|  | 12 tháng 4,  2010 | 
	
[Một Chút Về Lịch Sử Hoa Kỳ]
		|   Joseph_McCarthy  | 
		Trong thời của chủ nghĩa McCarthy [tên một Thượng Nghị Sĩ Mỹ], những 
		kẻ tấn công Cộng Sản đưa lên hình ảnh những người “vô thần” Cộng Sản xâm nhập 
		vào hệ thống giáo dục của chúng ta để tẩy não giới trẻ Mỹ. Sự thực đã 
		chứng tỏ hình ảnh đó chỉ là sự tưởng tượng. 
		Thật là khôi hài, ngày nay chúng ta thực sự có một nhóm nhà truyền bá 
		phúc âm Ki Tô đang toan tính xâm nhập hệ thống giáo dục của chúng ta để 
		tẩy não giới trẻ. 
		Bọn này ở Texas. 
		Vì những lý do đặc biệt liên quan đến kỹ nghệ sách giáo khoa và hệ 
		thống giáo dục Texas, Bộ Giáo Dục Texas có rất nhiều ảnh hưởng trên nội 
		dung của các sách giáo khoa được dùng trên khắp nước Mỹ. Những nhà 
		truyền bá phúc âm Ki-Tô bảo thủ đã nắm quyền trong Bộ Giáo Dục Texas, và 
		họ đang ở trong quá trình viết lại lịch sử Hoa Kỳ để dạy cho con em 
		chúng ta. 
		Trong những đề nghị mà Bộ toan tính áp đặt là nước Mỹ đã được xây 
		dựng như là một “quốc gia Ki Tô Giáo.” Lẽ dĩ nhiên, điều sẽ đưa đến là 
		Hiến Pháp và Luật pháp của chúng ta phải hiểu qua lăng kính của quan 
		điểm này. Tuy những nhà truyền bá phúc âm đã cố gắng thực hiện điều này 
		từ hai thế kỷ nay, điều này thực sự là sai lầm. Nhưng những thành viên 
		của Bộ Giáo Dục Texas, không phải là những sử gia, vẫn kiên trì trong cố 
		gắng này để tuyên truyền cho con em chúng ta. 
		Điều này thật là nguy hiểm. Nó cần phải bác bỏ. 
		Đúng là Ki Tô Giáo đã đóng vai trò chủ chốt trong sự ban bố những 
		luật lệ của thời thuộc địa khi xưa. Cuốn Kinh Thánh là tảng đá được dùng 
		làm nền tảng cho những luật lệ thực dân khi xưa, và đặc biệt là những 
		người Thanh Giáo đã đưa vào trong những luật lệ sự nồng nhiệt tôn giáo. 
		Thí dụ, năm 1636, chỉ 6 năm sau khi họ đến Plymouth Rock, họ áp dụng 
		“luật lệ của Moses”, theo luật này thì “bất cứ người nào thờ phụng một 
		thần khác với thần của Ki Tô Giáo đều phải bị giết.” Tương tự, luật của 
		chính quyền thuộc địa New Haven năm 1656 viết rõ là: “Quyền năng tối 
		thượng để ra luật là thuộc quyền của Gót mà thôi” và rằng, “Những tòa án 
		dân sự đều là những cơ quan thừa hành luật của Gót”. 
		Tuy nhiên, vào khoảng cuối thế kỷ 17, những luật thuộc địa đặt căn 
		bản trên sự khắc nghiệt tôn giáo đã sụp đổ. Với sự tràn vào của số đông 
		những người di cư thuộc nhiều tôn giáo, dân tộc, và xã hội khác nhau, 
		những niềm tin cổ xưa của Thanh Giáo đã mờ nhạt đi, và vì những lý tưởng 
		khai sáng về tự do cá nhân, “sự theo đuổi hạnh phúc riêng”, và quyền lực 
		của lý trí lan tràn khắp Tân Thế Giới (Mỹ), những nguồn quyền lực truyền 
		thống đã đặt thành vấn đề. 
		Với sinh lực và tư tưởng mới, người dân Mỹ trong thế kỷ 18 đã đạt đến 
		một sự biến đổi sâu rộng về xã hội, chính quyền, chính trị và tôn giáo 
		của họ. Kinh nghiệm vĩ đại của Mỹ xuất sinh từ sự khai trí toàn bộ của 
		thời đại khai sáng. Trong thời đại khai sáng, một thời đại cống hiến cho 
		lý trí thay vì mạc khải, ngay cả quyền năng của Ki-Tô Giáo cũng bị công 
		khai thách đố. 
		Những kiến trúc sư của hệ thống chính quyền Mỹ thường lên án những gì 
		mà họ thấy trong những sự sùng tín quá độ và mê tín trong Ki Tô Giáo. Họ 
		nồng nhiệt tin rằng con người phải được tự do đi tìm chân lý bằng lý trí 
		và họ kết luận là một quốc gia thế tục, không thiết lập một tôn giáo 
		nào, nhưng chấp nhận tất cả, là tốt nhất cho sự tự do trên. 
		Không giống như cuộc cách mạng của Pháp, cuộc cách mạng của Hoa Kỳ 
		không phải là cuộc cách mạng chống Ki Tô Giáo. Nhưng vì là những người 
		trong thời đại khai sáng, hầu hết những kiến trúc sư trên không đặt 
		nhiều tin tưởng vào Ki Tô Giáo truyền thống. Là những nhà trí thức đầu 
		óc cởi mở và hoài nghi, họ thấy những giáo điều tôn giáo có tính cách 
		chia rẽ và phi lý, và họ thách đố, công khai cũng như riêng tư, những 
		tín lý của Ki Tô Giáo theo quy ước. 
		
