|
18-Nov-2011 |
Trong cuồng vọng muốn thiết lập một chế độ giáo trị tương lai ở Việt
Nam (theo Tông huấn của Vatican thúc giục qua Tông huấn Á châu Ecclesia
In Asia 1999 do Giáo hoàng Gioan Phao lồ 2 phát động), những người Công
giáo hoài Ngô đó lại càng phải tìm cách phá hoại Phật giáo mà họ xem
là phên dậu văn hóa vững chắc của dân tộc Việt. Từ đó, và thô bạo nhất,
họ tìm cách bôi nhọ cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, biểu
tượng bất bạo động và cao điểm tố cáo tội ác của chế độ Ngô Đình Diệm.
Vì vậy, bài viết nầy cũng nhằm vạch ra một số ngụy tạo và xuyên tạc về
cuộc Tự thiêu của Hòa thương Thích Quảng Đức. Đồng thời, trong phần cuối
bài viết, cố gắng giải thích vì sao có những ngụy tạo và xuyên tạc đó.
(SH trích đoạn từ bài viết để tóm lược)
1- MỤC ĐÍCH BÀI VIẾT:
Bài viết nầy có ba mục đích:
- Trước hết, vào đầu thập niên 60’ của thế kỷ trước, Cuộc vận động
đòi bình đẳng Tôn giáo và Tự do Tín ngưỡng năm 1963 của Phật giáo
đồ tại miền Nam Việt Nam là một biến cố lịch sử to lớn và mang
nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc và lâu dài không những cho Phật giáo
Việt Nam mà còn cho cả dân tộc Việt Nam. Đó là lúc dân tộc đang đối
diện vời sự bành trướng của chủ nghĩa nước lớn tại Việt Nam, và riêng
Phật giáo tại miền Nam thì đang phải chịu đựng một sách lược Công
giáo hóa miền Nam mà trong đó Phât giáo trở thành đối tượng hàng
đầu phải bị khống chế và tiêu diệt. Đã có nhiều tài liệu của người
Việt và người ngoại quốc viết về lần trở mình bi hùng đó của Phật
giáo tại miền Nam. Tuy nhiên, một công trình quy mô và chính thức
của Phật giáo Việt Nam thì cho đến nay vẫn chưa có. Song song, lại
có nhiều “tài liệu” của những thế lực xem Phật giáo là kẻ thù được
tung ra làm nhiễu loạn sự thật lịch sử. Do đó, trong niềm ao ước
được thấy một hồ sơ như thế vào năm 2013, kỷ niệm 50 năm của biến
cố 1963, chúng tôi quyết định hoàn thành bài viết nầy để góp một
số thông tin vào hồ sơ đó.
- Thứ đến, sau 1975, tại hải ngoại, lợi dụng tình trạng thiếu thốn
tài liệu và mất dần nhân chứng, một số tàn dư của chế độ Ngô Đình Diệm,
mà tuyệt đại đa số là các tín đồ Công giáo, đã tìm cách mạo hóa lịch
sử để vinh danh chế độ Ngô Đình Diệm. Một trong những nỗ lực nầy là
cố ngụy tạo lịch sử để chứng minh rằng ông Diệm còn thì miền Nam không
“rơi vào tay Cọng sản” và bây giờ muốn lấy lại miền Nam thì
phải “phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm”. Luận điểm nầy đẩy Phật
giáo lên thành đối tượng bị đánh phá hàng đầu vì trong biến cố 1963,
họ cho rằng chính Phật giáo (chứ không phải vì chế độ thì độc tài chính
trị, xã hội thì bất công thảm nhũng, còn quốc sách “chống Cọng” thì
phụ thuộc rồi phản bội đồng minh) đã làm sụp đổ Ngô triều. Thêm vào
đó, trong cuồng vọng muốn thiết lập một chế độ giáo trị tương lai ở
Việt Nam như các Tông huấn của Vatican thúc dục (nhất là tư tưởng chủ
đạo của Tông
huấn Á châu Ecclesia In Asia 1999 mà Giáo hoàng Gioan Phao
lồ 2 phát động), những người Công giáo hoài Ngô đó lại càng phải tìm
cách phá hoại Phật giáo mà họ xem là phên dậu văn hóa vững chắc của
dân tộc Việt Nam. Từ đó, và thô bạo nhất, họ tìm cách bôi nhọ cuộc
tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, biểu tượng bất bạo động và
cao điểm tố cáo tội ác của chế độ Ngô Đình Diệm. Vì vậy, bài viết nầy
cũng nhằm vạch ra một số ngụy tạo và xuyên tạc về cuộc
Tự thiêu của Hòa thương Thích Quảng Đức. Đồng thời, trong phần cuối
bài viết, cố gắng giải thích vì sao có những ngụy tạo và xuyên
tạc đó.
- Cuối cùng, đặc biệt bài viết sẽ trả lời luận điệu vu khống cụ thể
sau đây của một số người Công giáo hoài Ngô thù ghét Phật giáo: Đó
là "Hoà thượng Thích Quảng Đức đã bị ông Nguyễn Công Hoan,
vốn là một điệp viên của Việt Cọng, đầu độc từ trước, và với sự chỉ
đạo của giới lãnh đạo Phật giáo đấu tranh năm 1963, đã thiêu sống Hoà
Thượng khi Ngài đã hoàn toàn mê man". Luận điệu vu khống nầy là
nhằm triệt tiêu giá trị cao cả của cái chết của Ngài Quảng Đức, đồng
thời cũng biện hộ cho lời tuyên bố “nướng sống” (“barbecued”)
của bà Ngô Đình Nhu lúc đi “giải độc dư luận” tại Mỹ là đúng. Và quan
trọng hơn, là nhằm thực hiện lời nguyền “tôi chết trả thù cho tôi”
của người đồng đạo và cũng là lãnh tụ chính trị của họ là ông Ngô Đình
Diệm để, theo lời một số giáo dân tại hải ngoại, dọn đường cho Vatican
phong thánh ông trong tương lai.
Đáng lẽ
ra người cáo buộc phải trưng dẫn bằng cớ, nhưng cho đến nay (2011), chúng
tôi chưa thấy những kẽ hoài Ngô đưa ra được bất kỳ một tài liệu hoặc nhân
chứng nào khả tín cả. Tuy vậy, những cáo buộc nầy cũng có những tác động
nhất định trên một số người nhẹ dạ, hoặc một số người không chịu nghiên
cứu, chỉ thích nghe những gì mình muốn nghe, hoặc những người đóng chốt
trong không gian Internet, cứ lập đi lập lại mãi một điều để tẩy não người
đọc như Đức Quốc xã và Vatican đã từng làm.
Bài viết nầy, do đó, sẽ nhằm
chấm dứt các tác hại đó bằng cách khẳng định lại và chứng minh rằng (i)
Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã đơn phương có ý định tự thiêu từ trước,
và cho đến phút chót, Ngài vẫn tỉnh táo với hành động bật lửa tự
thiêu của mình, và (ii) Người tưới xăng lên đầu và thân thể Ngài Quảng
Đức là Đại đức Thích Chơn Ngữ, thế danh Hùynh Văn Hải, chứ không phải “ông
Việt Cọng” Nguyễn Công Hoan.
