|
đăng ngày 06 tháng
9, 2007
|
Toàn tập: 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Phần
II
Mục
2:
PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC
(Buddhism and Science)
Nguyên tác của Tiến
Sĩ Buddhadasa P. Kirthisinghe
Tổng Thư Ký Á-Châu
Vụ
Đại Diện Hội Đại Bồ
Đề Ấn Độ và Tích Lan
Đặc Sứ Danh Dự Hàn
Lâm Viện Phật Giáo Hoa Kỳ, New York
Nếu
chúng ta duyệt qua lịch sử văn minh Tây phương, bắt đầu ở Hi Lạp, thì
chúng ta sẽ thấy rõ sự kiện là, trong nền văn minh này, không những có
nhiều cuộc chiến tranh và xung đột thảm khốc trong đó có nhiều ngàn
người bị hi sinh, mà phần lớn những cuộc chiến tranh này xảy ra không
phải vì lý do kinh tế. Nhiều cuộc chiến đã xảy ra vì sự xung đột giữa
những quan niệm về bản chất, nguồn gốc và số phận con người và thế
giới. Những quan niệm này bắt nguồn từ tôn giáo.
Tôn
giáo chủ lực ở Tây phương là Ki Tô Giáo. Do đó, chúng ta có thể nói
chắc rằng, tôn giáo này phải chịu trách nhiệm về những cuộc chiến với
bao máu đổ nói trên. Vì, tới thế kỷ thứ 4 dương lịch, Ki Tô Giáo đã trở
thành ý thức hệ chủ yếu của thế giới Tây phương. Tôn giáo này buộc con
người phải tin những điều của tôn giáo đưa ra, cũng như phải chấp nhận
những điều mà tôn giáo này cho là chân lý.
Vì tất
cả các giáo điều của giáo hội Ki Tô được đặt căn bản trên niềm tin về sự
mặc khải, mà sự mặc khải thì được viết trong Thánh Kinh, cho nên tất cả
những điều trong Thánh Kinh phải được coi là chân lý tuyệt đối. Người
nào nghi ngờ những chân lý này sẽ bị tội đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục.
Cho
nên, điều rõ ràng là căn bản chung cùng của Ki Tô Giáo, tôn giáo tự cho
là căn bản của nền văn minh Tây phương, là niềm tin về những lời mặc
khải của Thần (God), và theo sự giải thích của Ki Tô Giáo, Thần là điều
kiện cần của mọi tín ngưỡng.
Khoa
học, trái lại, đặt căn bản trên những giả thuyết tiên nghiệm khác. Khoa
học quan sát, mô tả, thiết lập chân lý bằng chứng minh và kiểm chứng
thực nghiệm, và bất cứ người nào cũng có thể đạt tới những kết quả chung
cùng mà không cần phải có một niềm tin nào. Đức tin không suy lý hoàn
toàn không có chỗ đứng trong khoa học, chỉ có sự áp dụng một cách lương
thiện một phương pháp khách quan, và rồi chấp nhận những kết quả của
phương pháp này. Cho nên người ta bảo rằng khoa học là nỗ lực của con
người, hoàn toàn khác biệt với quan niệm của Ki Tô Giáo, một tôn giáo
đặt căn bản trên một đức tin, một đức tin đặc biệt, vì, theo đức tin này
thì mọi niềm tin của mọi tôn giáo khác đều sai lầm và phải bác bỏ. (Vì
đức tin trong Ki Tô Giáo rất khác với những niềm tin trong các tôn giáo
Đông phương cho nên chúng ta cần phân biệt đức tin (faith) với niềm tin
(belief) mà thường người ta hay dùng lẫn lộn, không phân biệt. TCN)
Hơn
nữa, khi phạm phải một sai lầm thì khoa-học gia không bị trừng phạt
trong đời này cũng như trong đời sau. Nhưng trong Ki Tô giáo, một lỗi
lầm sẽ có những hậu quả vô cùng khắt khe và không chỉ trong cuộc đời
hiện tại. Chúng ta có thể hoan hỉ nói rằng, ngày nay, phần lớn Ki Tô
Giáo không còn đặt nặng trên cái giáo điều lên án lý trí và sự khác
biệt về quan niệm nữa. Những tông phái chính của Ki Tô Giáo đã trở
thành nhân hậu và khoan dung hơn trước nhiều. Nhưng qua nhiều thế kỷ,
họ đã chống đối kịch liệt thái độ của các khoa học gia, những người đã
cố gắng trong việc tìm ra bản chất thực của thế giới và của con người,
qua thực nghiệm và suy lý chứ không phải là dựa vào một cuốn sách cổ
được viết bởi những người dựa vào trực giác và những điều mà họ cho là
mặc khải. Mọi tiến bộ về khoa học và kỹ thuật ở Tây phương, không phải
là do lòng tin vào quyền lực siêu nhiên, mà phần lớn lại chính là do sự
phủ nhận niềm tin này hay ít ra cũng là lãnh đạm với niềm tin này.