		
			
		
			Benjamin Franklin.    
		 Thí dụ, Benjamin Franklin, bác bỏ hầu hết giáo lý của Ki Tô Giáo, cho 
		là “không thể hiểu được.” Franklin tin ở một đấng sáng tạo, nhưng không 
		phải là Gót của Ki Tô Giáo. Ông ta bác bỏ cái gọi là sự mạc khải của Ki 
		Tô Giáo và tự coi mình như là “một người thực sự hoài nghi về nhiều điểm 
		trong giáo lý của tôn giáo chúng ta.” 
		Abraham Lincoln tuyên bố rằng không có một thành viên nào trong thế 
		hệ những người lập quốc “biểu hiện lý tưởng của Hoa Kỳ hơn Thomas 
		Jefferson”. Là một người triệt để hoài nghi, Jefferson đặt mọi truyền 
		thống tôn giáo, kể cả tôn giáo của ông ta, trong sự nghiên cứu nghiêm 
		ngặt. Ông ta ít để ý đến những điều nói về phép lạ, mạc khải và sống 
		lại. Ông ta lên án những chi tiết về tín lý Ki Tô như là “rác rưởi”, 
		“một loại thần chú”, “điên rồ”, “một loại bịp bợm ảo tưởng”, và một “sự 
		mê sảng về những điều tưởng tượng điên khùng”. Jefferson biểu lộ sự hi 
		vọng của ông với John Adams là “một ngày nào đó đầu óc con người sẽ trở 
		lại sự tự do đã hưởng từ 2000 năm trước”
		
			 
  