2-
QUYẾT ĐỊNH TỰ THIÊU:
2.1 Ai
cũng biết rằng ngay từ đầu, phương thức đấu tranh của phong trào Phật giáo
là bất bạo động. “Tự thiêu” là một khái niệm xa lạ trong phương thức đấu
tranh của Phong trào Phật giáo lúc bấy giờ. Giáo sư Lê Cung ghi nhận như
sau:
“Tuân
thủ những nội dung trên đây của lý thuyết bất bạo động, phong trào Phật
giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 ngay từ đầu đã khẳng định phương pháp
đấu tranh là bất bạo động… Thật vậy, Trong cuộc hội nghị mật vào
tối 7-5-1963 tại chùa Từ Đàm (Huế), giới lãnh đạo Phật giáo khẳng định
phương pháp đấu tranh là bất bạo động. Tiếp theo, phương pháp đã khẳng
định lại một lần nữa trong “Bản phụ đính” bản Tuyên ngôn ngày
10-5-1963 được công bố vào ngày 23-5-1963. Bất bạo động bằng
hình thức tự thiêu vẫn chưa được đặt ra, mặc dầu trong những cuộc tuyệt
thực đầu tiên của Tăng Ni trên toàn miền Nam vào cuối tháng 5, đầu tháng
6-1963, giới lãnh đạo đã dự tính rằng: “Nếu kéo dài các cuộc rước
linh và tuyệt thực một cách nhàm chán thì phong trào tự nó cũng bị xẹp
vì thiếu những hình thức mới mẻ, gây xúc động mạnh nuôi dưỡng” (Theo Nguyễn
Khải, Sư già chùa Thắm và ông Đại tá về hưu, Báo Lao Động, số
24, ngày 25-3-1993.). Song hình thức mới mẻ là gì vẫn chưa được tìm
ra, ngay cả khi giới lãnh đạo Phật giáo nhận được bức tâm thư đề ngày
27-5-1963 của Hòa thượng Thích Quảng Đức với nội dung xin tự thiêu để
bảo vệ Phật pháp, họ vẫn không chấp thuận. Trên thực tế, giới lãnh dạo
Phật giáo còn “thật lúng túng, cũng không biết tự thiêu như thế nào!”
(Theo Thích Thông Bửu. Tư tưởng Bồ tát Quảng Đức, trong “Đại lễ kỷ
niệm năm thứ 37 ngày tự thiêu của Bồ tát Quảng Đức”. Tổ đình Quán
Thế Âm ấn hành, tr.15).”
[Nguồn:
Lê Cung - http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-135_4-13730_5-50_6-1_17-23_14-1_15-1/
]
2.2 Nhưng
trước thái độ ngoan cố của chính quyền Diệm không thật tâm muốn giải quyết
“5 Nguyện Vọng” của Phật giáo, thậm chí còn gia tăng mức độ đàn áp chùa
chiền và Tăng tín đồ, HT Thích Quảng Đức đã gửi cho Giáo Hội Tăng Già Toàn
Quốc một lá thư đề ngày 27/5/1963, nói rõ tâm nguyện muốn được
tự thiêu của mình, tâm nguyện vốn đã được ấp ủ từ khi chính quyền Diệm
tiến hành chính sách kỳ thị Phật giáo, đặc biệt khốc liệt nhất tại 5 tỉnh
Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên và Bình Định trong ba năm 1960,
1961 và 1962. Rồi tâm nguyện đó lại càng thúc bách hơn khi lá cờ biểu tượng
của Phật giáo bị lăng nhục và sau đó máu tử đạo của Phật tử đổ ra tại Huế.
Lá thư như sau:
Phật
lịch 2507, Sài Gòn ngày 27-5-1963
Kính
bạch Hòa Thượng Hội Chủ, Thượng Tọa Trị Sự Trưởng
Chư
Thượng Tọa, Ðại Ðức trong Giáo Hội Tăng Già Việt Nam
Kính bạch quý Ngài,
Nhìn
lại quá trình lịch sử truyền thống dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã ghi
đậm những nét son huy hoàng trong mọi lãnh vực: học thuật, văn hoá, chính
trị, quân sự, kiến thiết, đã hòa một nếp sống của quần chúng. Qua các
triều đại Ðinh, Lê, Lý, Trần, quốc gia hưng thịnh, Phật giáo đã là cương
lĩnh của chính quyền, của nền pháp trị bình đẳng. Nhưng Phật giáo không
vì sự đóng góp hữu dụng vào quốc sách dân sinh một cách tích cực và chân
chính mà khuynh loát, đàn áp các tôn giáo khác. Ngược lại, Phật giáo
đã dung hoà mầu nhiệm cùng với các tôn giáo khác để cung ứng những tinh
ba thuần túy cho sự ích quốc lợi dân.
Tinh
thần Phật giáo đã gắn liền với tinh thần quốc gia dân tộc: Phật giáo
thịnh thì quốc gia thịnh, Phật giáo suy thì quốc gia suy. Ðiều này lịch
sử đã minh nhận.
Nhưng
hơn một thế kỷ nay, nhất là trong giai đoạn hiện tại, Phật giáo Việt
nam luôn luôn nằm trong tình trạng hổn mang, bi thảm đau thương: nào
bị đàn áp, nào bị đối xử bất công, ngược đãi…Phật giáo đồ bị bức
bách khuynh loát một cách trắng trợn, có nơi bị chôn sống, bị tù đày,
có nơi bị cản trở ngăn cấm cả về hành đạo, tu tập, tụng niệm (như
vùng Tuy Hòa, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh). Quyền tự do tín ngưỡng, một quyền
bất khả xâm phạm của con người, đã bị tổn thương chà đạp.
Cao
quý thay lòng ẩn nhẫn của Phật tử Việt Nam! Vốn được giáo thụ, un đúc
tính từ bi cao thượng của Ðấng Chí Tôn, Phật giáo đồ chúng ta đã âm thầm
nhẫn nhục chịu đựng một cách chân thành, nhưng kẻ manh động đã cố tình
lợi dụng cử chỉ cao đẹp ấy của chúng ta, gieo mãi thương đau cho Phật
giáo đồ Việt Nam.
Mùa
Phật Ðản 2507 - 1963 tại Cố đô Huế, một cảnh tang thương đã xảy ra cho
Phật giáo Việt Nam nói riêng, Phật giáo thế giới và nhân loại nói chung
là máu Phật tử đã chảy, xương thịt Phật tử đã nát tan trước họng súng
bạo tàn của kẻ ác độc, vô nhân đạo. Thế là những sinh mạng đã ngã
gục và những thân mạng đã mang thương tích trên mình, tất cả đều muốn
phát lộ ý chí của người Phật tử: bảo vệ Chánh pháp, bảo vệ quyền sống
của những con người tin đạo, bảo vệ lá cờ Phật giáo quốc tế mà một phần
ba nhân loại tôn thờ. Ai có thể chối cãi được sự thật của nguyên nhân
chính ấy là: lá cờ Phật giáo bị triệt hạ bởi công điện số 9195 phát xuất
từ Phủ Tổng thống, ngày 6-5-1963.