Mọi sự
đã có thể tốt đẹp hơn nếu những giáo điều của tôn giáo phù hợp với thực
tế mà các nhà khoa học khảo sát. Nhưng rõ ràng là không phải vậy. Vì
không có một quan niệm siêu nhiên nào, thí dụ như sự hiện hữu của một vị
Thần có đầy tính người, những phép lạ, sự sa ngã của con người, và sự
cứu rỗi con người, có thể được chứng minh một cách khách quan, và nhất
là do lý trí. Khi giáo hội không thể bảo toàn được những gì bất khả
chứng minh, hoặc những gì ngược lại sự hiểu biết và kinh nghiệm thông
thường của con người, thì giáo hội đã phần nào ngưng truy tố những khoa
học gia, những người đã anh dũng bảo vệ sự diễn giải thực tại của họ.
Khoa học gia không còn bị bịt miệng hay thiêu sống trên giàn hỏa vì
những "sai lầm" của họ nữa, bởi lẽ Giáo hội không còn có thể từ chối cái
quyền lý luận và chứng minh của các khoa học gia nữa, vì những quyền này
đã đưa đến những cải tiến đáng kể trong đời sống vật chất của con người
trong các phạm vi kinh tế và xã hội. Giáo hội Ki Tô đã không góp được
phần nào trong đường hướng cải tiến này vì tín ngưỡng Ki Tô bảo rằng
Thần muốn vậy, thí dụ như, sự nghèo khổ sẽ luôn luôn ở với chúng ta.
Không
ai có thể nghi ngờ được là phần lớn những sự tiến bộ ở Tây phương là về
phương diện vật chất. Có thể thế giới đã có nhiều tiến bộ hơn nếu tôn
giáo không can thiệp vào những sự diễn giải của khoa học về thực tại và
thế gới bằng những suy đoán siêu nhiên, bằng những lời trong Thánh Kinh
hoặc những lời mặc khải của Thần, thí dụ như, thế giới này thì phẳng,
trái đất thì cố định và mặt trời quay xung quanh trái đất, và rằng dùng
khoa học để thử nghiệm những hiện tượng thiên nhiên là sai lầm, và rằng
không có sự tiến hóa hay nhân duyên trong vũ trụ, và quan niệm chân thực
là tất cả chỉ do sự sáng tạo của một Thần. Trong hầu hết những giai
đoạn của sự tiến bộ, tôn giáo đã đối nghịch với khoa học gia và cho tới
ngày nay, nhiều người vẫn còn gọi khoa học là duy vật, vô tôn giáo. Tôn
giáo thường ngăn chặn những giá trị và những cải tiến của đời sống con
người. Những điều kiện sống, dù tàn khốc tới đâu, cũng được coi như là
sự thử thách của Thần đối với niềm tin nơi Thần, và để sửa soạn cho một
đời sống hạnh phúc mai sau nơi Thiên đường. Sự lạc quan của khoa học
thường bị lên án, và một thái độ bi quan được thay thế, kêu gọi con
người phải thống hối, phải biết xấu hổ, phải tuân phục ý muốn của Thần,
theo như sự diễn giải của các cấp lãnh đạo trong giáo hội.
