|
ngày 04 tháng 1, 2010 |
Trước
đây tôi có đọc trên tờ nhật báo tôi mua hàng ngày, tờ Chicago Tribune,
ngày 8 tháng 12, 2009, bài trên trang nhất của Jason Grotto với đầu đề: “Chất
Độc Màu Da Cam: Dị Tật Bẩm Sinh Gây Đau Khổ Cho Việt Nam; Mỹ Chậm Giúp Đỡ”
(Agent Orange: Birth Defects Plague Vietnam;
U.S. Slow To Help). Ngay trang đầu là hình một phụ nữ Việt Nam đang
làm việc ở ngoài đồng:
Hình trên: Tờ Los Angeles Times cũng đăng bài báo với đề tài này. |
Với
lời chú thích ở dưới bức hình như sau: Đào Thị Kiều (?), 57 tuổi, làm
việc ngoài ruộng lúa ở Biên Hòa. Ruộng
lúa của bà ta đã bị quân đội Mỹ trải
thuốc trừ sâu trong cuộc chiến Việt Nam. Có 8 đứa con thì 7 đứa bị dị tật
bẩm sinh và 5 đứa đã chết. Kiều cũng mất đi người chồng, đã chiến đấu
trong quân đội Nam Việt Nam, về bệnh ung thư vì đã bị nhiễm Chất Độc Màu
Da Cam và các thuốc khai quang khác.
[1] [Bài
báo còn cho biết chồng
bà Đào Thị Kiều là Lâm Bá Trung, phục vụ trong Quân Lực Việt Nam dọc theo vĩ
tuyến 17, nơi mà quân đội Mỹ và Nam Việt Nam đã trải xuống gần 2 triệu 7
trăm ngàn lít thuốc khai quang, (where U.S. and
South Vietnamese forces sprayed more than 700,000 gallons of herbicides)
đã chết năm 2004 sau 7 năm vật lộn với ung thư phổi và cổ họng
(after seven-year battle with lung and throat
cancer)]
Nếu độc giả không có báo giấy thì có thể
đọc bài này online trên website của báo Chicago Tribune, và từ
đó, độc giả có thể nối kết với các bài khác về vấn nạn chất độc da cam ở
Việt Nam của báo nầy.
|
Chúng ta có thể đọc vài đoạn trong bài báo trên:
Nhiều thập niên sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, vấn đề gây tranh cãi
nhất về việc sử dụng chất độc khai quang của quân đội Mỹ là sự tác hại trên
sức khỏe của không biết bao nhiêu người Việt mà kể,
[the impact on the health of untold numbers of
Vietnamese].
Năm ngoái, chính phủ Mỹ đã bỏ ra $13.7 tỷ đô-la để đền bù cho hơn một triệu
cựu quân nhân dự cuộc chiến ở Việt Nam, nhiều người trong số này đã bị
nhiễm độc bởi chất độc trừ sâu bọ. Thêm nhiều triệu đô-la nữa đã
được dùng để đền bù cho những gia đình cựu quân nhân có con sinh ra bị dị
dạng bẩm sinh. Nhưng các viên chức Mỹ nổi khùng, không thừa nhận mối
liên hệ giữa chất độc khai quang và những bệnh tật ở Việt Nam
[But U.S. officials bristle at acknowledging
connections between the defoliants and illnesses in Vietnam]
Những chất độc khai quang chứa một hóa chất được biết là độc nhất do con
người làm ra, chất “dioxin” TCDD. Chất độc này là một phó sản trong quá
trình sản xuất của các công ty hóa chất Mỹ có trong các chất khai quang màu
cam (Agent Orange), màu tía, màu xanh lá cây, và màu hồng – những hợp chất
này chiếm 65% của gần 76 triệu lít (20 million gallons) chất độc trừ sâu đã
trải xuống Việt Nam.
Lính Không
quân Mỹ rút vòi bôm sau khi đã bôm thuốc khai quang vào các bồn chứa của máy
bay C-123 tại Phi trường Không quân Đà Nẳng. Huy hiệu “dễ bật ra” của Binh
chủng Không quân Mỹ có thể thay thế bằng huy hiệu của Nam Việt Nam khi máy
bay được dùng để tiêu hủy mùa màng
[US airman removes
hose after pumping defoliation spray into tanks of a C-123 at Da Nang AB.Note
the "pop out" insignia that could be changed from U.S. Air Force markings to
South Vietnamese markings when the planes were used for crop destruction.