Trước
sự kiện thảm thương ấy, Phật giáo Việt Nam đã đến lúc bắt buộc phải đứng
lên tranh đấu cho lý tưởng tự do tín ngưỡng của mình, được minh định
rõ ràng trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa và đường lối dân chủ pháp trị,
cộng đồng đồng tiến xã hội của Chánh phủ do Tổng thống Ngô Ðình Diệm
chủ trương.
Với
tính cách ôn hòa bất bạo động, kỷ luật trong sự tranh đấu hợp tình hợp
lý, người Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam cần phải có một ý niệm sáng suốt,
tiêu biểu ý niệm chân chánh, trong giai đoạn vô tiền khoán hậu của lịch
sử Phật giáo Việt Nam.
Vậy
tôi tên là Nguyễn Văn Khiết, pháp danh Thị Thủy, pháp hiệu Thích Quảng
Ðức, tu sĩ Giáo hội Tăng Già Việt Nam, mang thẻ căn cước số 399703, cấp
tại quận Tân Bình ngày 21-12-1962. Hiện tọa chủ chùa Long Phước, xã Ninh
Quang, Khánh Hòa, xác định rằng:
1.Năm
nguyện vọng tối thiểu ghi trong Bản tuyên ngôn của Tăng tín đồ Phật giáo
là phản ảnh tinh thần chân chính của Phật giáo Việt Nam.
2.Nguyện
luôn luôn son sắc bền chí với lý tưởng tranh đấu hợp tình hợp lý, bất
bạo động của Phật giáo đồ Việt Nam.
3.Triệt
để tuân theo và ủng hộ các cấp lãnh đạo Phật giáo.
Và
để minh định lập trường của chúng tôi, chúng tôi tự nguyện thiêu đốt
thân này nếu Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không làm thỏa mãn nguyện
vọng ghi trong Bản tuyên ngôn là phản ảnh tha thiết mong cầu của toàn
thể Phật giáo đồ Việt Nam.
Phật
giáo Việt Nam bất diệt!
Lá
cờ Phật giáo không thể bị triệt hạ!
Và
xin quý Thượng Tọa chấp thuận, chuyển tới toàn thể tín đồ lời ước nguyện
cuối cùng của chúng tôi: " Phật tử chúng ta hãy cùng nhau tự nguyện
tự giác, bền chí với sứ mạng duy trì Chánh pháp và bảo vệ lá cờ Phật
giáo."
Kính
Tỳ khưu Thích Quảng Ðức
(Nguyễn Văn Khiết- đóng dấu và ký tên)
[Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-139_4-5380_5-50_6-1_17-46_14-1_15-1/
]
2.3 Vài
ngày sau đó, vị Trị Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già Việt Nam là Thượng Tọa
Thích Tâm Giác, đã từ chối nguyện vọng “tự nguyện
thiêu đốt thân nầy” của Ngài trong một lá thư nguyên văn như sau
[trích từ bài viết của ông Trần Kim Cường]:
“Kính
gởi Đại Đức Tỳ Khưu Thích Quảng Đức (Nguyễn Văn Khiết).
Kính bạch Đại Đức
Tôi
trân trọng tin để Đại Đức rõ, sau khi tiếp nhận văn thư của Đại Đức
đề ngày 27-5-1963 xin Giáo Hội cho phép được thiêu đốt thân xác để
cúng dường lên Tam Bảo nhân vụ biến động ở Huế, vì lý do lá cờ Phật Giáo
bị triệt hạ trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa trong ngày Đại Lễ Phật
Đản mà tại Huế đã có 9 người chết và nhiều người bị trọng thương. Với
quyết tâm bảo vệ Phật pháp, Đại Đức nguyện hiến xác thân phẩm này
bằng cách thiêu đốt để phản đối chính sách bất bình đẳng Tôn giáo
với nhà cầm quyền và nêu tỏ thái độ hy sinh vì Đạo cao cả mà mình đã
tôn thờ.
Giáo
Hội rất thông cảm trước ý chí cao đẹp ấy. Nhưng trên nguyên tắc pháp
lý (Luật Phật đã định cũng như Luật Pháp thế gian) Giáo Hội không
thể chấp nhận điều nguyện thiêu đốt thân xác của Đại Đức được. Vậy
xin Đại Đức hoan hỉ và cầu chúc Đại Đức vô biên an lạc.
Trân
trọng kính chào Đại Đức.
Thượng Tọa Thích Tâm Giác ký tên.
Qua lá thư của chính Ngài Quảng Đức và thư trả lời của Giáo Hội Tăng Già,
người ta thấy rõ ràng là Ngài Thích Quảng Đức đã có ý nguyện tự thiêu
từ trước. Không ai có thể cáo buộc Ngài bị thiêu đốt, kể cả các ký
giả ngoại quốc cũng không biết chuyện này. Ngoài ra, cũng theo văn thư
trả lời thì Giáo Hội Tăng Già đã không chấp thuận cho Ngài Thích Quảng
Đức tự thiêu, vậy thì không thể có sự việc cắt đặt người với tên tuổi
đàng hoàng lãnh trách nhiệm tẩm xăng cho Ngài, còn nếu Ngài có nhờ
các đệ tử giúp đỡ trong các công việc, thì những việc làm ấy không phải
là các sự việc được chánh thức sắp xếp, để cho ngày nay các ông cứ phải
bàn cãi, cò kè với nhau.
Vậy thì
rõ ràng là cuộc tự thiêu của Thượng Tọa Thích Quảng Đức không do ai tổ
chức cả, khi Ngài muốn điều gì thì các đệ tử của Ngài chiều theo ý của
Ngài mà thôi. Và do việc Giáo Hội không chấp thuận qua văn thư như trên,
nên phải xác định rõ ràng rằng Giáo Hội không có chủ trương việc tự thiêu
của Thượng Tọa, vậy thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không có
lỗi lầm gì trong biến cố này, và cũng do đó mà Chánh phủ Ngô Đình Diệm
đã không có lý do gì để truy tố Giáo Hội Phật Giáo.”
[Nguồn: Trần
Kiên Cường - http://quocsam2009.blogspot.com/2011/07/su-that-nao-sau-vu-tu-thieu-lich-su.html#!/2011/07/su-that-nao-sau-vu-tu-thieu-lich-su.html ]
2.4 Trong
lúc đó, theo vị Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng thống thời Ngô Đình Diệm là
ông Đoàn Thêm (trong “Hai mươi năm qua” và “Những ngày chưa quên”,
Đại Nam, 1969) thì ngày 29 tháng 5, lực lượng an ninh Huế vẫn siết chặt
vòng vây “nội bất xuất ngoại bất nhập” ở chùa Từ Đàm , nơi mà sinh viên
và Phật tử thường tụ họp đông đảo để ủng hộ cho những đòi hỏi của Phật
giáo, đồng thời chính quyền cho cắt điện và nước ở ngôi chùa này.
