●   Bản rời    

Sơn La Ký Sự - 1

SƠN LA KÝ SỰ - Kỳ 1

(Ghi chép về Bản cũ, Mường xưa)

Nguyễn Khôi

http://sachhiem.net/VANHOC/NGKHOI/NguyenKhoi01.php

22-Apr-2012

LỜI THƯA

Khoảng thời gian từ 1955 - 1975 thì 18 Châu Mường (huyện miền núi) phía Tây bắc Việt Nam là khu tự trị Thái Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc. Tổ chức Nhà nước VNDCCH trên Trung ương là chính phủ ở Thủ đô Hà Nội, dưới là khu  hay tỉnh rồi tới huyện, xã, thôn (bản). Thời đó chính quyền cơ sở (chiềng - xã) còn rất yếu: Chủ tịch xã, trưởng bản phần lớn nói tiếng phổ thông (kinh) còn chưa thông, mới võ vẽ đọc thông viết thạo…Để giúp cơ sở hoạt động có hiệu lực thì cấp tỉnh, huyện thường cử cán bộ xuống giúp xã “chỉ đạo” (kiểu cố vấn, trợ lý) gọi là “cán bộ phụ trách xã”, nôm na là “cán bộ cắm bản”, thực hiện “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân bản).

NK tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công tác (1963-1984) ở Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đã có nhiều đợt làm “cán bộ cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể phai mờ…Nay đã ngót 40 năm, xin ghi lại đôi dòng hồi ức “cắm bản” ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.

Hà Nội, 28-2-2004

Nguyễn Khôi


 

 

Bài 1:

BẢN QUÊ YÊU DẤU

bản quê

Mười yêu không bằng người tình cũ

Mười nhớ không bằng nhớ bản xưa”

Thôn bản là hình ảnh thu nhỏ của xứ sở. Bản (làng) dân tộc Thái đầu tiên khi tôi đến ở là bản Nà Nghiu bên bờ sông Mã (thượng nguồn). Tiếng Thái có nghĩa là “bãi cây gạo”. Đó là mấy chục ngôi nhà sàn (gỗ, tre, nứa, gianh), mái hình mai Rùa, ở 2 đầu hồi có 2 tia “khau cút” (hoa nhà) sơn vôi, kẻ hoa văn đen như 2 cánh chim đang vẫy bay lên rất điệu đàng và rất bản sắc, không ở đâu có ngoài Tây Bắc Việt Nam.

Bản Thái, theo truyền thống thiên di từ vùng “xíp xoong păn na” (Vân Nam) sang đây đã trên 10 thế kỷ, theo “Quắm tố mướng” thì bà con “Thái tộc” thời ấy phải đi luồn rừng như con Don, con Dím để tránh cường hào và ác bá Hán tộc và sợ các quan Đại Việt không cho ở nhập cư…Dấu vết “đi đêm” để nhận ra nhau đồng tộc là cái “hoa nhà” (Khau cút) và cái hình mặt trăng lưỡi liềm nơi cửa sổ (đặc trưng của nhà sàn Thái). Bản Thái phổ cập 20 - 30 nhà, 50 - 70 nhà tùy theo số ruộng và nguồn nước để sinh sống. Bản thường chiếm vị trí đặc trí đứng lưng chừng núi (đồi) để tựa lưng một cách vững chắc, tập quán cư trú “hua mun đin, tin mun nậm” (đầu gối đất, chân đạp nước), phía trên là đỉnh núi, chỏm rừng nơi có nguồn nước (thượng nguồn) chảy về (theo máng) rót vào từng nhà, nơi đỉnh có rừng cây mây ủ tiếp với “Mường trời” (cõi linh thiêng), che chở cho bản làng. Dưới chân bản thường là sông, suối, cánh đồng…địa điểm bản thuận tiện cho canh tác (lúa nước, nương rẫy, săn bắt, hái lượm), kinh tế nông nghiệp dựa vào tự nhiên khá hoàn thiện.

Bản Thái: nhà nhà xếp hàng ngang, từ thấp lên cao, quay quần theo dòng họ (thường có ba đến bốn họ: Lò, Cầm, Quàng, Cà…) tắt lửa tối đèn có nhau, chỉ cần ai đó săn được 1 con thú nhỏ (con hoẵng, đơm được vài con cá to, là tối đó cả Bản lại ngất ngư chén “lẩu xiêu” (rượu cất) bên bếp lửa, hát “khắp” (Tản chụ, xiết xương) đến thâu đêm.

Làng người Kinh là nằm trong lũy tre xanh, trung tâm là ngôi Đình với cây đa bến nước, ao làng. Bản Thái không có cổng, lối vào tứ phía…trung tâm bản thường là “nhà Trường bản” (trưởng thôn) liền đó có ngôi nhà đất, gianh tre vừa làm lớp mẫu giáo vỡ lòng, dạy chữ Thái cho trẻ con (trước khi vào lớp 1 phổ thông) coi như “nhà văn hóa” nơi hội họp của bản.

Sinh hoạt cộng đồng bản: quan trọng nhất là tổ chức sản xuất rồi đến sinh hoạt văn hóa (cúng bái, lễ hội). Trưởng bản thường kiêm tổ trưởng sản xuất hoặc chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp (ở quy mô nhỏ).

Sáng ra (vào thời điểm tháng 6/mùa hè) khi gà gáy sáng, ngựa trong tàu (hí) “chàng lụ khươi” (trai ở rể) dậy sớm mài dao cho cả nhà; anh chủ nhà dậy xem trâu xem ngựa; chị chủ nhà bồng con đang bú sang cho mẹ ôm ru ngủ, rồi đi xôi lại chõ cơm xôi…xong bốc chia vào từng “cóm khẩu” (giỏ xôi nhỏ) “ép khẩu” (giỏ xôi lớn).

Khoảng 5 giờ tinh mơ “tiếng trống đi làm vang gốc núi” từ nhà Trưởng bản (tổ trưởng hay chủ nhiệm) đánh 3 hồi dài, kết thúc bằng 3 tiếng nhằm gọi mọi người lao động (như đã phân công) hôm nay lên núi Pu Luông làm cỏ lúa nương, ngô nương. Anh chủ nhà dắt ngựa đi đầu, kéo theo một đoàn trên 10 lao động chính (cả nam lẫn nữ) nối đuôi nhau trên con đường mòn men theo các sườn núi “Khửn Pu “Khửn Pu….” Đi hơn 2 tiếng đồng hồ, mặt trời đã ló phía chân núi đằng đông, dòng sông Mã trông chỉ bằng chiếc đũa là tới những vạt nương rộng, lúa ngô đã lên trên đầu gối tới ngang ngực (đứng cái)…ai nấy: Nam thì phát cây dại, nữ thì cào cỏ nương bằng các cái “chóp”…khí trời mát mẻ, chim hót véo von ở rừng bên, cây cối xanh tươi mơn mởn…khoảng 11 giờ trưa, nắng oi oi, trời đứng bóng, nương rẫy dọn cỏ xem ra đã sạch tinh tươm…tất cả lùi sang lán bìa rừng (lều nương): để phòng mưa nắng, nghỉ ngơi, ăn trưa cơm xôi chấm muối ớt (món chéo) cùng ít rau xôi đem từ nhà, ít thịt khô, cá ướp…cơm ép khẩu phần nhà nào nhà nấy ăn, cũng có phần san sẻ…vui vẻ, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả. Cơm xong cánh nam làm điếu thuốc Lào rồi ngả lưng chợp mắt, cánh nữ thì tranh thủ đan lát, khâu vá hoặc vào bìa rừng kiếm củi, kiếm rau lợn, rau rừng. Từ 1 - 3 giờ thu vén và thu quân “mã hồi”.

Về tới bản, cánh chị em chưa kịp lên nhà đã ra mó nước “kẻ xuộng xựa” (cởi váy áo) ào ào tắm rửa…cánh đàn ông đem lưới ra sông vây bắt cá.