- Photo credit: U.S. Air Force]
Bốn chiếc C-123 trải thuốc khai quang ở miền Nam,
Tháng 9 năm 1965, [Nguồn: chicagotribune.com]
Bản đồ những vùng bị trải chất độc màu da cam
[Agent Orange Spray Map - Vietnam War]
Các
khoa học gia đã liên kết chất dioxin với trên 12 thứ bệnh khác nhau, gồm có ung thư (cancer), bệnh run rẩy tay chân
(Parkingson’s disease), và dị dạng bẩm sinh (crippling congenital
disorders.)
Bác sĩ Linda Birnbaum, Giám Đốc Viện Khoa Học Quốc Gia Về Liên Hệ Giữa Môi
Trường và Sức Khỏe , và là một chuyên gia hàng đầu về chất dioxin, nói: “Tôi
chưa từng thấy một hệ thống hormone nào mà chất dioxin không muốn phá vỡ.”
Nó có ảnh hưởng lan rộng trong hầu hết các chủng loại có xương sống trong
hầu hết mọi giai đoạn cơ thể phát triển.
[It has widespread effects in nearly every vertebrate species at
nearly every stage of development.]
Bài
báo kể trường hợp của bác Sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng ở nhà thương Từ Dũ:
Trong cuộc chiến, Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng
[của Việt Nam Cộng Hòa] đã hộ sinh cho ra
đời nhiều trăm đứa trẻ khỏe mạnh ở nhà thương Từ Dũ, nhà thương hộ sinh lớn
nhất ở Saigon, nay là thành phố Hồ Chí Minh.
Rồi, năm 1968, hai năm sau lực lượng Mỹ tăng gia trải chất trừ sâu lên đến
nhiều triệu lít [millions of gallons, mỗi gallon là 3.8 lít], Bác sĩ Phượng
nói đỡ ra một hài nhi không có óc và xương sống
[a baby born without a brain and a spinal cord]. Trong những tháng
tới, Bác sĩ Phượng đã đỡ ra những hài nhi dị dạng, 3 hoặc 4 đứa trong một
tuần lễ - những hài nhi sinh ra với những cơ quan ở ngoài thân, không có
tay, không có chân, không có mắt.
Một đứa trẻ sinh ra không có mắt
Vấn đề nay đã trở nên rõ ràng, là, con người – đặc biệt là phụ nữ - bị nhiễm
ngay chỉ một chút chất dioxin, mà các khoa học gia đo bằng phần tỷ lệ trên
một ngàn tỷ
(vào khoảng 10-20 ppt), cũng có khả năng cao là sinh ra những đứa con dị
tật bẩm sinh. [2]
Nhân viên của tờ Tribune đã thấy nhiều đứa trẻ ở nhà thương Từ Dũ và ở các
nơi khác ở Việt Nam bị dị tật bẩm sinh và các bệnh tật khác mà khoa học
đã nối kết với sự tiếp nhiễm chất dioxin.[3]
Trong
nhiều trường hợp, dữ kiện về những nhiệm vụ trải thuốc khai quang trong thời
chiến đã khẳng định là các bậc cha mẹ của những đứa trẻ đã bị nhiễm chất độc
trừ sâu bọ.
Trên
đây tôi chỉ trích dẫn vài đoạn trong bài báo dài trên tờ Chicago Tribune
ngày 8 tháng 12, 2009. Tôi nghĩ qua những đoạn này, chúng ta cũng có thể
biết đại khái về những tác hại của chất độc màu da cam. Và chúng ta cần ghi
nhận là tác hại của chất độc màu da cam đã rõ ràng ngay từ trong thập niên
1960 chứ không phải là chỉ có trong thời hậu chiến, và nhiều trường hợp
đã xảy ra cho những con em của quân nhân cũng như dân thường ở miền Nam,
khoan kể đến những quân nhân Mỹ và những quân nhân Bắc Việt vào Nam chiến
đấu..
