang hơn nửa triệu quân vào tàn phá đất nước Việt Nam, về sinh mạng và về vật chất, cho nên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chủ trương chống ngoại xâm và thống nhất đất nước. Kết quả là ngày 30.4.1975.

 


1. In spite of any misunderstanding which might have arisen in minds French in regard to our position concerning Indochina they must appreciate that we have fully recognized France’s sovereign position in that area and we do not wish to have it appear that we are in any way endeavoring to undermine that position and France should know it is our desire to be helpful and we stand ready to assist any appropriate way we can to find a solution for Indochinese problem.

2. Americans proposing to halt trade with countries guilty of religious intolerance would do better to start elsewhere. Say, Saudi Arabia, where every religion but Islam is strictly forbidden and where a Muslim can be put to death for converting to another faith. But Saudi Arabia's theocracy didn't evoke protests in Washington when the US sent half a million troops to defend it against Saddam Hussein. No one outside of a psychiatric facility proposes to stop buying oill from Saudi Arabia, the world's biggest supplier.

3. All human beings are born free and equal in dignity and rights.They are endowed with reason and conscience and should act towards one another in a spirit of brotherhood.

4. Everyone is entitled to all the rights and freedoms set forth in this Declaration, without distinction of any kind, such as race, colour, sex, language, religion, political or other opinion, national or social origin, property, birth or other status. Furthermore, no distinction shall be made on the basis of the political, jurisdictional or international status of the country or territory to which a person belongs, whether it be independent, trust, non-self-governing or under any other limitation of sovereignty.

5. Everyone has duties to the community in which alone the free and full development of his personality is possible In the exercise of his rights and freedoms, everyone shall be subject only to such limitations as are determined by law solely for the purpose of securing due recognition and respect for the rights and freedoms of others and of meeting the just requirements of morality, public order and the general welfare in a democratic society. These rights and freedoms may in no case be exercised contrary to the purposes and principles of the United Nations.

6. Nothing in this Declaration may be interpreted as implying for any State, group or person any right to engage in any activity or to perform any act aimed at the destruction of any of the rights and freedoms set forth herein.

7. I can’t for the life of me believe that Congress voted to stop payment to the UN just because the US lost its seat on the UN Human Rights Commission. In some fit of anger, Congress reacted and voted that we should not continue to pay an agreed amount of past-due money to the world body. It is sad to say it is not the first time the US has held back money because it doesn’t agree with UN actions at times. One would think the US, as a member nation, would stop behaving like a spoiled child who wants to take his ball and go home and won’t play until everyone plays by his rules. Where is the one world, the neighborhood of nations, the UN is founded on? There are other diplomatic courses the US can take than hang the almighty dollar over the UN. The US, as the world leader, once again has set a bully-boy example to other nations when it doesn’t like what the UN does.

8. Robert W. Lee, The United Nations Conspiracy, p. 101: Think about that for a moment. Could anything be more ridiculous and futile than attempting to pour the “views of all systems (Communist and Capitalist), all religions ( Christian and Moslem), all cultures (Western and Hottentot), and all outlooks (moral and immoral)” into a melting pot and come up with anything resembling a decent human rights policy? The only meaningful precedent we can think of is Dr. Frankenstein’s renowned attemp to piece things together. He, too, created a monster.

9. Newsweek, Ibid.: “For the first time since the Universal Declaration of Human Rights was adopted in 1948, countries not thoroughly steeped in the Judeo-Christian and natural-law traditions are in the first rank: that unprecedented situation will define the new international politics of human rights.

10. James Speck, Editor, The Chomsky Reader, p. 331: U.S. foreign policy is in fact based on the principle that human rights are irrelevant, but that improving the climate for foreign business operations is highly relevant.

11. Article 18: 1. Everyone shall have the right to freedom of thought, conscience and religion.. 2. Freedom to manifest one’s religion or beliefs may be subject only to such limitations as are prescribed by law and are necessary to protect public safety, order, health, or morals or the fundamental rights and freedom of others.

12. Article 19: 1. Everyone shall have the right to freedom of expression.. 2. The exercice of the rights provided for in Paragraph 2 of this article carries with its special duties and responsibilities. It may therefore be subject to certain restrictions, but these shall only be such as are provided by law.