Cuối chiều: Chị chủ nhà tắm rửa cho con, rồi lo cho lợn gà ăn, cô em gái ra sông suối hái bon (rau) xúc ốc, chàng rể tắm cho ngựa. Chập tối một lúc 7 - 8 giờ tối cả nhà quây quần bên mâm cơm, thường là món cá nướng (pa mốc, pa pịnh) thơm ngon, canh bon nấu ốc hay canh cá nấu măng chua. Ăn xong, bên bếp lửa: cánh đàn ông đan lát, vá lưới, cánh đàn bà dệt vải, chàng rể ra sông “quăng chài” hoặc đơm “đó”, lũ lợn gà ăn no ngủ kỹ…mọi thành viên trong gia đình ai nấy về “buồng nằm” của mình đánh giấc…Từ khoảng 10 - 11 giờ đêm cả bản đã ngủ yên thì cánh trai tơ ở các bản bên “pay ỉn sao” (chơi gái) đem tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn Tính đến “chọc sàn” thức các cô gái tơ (sao) dậy, để “tìm hiểu” bằng các cuộc hát giao duyên bên sàn (phía đầu chan) hay ra sàn “Hạn Khuống” mé rìa bản tình tự thâu đêm.

“Chào bản quê thân yêu

Nắng mở cửa nhà sàn rộng thêm

Cho gái lớn xuống thang sang làm dâu Mường khác

Suối chỉ chảy một dòng

Xuống núi..

Chao, tôi chưa về thăm bản ngày xưa

Nơi tôi ra đời bên bếp lửa

Mẹ cắt rốn bằng con dao nứa

Cha ru bằng Tản Chụ Xiết Xương

Chị tóc mây “tằng cẩu” kết hôn

Anh lớn lên: anh đi ra trận…

Tôi lớn lên, tôi xuống núi đi xa

Mẹ cha mất, ngày về mồ đã cỏ…”

(Theo La Quán Miên).

Chao, hồn quê ở xuôi là cây đa rợp bóng sân đình, còn hồn ở bản quê yêu dấu là cái Khau cút (hoa nhà) để ai đó đi lâu trở về từ xa đã nhìn thấy nó như những cánh chim bay lên mừng vui chào đón đứa con tha hương còn nhớ trở về.

28/2/2012

 

Bài 2:

CƠM BẢN

cơm tàu cơm tây

“Cơm Tàu, cơm Tây … nhớ về đây cơm bản

Nếp xôi thơm, bên bếp lửa em chờ”

“Cơm Thái, gái Kinh” câu nói chơi cửa miệng của cán bộ Tây Bắc một thời (cán bộ Kinh thì thèm cơm bản Thái, cán bộ Thái thì khoái lấy gái Kinh). “ăn” uống là điều kiện hàng đầu để tồn tại sự sống. Cơm Thái cổ điển là ăn nếp xôi truyền thống. Đó là các loại gạo nếp tan, khẩu ma tứn (gạo chó dậy: Cơm xôi thơm quá đến con chó đang ngủ đánh hơi thấy cũng phải vùng dậy). Gạo nếp ngâm qua đêm, với bàn tay của các mẹ, các chị vo sạch, để ráo nước, rồi đổ vào một cái Hày” (chõ gỗ: một khúc thân cây khoét rỗng). Người Thái không có tục “luộc” như người Kinh (cơm bằng  gạo luộc, rau luộc, thịt luộc, mà thường là “xôi” (đồ) bằng nhiều loại “hày” khác nhau (gỗ cây sung co cổng, co đứa), phần dưới của dụng cụ đồ xôi là cái “ninh” (biếng mỏ nửng) bằng đồng đúc… nhờ “xôi” nên thức ăn đậm (không bị nhạt). Từ gạo nếp, người Thái còn chế biến ra các loại bánh như “khẩu tổm” (bánh tét) Khẩu tổm năm lãng (bánh giò), khẩu cắm (xôi màu), khẩu hang, khẩu lam, khẩu chí (xôi nướng). Khẩu lam trộn sâu măng là đặc sản ngon đặc biệt.

Nhân loại có các nền “văn minh thìa dĩa” (Âu Mỹ), “văn minh đũa tre” (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật, Việt Nam) và “văn minh ăn bốc”… người Thái đen Việt Nam ở Sơn La thì trong mâm cơm: Mỗi người bao giờ cũng có bát con riêng, 1 cái thìa, 1 đôi đũa… riêng ăn cơm nếp xôi thì “bốc” (tay đã rửa sạch); chỉ khi ăn cơm tẻ thì xới ra bát, lấy ăn thì xúc, chứ không quen “và” như người Kinh. Ăn canh thường không “chan” mà dùng thìa múc đưa thẳng vào miệng. Bát chấm mặn thường là muối ớt cộng mắc khén (hạt tiêu rừng) hoặc bát nước chấm pha chế (nậm pịa khi ăn thịt trâu, bò, dê).

Các món rau trong mâm cơm Thái: ½ là rau rừng (phắc ven,… có tới 80  loại), số rau trồng ở xuồn phỏm (vườn gầy)… như rau cải (phắc cát), các loại củ quả bầu bí, mướp, cà… tất cả đều được đồ chín (nửng) kể cả rêu, măng, mùa xuân có món “măng đắng”, mộc nhĩ, nấm các loại, canh măng chua (nậm xổm đanh), món “xổm” ghém, rau sống, rau hoa chuối nộm…

Tục kin xổm (món chua) đủ cả “kin xổm, kin van, kin xúc, kin chip, (chua, ngọt, chín, sống) rồi món “tương thối”. Với người Thái “cơm trắng, khúc cá bạc” là biểu tượng của no đủ hạnh phúc. Các món ngon là “pa pỉnh” (cá nướng kẹp), pa dảng là cá sấy trên dàn bếp, pa mốc (vùi tro), cùng với “pho pa”: Các loại cá tép, trạch, ruột cá lớn gói cùng húng chó, hành sả vùi tro nóng ăn rất thơm ngon, pa óm (cá nấu), pa tổm (cá luộc)… với các loại cá nheo (pa cao), cá quả (pa con), cá trê (pa đúc)… pa cỏi (lên men chua) món gỏi (cỏi hắn) với quan niệm “xép nhứa kin nhứa ma, xép pa kin pa cỏi” (thèm thịt ăn thịt chó, thèm cá ăn cá gỏi).

Các món mắm cá (mẳm pa) mắm tôm (mẳn củng), mắm từ những con bọ nước (mẳn pa dí), mắm tắc ten (châu chấu)…

Các món thịt: Như nhứa đảng (hong  khói) pỉnh chí (nướng), mản (nướng bằng xiên); thịt con hoẵng (tô phan) làm “lạp” trộn với măng chua, chấm nậm pịa (đoản nước bắt phèo, một thức đặc sản “nhứa quai tộm nậm pịa, thuổi lạp têm chem” (thịt trâu luộc, nậm pịa, bát lạp đầy ắp).

Mâm cỗ thường khoái món tiết canh, tiết luộc… ngoài ra có món “nhứa min” (thịt thối): trộn gia vị cho vào ống, đốt chín thành một thứ thịt nhuyễn nặng mùi rất hợp khẩu vị.

Các món gia vị thường nhật là ớt, mắc khén (hạt tiêu rừng) củ sả, gừng, riềng, hành tỏi, rau thơm… điển hình là món “chéo” để chấm.

Món canh Thái: Ưa dùng bột gạo để nấu canh, tạo cho canh ngọt sánh.

Cơm bản Thái: Thường ngày ăn bữa chính vào buổi tối. Sáng ra ăn lót dạ (bốc ít xôi, chấm muối ớt) bữa trưa thường ăn ở nơi làm việc (ngoài đồng, trên nương. Ăn đơn giản gọn nhẹ gồm xôi, ít rau chấm muối ớt, ít thịt cá khô, nướng…).