Cách
đây vài năm, tôi đã đọc cuốn “Chất Độc Màu Da Cam” của Giáo sư Nguyễn
Văn Tuấn, Giao Điểm xuất bản năm 2005. Đây là một công trình nghiên cứu
nghiêm túc của một khoa học gia người Việt ở Úc. Cuốn sách viết về mức độ
tác hại to lớn của chất độc màu da cam trên đất đai, mùa màng, môi trường và
con người ở Việt Nam với những dữ kiện khoa học khó ai có thể phủ bác, nhất
là càng ngày càng có nhiều nghiên cứu về chất độc màu da cam trong thế giới
Tây phương mà những kết quả nghiên cứu không những đồng thuận với công cuộc
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuấn mà còn tiến xa hơn nữa trong việc
khẳng định ảnh hưởng của chất độc màu da cam trên con người và môi sinh.
Nội dung cuốn sách, ngoài việc đưa ra những tác hại của chất độc màu da cam
và lên án chính sách diệt chủng của Mỹ, chúng ta còn thấy trong đó tiềm tàng
lòng yêu dân tộc của tác giả.
Viết
mãi về cái đạo bịp kể cũng nhàm, nên tôi lang bang vào Internet để tìm hiểu
thêm về vấn nạn chất độc màu da cam trên đất nước Việt Nam. Ngoài loạt bài
của Chicago Tribune còn có rất nhiều bài khác, trình bày khách quan
và trung thực về vấn nạn này và có những kết quả nghiên cứu mới nhất về chất
dioxin. Tác hại của chất độc màu da cam trên đất nước Việt Nam đã là
chuyện rõ như ban ngày. Trong khi có nhiều tổ chức và cá nhân Âu Mỹ
lên tiếng lên án hành động dùng chất độc màu da cam của Mỹ ở Việt Nam, một
hình thức của chiến tranh hóa học mà Liên Hiệp Quốc đã cấm, và đóng góp để
giúp đỡ những nạn nhân của chất độc màu da cam ở Việt Nam thì có một
số nhỏ người Việt lưu vong như mù, chẳng nhìn thấy gì, và còn vô sỉ, lên
tiếng phủ nhận sự tác hại của chất độc màu da cam, bài bác công trình nghiên
cứu của Giáo sư Tuấn trong ý đồ của những kẻ chống Cộng, nhưng thực ra là
chống Dân tộc. Họ không đếm xỉa gì tới những nỗi đau khổ của hàng trăm
ngàn nạn nhân của chất độc màu da cam trên đất nước, mà còn cố đưa ra những
luận điệu phi khoa học, có tính cách trốn trách nhiệm, để bài bác một công
trình nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh, và gài vào đó những luận điệu chụp
mũ ấu trĩ. Họ không đọc tờ OC Register, mà một ký giả đã viết đại khái là:
“Ngày nay, kẻ nào còn chụp mũ ai là cộng sản thì chỉ chứng tỏ là chính
mình ngu xuẩn và thiếu giáo dục” (stupid and uneducated).
Hội
nghị Việt Kiều vừa qua (2009) ở Việt Nam quy tụ 900 chuyên gia, khoa học
gia, tiến sĩ, giáo sư, luật sư, doanh nhân v…v… về tham dự, làm cho nhóm
người chống Cộng cho Chúa, chống Cộng cực đoan, chống Cộng chết bỏ v…v…, tức
tối và lên tiếng dè bỉu phê bình một cách hạ cấp. Biết bao giờ họ mới mở
mắt ra để thấy thế giới đã biến chuyển như thế nào, và chỗ đứng của Việt Nam
trong cộng đồng quốc tế ra sao. Sự ấu trĩ nhất của số người này là cho rằng
những Việt kiều về tham dự Hội Nghị, hay rất đông những người về giúp đở hay
làm việc ở Việt Nam, đều là những người ngây thơ, về nịnh bợ Cộng sản, hay
giúp Cộng sản trong các vận động chính trị quốc tế v…v... Với số người
chọn nghề viết lách chống Cộng để nuôi thân và để được nổi tiếng trong cộng
đồng thì trước mắt họ, họ chỉ nhìn thấy vấn đề Cộng sản hay không Cộng sản,
chứ không biết gì đến quốc gia dân tộc, không biết gì đến những đóng góp phi
chính trị, phi bè phái, thuần túy cho quốc gia, cho dân tộc của một số Việt
kiều vẩn còn nặng lòng với quốc gia, mong cho quốc gia được tiến lên ngang
hàng với các nước tân tiến trên thế giới. Cái đầu óc hẹp hòi của đám
người chống Cộng này là “hoặc là anh về phe chúng tôi, hoặc là anh về phe
chúng nó” [either you are with us, or you are with them].