13. Article 21:

1. The right of peaceful assembly shall be recognized.

2. No restriction may be placed on the exercice of this right other than those imposed in conformity of the law.

14. The US is by far the leading exporter of weapons, with more than 55% of the worldwide market...The US sells weapons to antagonists like Greece and Turkey, Eritrea and Ethiopia, Saudi Arabia and Israel, even India and Pakistan. We peddle arms into global hotspots like Sri Lanka, Indonesia, Colombia, the Middle East and East Africa.

15. In our search for solutions to the violence that plagues us, let's not exclude the rest of the world.

16. Introducing Noam Chomsky, by John Maher & Judy Groves, Totem Books, New York, 1997, p. 156: If the Nuremberg laws were applied, then every post-war American president would have been hanged.

17. Crimes against peace:

i. Planning, preparation, initiation or waging of a war of aggression or a war in violation of international treaties, agreements or assurances;

ii. Participation in a common plan or conspiracy for the accomplishment of any of the acts mentioned under (i).

18. War crimes:
Violations of the laws or customs of war which include, but are not limited to, murder.., murder or illtreatment of prisoners of war.., killing of hostages, plunder of public or private property, wanton destruction of cities, towns, or villages, or devastation not justified by military necessity.

19. The ejection of the US from the UN Human Rights Committee is a welcome surprise. While politicians, journalists and everyday people ask why, the answer is right in front of us.

The US has a horrible human rights record. Besides the daily oppression of its own citizens, the US continues to violate human rights in place like Vieques with the US Navy, around the world in sweatshops for US corporations and, perhaps most alarming, with the killing of more than 1 million Iraqi people via sanctions, just to name a few.

It is hoped that this ejection comes as a sign that the other members of the UN will not tolerate the consistent unilateral assaults on human dignity by the US.

20. During the course of its 21 years of involvement in Indochina, the United States Government offfered “reasons” for its actions. These reasons were worthless. The only reason for the American being in Indochina was to prevent the area from going Communist by an election, by an internal revolution... And this was reason enough...

More reasons. And more reasons. They sprouted like asparagus in May. Before the Indochina War came to an end, a book could have filled with reasons. None of them were valid.

21. Protecting the “freedom” of the people of South Vietnam? In internal documents the harsh realities of US War aims were spelled out – none more succinctly than a memorandum prepared by Assistant Secretary of Defense for Secretary McNamara (with an eyes-only copy to George Bundy) on US War aims: 70% to preserve our national honor,; 20% to keep South VN territory from being occupied by the Chinese; and 10% to the South VN to enjoy a better and freer way of life.

22. On March 24, 1965, Assistant Secretary for Defense John T. McNaughton stated that whereas in effect only 10% of US efforts aimed to help Vietnamese people, 20% aimed “to keep South VN (and adjacent territory) from Chinese hands”, and the greatest part, or 70%, aimed “to avoid a humiliating US defeat”.

23. The pages that follow grow out of our shared concern that our nation is embroiled in a conflict in Vietnam which we find it impossible to justify, in the light of either the message of the prophets or the gospel of Jesus of Nazareth.

24. Our very right to be there is questioned, in the light of international law, by men highly placed in our government, among them Senators Morse, Church, Gore, and Gruening. But even if there is a clearcut “right”, the nature of what we are doing in Vietnam must be increasingly condemned.

25. It is ironic that at precisely the moment we are saying that we must “halt communism” in Vietnam, we are coming to terms with it elsewhere, working out new treaty agreements with Russia, extending trade in Eastern Europe, giving support to Tito in Yougoslavia. Elsewhere, we have clearly decide to coexist with communism, and to encourage independent Communist societies that will be increasingly free of the need for alliance with one another.

26. Our alleged concern with human rights borders on the ludicrous. We dropped twice as many bombs on Vietnam as all the countries involved in World War II dropped on each other. We killed hundreds of thousands of civilians in the course of that war. Very recently, in Central America, we sponsored, trained, and endorsed the local armies - Guatemalan, Salvadoran, and Nicaraguan Contras - in the killing of at least 200000 people.

27. Don't we have our own history of "ethnic cleansing", first of the Native American population and later in Vietnam, when U.S. troops herded loyal, mostly Catholic villagers into so-called "strategic hammers" for safety while turning the mostly Buddhist countryside of South Vietnam into a saturation bombing zone?