Bữa ăn tối là bữa cơm đầy đủ các thành viên trong gia đình. “ăn trông nồi ngồi trông hướng” khá trật tự nề nếp (bài bản): Chủ nhà ngồi chính giữa trông ra hướng nhà, phụ nữ ngồi phía trái, trai phía phải, con rể và khách ngồi phía sau (đối diện với chủ  nhà). Các món đặc biệt là dành cho trẻ con (nhái nướng, nhái ôm măng, đùi gà, miếng cá ngon). Nếu trong mâm có món thịt gà thì: Đầu, cánh, chân là dành cho ông chủ, lòng cổ xương nấu canh măng chua…

Có khách: Uống rượu cất (lẩu xiêu) theo ông chủ: 1 chén rượu húp một thìa canh măng chua… Nói chung bữa cơm bản là bữa cơm bình dân, đạm bạc. Chủ lực vẫn là món cơm xôi nếp, măng và rau rừng là món hàng ngày, thức ăn chỉ là đưa đà để ăn được nhiều cơm (no). Tháng 3 ngày tám, thiếu gạo thường độn thêm sắn (nạo) ngô hoặc ăn thêm củ mài đào trên rừng. Mùa nước lên có thêm món cá, sang xuân săn được con chim, con don, con dím… bổ sung cho món ăn…

Thịt lợn, thịt trâu phải là có ma chay, cưới xin, tết nhất, cúng nhà mới…

Dẫu sao thì bữa cơn bản Thái thời 1960 ở Sơn La vẫn là bữa ăn no đủ, ngon hơn hẳn bữa ăn thời HTXNN của người Kinh dưới xuôi một thời ăn công điểm là chính.

Bài 3:

CƠM BẢN

Cơm Tàu, cơm Tây chẳng tày cơm bản

Bát “khẩu hang” tháng 9 mẹ để phần

Ăn bít tết, lẩu dê… chẳng chê cá nướng

Món canh chua: Tay chị gái hái măng.

Ơi cơm bản ta ăn trên sàn gió

Cha gật gù nâng chén “lẩu xiêu”

Mẹ ân cần gắp trám đen vừa bổ

Chị đẩy sang đĩa “chéo”…cười yêu.

Trên nhà sàn khi nắng chiều đã tắt

Trâu về chuồng mõ lốc cốc tới khuya

Lũ Điêu Điếu ngoài vườn xoài léo nhéo

Chõ xôi đơm thơm nức gạo đầu mùa.

­

Và ai đó vừa đi ngang ngõ

Dải khăn Piêu tung vương khói chiều xanh

Rừng trầm mặc, con nai vàng nào “tác”

Mùi ấm no bên bếp lửa quây quần

Thuận Châu hè 1965

 

Bài 4:

CANH BON

(Tặng Lò Văn Cậy)   (1)

Bản Nà Nghịu thời trẻ trai tôi ở

Sớm đi nương, chiều chài lưới trên sông

Em ra suối hái Bon, xúc ốc

Tối ăn canh Bon ngứa cổ, nghẹn ngùng…

                             Em thầm nói: Thương anh Hà Nội

Phải ăn cơm mường bản chưa quen

Tôi lặng lẽ nắm xôi, chấm muối

Húp canh Bon, nhìn đôi mắt đen…

                             Đêm bản nhỏ trăng nhòm cửa liếp

Em ngồi trên khung cửi đưa thoi

Tôi ngồi tập vót nan đan “lếp” (2)

Bếp lửa khuya bốn mắt sáng ngời…

                             Rồi tôi đi biết bao xứ sở

Vẫn nhớ về Sông Mã quê em

Chợt thèm món món canh Bon ngứa cổ

Để thưởng người canh cửi đêm đêm.

(1) Lò Văn Cậy (1928 - 1944) nhà thơ Thái

Quê Sốp Cộp, huyện Sông Mã

(2) “Lếp”: Giỏ đeo bên hông của gái Thái

 

Bài 5:

NGỦ BẢN

ngủ bản

* Người thức giấc giữa mây ngàn gió núi

Hồn ngỡ là bay với trăng sao

* Về kinh xa bản xa Mường

Đêm mơ tiếng suối bên giường chảy quanh.

Chao ôi, các cụ ta có câu “đêm năm (bằng) năm ở”… thế thì vào những năm 60 (thế kỷ 20) đêm ngủ ở bản Thái là lý tưởng nhất. Nhà sàn cao ráo, thoáng mát: Đầu gối núi, chân đạp sông… 1 anh bạn tôi (Phạm Văn Cống - quê Thanh Hóa) có 4 câu thơ vui về một thời hoang sơ để nhớ.

Về đây công tác xã Chiềng Hoa

Đêm đêm nằm gối thác Sông Đà

Bởi tiếng Thái Mèo chưa thông thạo

Phải người phiên dịch hóa “chuyên gia”

(Hóa chuyên gia)

* Cán bộ xuống “cắm bản” được xếp ngủ một gốc “Quản” đệm dày, chăn mới, màn 1 bộ đội xanh lá cây, thì cán bộ ai chả có 1 chiếc để chống muỗi

Anôphen (phòng sốt rét), phong tục kiêng màu trắng (có tang)

Ngủ bản, đêm thao thức nhớ quê, lên ở cái xứ “trâu gõ mõ, chó trèo thang, nước giã gạo” với tiếng “chày đêm nện cối đều đều suối xa”, chập chờn với trăng nhòm qua vách liếp… Cách vài mét là màn đen cô em gái chủ nhà tuổi trăng tròn “kẻ xuộng xựa” (ngủ truồng) đêm nóng nhoài ra ngoài màn da thịt trắng ngần như thần vệ nữ.

Ngủ bản được nghe tiếng gà gáy sang canh, chim cu gù bên mái, lợn ủn ỉn dưới gầm sàn, ngựa gõ móng trong tàu ngựa, vài tiếng chim cú vang lên phía Pa heo (rừng ma) nghe ghê rợn…

Ngủ bản, khuya khuya khi bếp lửa đã tàn, vợ chồng nhà anh chị chủ yêu nhau làm tình cả mặt sàn nhẹ rung lên phấp phồng hơi thở…

Ngủ bản: Phía rừng xa vang về tiếng Nai tác, hoẵng kêu gọi bạn tình xao xuyến hồn trai chưa vợ.

Ngủ bản: Con mối vách (Thạch sùng) tặc lưỡi đuổi nhau như đang thở than “ai đó giầu như Vương Khải - Thạch Sùng cũng có phen tường xiêu, mái đổ…”

Ngủ bản: Hư hư thực thực, nhớ nhớ quên quên - rồi thiếp đi một giấc thanh thản sau một ngày lao động (đi nương, ra ruộng, đánh lưới trên sông, mệt mỏi, vô tư…)

Chao ôi, ai đó ở lầu son gác tía nơi Thủ Đô - Phố thị ồn ào hiểu sao được ngủ bản?

Và chao ôi, ai đó nghèo hèn culi, đĩ điếm nơi vỉa hè, gầm cầu có hay đâu ngủ bản?

Chao ôi, sung sướng gì bằng ai đó có tuần trăng mật ở bản? khi đôi lứa thanh tân lặng lẽ chui vào cái buồng màn đen kín mít đó là bóng đêm, huyền diệu “tay quờ tay, chân quặp chân, môi kề môi, thân đè thân với hơi thở nồng, đó là vườn địa đàng nơi nhà sàn bếp lửa “một mái nhà gianh hai trái tim vàng, một con suối nhỏ” để mà yêu, mà hiến dâng, mà thụ hưởng hương vị ngọt ngào thanh xuân bốc lửa…”

Ngủ bản, khi yêu đã mệt lử rồi… là êm đềm hơi thở giữa không khí trong lành, thanh bình… mà biết bao người (kể cả tỉ phú) mơ mà đâu dễ có được?

Ngủ bản, là duyên phận, là trời cho, như ta được kho báu mà ta đâu đã hiểu được?

Than ôi, tiếc thay, tiếc thay… được mấy ngày ngủ bản?!

 

Bài 6:

SƠN LA XƯA

Sơn la xưa

Sơn La hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 14,125km2 (= 4,27% tổng diện tích cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12 dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 là 1.080.641 người.