Trở
lại vấn đề chất độc màu da cam, tôi đọc được một số bài phê bình công trình
nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, của cái gọi là “Hội Khoa Học Và Kỹ
Thuật Việt Nam” [VAST].
Vào
trong Internet, dánh chữ VAST vào chỗ Search mà chẳng thấy VAST ở đâu, có
nhiều VAST nhưng không phải là VAST mà tôi muốn tìm hiểu. Sau đó, truy cập
vài website Việt Nam thì biết VAST là “Vietnamese American Science &
Technology Society”, dịch đúng ra phải là “Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt
Mỹ”, “Vietnamese American” là Việt Mỹ chứ không phải là Việt
Nam. Hội VAST không nên vơ hai tiếng “Việt Nam” vào mà làm nhơ bẩn cả
cộng đồng người Việt Nam Hải Ngoại vì đã lạm dụng hai tiếng Việt Nam, nhất
là bản chất của Hội, qua vụ chất độc màu da cam, đã chứng tỏ là phi dân tộc.
Cái
tên dịch đã thiếu lương thiện rồi thì cái Hội đó thực chất ra sao. Tìm hiểu
thêm về Hội này thì biết được trong một bài Đỗ Hiếu phỏng vấn một ông Giáo
sư Xuân nào đó, Chủ tịch Ban quản trị của VAST, về Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật
Việt Nam (sic), thì được biết là Hội đã được thành lập từ 17 năm trước, năm
1992, và theo Giáo sư Xuân thì:
Tôi xin nêu lên một vài vị trong thành phần sáng lập viên, có anh Tiến sĩ
Nguyễn Phùng, người hội trưởng đầu tiên và Kỹ sư Nguyễn Xuân Hiếu, chủ tịch
hội đồng quản trị đầu tiên của hội.
Hiện vẫn còn một số người cũ có mặt ngay từ đầu gồm có: anh Hội trưởng Tiến
sĩ Mai Thanh Truyết, Kỹ sư Phạm Ngọc Lân, Phó hội trưởng nội vụ, Kỹ sư
Nguyễn Minh Quang, Phó hội trưởng ngoại vụ. Trong hội đồng quản trị có các
anh Lê Huy Đức, Lâm Minh Hiệp, Nguyễn Văn Phổ, Đỗ Hải Minh, Bác sĩ Trần Tấn
Phát, Tiến sĩ Lê Hồng, trong số này có phân nửa là các Kỹ sư ngành công
chánh.
Giáo
sư Xuân không cho biết Hội Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam (sic) này có bao
nhiêu thành viên tất cả, trong đó có bao nhiêu khoa học gia đúng là khoa học
gia, và có bao nhiêu người Mỹ trong đó, nhưng tôi đoán là chẳng có khoa học
gia Mỹ chính gốc nào, và số thành viên không nhiều, phần lớn cũng chẳng phải
là nhà khoa học. Đọc câu trả lời của Giáo sư Xuân thì chúng ta biết được
một số đã bỏ hội vì “Hiện vẫn còn một số người cũ có mặt ngay từ đầu”.