Trước
hành động đàn áp đó của Chính phủ, ngày 30 tháng 5, Phật giáo tổ chức lễ
cầu siêu cho các nạn nhân tại chùa Xá Lợi và chùa Ấn Quang, các Tăng Ni
và Phật tử tuyệt thực 48 giờ, đồng thời 300 Tăng Ni biểu tình trước Quốc
hội với những khẩu hiệu yêu cầu Chính phủ thỏa mãn 5 nguyện vọng của Phật
giáo.
Thấy
tình hình bắt đầu căng thẳng, ngày 1 tháng 6, Chính phủ Diệm thay vị Đại
biểu Trung phần Hồ Đắc Khương, Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng,
là những người mà Chính phủ cho là nhu nhược thân Phật giáo, bằng các ông
Nguyễn Xuân Khương và Thiếu tá Nguyễn Mâu (một si quan Công giáo ở trong
đảng Cần Lao) để hai nhân vật này hành động quyết liệt hơn trong việc đàn
áp Phật giáo.
Vì
tình hình nghiêm trọng đó, chính phủ đã thành lập ủy ban Liên Bộ và Phật
giáo hình thành Ủy ban Liên Phái để thương nghị với nhau. Trong khi hai
ủy ban đang tiến hành những buổi họp đàm phán thì lực lượng an ninh vẫn
bao vây chùa chiền và gia tăng các biện pháp cắt điện, cắt nước tại các
chùa lớn ở Huế và Đà Nẵng. Riêng tại chùa Tỉnh Hội Nha Trang, cảnh sát
và công an còn chăng kẽm gai chận đường các Phật tử vào chùa và cản trở
việc đi lại của các Tăng Ni từ Sài Gòn về các tỉnh và ngược lại. Cho đến
ngày 7 tháng 6, trước phản đối của Phật giáo, Ủy ban Liên Bộ mới công nhận
hành động thiếu thiện chí đó và gởi văn thư trả lời cho Ủy ban Liên Phái
là đã cho cấp lại điện nước và quân đội không chận đường vào chùa nữa.
Nhưng
dù có văn thư chính thức của Ủy ban Liên Bộ, những hành động chống phá
Phật giáo vẫn tiếp tục xảy ra càng lúc càng thô bạo tại các địa phương
và ngay giữa thủ đô Sài Gòn. Độc hại hơn nữa, chính quyền đã cho một số
công an và cảnh sát cạo đầu, giả vờ mặc áo nâu hay áo lam của tăng sĩ để
ra chợ chọc gái, ăn thịt, uống rượu, mua hàng không chịu trả tiền,... rồi
đưa lên báo nhằm bôi lọ các nhà sư và xuyên tạc cuộc đấu tranh của
Phật giáo.
Ngày
8 tháng 6, trong một thông cáo gửi cho Phong trào Phụ nữ Liên Đới, bà Nhu
còn công khai lên án và hăm dọa Phong trào Phật giáo khi tố cáo những người
trong phong trào Phật giáo là hợp tác với Cọng sản và yêu cầu chính
quyền phải có biện pháp quyết liệt với phong trào đấu tranh.
Để
ứng phó với thái độ phá hoại và không có thiện chí giải quyết nguyện vọng
đó của chính quyền, Phật giáo đành phải lấy những hành động hy sinh
quyết liệt hơn mong cảnh tỉnh và khai thông đầu óc giáo điều của cấp lãnh
đạo Chính phủ. Trong một ngôi chùa vắng lặng giữa Sài Gòn sôi động,
Ngài Thích Quảng Đức đã lấy một quyết định làm chuyển đổi cả một chế độ
và đẩy lịch sử Việt Nam lên một chiều cao bi hùng mới.
Quyết
định đó được trình bày một cách thấu tình đạt lý của một ngưòi vừa là Phật
tử vừa là công dân trong “Lời Nguyện Tâm Quyết”, nguyên bản được
viết bằng chữ Nôm, và được dịch ra tiếng Việt Latinh để phổ biến trong
giai đoạn đó. Sự hình thành của văn bản đó được kể lại như sau:
“Về
một bức thủ bút chữ Nôm của Hòa thượng Thích
Quảng Đức” của Phạm Quý Vinh (nguồn:
Tạp Chí Sông Hương số 227 - 2008) đăng lại với phiên bản điện
tử năm 2009 trên http://tapchisonghuong.com.vn/
“Trước
lúc tự thiêu, Thích Quảng Đức có để lại một bức thủ bút bằng chữ Nôm(2).
Đây là một văn bản rất ít người được biết đến và chính là lời tâm nguyện
của Thích Quảng Đức trước lúc đi về miền Tây phương cực lạc. Bởi vì,
nó không những nêu lên được ước nguyện của một con người mộ đạo, mà nó
còn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi khó trả lời: Tại sao trong lúc chữ
Quốc ngữ đang thịnh hành thì Thích Quảng Đức lại dùng chữ Nôm (loại chữ
do dân tộc Việt Nam sáng tạo) để viết? Phải chăng là Thích Quảng Đức
đã đề cao bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam!
Với
những giá trị về lịch sử của văn bản, chúng tôi xin được giới thiệu bức
thủ bút của Thích Quảng Đức. Vì bản photocopy có đôi chỗ mờ nhạt nên
trong quá trình chế bản vi tính sẽ không tránh được những thiếu sót nhất
định, hy vọng là những ai quan tâm và hiểu biết sẽ đóng góp những ý kiến
chân tình để cho bản vi tính và phiên âm được hoàn chỉnh hơn. Nội dung
của bức thư cụ thể như sau:
Phiên
âm:
Lời
nguyện tâm quyết
Tôi
là Tỳ kheo Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Thế Âm Phú Nhuận Gia Định.
Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa. Tôi là một tu sĩ
mệnh danh là trưởng tử của Như Lai, không lẽ cứ ngồi điềm nhiên toạ thị
để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui vẻ phát nguyện thiêu thân giả
tạm này cúng dưỡng chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo.
Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại Đức, Tăng ni chứng minh cho tôi
đạt thành chí nguyện như sau:
Một
là mong ơn Phật Trời gia hộ cho tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp
nhận năm nguyện vọng của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên cáo.
Hai
là nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn
bất diệt.
Ba
là mong nhờ hồng ân Đức Phật gia hộ cho chư Đại Đức, Tăng ni, Phật tử
Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố, bắt bớ, giam cầm của kẻ ác.
Bốn
là cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.
Trước
khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho tổng thống
Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân, đều thi hành
chính sách bình đẳng tôn giáo để nước nhà xưng yến muôn thuở. Tôi thiết
tha kêu gọi chư Đại Đức, Tăng ni, Phật tử nên đoàn kết nhất trí hy sinh
để bảo tồn Phật giáo.
Nam Mô
A Di Đà Phật
Làm tại chùa Ấn Quang ngày bốn tháng sáu năm một ngàn chín trăm sáu
mươi ba.