Lịch sử: Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu vào trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Man (gồm cả Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào). Năm 1479 Sơn La được chính thức nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa.

24/5/1886 thành lập Châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh.

9.9.1891 thuộc Đạo quan binh 4.

27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ, 8 châu.

10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay.

23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ về như bây giờ.

Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với Lai Châu và Phong Thổ lập xứ Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La.

1948 - 1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu).

1953 - 1955 thuộc khu Tây Bắc.

1955 - 1962 thuộc khu tự trị Thái Mèo.

1962 - 1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ.

Sau khi giải thể khu tự trị Tây Bắc, Sơn La nhập lại 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên của Nghĩa Lộ giải thể.

Sơn La- xứ Thái xưa là 1 vùng biệt lập do núi non hiểm trở, lại là đường mòn luồn vùng, đi theo dọc 2 bờ sông Đà, sông Mã, ma thiêng nước độc “nước Sơn La, ma Vạn Bú” ở xuôi chẳng ai lên đó làm gì. Đó là nơi cai trị của các vị “Chẩu Mường” hướng về vua Lào ở Luông Pha Bang là chính, thi thoảng có giao lưu với người kinh qua rẻo Mường Lò (Nghĩa Lộ)… phải chăng do ở biệt lập lâu đời như thế nên người Thái ở đây còn giữ được khá nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình sau 1000 năm sang Việt Nam cư trú?

 

 Bài 7:

SÔNG CHÓ

Sông Chó

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao, sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Đó là đoạn sông Mã (sông Ngựa) ở đoạn giáp ranh từ Sầm Nưa (Lào) đổ vào Thanh Hóa (Mường Lát) kề với Xuân Nha Sơn La… còn đoạn trên gọi theo dân bản địa (Thái) là Nậm Ma (sông Chó).

Sông Mã có 2 nguồn: Nguồn thứ nhất từ núi Tuần Giáo (nam tỉnh Điện Biên) chảy theo hướng Tây bắc - đông nam qua huyện sông Mã (Sơn La) rồi qua lãnh thổ Lào. Nguồn thứ 2 từ núi “Pu Xam Sao” (núi 3 cô gái)… cả 2 nguồn này đều đổ về Thanh Hóa từ Sầm Nưa, rồi giao lưu với sông Chu (sông Trâu) đổ ra vịnh Bắc Bộ, tất cả dài 512km, trong đó trên lãnh thổ Việt Nam 410km, qua Lào là 102km.

Tên gọi: Dân gian (sông Mã) vì dòng nước chảy xiết như “ngựa phi”.

Tuy nhiên theo n/c về từ nguyên học chữ “Mã” là “Mẹ” - nghĩa là sông lớn như. (Ở Lào mè khoỏng = MêKông, ở ta sông Hồng là sông cái).

Sử Việt gọi sông Mã là “Lỗi Giang” .Bên Lào là Nậm Mà. Sơn La gọi “Nậm Ma” (Mẹ là Êm) “ma” là con chó - có lẽ vì ở thượng nguồn dốc chảy xiết kêu như chó sủa.

Sông Mã chảy về đến Nà Nghịu (huyện Sông Mã Sơn La) rông cỡ con sông Cầu, 2 bên bớ là đồi núi cao vút không có đê, dòng sông khúc khuỷu, mùa cạn lòng sông trơ những tảng đá gộc, đã lồi đầu, có đoạn có thể lội bộ qua được để ta lại nhớ câu “sống chụ”.

* Phôm dú hua lứm cấu chắng lứm chụ

Cánh lứm chái nớ!

Cẩu chí lứm cánh xíp chí lứm

Nậm Ma hảnh to đe chắng lứm

* Tóc trên đầu búi ngược (tăng cẩu) hãy

Quên bạn tình, hãy quên anh yêu!

Chín sắp quên và mười sắp quên

Sông Mã cạn bằng lòng đĩa, hãy quên.

Mùa cạn này, đêm đêm lũ con trai từ bản Nà Hin bên sông lội tắt sang bản Nà Nghịu “chọc sàn” tìm bạn tình. Đó cũng là mùa các cô gái ra sông vớt rêu (1 món ăn đặc sản):

“Sông nhiều rêu, nhiều cá

Núi nhiều thú, nhiều măng

Chiều bóng anh che sông

Sớm mắt em lóng lánh…”

Ngồi ở bên sông ta như thấy cái luân hồi của ta. Tháng 6, mưa lớn thượng nguồn… chiều qua còn như một dòng sông chết (cạn bằng lòng đĩa) mà sớm nay tất cả như bừng lên ầm ầm gầm réo hơn cả tiếng chó sủa, ngựa phi.

* Bó Áy Khảm nậm Ma khi khon

Nhắng xương pánh hảu mon vậy thả đé nớ!

* Hoa Áy dập dờn trôi ngang sông Mã

Còn thương nhau xin sắp gối riêng chờ.

(Hoa Áy vờn trôi ngang sông Mã

Còn thương, tay gối lả riêng chờ)

* Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Lũ về, sớm mai khi con chim Tăng Ló bên sông réo gọi, các chàng rể (lụ khươi) lò mò lội ven bờ “xem” các cái “đó” mà chàng ta “đặt” tối hôm trước “chờ nước lên” chắc mẩm sẽ vớ được vài con cá măng, cá chiên to hăng nước đầu mùa không may chui vào “đó” (lờ to) làm bữa ngon cho dân bản. Lũ về, mình là trai Đình Bảng, từ Hà Nội lên thượng nguồn Tây Tiến cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ, nửa đêm về sáng giật mình nghe sông réo… sớm mai ra bờ sông trông dòng sông chảy xiết, trong lòng lại vang lên khúc Trầm hùng của nhạc sĩ Đỗ Nhuận.

“Hồng Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê”…

Còn ở đây thì sông đổ ầm ầm, qua các ghềnh đá đổ thác bọt tung trắng xóa cứ như bờm đàn ngựa bạch đang phi hết tốc độ xông ra chiến trường cùng bom rơi pháo nổ vang rền, thật đúng là “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”…

Lũ lên nhanh là lũ ống lũ quét cỏ cây hai bờ được một phen dọn sạch đôi bờ đất chỗ lỡ, chỗ bồi, bãi ngô, ven sông lại được phen tắm phù sa trồi lên xanh mởn…

Sau vài ba tiếng lũ lên cuồng nộ, thượng nguồn dứt mưa, thì con sông Mã “ngựa phi” lại trở thành Nậm Ma (chó sủa) ào ào, tấm tắc thân quen như con mực, con vện về nằm ngang dưới chân cầu thang, thật là:

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

29/2/2012

 

 

Bài 8:

ĐÁM CƯỚI NGƯỜI THÁI

đám cưới Thái

Ở người Thái: con gái khi lên 13 tuổi, trai 15 tuổi thường tổ chức nhuộm răng đen. Lấy cây “mạy cù”, mọc ở núi đá, đốt lên khói hơ vào miếng mai sắt thành dọt nước, trai gái nắm tay nhau, kể anh chị em. Trai lấy ngón tay miết giọt nước trên mai (cái mai đào đất) tra vào răng gái, gái tra vào răng trai. Sau đó hai người nắm tay nhau xuống thang đến bậc cuối, cùng nhảy xuống. Từ đấy trở thành trai gái thiếu niên. Từ đấy trở đi mới được ra chơi “Hạn Khuống” hát giao duyên tìm hiểu nhau (nghĩa là sang tuổi cập kê):

* Xíp pi ủa chắng dựt pên sao

Chái chắng dáo pên báo

Xíp xam chắng hụ thi bú

Xíp xí chắng hụ hú khẻo xóư chi son sao

Pánh há chắng hụ tắt xứa hổm nốm

Hụ hom phôn dệt chọng

Dóng Khửn khuống đang pháy

* Mười tuổi em đang lớn thành gái

Anh cũng lớn thành trai

13 tuổi em biết bắt cá suối

14 tuổi biết nhuộm răng đen làm duyên

Biết may áo che vú

Biết dành tóc làm độn

Óng ả lên sàn nhóm lửa

Khi 2 người tỏ tình gọi là “ổ báo sao”. Tiêu chuẩn là con gái phải biết se sợi, dệt vải, con trai phải biết đan lát những đồ dùng trong nhà. Gái sau khi có chồng con phải lo quần áo mặc, chăn đệm nằm cho chồng con. Trai phải lo tự túc đủ các thứ đồ dùng lặt vặt để đựng thóc gạo, rau, thịt cá, đồ dùng nấu cơm.v.v…

Tục cưới xin: Sau khi trai gái đã tìm hiểu “yêu nhau”, trai nói với bố mẹ đi tìm bà mối đến thăm dò nhà gái (gọi là pay chóm), thuận thì đi đến:

Lễ ăn hỏi: 1 đôi gà to, vài ba bát gạo, rượu, bánh kẹo, hoa quả đưa sang nhà gái. Ở Quỳnh Nhai cụ thể là:

Đồ lễ dạm hỏi gồm:

- Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg

- Thuốc lào 1 - 2kg, thuốc lá 1 - 2 tút.