28. "I believe that if we had and would keep our dirty, bloody, dollar soaked fingers out of the business of these [Third World] nations so full of depressed, exploited people, they will arrive at a solution of their own. And if unfortunately their revolution must be of the violent type because the "haves" refuse to share with the "have-nots" by any peaceful method, at least what they get will be their own, and not the American style, which they don't want and above all don't want crammed down their throats by Americans." [General David Sharp, former U.S. Marine Commandant, 1966]

29. "We're going to become guilty, in my judgement, of being the greatest threat to the peace of the world. It's an ugly reality, and we Americans don't like to face up to it. I hate to think of the chapter of American history that's going to be written in the future in connection with our outlawry in Southeast Asia." [Senator Wayne Morse, (D-OR), 1967]

30. When France withdrew, the US dedicated itself at once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south a terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking resistance which, from 1959, was supported from the northern half of the country temporarily divided by the Geneva settlement that the US had undermined… In short, the US invaded South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout Indochina.

31. The direct U.S. invasion of South Vietnam followed our support for the French attempt to reconquer their former colony, our disruption of the 1954 “peace process”, and a terrorist war against the South Vietnamese population.. (p. 224)

There was a political settlement, the Geneva Accords, in 1954… We immediately proceeded to undermine them, installing in South Vietnam a violent, terrorist regime, which of course rejected (with our support) the elections which were projected. Then the regime turned to a terrorist attack against the population, particularly against the anti-French resistance, which we called the Vietcong, in South Vietnam. The regime had probably killed about 80,000 people (that means we had killed, through our arms and mercenaries) by the time John F. Keenedy took over in 1961… [p. 323]

In 1961 and 1962 Kennedy simply launched a war against South Vietnam. That is, in 1961 and 1962 the U.S. Air Force began extensive bombing and defoliation in South Vietnam, aimed primarily against the rural areas where 80% of the population lived. This was part of a program designed to drive several million people in concentration camps, which we called “strategic hamlets” where they would be surrounded by armed guards and barbed wire, “protected”, as we put it, from the guerrillas whom, we conceded, they were willingly supporting. That what we call “aggression’ or “armed attack” when some other country does it. We call it “defense” when we do it.

32. Americans were ignorant about the Vietnamese not because we were stupid, but because we believe certain things about ourselves... To understand our failure we must think about what it means to be an American... The myth of America as a city on a hill implies that America is a moral example to the rest of the world, a world that will presumably keep its attention riveted on us. It means that we are a Chosen People, each of whom, because of God’s favor and presence, can smite one hundred of our heathen enemies hip and thigh...

In countless ways Americans know in their gut – the only place myths can live – that we have been Chosen to lead the world in public morality and to instruct it in political virtue. We believe that our own domestic goodness results in strength adequate to destroy our opponents who, by definition, are enemies of virtue, freedom, and God.

33. Americans were becoming more and more alarmed about the possibility that the Soviet Union was working to take over the world. It was not Communist ideology per se they feared, but the potential strength of the only other nation power able to challenge the United States for world supremacy.

34. United States diplomatic and intelligence agencies checked carefully to determine whether Ho was in league with the Soviet Union. At this time they found no such evidence; ideed, they clearly understood Ho to be a Vietnamese nationalist first, to whom the Communist form of government was an appropriate mechanism for throwing off oppressive colonial rule. A U.S. State Department report prepared at the time put it simply: Ho should be regarded as “the symbol of nationalism and the struggle for freedom to the overwhelming majority of the population". [Policy and Information Statement on Indochina,” July 1947, Philippine and Southeast Asia Branch File, U.S. Department of State Records, Box 10]

35. Despite a lack of evidence,Washington continued to perceive the anti-French struggle (in Vietnam) as something inspired and directed from the Soviet Union. For example, in the cable to Premier Ramadier cited above, the American embassador falsely maintained that the Vietminh was a movement whose “philosophy and political organization emanated from and was controlled by the Kremlin.” Yet American intelligence had tried, and failed, to substantiate the existence of controlling ties between Moscou and Ho Chi Minh. A State Department cable to the US Ambassador in China read “the Department has no evidence of a direct link between Ho and Moscou but assumes it exists..

36. The presence of a Communist threat, even the possibility of a Communist threat (as in the Dominican Republic) has supplied adequate justification for a variety of interventions. To identify the threat has been enough to preclude any further challenge to the necessity or morality of its suppression. The US has become increasingly outspoken in claiming the unilateral right to make the determination whether a conflict anywhere in the world constitutes a threat to its national security or international order and what should be done about it.