Chúng ta cũng không biết là Hội đã có những công trình nghiên cứu nào,
nghiên cứu trong phòng thí nghiệm nào, kết quả nghiên cứu ra sao, đăng trên
báo khoa học kỹ thuật nào, hay chỉ nghiên cứu qua thông tin trên Internet
như tôi. Được biết, qua Giáo sư Xuân, thì hoạt động của Hội Khoa Học Và
Kỹ Thuật Việt Nam (sic) mới đầu là “giúp cho các Kỹ sư tốt nghiệp từ Việt
Nam trước 1975 thi lấy chứng chỉ hành nghề tại Mỹ, tổ chức những buổi nói
chuyện, hội thảo.” và nay thì “tiếp tục phát triển khả năng chuyên
môn và khả năng tài chánh của mình qua phương tiện truyền thông báo chí giúp
cung cấp thông tin, những bài, tham luận, gởi đến người dân Việt trong và
ngoài nước”, nghĩa là Hội chưa có cuộc nghiên cứu lâm sàng nào về
chất độc dioxin, cũng chưa có bất cứ một bài báo nghiên cứu nào đăng trên
các tờ báo khoa học hay kỹ thuật có uy tín nào ở ngoại quốc. Về chủ đề
chất độc da cam, quanh đi quẩn lại chỉ có vài bài bằng tiếng Việt mà nội
dung rõ ràng là có tính cách phi chuyên nghiệp (unprofessional), mục đích
chủ yếu là phản bác công trình nghiên cứu của Giáo sư Tuấn và quy trách cho
chính quyền Việt Nam về những chất độc sử dụng trong thời hậu chiến,
cùng chạy tội cho các công ty hóa phẩm Mỹ đã sản xuất ra những hóa chất độc
hại được sử dụng ở Việt Nam trong thời chiến. Những điều này chúng ta có
thể thấy rõ ràng qua vài bài viết của Hội, nhân danh khoa học.
Hội
trưởng Mai Thanh Truyết được cho biết là tốt nghiệp bằng Tiến Sĩ về Hóa Vô
Cơ (Chimie Minérale) ở một tỉnh nhỏ tên là Besanson (Pháp), mà Việt Báo (ở
Little Saigon) còn cho biết là Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Đại Việt Quốc Dân Đảng.
vốn
nổi tiếng là “Duy Chống Cộng Thị Nghiệp”, và Kỹ sư Công Chánh Nguyễn Minh
Quang, đã cùng nhau lấy vài tài liệu trên Internet có tính cách trốn
trách nhiệm của chính quyền Mỹ và các công ty sản xuất thuốc khai quang của
Mỹ, hợp với chủ trương chống Cộng cực đoan, phi dân tộc của họ, và viết bài
phê bình công trình nghiên cứu của khoa học gia thực thụ Nguyễn Văn Tuấn,
cho rằng vụ kiện chất độc da cam là thủ đoạn chính trị của Nhà Nước Cộng
Sản, và chất độc dioxin không có ảnh hưởng gì đến cơ thể con người.
Chúng
ta hãy đọc vài luận điểm của hai người nầy:
Agent Orange phải được dịch là “tác nhân Màu da
cam” vì theo Tự điển Anh Việt của Nguyễn Văn Khôn thì chữ “agent” có nghĩa
là “tác nhân”, hay dịch ngắn là “chất màu da cam” chứ không được dịch
“chất độc màu da cam” vì trên phương diện ngôn ngữ học và độc tố học,
danh từ “chất độc da cam” dường như không chính xác.
Như
vậy có nghĩa là Agent Orange (AO), tự thân nó, không phải là một chất độc mà
chỉ là một tác nhân hay sao ? Trên thực tế thì Agent Orange là một chất
độc, rất độc, nên Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn đống ý với cách gọi “Agent Orange”
của Việt Nam, chứ không phải dịch nguyên văn (literally), là “chất độc
màu da cam”, nói lên tính chất độc của Agent Orange, thì có gì là sai?
Chỉ sai khi chất Agent Orange không độc. Có mấy người hiểu được hai từ Hán
Việt “tác nhân” là cái quái gì. Rõ ràng là Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật
Việt Nam (sic) muốn đánh hỏa mù để che dấu tính chất độc hại của chất AO.
Tâm địa của họ đã rõ ràng, nhưng trí tuệ của họ thật là quá tệ.