- Chè uống 2 - 3kg.

- Bánh kẹo tự chế 5 - 10kg.

- Hoa quả 5 - 10kg.

- 1 đôi gà (1 trống - 1 mái) 3 - 4kg.

- 1 con lợn 45 - 50kg

- Gạo nếp thơm (khẩu lương phửng ) 15 - 20kg.

- Gạo tẻ thơm (khẩu xẻ lạo lựu) 15 - 20kg.

- Rượu gạo: 40 - 50 lít.

Lễ dạm hỏi: (Lễ tham pặư).

Đội hình: 10 chàng trai + 5 cô gái sang nhà gái phục vụ cỗ bàn.

- Thách cưới: Khá nặng

Ở Mường La, Thuận Châu (thời 1960 - 1970) ngoài rượu thịt , còn là 1 máy khâu 5 con bướm (TQ) 1 xe Favorit (980đồng lúc bấy giờ: Lương phó ty có 80đồng)… ngoài ra là:

- Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg

- Thuốc lào 1 - 2kg.

- Thuốc lá 100 - 200 bao.

- Bánh kẹo  5 - 10kg.

- Đường kính 5 - 10kg

- Hoa quả 50 - 100kg.

- Lợn béo 1 - 2 tạ

- Rượu gạo ngon 200 - 300lít.

- Gạo nếp ngon 1 - 2 tạ.

- Gạo tẻ ngon 1 - 2 tạ.

- Pa dăm (cá sấy rạch sườn) 10 - 20kg.

- Pa giẳng (cá sấy nhỏ) 10 - 20 giỏ

- Cá mắm 3 - 5kg đựng trong ống nứa.

- Cá ướp 3 - 5kg (nhiều ống).

Đám cưới được tiến hành trong 3 ngày 3 đêm.

Ngày 1: Chuẩn bị, dặn dò, cống nạp xong.

Ngày 2 (đại lễ): Thường nhà trai chọn giờ xuất phát (tránh giờ Dần) lấy giờ Mão (chớ mẩu).

Đi tiền trạm là 2 chàng trai “dò đường” tránh điềm xấu (có đám tang) để tránh.

Đoàn đưa rể: Ông mối, bà mối, phù rể 2 người khiêng đệm, 1 người vác chiếu (1 cót mây và 1 chiếu cói), 1 người đeo chăn, 2 người khiêng lợn, 2 người khiêng các lồng gà, 2 người khiêng rau và các thực phẩm khác, 1 người gánh các ống cá ướp.

Tất cả đều mặc đúng phong tục như áo cóm cúc bạc, áo dài (xửa luông), quần áo Thái nhuộm chàm láng củ nâu. Riêng chàng rể đeo dao bên hông, vai khoác túi,  1 tay khoác nón Thái. Ông mối đội khăn xếp mặc áo dài the, quần lụa trắng. Bà mối mặc áo dài (xửa luông), tóc quấn vòng hoặc búi sau gáy, (đây là Thái trắng Quỳnh Nhai) pắn cẩu bứt láy.

Có đội kèn “pí kẻo” vừa đi vừa đánh trống thổi kèn kèm pháo nổ… gây ồn ào phấn chấn.

Nhà gái chọn giờ đón rể (giờ Thìn - chơ xi)… nhưng rể cũng phải được xem lá số hợp “mệnh” với vợ chồng, ông bà nội ngoại (ta nái, pú da). Tục té nước, ném quả me tròn, hạt bông vải vào đoàn nhà trai.

2 chàng phù rể bước lên cầu thang máng hẳư (gian bếp), nhà gái ngăn lối, phải lạy quỳ “xin phép” được giăng tấm vải đỏ ở phía bên khung cửa (gọi là cả hồng) ý chúc phúc nhà gái và báo là nhà đã có rể.

Hai bà mối vào cửa ngồi xổm dâng 1 phong bì tiền dâng cưới đặt lên bàn.

Nhà gái có 2 bà đại diện (thẩu nái) đem cơi rượu ra làm lễ đón nhận - rồi hai bên hát đối đáp.

Lễ cưới linh đình 3 ngày. Rồi rể phải ở rể qua các chặng:

- Khươi quản (ngủ một mình ở gian ngoài cùng) sau 1 - 2 năm mới được chung chăn gối (thời gian thử thách) - bị đuổi là mất hết.

- Ở rể 1 - 3 năm. Có trường hợp không phải ở rể (do thỏa thuận 2 bên).

Lễ thành hôn gọi là “xú phả”: Kết búi tóc ngược “tăng cẩu”: Nhà trai đem đến 1 đôi vòng tay bạc, 2 nhẫn, 1 đôi hoa tai, châm cài tóc và 2 độn tóc gói vào sải thổ cẩm. Lễ tạ ơn mẹ vợ phải có 1 đôi vòng tay bạc và 5 đồng bạc trắng. Biếu bố vợ gọi là tiền “rổ cá, rổ thịt” cùng khoảng lễ đó gọi là “tạ ơn dòng sữa mẹ đã nuôi con và ơn cha đã kiếm cá, thịt về nuôi con khôn lớn”.

Bên nhà gái phải có màn, thường dùng vải dày nhuộm đen chàm, có đệm và chăn gối.

Sau khi “tằng cầu” bà nào tốt số thì đưa 2 vợ chồng vào nắm tay nhau trong màn (người Kinh là vào rải chiếu).

Lễ cưới Thái tốn kém, ở rể khổ ải như một thời làm nô lệ (cuông nhốc dưới chế chế độ Phìa Tạo).

 

Bài 9:

CẦU VÀO BẢN

cầu gang cầu sắt

“Mường của anh có cầu gang, cầu sắt

Bản của em có cầu lim lõi chắc

Cầu lõi chắc bắc đôi cho anh qua lại

Thăm nhau dù nắng mưa không gì ngại”

- Cầm Biêu

Chao, “về bản” đúng như nhà thơ của bản đã tả “Bản của em và Mường của ta/ đường đi lại quanh có uốn khúc/ đường đi mãi hết đèo lại dốc/ đường đi qua rừng dướng, luồn rừng giang/ và đi theo con suối về làng/ dòng suối nhỏ chảy quanh bụi nhót/ rồi chảy lọt giàn dưa…”

Chao, bản trước mặt là sông, bên hông bản là suối. Sông buổi sớm như mặt gương phẳng lặng cho ta soi bóng. Sông có đêm nước lên gầm gào như chó sủa… còn suối bên đầu nhà quanh năm trong xanh rì rào thủ thỉ… chiều chiều đón em gái ra hái bon, xúc ốc.

Chao, con đường về bản là phải luồn rừng rồi đi dọc bờ sông, lội qua suối đầu bản… Để dân bản mùa lũ không phải lội suối nguy hiểm … thế là cả bản hò nhau lên núi vào  rừng đại ngàn chặt 8 cây lim to lõi chắc, phạt hết cành lá rối xúm nhau “kéo”, đẩy, bắn, bẩy tuột xuống suối “dòng” lôi về bản để bắc cầu qua suối. Trên mặt cầu được lát bằng phen tre đan để cụ già, trẻ con, trâu bò, ngựa đi qua không bị lọt chân…

Chao, chiếc cầu gỗ bắc ngang con suối.