Đối
ngược với tất cả những điều trên là thái độ của Phật-tử, những người mà
trong các ý nghĩ hay hành động, không bao giờ bị ngăn ngại bởi bất cứ
một giáo điều hay sự mặc khải siêu nhiên nào. Phật tử ngưỡng kính Đức
Phật, bậc giác ngộ đã nhận thức được nguồn gốc khổ của thế giới, những
điều kiện tàn khốc mà con người phải sống trong đó, bệnh tật và chết
chóc. Ngài muốn cho mọi người sung sướng, muốn giúp con người thoát ra
khỏi vòng khổ đau. Ngài muốn chỉ cho con người con đường đi tới Niết
Bàn hay sự giải thoát vĩnh cửu.
Đó là
điều Đức Phật đã làm, không đòi hỏi con người phải tin vào một đấng siêu
nhiên, một vị Thần, hay là tin vào chính Ngài dù Ngài là bậc toàn mỹ.
Nếu một người đang sắp bị chết đuối thì người đó không hỏi những người
đứng trên bờ là nước hồ sâu bao nhiêu, nước lạnh như thế nào, hồ nước
thuộc về ai v...v... Tương tự, một người đang bị một mũi tên độc hành
hạ thì không hỏi về loại cung tên nào, bắn tới từ bao xa, hoặc những câu
tương tự. Cả hai người đều muốn biết làm thế nào để cứu họ ra khỏi vòng
nguy hiểm, các điều khác đều ra ngoài lề và không thực tế. Cũng như
vậy, thật là không thực tế khi nói về những điều họ tin về một vị Thần,
có thực hay không là Thần đã sáng tạo ra thế giới, hay thế giới hoặc
vĩnh cửu hoặc không, vô định hay hữu định. Đó là những nghi vấn mà
những triết gia, những đấng Phạm Thiên trong cổ kinh Ấn Độ và những
người quan tâm tới siêu-hình-học muốn có sự giải đáp. Những vấn đề trên
không phải là vô ích khi ta muốn tìm hiểu chúng, nhưng nếu một người
đang ở trong một tình trạng khó khăn và muốn thoát ra khỏi tình trạng
này, thì những suy đoán về siêu hình học hay về Thần học quả thực là vô
ích. Đức Phật không lên án những sự suy đoán về tuổi của thế giới, bản
chất của sự sáng tạo hay những điều tương tự. Thí dụ, một khoa học gia
chuyên về sự cấu tạo địa chất sẽ không quan tâm tới những điều mà một
nhà sinh lý học nói về cơ thể con người và những cơ quan trong đó. Nếu
ông ta muốn biết những điều trên ông ta sẽ hỏi một y sĩ, nhưng không
phải là lúc hỏi những điều này khi ông ta đang khảo cứu về địa chất.
Cũng như vậy, một người tìm kiếm hạnh phúc và sự bình an trong tâm tư sẽ
xét đến những điều Phật dạy để đạt tới những điều trên. Họ có thể là
một triết gia hay một nhà Thần học, họ có thể là một nhà luận lý biết
rất nhiều về vấn đề siêu hình. Nhưng trong trường hợp này họ không cần
đến kiến thức đó. Điều này không làm cho họ trở thành vô Thần hoặc là
họ đã thỏa mãn với những vật chất họ có. Cho nên, chúng ta thấy Đức
Phật không hề đối nghịch với bất cứ ai có những tín ngưỡng khác. Mục
đích của Ngài là đáp ứng nhu cầu cấp thời của con người muốn thoát ra
khỏi cảnh khổ đau. Một y sĩ săn sóc những vết thương cho một bệnh nhân
không có hỏi là bệnh nhân có đi lễ nhà thờ hay không? Ông ta là một y
sĩ và nhiệm vụ của y sĩ là chữa bệnh cho bệnh nhân. Cũng như vậy, Đức
Phật là y sĩ của thân và ý, và Ngài đã dùng phương pháp khoa học là:
trước hết phân tích chứng bệnh.
Vì
dùng phương pháp khoa học, Đức Phật đã chứng tỏ rằng Ngài đích thực là
một khoa học gia. Vì lý do này cho nên thật là chẳng nhằm khi chúng ta
hỏi Đức Phật, các đệ tử của Người, hay những lời Người tuyên thuyết có
thể coi như là có tính cách khoa học hay là thù nghịch với khoa học?