37. In Vietnam we lost not only a war and a subcontinent we also lost our pervasive confidence that American arms and American aims were linked somehow to justice and morality, not merely to the quest of power. America was defeated militarily, but the “idea” of America, the cherished myth of America, received an even more shattering blow.

38. The big mistake the Americans made was not understanding the Vietnamese’s history, culture, mentality. They were so sure military strength sould win the war, they never bothered to learn who they were fighting.... The US had come to Vietnam to build and ended up destroying. It came to the jungles of VN to win hearts and minds, and in fighting its longest war – the first war the US had ever lost – discovered the tools of war were no substitute for the vitality of nationalism..

39. The present world order is very profitable for capitalists in the United States, who are sitting on top of the heap. The foreign aid given by the United States to underdeveloped nations is regarded as a new kind of imperialism: not military but dollar imperialism; it does not attempt to set up a colonial political office. Instead, it buys out willing native politicians and interferes in the country through economic rather than political methods. It is just as effective as colonial imperialism, though harder to unmask.

40. In strategic and economic terms, Southeast Asia was also critical to American interests. The fall of Southeast Asia would threaten the island chain stretching from Japan to Philippines, cutting off American air routes to India and South Asia and eliminating the first line of defense in the Pacific. Australia and New Zealand would be isolated. The region was loaded with important natural and strategic resources, including tin, rubber, rice, copra, iron core, copper, tungsten, and oil. Not only would be the US be cut off from those resources, but huge potential markets for American products would be threatened.

41. The local church is an organized army equipped for battle, ready to charge the enemy. The Sunday school is the attacking squad. The Church should be a disciplined, charging army. Christians, like slaves and soldiers, ask no questions.

42. It is important to bombard the territory, to move out near the coast and shell the enemy. It is important to send in the literature. It is important to send that radio broadcast and to use that dial-a-prayer telephone. It is important to have all those external forces being set loose on the enemy stronghold.

But ultimately some Marines have to march in, encounter face to face, and put the flag up, that is, build the local church.

I am speaking of Marines who have been called of God to move in past the shelling, the bombing and the foxholes and, with bayonet in hand, encounter the enemy face to face and one-on-one bring them under submission to the Gospel of Christ, move them into the household of God, put up the flag and call it secured… You and I are called to occupy until He comes.

43. Not content with using explosives and napalm on civilians, millions of gallons of agent orange were sprayed on Vietnam’s land during America’s war on the Vietnamese. This environmental and humanitarian disaster killed about 400,000 persons and caused about 500,000 birth defects. Dioxin is persistent and its direct effects continue to the present time. Dioxin also damages human DNA so that its effects will persist in the Vietnamese population indefinitely.

No other country has ever before done such things to another.

44. I see no way to escape the conclusion that in South Vietnam we are systematically destroying a country and its people – the very country and people that we say we are fighting to preserve…

Our present procedures in Vietnam include operations against the civilian population that come closer to genocide than to the waging of war as Americans have understood it in the past, as generally accepted by civilized nations and embodied in International Law. The wide and indiscriminate use of tear gases, herbicides and defoliants looms large among those procedures.

45. Twenty two scientists and doctors, including seven Nobel Prize winners, wrote a public letter to Johnson urging him to order an end to the use of chemical agents in Vietnam. The document was then sent to universities and scientists around the nation; by February, 1967, more than 5000 scientists, now including 17 Nobel Prize winners and 129 members of the prestigious National Academy of Sciences, had signed. The remarkable collection was bound and sent to President Johnson on February 14 after a new conference that put the protest on the front pages of newspapers across the nation.

46. ..En avril 2003, des scientifiques de l’université de Columbia dévoilent, à partir d’une étude exhaustive des carnets de bord des pilotes américains et de nouvelles études épidémiologiques au Vietnam, les résultats de leur enquête. Première surprise: tous les chiffres avancés jusqu’alors, qu’il s’agisse des quantités de défoliants déversées, de leur teneur en dioxine, et du nombre de personnes contaminées, ont été sous-estimés.

Pour les États-Unis, il y a là un risque sérieux de devoir reconnaitre qu’ils ont mené au Vietnam, selon l’expression de l’amiral Elmo R. Zumwlat, alors chef des opérations navales, “la plus grande guerre chimique expérimentale de tous les temps”. Et de devoir payer le prix moral et financier.

Trang Thời Sự