Tỳ
kheo Thích Quảng Đức thủ ký.
Bằng
lời lẽ nhẹ nhàng, cô đúc nhưng lại giàu tính thuyết phục, Thích Quảng
Đức đã gởi gắm tâm nguyện của mình vào bức thư tuyệt mệnh với mong ước
bảo vệ Phật giáo ở Việt Nam. Đó quả là một tấm gương một lòng vì đạo
pháp mà xưa nay hiếm vậy.
P.Q.V
(2) Văn
bản này chúng tôi vừa sưu tầm được từ một thượng tọa ở chùa Thiền Lâm
(Biết chúng tôi có hiểu biết về Hán Nôm, nên thượng tọa đã tặng chúng
tôi một bản photocopy bức thủ bút này).”
Như vậy, qua ba lá
thư nói trên (thư xin tự thiêu ngày 27/5, thư trả lời của Giáo hội Tăng
Già, thư “Lời nguyện Tâm quyết” 4/6), chúng ta thấy quyết định tự thiêu
của Ngài Thích Quảng Đức là một quyết định xuất phát từ những động cơ
sâu sắc, có suy nghĩ chính chắn. Quyết định lại đi theo một trình
tự hợp lý, biến thiên theo mức độ trầm trọng của tình hình. Và dù bị
từ chối, cá nhân Ngài vẫn quyết tâm hoàn thành cho được tâm nguyện.
Quyết tâm đó, tâm nguyện đó, không chứa một mảy may hận thù và tuyệt vọng
nào mà trái lại còn thấm nhuần tình thương và hy vọng thì, lúc đó cũng
như bây giờ, những kẻ ngoại đạo hay giáo gian mang tâm cảnh hận thù làm
sao hiểu được, lại càng làm sao chấp nhận được.
Đó là về phần Hòa thượng
Thích Quảng Đức. Còn diễn biến cuộc tự thiêu thì sao ?
3-
NĂM NHÂN CHỨNG BẤT KHẢ PHỦ BÁC:
Về cuộc tự thiêu của Ngài
Quảng Đức, chúng ta có gần cả ngàn nhân chứng nhìn chăm chú vào nhất cử
nhất động của Ngài. Không những nhìn bằng mắt mà còn “nhìn” bằng máy chụp
ảnh và máy quay phim nữa. Họ là hơn 500 Tăng Ni và hàng trăm Phật tử và
đồng bào Sài Gòn có mặt tại ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt vào buổi
sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963. Cũng có mặt hôm đó, ngoài nhân viên mật
vụ chìm và nổi của chế độ Diệm có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của phong
trào Phật giáo, có lẽ cũng có những nhân viên “đặc biệt” của những tổ chức
cũng “đặc biệt” không kém của chính quyền nước ngoài như Mỹ và Vatican,
vốn là hai nước gắn bó chặt chẻ và có nhiều quyền lợi thiết thân với chế
độ Diệm ở Việt Nam.
Nhưng trong số gần cả ngàn
nhân chứng đó, để tái dựng lại cuộc tự thiêu của Ngài Quảng Đức một cách
trung thực, có năm vị mà chúng tôi cho là có độ khả tín cao, có thể tin
vào lời chứng hoặc hình ảnh của họ. Đó là hai tu sĩ Phật giáo có trực tiếp
đóng vai trò trong động thái tự thiêu (TT Thích Đức Nghiệp và ĐĐ Thích
Chơn Ngữ), một nhân viên làm việc cho cơ quan Mỹ và/hoặc chính quyền
Diệm được giao nhiệm vu theo dõi và báo cáo (ông Nguyễn Văn Thông),
và hai ký giả nước ngoài chuyên nghiệp làm việc cho các cơ quan truyền
thông uy tín quốc tế (nhiếp ảnh gia / nhà báo Malcolm Browne và
nhà văn / nhà báo David Hamberstam). Họ là những người có mặt tại
chỗ, chức năng của họ là ghi nhận sự kiện một cách trung thực và sau đó,
bằng cách nầy hay cách khác, phổ biến một cách công khai trên toàn thế
giới.
3.1 – Sau đây là
trích đoạn Hồi ký của Thượng tọa Thích Đức Nghiệp, nhân chứng
thứ nhất, người chịu trách nhiệm sao cho cuộc Tự thiêu được hoàn
thành:
“Vào
14 giờ, ngày 30-5-1963, đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết ở Huế đã
ra chỉ thị cho các cấp Phật giáo phải tổ chức tuyệt thực đòi hỏi chính
quyền thực thi năm nguyện vọng. Tại Sài Gòn, Ủy Ban Liên Phái chúng tôi
tuân luyện tổ chức ngay một cuộc biểu tình tại Công trường Lam Sơn trước
quốc hội, từ 12 giờ 5 phút tới 5 giờ chiều, rồi diễn hành, căng biểu
ngữ, về tới chùa Xá Lợi tuyệt thực suốt 48 giờ. Dịp này có Hòa thượng Thích
Quảng Đức tham dự và Ngài có gởi một bức tâm thư xin tự thiêu lên
Ủy Ban Liên Phái, đề ngày 27-5-1963. Tuy nhiên, Ủy Ban Liên Phái bác
bỏ nguyện vọng tự thiêu này.
Sau cuộc tuyệt thực đó, Ủy Ban Liên Phái lại tổ chức rước linh hàng tuần
vào mỗi buổi sáng ngày chủ nhật, để luân phiên cầu siêu tại các chùa
trong Sài Gòn; Chợ Lớn, Gia Định, là trụ sở chính của mỗi giáo phái
trực thuộc Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam.
Thế
nhưng, về phía chính quyền, ông Diệm vẫn cứ trơ trơ trước dư luận lên
án gắt gao của nhân dân Việt Nam và thế giới. Độc ác và bất nhân hơn
nữa là ông Diệm lại còn hạ lệnh bắt bớ thêm, phong tỏa thêm các chùa
trên toàn quốc, thậm chí ông còn cho những thuộc quyền thẳng tay cắt
đứt điện nước và tuyệt đường lương thực của các chùa chủ yếu.
Bởi vậy, vào 8 giờ tối ngày 10-6-1963, hai Thượng tọa Tâm Châu và Thiện
Hoa có cho xe vào Ấn Quang, mời tôi (Thích Đức Nghiệp) ra Xá Lợi bàn
Phật sự gấp. Khi tới Xá Lợi, tôi gặp hai vị Thượng tọa đang ngồi phòng
khách.
Thượng tọa Thiện Hoa nói là:
-
Phật giáo mình đương bị lâm nguy quá, nhất là tại Huế hiện nay...
Thượng
tọa Tâm Châu nói theo:
-
Ngày mai, buổi sáng chủ nhật, tới phiên tôi rước linh và cầu siêu tại
chùa Phật Bửu Tự, do Hòa thượng Thích Minh Trực tổ chức, tại đường Cao
Thắng, Quận 3. Vậy Thầy về hỏi lại ý nguyện tự thiêu của Hòa thượng Quảng
Đức, hiện đương tụng kinh Pháp Hoa tại Ấn Quang. Nếu Hòa thượng đồng
ý, thì ngay sau khóa lễ ở Phật Bửu Tự, trên đường về Xá Lợi, Thầy tìm
mọi cách có hiệu quả nhất, để Hòa thượng Quảng Đức được tự nguyện tự
thiêu, đồng thời để cứu nguy cho Phật giáo hiện nay.