Đức Phật và các tín đồ Phật Giáo, và toàn thể phương cách Phật Giáo
dùng, đều phù hợp với tinh thần khoa học. Do đó, không có sự đối kháng
đối với bất cứ ai chấp nhận những nguyên tắc khoa học. Đức Phật và Phật
tử đón nhận mọi khám phá khoa học, mọi áp dụng của phương pháp khoa học,
vì những điều này không bao giờ trái ngược với những nguyên tắc mà Đức
Phật và các Phật tử thường theo.
Tuy
nhiên, mỗi người đều có một kinh nghiệm chọn lựa riêng. Do đó con người
thường chọn lựa những phương pháp để hoàn chỉnh điều kiện của họ và bỏ
qua những phương pháp khác. Để vượt qua những đau khổ và phiền não, Đức
Phật đã chọn phương pháp luân lý đạo đức. Nhưng ngay cả trong phương
pháp này chúng ta cũng thấy rõ những tiên thuyết mà Người đưa ra, vì
Người xét mọi sự dựa trên những liên hệ nhân quả, và thường vạch rõ
những mối liên hệ vi tế mà vì gấp gáp hoặc thiếu kiên nhẫn chúng ta
thường bỏ qua không để ý tới, những mối liên hệ mà các nhà phân tâm học
ngày nay đã thấy rõ.
Khoa
học đặt căn bản trên sự phân tích, nghĩa là khảo sát kỹ càng mỗi hiện
tượng, xem xét từng phần một và tìm ra nguyên nhân. Đó chính là những
điều Đức Phật đã làm. Nhận thức về sự hiện hữu của Khổ và phiền não, và
nhận thức về nguyên nhân của mọi sự việc, là hai nhận thức đặc thù của
Phật Giáo. Nhận thức thứ nhất bắt nguồn từ sự quán chiếu và nội quán
đưa đến sự tổng quát hóa kinh nghiệm của con người, và nhận thức thứ nhì
là huyết mạch của khoa học, dù là khoa học ở Đông phương hay Tây
phương. Vì cùng chia xẻ một căn bản nhận thức cho nên làm sao mà Đức
Phật và các Phật tử có thể đối nghịch với phương pháp khoa học? Làm sao
họ có thể bóp nghẹt khoa học khi mà chính họ đã dùng cùng những phương
pháp khoa học? Làm sao họ có thể nguyền rủa khoa học? Làm sao họ có
thể ra lệnh cấm đoán một thí nghiệm khoa học với luận cứ: hãy cầu
nguyện, tin tưởng vào những điều ghi chép bởi những người không phải là
khoa học gia?
Chúng
ta có thể đoan quyết rằng Phật giáo chưa bao giờ có sự đối nghịch với
khoa học hay khoa học gia, đừng nói là hành tội các khoa học gia vì
những khám phá của họ, bắt họ phải sửa đổi quan niệm hoặc đưa họ lên
thiêu sống trên giàn lửa. Những điều trên không những làm cho các Phật
tử, những người có một đời sống đạo đức hiền lành, không thể nào hiểu
nổi mà đối với họ còn hoàn toàn phi lý vì Phật tử không bao giờ chống
đối các phương pháp khoa học. Sự thật là, trong lịch sử Phật Giáo chưa
bao giờ có sự đối nghịch với các khoa học gia, Phật Giáo chưa bao giờ
tuyên chiến với khoa học cũng như chưa bao giờ ngăn chặn khoa học với
luận cứ là khoa học đã đi lạc đường và hoạt động cho điều ác thay vì
điều thiện, như một số nhà đạo đức và Thần học đã phát biểu. Khoa học
có tính cách trung lập; và chính là tâm trí và sự hành xử của con người
cần phải được hướng dẫn theo những tiêu chuẩn luân lý đạo đức, và đây
cũng chính là nhiệm vụ của Phật Giáo. Chiến tranh giữa khoa học và Ki
Tô Giáo? Thật ra đã có quá nhiều cuộc chiến như vậy. Chiến tranh giữa
Phật Giáo và Khoa học? Không bao giờ.
Không những là chưa bao giờ có chiến tranh giữa Phật Giáo và các tôn
giáo khác, mà rất hiếm khi ta thấy Phật Giáo bất đồng ý kiến với những
cố gắng tìm tòi chân lý. Phật giáo chưa bao giờ chống đối hoặc cưỡng
lại những tìm tòi chân lý này, trái lại còn khuyến khích những cố gắng
tìm tòi này nữa. Một câu hỏi được đặt ra là, tại sao khoa học không
được phát triển ở Đông phương khi mà Phật Giáo đã thịnh hành ở những
quốc gia Đông phương từ nhiều thế kỷ? Câu trả lời thật là đơn giản.