			Thomas Jefferson (1743-1826) tổng thống thứ 3 
			của Hoa kỳ  
   
		Adams bác bỏ những tín lý cứng rắn mà ông thừa hưởng từ những tiền 
		bối Thanh Giáo. Ông ta nói, Đấng sáng tạo “đã cho chúng ta Lý Trí, để 
		tìm ra chân lý, và sự thực về sự hiện hữu, sống chết, của chúng ta.” 
		Adams bác bỏ mọi giáo lý tôn giáo nào “không thể kiểm chứng một cách độc 
		lập bằng lý trí của con người.” Ông ta viết cho Jefferson là tôn giáo 
		của ông ta có thể thu gọn trong bốn từ ngắn gọn: “(Hãy) công chính, (và) 
		lành thiện” (Be just and good) 
		Tôi có thể viết thêm nữa, nhưng quý vị đã nhận rõ vấn đề. Những bậc 
		lãnh đạo trong thế hệ cách mạng không phải là những người vô thần.. Hầu 
		hết họ đều tin có một đấng sáng tạo đã lập nên những luật của thiên 
		nhiên và ban cho con người năng lực của lý trí. Nhưng hầu như chắc chắn 
		là họ không có ý định lập quốc gia Hoa Kỳ như là một nước Ki Tô Giáo. 
		Trái lại họ cẩn thận tránh không nói gì đến điều này trong Bản Tuyên 
		Ngôn Độc Lập cũng như trong Hiến Pháp. 
		Khái niệm về Hoa Kỳ là một nước Ki Tô Giáo được đưa ra sau đó, vào 
		thế kỷ 19, trong thời đại “Đại Tỉnh Giấc Thứ Hai”. Chỉ trong thời kỳ mà 
		sự truyền bá phúc âm dấy lên, cái huyền thoại về Hoa Kỳ là một nước Ki 
		Tô Giáo mới lên địa vị lãnh đạo, làm choáng váng những người như Adams 
		và Jefferson, những người rõ ràng đã bác bỏ khái niệm này. 
		Đây là sự thực về lịch sử của chúng ta, và đây là lịch sử mà con em 
		chúng ta phải học. Sự thực này có thể làm phật ý những người mong muốn 
		một lịch sử khác, nhưng chúng ta không thể thay đổi nó bằng sự mong 
		muốn. Trong những sách giáo khoa về lịch sử, ít ra thì sự thực cũng đáng 
		kể cho điều gì đó. Những điều tưởng tượng hoang đường và điên rồ của Bộ 
		Giáo Dục Texas là một sự bất công sâu đậm đối với những nhà lập quốc của 
		chúng ta, đối với lịch sử và quốc gia của chúng ta. 
	Geoffrey R. Stone là Giáo sư Luật ở Đại Học Chicago. [Geoffrey R. Stone 
	is a law professor at the University of Chicago.] 
	
	 
	
	Nguồn: 
	https://www.law.uchicago.edu/node/2822
	
	https://www.chicagotribune.com/news/opinion/ct-perspec-0404-textbook-20100404,0,5525687.story?page=2
	