Khi về, tôi gặp ngay Hòa thượng Quảng Đức ở chùa Ấn Quang
Sau
khi tôi hỏi :
-
Hòa thượng còn giữ nguyện tự thiêu như lá thơ Hòa thượng đã gởi cho
Liên Phái trước đây không ?
Hòa
thượng mừng rỡ trả lời : Tôi sẵn sàng tự thiêu để cúng dường Tam Bảo
và để giác ngộ cho chính quyền mau mau thỏa mãn năm nguyện của Phật giáo
Tôi
(Thích Đức Nghiệp) nói thêm:
-
Vậy Hòa thượng hãy đi nghĩ và sáng mai, con sẽ tổ chức cho Hòa thượng
tự thiêu cho Hòa thượng được thành tựu viên mãn.
Song
Hòa thượng nói thêm:
-
Đại đức cho tôi được lễ tạ Phật và Thượng tọa Thiện Hoa, tôi sẽ nói:
Ngày mai tôi phải đi xa vì Phật sự, đồng thời cho tôi viết một lá
thơ gởi cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Tôi trả lời đều được cả, nhưng tuyệt đối Hòa thượng không nên để cho ai
biết việc tự thiêu này. Sau đó, tôi đến phòng Thượng tọa Thiện Hoa
mới ở Xá Lợi về để xin ít tiền mua sắm xăng để thiêu và vải để viết
biểu ngữ cho sáng ngày mai. Tiếp theo tôi gọi anh lái xe ô tô Austin
của Phật tử Trần Quang Thuận gởi ở Ấn Quang và nhờ anh ta đi mua xăng
và vải, đồng thời tôi nhờ anh ấy chở Hòa thượng Quảng Đức đi dự lễ
tại Phật Bửu Tự.
Kế đó, tôi họp ngay mấy Thầy lại để phân công vào việc sáng mai :
Thầy
Chân Ngữ có trách nhiệm đổ hết xăng từ đầu tới chân Hòa thượng Quảng
Đức khi cùng ngồi trên xe Austin để đi tới ngã tư đường Phan Đình
Phùng và Lê Văn Duyệt trước tòa Đại sứ Cao Mên.
Thầy
Trí Minh phải ngồi cùng hàng ghế trước để bảo anh lái xe phải dừng lại
ở ngã tư đường nói trên, rồi làm bộ chữa xe để Hòa thượng bước xuống
đường và ngồi tự thiêu.
Thầy
Hồng Huệ giữ trật tự, Tăng Ni đi thành hai hàng và xe của Hòa thượng
từ từ đi ở giữa.
Tôi
(Thích Đức Nghiệp) đi bên cạnh xe của Hòa thượng. Khi xe ngừng lại Hòa
thượng bước xuống, tôi trao tay Hòa thượng bao quẹt và bao diêm để
Hòa thượng tự bật lửa thiêu.
Bùng
cháy ! Ngọn lửa ngất trời ! Không thể nào tả xiết nỗi bàng hoàng của
tất cả Tăng Ni và những người đứng xung quanh ! Lệ rơi ! Tiếng khóc vang
lên !
Lập
tức, tôi yêu cầu hai mươi vị Tăng Ni ra nằm chặn ở bốn đầu đường để xe
cứu hỏa không thể vào nơi thiêu của Hòa thượng Quảng Đức. Biết rằng trong
lúc tự thiêu này, có cả Simon Michaud, đại diện hãng thông tấn
AFP của Pháp; Malcome Browne, đại diện AP của Mỹ và Neel Shihanm,
đại diện UPI; đều chứng kiến tận mắt và xe của Đại tướng Hawkins Mỹ cũng
tới chỗ hỏa thiêu này.
Sau 30 phút, thi hài của Hòa thượng Thích Quảng Đức được rước về chùa Xá
Lợi trên một lá cờ Phật giáo. Tới cổng chùa ông Mai Thọ Truyền nằm
lăn trên đất dưới thi hài của Hòa thượng từ cổng tới cửa nhà giảng.
Rồi những làn sóng người bốn phương tràn tới chùa Xá Lợi để kính viếng
một Bồ tát đã thiêu thân. Đài phát thanh trong nước và khắp thế giới
đều kính cẩn đưa tin tự thiêu này.”
[Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-139_4-5393_5-50_6-1_17-46_14-1_15-1/ ]
(Ghi
chú: Bài phỏng vấn nầy được thực hiện hơn 40 năm sau biến cố Tự thiêu nên
có vài danh xưng TT Đức Nghiệp đã dùng không chính xác. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, những điểm quan trọng khác thì đều đáng tin vì ăn khớp với dữ
kiện của các nhân chứng còn lại)
3.2 - Đại đức Thích
Chơn Ngữ, người tưới xăng lên mình Ngài Quảng Đức, là nhân chứng
thứ nhì:
Đại đức
Thích Chơn Ngữ, thế danh Huỳnh Văn Hải, vốn
là đệ tử của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết ở chùa Tường Vân tại Huế. Đại
đức người Huế, vào khoảng 30 tuổi vào năm 1963, người tương đối
cao lớn nên được phân công đổ xăng lên thân thể Hoà thượng Quảng Đức.
Vì
tham gia vào vụ tự thiêu trong vai trò đó, ĐĐ Chơn Ngữ đã bị chính quyền
Diệm bắt giam để khảo cung, và bị tra tấn tàn bạo làm hư hại bộ phận sinh
dục không thể có con. Sau khi chế độ Diệm sụp đổ, ĐĐ Chơn Ngữ được một
học bổng đi du học và tốt nghiệp Tiến sĩ đệ tam cấp (Docteur Troisième
Cycle) tại Pháp. Cuối năm 1973 hay đầu năm 1974, ĐĐ về nước và dạy tại
Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, sinh viên ghi danh theo học lớp của ĐĐ khá
đông. Sau 1975, trong tình hình mới nhiều phức tạp, Đại đức cởi áo xuất
tu, trở lại với thế danh Huỳnh Văn Hải. Rồi khoảng năm 1981, theo phong
trào boat people, ông vượt biển đến Indonesia. Ông được nhập cư
vào Mỹ, sống ở Los Angeles một thời gian và cuối cùng về định cư tại thành
phố San Jose ở bang California. Hiện nay (2011), ông Huỳnh Văn Hải đã già
yếu, gần 80 tuổi nên thị lực kém, và đang ở vùng Bay Area. Ông có một số
bà con ở tại Orange County, miền nam California và ở Houston, tiểu bang
Texas.