Bây
giờ, chúng ta hãy đọc một lý luận kiểu cù nhầy nhằm chạy tội cho các công ty
Mỹ sản xuất AO của
ông Tiến sĩ và ông Kỹ sư thuộc Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (sic) :
Trong tiến trình sản xuất, 2,4,5-T có thể chứa
một số lượng rất nhỏ chất ô nhiễm bất đắc dĩ. Ðó là chất
2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin (TCDD hay dioxin), được xem
như là một chất độc. Nhưng không phải vì thế mà gọi AO là “chất độc
da cam” cũng như chúng ta không thể gọi vaccine là chất độc vì nó có
chứa một lượng rất nhỏ chất độc thủy ngân! Và cũng không phải vì thế mà có
thể đồng hóa chất da cam với dioxin.
Chẳng
thấy ai có kiểu lý luận ấu trĩ như mấy ông này. Chất vaccine nào có
lượng rất nhỏ chất độc thủy ngân? Chất vaccine đó có là nguyên nhân gây
ra bao nhiêu thứ bệnh như chất dioxin trong Agent Orange không? Có bao
nhiêu nghiên cứu về chất độc trong vaccine và những tác hại (hay không tác
hại) của vaccine đó ? Có bao nhiêu nghiên cứu về dioxin trong AO? Kết quả
những nghiên cứu đó như thế nào? Có quan hệ tương đồng nhân quả nào (causal
analogy) giữa tỉ số lượng thủy ngân/vaccine với tỉ số lượng
dioxine/AO không ?
Sau
đây tôi xin trình bày thêm một trò gian manh khác của cái gọi là Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam [sic]. Trong bài Góp ý với Tiến Sĩ Nguyễn
Văn Tuấn về vấn đề chất màu da cam, dioxin và hệ quả [Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam (VAST), Tháng 7 năm 2008, Aug 10, 2008],
chúng ta có thể đọc đoạn sau đây của cái Hội Khoa Học này:
CHẤT ĐỘC DA
CAM HAY DIOXIN LÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA BỆNH TẬT Ở VIỆT NAM?
Bình luận về chuyện: Khi được hỏi về
những bằng chứng khoa học cho thấy hệ quả của chất da cam gây ra cho người
dân Việt Nam, Tiến Sĩ Tuấn khẳng định rằng: “Cho đến nay, Viện Y khoa Mĩ đã
chính thức công nhận chất độc da cam hay dioxin là nguyên nhân [nhấn mạnh
của VAST] gây ra một số bệnh như ung thư tế bào mềm, ung thư máu dạng
Non-Hodgkin và Hodgkin, ung thư tuyến tiền liệt, ban clor, chứng nứt đốt
sống, v.v. Tất cả bằng chứng khoa học để Viện Y khoa đi đến kết luận trên
đây không chỉ dựa vào nghiên cứu từ cựu quân nhân Mĩ, mà còn – một phần lớn
– dựa vào nghiên cứu từ các nước ở Âu châu (đặc biệt là từ Thụy Điển và Ý),
Úc, v.v…” [2]. Còn trên Việt Tide thì TS nói rằng: “Dựa vào tiêu chuẩn nầy,
dioxin được xem là nguyên nhân [nhấn mạnh của VAST] của các bệnh sau đây:
Ung thư bạch cầu mãn tính (chronic lymphocytic leukemia, CLL), ung thư mô
mềm (soft-tissue sarcoma), ung thư dạng phi Hodgkin (non-Hodgkin’s
lymphoma), ung thư dạng Hodgkin (Hodgkin’s disease), ban clor (chloracne).”
[1].
Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam [sic] viết:
Nhưng kết quả nghiên cứu ghi trong Bảng S-1 của
Phúc trình Cập nhật 2006 thì không phù hợp với những lời phát biểu vừa nêu
của TS. Kết quả nầy được tóm tắt như sau:
1. Đủ bằng chứng (sufficient evidence) về sự liên hệ
(association) giữa việc tiếp xúc với 2,4-D, 2,4,5-T, hay dioxin và các
bệnh trạng sau đây:
i. Soft-tissue sarcoma (including heart)
ii. Non-Hodgkin’s lymphoma
iii. Chronic lymphocytic leukemia (CLL)
iv. Hodgkin’s disease
v.
Chloracne
………
Rồi
Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (sic) phán một câu lắt léo như sau:
Kết quả trong Bảng S-1 trên đây cho thấy IOM
chưa hề công nhận chất da cam hay dioxin là “nguyên nhân” gây ra bất cứ một
bệnh tật nào, kể cả chloracne. IOM chỉ xác nhận mức độ tin cậy của
sự liên hệ giữa việc tiếp xúc với chất da cam hay dioxin và các bệnh được
duyệt xét bằng các phương pháp nghiên cứu dịch tễ học.