“Nước suối có lúc cạn lúc lũ

Nước trên rừng lúc hiền lúc dữ”

- Nông Văn Bút

Đó thật là:

“ Cầu chúng ta vừa cao vừa chắc

Chẳng còn lo nước lũ, suối sâu

Cũng đón ông giáo Tiếp sang cầu

Để người già mừng khỏi khi mình chết

Không biết chữ nào bụng người còn tiếc”.

- Nông Văn Bút

Giữa bản mường núi sông hùng vĩ, rừng xanh tít tới chân trời thì cái cầu gỗ bắc ngang qua con suối rỉ rả vào thẳng tới chân cầu thang nhà sàn đầu bản như là biểu tượng của hồn bản, hồn mường. Chính nơi đây những đêm thu trai gái bản ra đứng trên cầu đàn đúm: thổi khèn, thổi sáo, đánh đàn “tính”, hát giao duyên, ngắm ánh trăng vàng mênh mang trôi theo dòng suối ra ngoài sông âm vang tiếng thác.

Chao, chiếc cầu vào bản - cầu gỗ, dân bản tự làm tự bắc cho mình bằng chính vật liệu thiên nhiên của rừng quê, nó thân yêu thánh thiện làm sao, dịu chân, mát mắt vô cùng, nắng mưa đều hiền như bản, thầm lặng thanh bình để ta:

“… đi cùng em

Cùng em tới

Bên kia sông Mã

Tìm rêu đá cùng nhau”

- Cầm Cường

Cầu vào bản thân thương là vậy.

 

Bài 10:

TIẾNG MÕ TRÂU

con trâu

Chiều về “lốc cốc” mõ trâu

Âm vang tiếng bản bên cầu nước xanh

Khói thơm bếp lửa vờn quanh

Lùa trâu về Púng(1) bên ghềnh ngẩn ngơ.

- NK

                                                            (1) Púng: thung cỏ

 

 

Bài 12:

NÚI  MƯỜNG HUNG

DÒNG SÔNG MÃ

núi mường hung

          Con sông Mã chảy đến đây chừng như chững lại, mở rộng bồi đắp đôi bờ thành cánh đồng của Chiềng Cang, Mường Hung. Núi ở đây không cao lắm nhưng trên đỉnh có mây phủ với rừng đại ngàn ngút tới Thượng Lào (Hủa Phăn). Bản nhà ở đây đông vui trù phú với những ruộng lúa, bãi dâu xanh biếc, con gái ở đây da trắng nõn nà…

Ấy là vào hồi tháng 10/1953 có một chàng trai Thanh Hóa (Lê Gia Hợp) Đội viên Đội vũ trang tuyên truyền (Việt Minh) đã đi sâu vào vùng hậu địch, tới đây “cắm bản” để xây dựng cơ sở kháng chiến chống Pháp ở vùng biên giới Việt Lào. Ai ngờ, chàng ta lại là một thi sĩ, là cán bộ “bí mật” sống giữa lòng dân “3 cùng” với đồng bào, trước cảnh đẹp, người xinh… hồn thơ anh ta thấm đượm các khúc hát “khắp” - tình ca Tây Bắc viết theo kiểu ví von (anh là/ em là…). Thế là một bài thơ tự nhiên xuất thần:

(Mường Hung = mường trong sáng)

                                    NÚI MƯỜNG HUNG

                                    DÒNG SÔNG MÃ

Anh là núi Mường Hung

Em là dòng sông Mã

Sông nhiều rêu, nhiều cá

Núi nhiều thú, nhiều măng

Chiều bóng anh che sông

Sớm mắt em lóng lánh

Sáo cành cây anh thổi vang lanh lảnh

Gió  lùa qua miệng anh lại mỉn cười

Giữa lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi

Như trăm nỗi băn khoăn khi đến tuổi

Nếu trời làm em sóng nổi

Anh ngả mình ngăn lại lúc phong ba

Em là búp bông trắng

Anh là ngọn lúa vàng

Thi nhau lớn đẹp nương

Tỏa mùi thơm cùng nghe chim hót

Em cứ về nhà trước

Đợi anh ở bên khuông

Anh là no lòng Mường

Em làm vui ấm bản

Nếu con gấu dẫm gẫy cành bông trắng

Lá lúa anh sẽ cưa đứt chân

Nếu lúa này chuột khỉ dám đến ăn

Sơ bông em sẽ bay mù mắt nó                   

Anh là rừng thẳm

Em là suối sâu

Cây rừng anh làm cầu

Bắc ngang lên lòng suối

Hoa rừng nở đỏ chói

Soi bóng xuống lòng em

Suối chảy quanh ấp rừng vắng ngày đêm

Cây gỗ lớn là tay anh vững chắc

Nếu hùm qua suối em thành thác

Nếu sói về rừng anh sẽ thành chông

Quyết chẳng chịu đau lòng

Đời chúng ta rừng núi

Suối em phá tan bóng tối

Rừng anh chặn lại bão giông

Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung

Em ngoan chảy thành dòng sông Mã

Mường Hung 10/1953

Cầm Giang

Bài thơ chép tay, được gửi qua “giao thông” về hậu phương… với bút danh Cẩm Giang (ý là quê vùng Cẩm Thủy - Thanh Hóa bên dòng sông Mã hạ lưu)… nhưng khi đến tay cô đánh máy (ở căn cứ báo chí) thì cô này phát hiện cái phi lý ở cái tên tác giả - ở Sơn La có họ Cầm, họ Lò… chứ làm gì có họ Cẩm? thế là cuối bài thơ in ra được đề tác giả Cầm Giang.

Bài thơ sau đó được nhạc sỹ Bùi Đức Hạnh phổ nhạc thành bài “Tình ca Tây Bắc” nổi tiếng trở thành “khu ca” của đài phát thanh Tây Bắc một thời.

(Nhạc sỹ thực ra chỉ lấy 1 số câu, còn là mô phỏng thơ Cầm Giang mà thôi).

Bài thơ thực ra cũng chưa hay lắm, nếu so với “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Đèo cả” của Hữu Loan thì cón cách xa mấy quăng dao.

Bài thơ viết theo kiểu ví von của Trường ca Tản chụ xiết xương (tâm tình người yêu): Trai đáp/ gái đáp nên có giọng điệu dân ca Thái, để người đọc dễ tưởng đây là 1 tác giả dân tộc Thái.

Có câu sáng giá:

Giữa lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi”

Làm ta nhớ lại từ hồi 1936, Lưu Trọng Lư đã viết:

Mắt em là một dòng sông

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em

Rồi các câu khá ấn tượng mới mẻ:

Anh làm no lòng Mường

Em làm vui ấm bản

Đoạn dưới “ký sự” kiểu thơ tuyên truyền hô khẩu hiệu của thời kháng chiến chống Pháp (mà Bùi Ninh Quốc, Phạm Tiến Duật sau này với “đường ra trận mùa này đẹp lắm” đã vượt trên cả Tố Hữu, tất nhiên là dưới tầng Chế Lan Viên).

Tuy vậy, xét về bố cục cấu bài thơ (mở đầu, thân bài, kết luận) thì tài hoa thơ Cầm Giang so các cây viết thời 1946 -1954 ở Tây Bắc thì Cầm Giang vẫn là số 1. Hai câu kết có thể nói là Đẹp, khá đắt:

Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung

Em ngoan chảy thành dòng sông Mã.

Đó cũng là cái “bất tử” của một tứ thơ lạ “đẹp” cùng với quê hương xứ sở.

Năm 1961, NXB Văn học có in cho Cầm Giang tập thơ “Rừng trắng hoa Ban” gồm 30 bài, bài viết sớm nhất “Quả còn” Lai Châu 7/1950, bài cuối “mở lò thông gió” 1959 ở Mỏ Cẩm Thái Nguyên… xem kỹ chỉ có 1 bài đáng giá ở trên mà thôi.