	During the era of McCarthyism, red-baiters fed upon the image of 
	"godless" communists infiltrating our educational system to brainwash the 
	youth of America. As it turned out, that image was largely imaginary. 
	Ironically, though, we now really do have a coterie of Christian 
	evangelicals who are attempting to infiltrate our educational system to 
	brainwash our youth.
	They are in Texas. 
	For reasons peculiar to the textbook industry and the Texas educational 
	system, the Texas Board of Education has an enormous influence on the 
	content of textbooks used throughout the United States. Conservatives and 
	Christian evangelicals have taken over the Texas Board of Education, and 
	they are in the process of rewriting the American history our children will 
	learn. 
	Among the propositions the board is attempting to impose is that the U.S. 
	was founded as "a Christian nation." What follows from this, of course, is 
	that our Constitution and laws must be understood through the prism of this 
	perspective. Although evangelicals have been pushing this line for two 
	centuries, it is factually false. But the members of the Texas board, who 
	are not historians, nonetheless persist in this effort to propagandize our 
	children. This is dangerous. It must be contested. 
	It is true, of course, that Christianity played a central role in the 
	promulgation of early colonial legal codes. The Bible was the rock and 
	foundation of early colonial law, and the Puritans, in particular, injected 
	a fierce religious fervor into their laws. In 1636, for example, only six 
	years after the Pilgrims landed at Plymouth Rock, they adopted the 
	"judicials of Moses," which provided that any person "shall be put to death" 
	who "shall have or worship any other God, but the Lord God." Similarly, the 
	1656 "Lawes of Government" of New Haven colony expressly declared that "the 
	Supreme power of making Lawes belongs to God only" and that "Civill courts 
	are the Ministers of God." 
	By the late 17th century, however, the strict religious foundations of 
	colonial law had crumbled. With the influx of large numbers of immigrants 
	from widely diverse religious, ethnic and social backgrounds, the old 
	Puritan beliefs faded away, and as the new Enlightenment ideals of personal 
	liberty, the "pursuit of happiness," and the power of reason spread through 
	the New World, traditional sources of authority were increasingly called 
	into question. 
	With fresh energy and new ideas, 18th century Americans sought to achieve 
	a profound transformation in their society, their government, their politics 
	and their religion. The great American experiment was born in the full 
	illumination of the Enlightenment. In an Enlightened Age, an age dedicated 
	to reason rather than revelation, even the authority of Christianity was 
	open to challenge. 
	The Framers of the American system of government were often quite 
	critical of what they saw as Christianity's excesses and superstitions. They 
	fervently believed people should be free to seek truth through the use of 
	reason and they concluded that a secular state, establishing no religion, 
	but tolerating all, best served that end. 
	Unlike the later French Revolution, however, the American Revolution was 
	not a revolution against Christianity. But as men of the Enlightenment, most 
	of the Framers did not put much stock in traditional Christianity. As 
	broad-minded intellectuals and skeptics, they viewed much of religious 
	doctrine as divisive and irrational, and they challenged, publicly and 
	privately, the dogmas of conventional Christianity. 
	Benjamin Franklin, for example, dismissed much of Christian doctrine as 
	"unintelligible." Franklin believed in a Creator, but not in the Christian 
	God. He dismissed Christian revelation and described himself as "a real 
	doubter in many points of our religious doctrine." 
	Abraham Lincoln proclaimed that no member of the founding generation 
	"embodied America's ideals more than Thomas Jefferson." A thoroughgoing 
	skeptic, Jefferson subjected every religious tradition, including his own, 
	to rigorous scrutiny. He had little patience for talk of miracles, 
	revelation or resurrection. Like Franklin, Jefferson admired Jesus as a 
	moral philosopher, but he believed Jesus' teachings had been "distorted out 
	of all recognition." He condemned the details of Christian dogma as "dross," 
	"abracadabra," "insanity," "a hocus-pocus phantasm," and a "deliria of crazy 
	imaginations." Jefferson expressed his hope to John Adams that "the human 
	mind will someday get back to the freedom it enjoyed 2,000 years ago." 
	Adams rejected the rigid dogmas he had inherited from his Puritan 
	forebears. The Creator, he declared, "has given us Reason, to find out the 
	Truth, and the real Design and true End of our Existence." Adams rejected 
	all religious doctrines "that could not be verified independently by human 
	reason." He wrote Jefferson that his religion could be "contained in four 
	short Words, ‘Be just and good.'" 
	I could go on, but you get the point. The leaders of the revolutionary 
	generation were not atheists. Almost all of them believed in a Creator who 
	had set in motion the laws of nature and given man the power of reason. But 
	they most certainly did not intend to establish the United States as a 
	Christian nation. To the contrary, they were careful both in the Declaration 
	of Independence and the Constitution to avoid any such inference. 
	The notion that the United States is a Christian nation came later, in 
	the 19th century, during the Second Great Awakening. It was during that 
	evangelical upheaval that the myth that the United States is a Christian 
	nation first came to the fore, to the utter dismay of men like Adams and 
	Jefferson, who sharply contested it. 
	This is the truth of our history, and this is the history our children 
	should learn. The truth may be upsetting to those who wish for a different 
	history, but we cannot change what was through wishful thinking. In history 
	textbooks, at least, the truth should count for something. The fables and 
	crazy imaginings of the Texas Board of Education do a profound injustice to 
	our Framers, to our history, and to our nation. 
	Geoffrey R. Stone is a law professor at the University of Chicago.