Năm 1985,
trả lời cho tạp chí Chấn Hưng do một số cư sĩ Phật giáo ở
Los Angeles chủ trương, ông Huỳnh Văn Hải (nguyên là Đại đức Thích Chơn
Ngữ), người vừa là nhân chứng vừa đóng vai trò quan trọng trong cuộc tự
thiêu của Ngài Quảng Đức, đã kể lại như sau:
“...
Ngày 15 tháng 5, Tổng thống Diệm bất đắc dĩ phải tiếp phái đoàn Phật
giáo gồm 5 vị: Thượng tọa Thiện Hoa, Thiện Hòa, Hành Trụ, Tâm Châu và
Đôn Hậu, nhưng ông Diệm đã không thực tâm giải quyết vấn đề. Do đó, ngày
16 lại có nhiều cuộc tuyệt thực khác và biểu tình rầm rộ trước Quốc Hội,
nhưng chính quyền vẫn không đả động gì đến những yêu cầu của Phật giáo
đồ... Bây giờ câu hỏi rất quan trọng được đặt ra là việc tự thiêu, người
hưởng ứng đầu tiên là Ngài Quảng Đức.
...
Lúc 10 giờ sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963, tôi dìu Ngài ra đến cổng chùa,
thầy Đức Nghiệp mở cửa chiếc xe Austin đã đậu sẵn, mời Ngài lên. Xe gặp
đường Phan Đình Phùng quẹo phía trái là đường Lê Văn Duyệt, tài xế dừng
xe lại, xung quanh tôi các tăng ni đã đứng chật ních bao vây ngã tư Lê
Văn Duyệt-Phan Đình Phùng.
Tay
trái tôi xách thùng xăng, tay mặt tôi dìu Ngài bước ra xe và mời Ngài
ngồi xuống. Ngài ngồi “Kiết Già” tay mặt đặt lên tay trái. Tôi cầm thùng
xăng đáng lẽ tưới lên vai Ngài, nhưng vì hốt hoảng lo sợ mật vụ tới nên
đã đổ xăng từ đầu Ngài trở xuống. Ngài mở hộp diêm rút 5, 6 que rồi
quẹt mạnh. Lửa tức tốc bừng cháy đốt ngay thân xác Ngài như một pho
tượng trong khi các tăng ni quỳ xuống vừa khóc vừa niệm: A Di Đà Phật.
Tiếng
niệm Phật rất não nùng thê thảm trong lúc ngọn lửa càng bốc cao, phủ
kín cả người Ngài, nhưng Ngài vẫn ngồi vững như bàn thạch chấp hai tay
trước ngực.
Sau
7 phút toàn thân Ngài ngã xuống nhưng hai tay vẫn còn chắp trên ngực.
Xung quanh các tăng ni vừa bái lạy vừa khóc, vừa niệm Phật, nhưng có
một người vẫn đứng thẳng như một trụ đá, không khóc, nét mặt rất đau
thương đến độ trông rất lạnh lùng, chấp hai tay nhìn thẳng vào thân xác
cháy đen của Ngài Quảng Đức. Đó là Thượng Tọa Thích Tâm Châu mà nay là
Hòa thượng tu hành tại nước Pháp.
Ngài
Quảng Đức đã hiến mình cho Đạo Pháp bằng cách an nhiên tọa thuyền trong
biển lửa cao ngút. BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC đã tự đốt mình để bảo vệ Đạo Pháp
lúc lâm nguy và để bảo vệ quyền Tự Do Tín Ngưỡng. Hành động can đảm và
tuyệt vời này của Ngài đã làm cả thế giới khâm phục và đã thức tỉnh lương
tri nhân loại rằng đàn áp, chém giết chỉ gieo rắc thêm hận thù. Bạo lực
sẽ thất bại trước TỰ DO, CÔNG BẰNG, TÌNH THƯƠNG và lòng KHOAN DUNG.
Trích
từ “Cuộc Tự Thiêu Lịch Sử” - Nguyệt san Chấn Hưng số
4, tháng 8 năm 1985, trang 2, 3 và 19. Los Angeles, Hoa Kỳ.”
Lúc
bấy giờ, nguyệt san Chấn Hưng chủ yếu được phổ biến trong các chùa và cộng
đồng cư sĩ Phật giáo ở Mỹ. Và 24 năm trước đây, phần trích đoạn
ở trên của bài viết “Cuộc Tự Thiêu Lịch Sử” đã được cụ Hoành Linh Đỗ Mậu
in lại trong tác phẩm “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”, Phụ Lục
A, số thứ tự 27, trang 1083 và 1084, ấn bản 1987, và được tiếp tục
duy trì trên các ấn bản tiếp theo, kể cả ấn
bản điện tử 2007.
Ấn
bản 1987 của tác phẩm “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”, Phụ Lục A,
số thứ tự 27, trang 1083 và 1084
[Nguồn:
- http://www.sachhiem.net/HOANHLINH/VNMLphlucA.php ;
- http://www.giaodiemonline.com/2008/vnmlqht/phuluca.htm và
- http://www.chuyenluan.net/index.php?option=com_content&view=article
&id=5036:y-kien-nhan-si-ve-hoi-ky-do-mau&catid=2:khaocuu&Itemid=4 ]
3.3 - Nhiếp ảnh
gia Nguyễn Văn Thông, nhân chứng thứ ba, người được một cơ quan
Mỹ (cũng có người nói ông làm cho mật vụ của chính quyền Diệm) “thuê”
chụp ảnh các cuộc biểu tình của Phật giáo tại Sài Gòn, và đã có mặt để
ghi lại bằng ảnh cuộc Tự thiêu của Ngài Quảng Đức. Có ba người đã gặp ông
Nguyễn Văn Thông để nghe ông kể lại chi tiết vụ tự thiêu năm 1963 của Ngài
Quảng Đức:
3.3.1 “Hôm
30/5/2010, nhà nhiếp ảnh Duy Anh, phụ trách Cate Nhiếp ảnh (GoNews),
đã đến thăm đồng nghiệp lão thành Nguyễn Văn Thông tại nhà riêng của ông
ở Cư xá Đô thành, Quận 10, TP.HCM. Ông là tác giả bức ảnh Tự thiêu, đã
đoạt Giải Ngân hài bạc Anh quốc, và Huy chương đồng Phần Lan 1964. (Ảnh:
Cẩm An)
Tác giả
Nguyễn Văn Thông kể với GoNews: “Chiếc xe hơi dừng giữa đường, giả như
hư máy, các tăng ni chặn kín các ngả đường… Sau khi người đẫm ướt xăng,
Hòa thượng bật quẹt (đá lửa) do ướt xăng nên không cháy, nên ông nhận
cái hộp quẹt khác rồi bật tiếp. Lửa cháy… Tôi chụp và khóc, tay run
lên… vì thấy nhà sư cao cả quá! Sau đó, tôi phóng một tấm lớn 50x60cm tặng
cho nhà chùa. Năm sau (1964), tôi mới gởi ảnh ấy đi dự thi...".