Thơ khó là vậy

3/3/2012

 

Bài 12:

BÓNG NÚI

bóng núi

Em đi bóng núi nghiêng theo

Bụi tung vó ngựa qua đèo mù sương

Từ anh về với bản mường

Với trông bóng núi dặm đường em đi

NK.

 

Bài 14:

                             NHỚ MƯỜNG HUNG

(Nhớ anh Cầm Giang)

nhớ mường hung

                   Mường Hung sáng núi xanh soi sóng biếc

Em vớt rêu thả mượt tóc thung mây

Con cá măng nào hay sông biên giới

Tiếng khèn Lào sang chợ thổi nồng say

Trai Mường Hung thả bay thuyền đuôi én

Vài tay chèo tới Xiềng Khọ - Sầm Nưa

Sắm đồ cưới anh chở về - đúng hẹn

Vòng bạc trao lấp lánh dưới trăng mờ

Từ xa cách bản quê về Hà Nội

Đêm nằm mơ thác đổ trắng ngang trời;

Sớm mai dậy nhớ mây hồng đỉnh núi

Tiếng gà rừng vang động cả hồn tôi.

NK-

 

 

 

 

Bài 14:

XUÂN BIÊN CƯƠNG

xuân biên cương

Sơn La xuân ở dài hơn

Tháng tư còn trắng hoa Ban trên rừng

Mà đây nắng hạ chói bừng

Chiềng Khương hoa Gạo đỏ lừng bến sông

Biên giới Việt Lào 6/1963

NK-

 

Bài 15:

CHIỀU BẢN NHỎ

chiều bản nhỏ

Chiều vắng vẻ lặng tờ nơi bản nhỏ

Người đi nương, ra ruộng chưa về

Chỉ lũ trẻ đùa nô trên bến tắm

Và một chàng “cắm bản” lắng hồn quê.

                             Con gà đẻ trứng xong kêu “cộc tác”

Con Vện nằm canh cửa mắt lơ mơ

Mặt suối xanh in bóng cầu vừa bắc

Cọn bên đồng cuốn nước xối như mưa…

                              Chiều bản nhỏ ngàn xưa đời vẫn thế

Cứ yên vui cùng xứ sở thanh bình

Không giặc giã, gươm trên tường nằm nghỉ

Ngựa lỏng cương thả bộ dọc dòng kênh.

                             Ai đấy nhỉ một mình nơi thôn dã

Để nhớ ai ngoài phố thị ồn ào

Hẹn một buổi đón về thăm bản nhỏ

Cùng vào rừng hái nấm mé đèo cao.

NK-

 

Bài 17:

TẮM Ở BẢN

tắm ở bản

Bản người Thái (ở lưng núi) không có ao như làng người Kinh (ở đồng bằng)… nhưng việc tắm rửa cho sạch sẽ thân mình thì người Thái ăn đứt người Kinh là cái chắc.

Ở bản có 3 cách tắm rửa:

- Một là nơi “mó nước” đầu bản: Đó là nơi có ống nước tự chảy dẫn qua ống máng tre từ trên nguồn đổ về trong sạch tuôn suốt ngày đêm… thường có 2 ống: một bên nam, một bên nữ. Ngăn cách 2 bên là một phên nứa để bên nào bên ấy “tắm truồng” thoải mái.

Thường thì 3, 4 giờ chiều mùa hè, dân bản đi nương, ra ruộng về, tất cả tới mó nước đầu bản là “kẻ xuộng xựa” (cởi quần áo “tắm”). Chị em thường là ý tứ ngồi xổm, khép đùi, áo được cởi vắt trên con sào bên cạnh, váy được dâng lên đỉnh đầu, ngực lưng hứng vào ống nước đang chảy, 2 tay xoa kỳ cọ thoải mái, đúng như “da trắng vỗ bì bạch”, vú để tự do (là của trời cho) ai thấy cũng chẳng sao.

Cánh đàn ông thì “truồng” 100%  chuyện trò cười đùa rôm rả… thật cứ như nơi vườn địa đàng buổi ban đầu con người còn chưa biết xấu hổ (nả hại) - tức là khi người nữ chưa ăn trái cấm (theo lời xui của con rắn “quỷ sa tăng”) nên tất cả đều rất vô tư, tắm truồng chung 1 mó nước, thỏa thích ngắm thân hình khỏa thân của nhau mà trong lòng không gợn chút dục vọng thú tính để dẫn đến tội lỗi?...

- Hai là: Tắm suối (vắng vẻ là tắm truồng)

- Ba là: Tắm sông

Chị em thường là ngồi ngâm mình dưới nước, váy để trên đỉnh đầu hoặc váy để trên bờ. Khi tắm ở sông suối, chị em thường kết hợp gội đầu, thả làn tóc mây xòa theo dòng nước, rồi đứng dậy, vung quay tít cứ như một điệu múa tóc thật là điệu đàng của các tiên nữ trên mường trời.

Người Thái rất tự hào về cái sạch sẽ da thịt của mình… chị em ngày rửa tới vài lần, lại mặc váy rộng xông xênh, nên thường nói đùa “hi của chúng tao là hi hom (thơm), chứ không bịt kín (xi líp), quần bó chặt như người Kinh chúng mày, nên hi min (thối) lắm bệnh phụ khoa”.

Văn minh đô thị hay hoang sơ thôn bản (trở lại cuội nguồn tự nhiên chưa ô nhiễm môi trường) đang là một vấn đề nhức nhối của cái thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và con người hình như đang tự đánh mất mình để tiến lên văn minh tàn bạo.

Tắm ở bản (cũng như ở ao làng ngày xưa), chao ôi, đang lùi dần vào dĩ vãng để tắm nước máy đã được xử lý bằng hóa chất (chất độc hóa học diệt khuẩn)…phải chăng ta cũng đang tự “diệt mình” làm biến đổi gen để rồi sinh ra 1 lũ con cháu vô cảm chỉ biết “tiền” và máy móc,vũ khí tiêu diệt, hủy diệt hàng loạt mà thôi….?

                                                4/3/2012.

 

 

Bài 18:

LỄ TẰNG CẨU

lễ tằng cẩu

Lễ tẳng cảu (tằng cẩu): Là lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu của phụ nữ Thái đen Sơn La  khi lấy chồng.

Sau lễ mai mối, chạm ngõ ăn hỏi và lễ cưới, người con gái đã có chồng thì lễ tẳng cảu làm ở nhà gái.

Trong các đồ sính lễ do nhà trai đem sang thường phải có 1 chiếc trâm bạc cài tóc (mản khắt phôm)… người đảm nhiệm làm thường là bà dì, nhà gái có 2 phù dâu trợ lý tiến hành.

Đầu tiên là gội đầu bằng nước vo gạo nếp (để chua) - bẳng nậm khẩu má và nồi nước lá sả, lá bưởi, lá tre… tất cả đem ra bến nước bờ suối giúp cô dâu gội đầu (như một lễ tẩy dơ bẩn trôi theo dòng suối, chỉ còn lại trên đầu phần vía (khoăn hua) thơm tho tốt lành… xong cô dâu về lên phía “tang chan” - khoảng 10 ghế mây (tắng)… cô dâu quay về phía mặt trời mọc, mọi người đứng xung quanh, 2 phù dâu áp sát 2 bên, 1 người nâng đĩa trâm cài tóc. Bà “Nai tằng cẩu” rút lược sừng đen từ cái “ếp” của mình ra làm vài động tác đưa lên hạ xuống và chải tóc cho cô dâu nhiều lần.

Cuối cùng dùng 2 tay vuốt ngược từ sau gáy, đưa độn tóc đặt vào chính giữa đỉnh đầu và búi tóc “tằng cẩu”… sau khi vuốt nắn lại không còn sợi tóc nào vương lòe xòe, thì cô nâng trâm cài tóc xuyên đúng chỗ để giữa “cẩu”, nổi bật đồng bạc hào hoa văn trắng ở phần đầu của trâm cài tóc chính giữa búi tóc ngược.