Thực ra Đông phương đã có nhiều khám phá khoa học hơn là người ta thường
biết tới. Nhưng chúng ta không nghiên cứu văn minh Đông phương từ quan
điểm này và nghĩ rằng nền văn minh Tây phương hiện đại là cao hơn. Phật
Giáo quan thiết chính yếu tới sự an lạc của tâm hạnh con người, tới lòng
từ bi, và quan tâm tới sự vui sướng của người khác, hỉ, những điều này
có tác dụng làm giảm bớt sự khổ trong thế giới hay ít ra là không làm
tăng thêm những sự khổ này. Chúng ta hãy xét đoán một cách chính xác về
sự phát triển khoa học và kỹ thuật chiến tranh như thế nào trong khi
những vấn đề xã hội còn ở trạng thái thật đáng buồn. Thí dụ, chúng ta
có cách mang thiên đường xuống hạ giới, nhưng luôn luôn chúng ta lo sợ
và bị ám ảnh bởi chiến tranh. Mặt khác, Phật tử, tuy không phát triển
kỹ thuật để thỏa mãn mọi người với một đời sống an nhàn không vất vả,
nhưng thực sự đã tìm thấy con đường hạnh phúc và giải thoát. Người Phật
tử không để vào tâm vấn đề tranh giành và chiến tranh, luôn luôn sống
trong hòa bình và nghĩ tới phương cách ngăn chặn chiến tranh.
Có một
quan niệm Tây phương là: chính vì Tây phương đã trải qua những cuộc
khủng khoảng trí thức và tình cảm, kể cả cuộc chiến tranh giữa khoa học
và tôn giáo, nên đã tạo thành khuôn mẫu văn minh Tây phương mà con người
đã đạt tới đời sống cao hơn, trưởng thành hơn, đã trong sạch hóa con
người và tự giải thoát. Nhưng thật ra có đúng như vậy không? Con người
có đạt tới một đời sống tinh thần cao hơn không? Ngay ở Tây phương
nhiều người đã nghi ngờ các điều trên. Nhưng đối với Phật Giáo, Phật
giáo chưa bao giờ góp phần vào những đau khổ trên thế giới, và thường
luôn luôn tìm các làm nhẹ bớt những đau khổ này mà không cần phải hi
sinh đời sống tinh thần.
Tôn
giáo Tây phương vẫn từng có thái độ độc tài và khoa học Tây phương cũng
vậy. Cho nên tự nhiên là khoa học và tôn giáo Tây phương phải đụng độ
nhau. Phật Giáo chưa bao giờ mang tính chất độc tài và chưa bao giờ
phải đi ra ngoài Giáo Pháp để tránh đụng độ với khoa học. Không những
vậy, Phật Giáo không thấy có sự khác biệt nào với khoa học, đừng nói đến
chuyện coi khoa học là địch thủ. Cho nên, không có lý do nào mà những
đức tính của Phật Giáo lại không được duy trì trong thế giới tân tiến
này. Có thể Phật Giáo còn cống hiến cho đời sống hiện đại của con người
và xã hội những căn bản luân lý đạo đức trong thời đại khoa học kỹ nghệ,
điều mà từ trước tới nay tôn giáo Tây phương không làm được vì tôn giáo
Tây phương vẫn còn nghi ngờ và e dè trước những mục đất vật chất của
khoa học. Bằng những thỏa hiệp với khoa học, tôn giáo Tây phương không
đủ tự tin về những nguyên tắc của mình. Gần đây những nguyên tắc này đã
bị những tín đồ thông thường cũng như những cấp lãnh đạo trong tôn giáo
Tây phương đặt thành vấn đề để bàn cãi. Giáo lý đạo đức rõ ràng của
Phật Giáo đã chiếm được lợi thế qua sự phân tích, nghĩa là qua tinh thần
khoa học hiện đại - và không hề bị hạ thấp bởi những đòi hỏi của đức tin
hay niềm tin.
Trang khoa học