[Nguồn: Trần
Kiên Cường - http://quocsam2009.blogspot.com/2011/06/anh-thoi-su-vi-ai-nhat-moi-thoi-ai.html#!/2011/06/anh-thoi-su-vi-ai-nhat-moi-thoi-ai.html ]
Nhiếp
ảnh gia Duy Anh và ông Nguyễn Văn Thông, ngồi bên phải. - Ảnh T1 chụp
Ngài Quảng Đức lần tràng hạt và bắt đầu niệm: "Nam mô A Di Đà
Phật" trước khi tự tay châm lửa. Mọi nguời chung quanh bắt đầu
hoảng hốt.
Khi
ngọn lửa rừng rực bùng lên, Bồ tát Thích Quảng Đức vẫn tự tại ngồi
kiết già, gương mặt không lộ chút đau đớn - ảnh T2 và T3 của
Nguyễn Văn Thông. Ảnh được Giải Ngân hài bạc Anh quốc, Huy chương đồng
Phần Lan 1964, Huy chương bạc Liên hoan ảnh nghệ thuật Hội Nhiếp ảnh
TP.HCM 1990.
3.3.2 Một
người thứ nhì cũng gặp ông Nguyễn Văn Thông sau nầy đã kể lại như sau:
“Ở
bên ngoài, chính ông Nguyễn Văn Thông, mật vụ theo dõi hoạt
động đấu tranh của Phật giáo và chứng kiến từ đầu đến cuối vụ tự thiêu,
cũng công khai bác bỏ sự xuyên tạc Bồ tát Thích Quảng Đức bị chích thuốc
mê.
Gần
nửa thế kỷ trôi qua, ông vẫn xúc động khi nhớ lại: “Chúng tôi đã theo
sát vụ tự thiêu này ngay từ đầu ở chùa Xá Lợi. Chính mắt tôi và các cảnh
sát khác đều thấy ngài Thích Quảng Đức khoan thai bước xuống xe, quay
mặt xá tứ phương, rồi ngồi kiết già trước khi chính tay mình châm
lửa tự thiêu. Những hành động bình thản của một nhà tu hành thượng
đẳng như vậy không thể là người bị thuốc mê. Còn các nhà sư khác chỉ đứng
vòng quanh tụng kinh cho ngài và ngăn chặn cảnh sát. Không có bàn tay
nào tác động, xâm phạm đến hành động tự thiêu của ngài”.
Đặc
biệt, khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, ông Thông đã đem những bức
hình mình chụp cận cảnh Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu tặng Phật giáo
Sài Gòn. Một loạt ảnh đầy đủ từ lúc lửa chưa bùng lên trên thân thể Bồ
tát Thích Quảng Đức đến lúc ngài ngã xuống. Đến lúc đó người ta mới chính
thức biết có một người Việt nữa đã chụp hình được sự kiện thiêng liêng
này ngoài nhà báo Malcolm Browne.
Và
những tấm hình đó như một chứng nhân quan trọng cho hậu thế biết sự thật
cuộc vị pháp thiêu thân!”
[Nguồn: http://www.quangduc.com/BoTatQuangDuc/57mothuyenthoai.html ]
3.3.3 Người
thứ ba, ông Quốc Việt, cũng đã gặp nhiếp ảnh gia Nguyễn Văn Thông
tại Sài Gòn và cho biết:
“Kể
lại cuộc tự thiêu này, nhân chứng phía bên kia là ông Nguyễn Văn Thông,
mật vụ đặc trách theo dõi hoạt động Phật giáo thời đó, nhớ lại: “Tin
tình báo gửi về cho biết sẽ có biểu tình lớn từ chùa Ấn Quang đến công
trường Lam Sơn và sẽ có nhà sư mổ bụng. Sau này tôi mới biết đó là tin
giả để đánh lạc hướng chuẩn bị trấn áp của cảnh sát”.
Ông Thông
kể sáng đó nhóm cảnh sát mật của mình gồm bốn người mặc thường phục đi
trên một chiếc ô tô. Ông Thông phụ trách hình ảnh, một người viết báo cáo,
người khác trực điện đài. Họ chuẩn bị bám theo các tăng ni đến công trường
Lam Sơn (Nhà hát lớn TP ngày nay) và không biết gì về cuộc tự thiêu sắp
diễn ra. Lúc đó, ông Thông còn là cộng tác viên của hãng Ảnh xã nên
ngoài chiếc máy ảnh cảnh sát trang bị, ông luôn mang thêm chiếc máy ảnh
riêng.
Khi chiếc
xe Austin chở Bồ tát Thích Quảng Đức từ chùa Ấn Quang dừng lại ở ngã tư
Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng, tài xế bước xuống giả vờ sửa xe và nhóm
cảnh sát chìm vẫn tưởng thật. Thậm chí khi Bồ tát Thích Quảng Đức bước
xuống xe, ngồi kiết già trên đường, ông Thông vẫn không nghĩ ngài tự thiêu.
Chỉ đến lúc thân ngài bốc cháy như ngọn đuốc ông Thông mới sững sờ.
Theo phản
xạ ông đưa máy ảnh lên chụp, nhưng tấm đầu tiên bị nhòe vì ông xúc động
run tay. Đến tấm thứ hai ông lấy được nét. Đó cũng là tấm phim cuối cùng
của chiếc máy ảnh riêng của ông. Ông liền sử dụng chiếc máy ảnh thứ hai
được cảnh sát trang bị để chụp tiếp đến cảnh lửa tắt, bồ tát ngã xuống.
Theo ông
Thông, có ít nhất ba người chụp được hình tự thiêu xúc động này
là nhà báo Malcome Browne của Hãng thông tấn AP, một nhà sư và ông. Tuy
nhiên, sau đó chỉ có hình của Malcome Browne lan truyền ra thế giới. Còn
ông Thông phải nộp ảnh cho nha cảnh sát và lặng lẽ giấu đi mấy tấm khác vì
lúc đó ông vẫn còn là nhân viên chính quyền nhà Ngô.
Năm nay đã
86 tuổi, ông Thông hồi tưởng chi tiết cuộc tự thiêu của Bồ tát Thích Quảng
Đức:
“Lửa bao trùm thân ngài nóng đến mức chiếc can để gần đó phải chảy
ra, nhưng bồ tát vẫn tĩnh tại ngồi thiền, thản nhiên đón nhận cái chết.
Đặc biệt, khi lửa gần tàn, thân đã cháy đen nhưng ngài vẫn gật đầu về hướng
tây mấy lần như lạy Phật rồi mới bật ngửa ra chứ không ngã sấp xuống.
Xe
cứu hỏa, cảnh sát đổ đến. Các nhà sư nằm chặn trước bánh xe, sẵn sàng hi
sinh để bảo vệ cuộc vị pháp thiêu thân. Nhiều nhân vật chủ chốt của ngành
cảnh sát chế độ Sài Gòn bấy giờ cũng có mặt nhưng chỉ đứng nhìn, không thể
phản ứng được gì trước ngọn lửa chính nghĩa...”.
[Nguồn: http://www.quangduc.com/BoTatQuangDuc/57mothuyenthoai.html#Kỳ_3:_Vị_pháp_thiêu_thân_]
(xem tiếp --->>)