Trước đông đủ mọi người, bà Nai cẩu nói:

Khắt cẩu đi

Vi hoa kiểng

Tẳng cảu au phua

Té nị pay nả

Báu đảy rặm pay nảư

Chăư pay ứn luk ơi!

Nghĩa là:

Gội đầu sạch

Chải tóc mượt

“Tẳng cảu” lấy chồng

Từ giờ này đi

Từ nay về sau

Không được nước thay dòng

Lòng đổi chỗ con ơi!

Tiếp theo 2 vợ chồng dắt tay nhau đi qua dọc bàn tiệc đặt dài giữa nhà đã có khách ngồi kín đông vui nâng chén rượu chúc mừng.

NK-

 

Bài 18:

TỤC ĐẺ NGỒI CỦA NGƯỜI THÁI

* Đẩy xí phiên xong hắu chắng ó kin khẩu

Cẳư bươn phạ chắng ó kin nốm

Tốc khuổm chắng pên lụ chái

Tốc hai nọng ánh xai phên lụ nhinh phủ ưởi

* 10 tháng chờ đôi ta ra đời ăn cơm

9 tháng đợi đợi đôi ta ra đời bú mẹ

Rơi sấp thành bé trai

Rơi ngửa em yêu thành bé gái.

Khi chuyển dạ, sản phụ được uống nước với cây “mậy phang” (cây tô mộc) có tác dụng cầm máu (có trong rừng hay mua của người Dao, người Hmông).

Sản phụ đẻ ngay trong ngăn buồng ngủ của mình trong tư thế ngồi (ghế = tắng), đỡ đẻ thường là mẹ đẻ hay mẹ chồng, hoặc tự xoay xở (nay thì có y tá bản)…

Lễ vật cúng “bà mụ”: 1 con gà trắng, cắt rốn bằng dao cật nứa hơ qua lửa hay nhúng vào nước sôi để sát trùng. Rau thai được gói chôn gần nhà (kín đáo vào ban đêm).

Khi trẻ đầy tháng thì cúng “hết hoóng”. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lúng ta (bên ngoại) đến đặt tên cho cháu.

 

(xem tiếp kỳ 2)

1 2 3 4

 

Các bài cùng tác giả


 ▪ Tết Ở Đình Bảng Xưa - Nguyễn Khôi

Chiếu Dời Đô Và Bài Ngự Chế Bi Ký - Nguyễn Khôi

Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn - Nguyễn Khôi

Sơn La Ký Sự - 2 - Nguyễn Khôi

Sơn La Ký Sự - 3 - Nguyễn Khôi

Sơn La Ký Sự - Kỳ 1 - Nguyễn Khôi

Sơn La Ký Sự - 4 - Nguyễn Khôi


▪ ▪

Trang Văn Học




Đó đây


2024-05-16 - Lộc Cát Xê ( Nam Lộc) chia sẻ bí quyết gây quỹ nhiều nhất với Nguyễn Thanh Tú - Chuyện cũ nhưng cũng cần biết.

2024-05-15 - Ổi Xanh: 275. HDH đi gặp Vũ Minh Giang. Vì sao? -

2024-05-10 - Linh mục ở Dallas bị bắt vì hai tội dâm dục với trẻ em ở Garland - Linh mục Ricardo Reyes Mata ở Dallas bị buộc tội "chạm" vào bộ phận riêng của hai đứa trẻ một cách không thích hợp, cảnh sát cho biết hôm thứ Ba.

2024-05-08 - CDBHB3663. Không thể để cho những kẻ tự cho mình là “vùng cấm”! -

2024-05-08 - CDBHB3660. Đàm Vĩnh Hưng thiếu trách nhiệm tôn trọng lịch sử đất nước -

2024-05-08 - Kiên quyết bác bỏ những luận điệu xuyên tạc Chiến thắng ĐBP - Nhận diện - VNews -

2024-05-08 - Bộ trưởng Quốc phòng Pháp thăm đồi A1, hầm Đờ Cát | Tiền Phong TV -

2024-05-05 - VTV Đặc biệt: Vòng vây lửa - Hồ sơ mật của Pháp về Điện Biên Phủ lần đầu được giải mã -

2024-05-05 - Em bé “được cưng nhất” lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ -

2024-05-05 - Tập Cận Bình thử máy … alô … “đuổi cổ” Blinken về Mỹ nghen. Họp mật căng thẳng … Tiktok -



▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 >>>




Thư, ý kiến ngắn
● 2024-05-14 - Chỉ Có Lũ Việt Gian Thiên Chúa Giáo Và Lũ Lê Chiêu Thống Tân Thời Mới Nói Miền Nam Là Một Nước R - Ri n -

● 2024-05-13 - Tại vì chủ tịch nước CHXHCN VN VVT sang Vatican mời Giáo hoàng Francis đến viếng VN nên ... - PH Gò Vấp -

● 2024-05-13 - Giáo Hoàng Francis nói JESUS SỐNG LẠI DƯỚI DẠNG HỒN MA, BÓNG QUẾ - Ri Nguyễn -

● 2024-05-12 - Giáo Hoàng Francis nói JESUS SỐNG LẠI DƯỚI DẠNG HỒN MA, BÓNG QUẾ - Ri Nguyễn -

● 2024-04-21 - KHÔNG BIẾT NHỤC - Một Nhóm Việt Nam vinh danh các lính Hàn trong chiến tranh Việt Nam! - SH sưu tầm -

● 2024-04-19 - “CỬA LÒ - KHÁT VỌNG TOẢ SÁNG” - Nguyễn Tiến Trung -

● 2024-04-16 - Bất bình trước sự san bằng, trộn lẫn CHÍNH /TÀ của những người mù sử: HOÀNG NAM - Chủ kênh Challenge Me - FB Lý Thái Xuân -

● 2024-04-01 - Phim ĐÀO PHỞ & PIANO -Tại sao không nên đánh dấu người yêu nước bằng biểu hiệu của một tập thể thiểu số - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-21 - CHỐNG CỘNG: Chuyện cười ra nước mắt ở Sở Học Chánh Tacoma, Wa - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-09 - Tổng thống Nga, Vladimir Putin đọc thông điệp gửi Quốc hội Liên bang (29/2/2024) - Gò Vấp -

● 2024-03-09 - Các hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong những năm 1942-1954 - trích Hồi ký Nguyễn Đình Minh -

● 2024-03-08 - Hồi ký lịch sử 1942-1954 - Liên Quan đến Giám mục Lê Hữu Từ, Khu tự trị Phát Diệm, Công Giáo Cứu Quốc - VNTQ/ Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư -

● 2024-02-15 - Trương vĩnh Ký dưới con mắt của người dân - Trần Alu Ngơ -

● 2024-02-14 - Các nhà hoạt động ẤN ĐỘ GIÁO phản đối chuyến viếng thăm của Giáo hoàng John Paul II - FB An Thanh Dang -

● 2024-02-09 - “KHÁT VỌNG NON SÔNG” của VTV1 và chuyện Trương Vĩnh Ký - Nguyễn Ran -

● 2024-02-05 - Góc kể công - Đồng bào Rô ma giáo cũng có người yêu nước vậy! Đúng. - Lý Thái Xuân -

● 2024-02-01 - Câu Lạc Bộ Satan Sau Giờ Học Dành Cho Trẻ 5-12 Tuổi Sắp Được Khai Trương Ở Cali, Hoa Kỳ - Anh Nguyen -

● 2024-01-29 - Giáo hội Rô ma giáo Đức "chết đau đớn" khi 520.000 người rời bỏ trong một năm - The Guardian -

● 2024-01-29 - Một tên Thượng Đế-Chúa ngu dốt về vũ trụ, nhưng thích bốc phét là tạo ra vũ trụ - Ri Nguyễn gửi Phaolo Thai & John Tornado -

● 2024-01-29 - Kinh "Thánh" dạy Con Chiên Giết Tất Cả Ai Theo Tôn Giáo Khác - Ri Nguyễn vs John Tomado -


▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 >>>