Xin
hỏi Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (sic), thế nào là “Đủ Bằng Chứng”
của Viện Y Khoa (Institute of Medicine) Mỹ? Đủ bằng chứng có liên hệ
nhưng không công nhận? Đó là lý luận khoa học của Hội Khoa Học Và Kỹ
Thuật Việt Nam (sic) của mấy ông chống Cộng. Và Hội Khoa Học của mấy ông có
biết đến những nghiên cứu mới nhất gần đây đã càng ngày càng đưa ra nhiều
bằng chứng xác định sự nối kết của chất độc da cam với nhiều bệnh khác chứ
không chỉ với vài bệnh như trên không? Rõ ràng là Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật
Việt Nam (sic) đã giải thích lươn lẹo kết quả nghiên cứu của IOM mà bỏ qua
tất cả những kết quả nghiên cứu khác trên thế giới.
Chúng
ta hãy đọc một đoạn phê bình khác của Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam
(sic) của mấy ông lưu vong chống Cộng đến chiều:
Khi được yêu cầu nhận định về việc trẻ em ở Việt
Nam sinh sau năm 1975 bị dị dạng là vì thiếu dinh dưỡng và do bà mẹ phải
sống trong môi trường ô nhiễm của Việt Nam chứ không hề do chất da cam, Tiến
Sĩ Tuấn phát biểu như sau: “Tôi
thấy nhận định như thế thiếu tính thuyết phục, vì nó thiếu tính khoa học và
thậm chí... ngụy biện. Cần nhắc lại rằng chúng ta đang nói những trường hợp
dị tật bẩm sinh trước năm 1975 chứ không hẳn chỉ sau năm 1975. Tôi là người
làm về dịch tễ học và từng được đào tạo về ngành nội tiết học chưa nghe
về mối liên hệ giữa suy dinh dưỡng và dị tật bẩm sinh. Phát biểu rằng
các bà mẹ sống trong môi trường ô nhiễm và do đó có nguy cơ sinh con với dị
tật cao thì tôi e rằng thiếu khoa học và... ngụy biện. Không rõ “ô nhiễm” ở
đây là ô nhiễm gì, vì chúng ta cũng đang sống trong môi trường ô nhiễm. Vấn
đề là bằng chứng khoa học, chứ không nên phát biểu theo niềm tin và cảm nhận
cá nhân.”
Giáo
sư Tuấn đã trả lời rất đúng. Vì “nhận định về việc trẻ em ở Việt Nam
sinh sau năm 1975 bị dị dạng là vì thiếu dinh dưỡng và do bà mẹ phải sống
trong môi trường ô nhiễm của Việt Nam chứ không hề do chất da cam” là
một khẳng định vô trách nhiệm (affirmation gratuite). Khi Mỹ từ chối trách
nhiệm, viện cớ chưa có đủ bằng chứng khoa học để nối kết chất độc dioxin với
một số dị tật, bệnh tật ở Việt Nam, thì nhận định trên chỉ là một nhận định
bâng quơ, không dựa trên bất cứ một công cuộc nghiên cứu với những thống kê
nào, mà chỉ là những nhận định chủ quan. Tôi sẽ bàn về vấn đề thiếu dinh
dưỡng trong một đoạn sau.
Nhưng
Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (sic) đã phê bình nhận định của Giáo sư
Tuấn như sau:
Chúng tôi xin xác nhận với TS là, từ nhiều năm nay,
VAST đã nhiều lần lên tiếng về vấn đề nầy qua tài liệu và dữ kiện của các cơ
quan có thẩm quyền quốc tế lẫn quốc nội, nhận định tại chỗ của các chuyên
viên đáng tin cậy, chẳng hạn như BS Dương Quỳnh Hoa, và vô số tin tức được
đăng tải trên báo chí trong nước….
Suy dinh dưỡng – là tình trạng nuôi dưỡng thiếu
thốn (poorly nourished) – không chỉ là kết quả của việc thiếu thực phẩm mà
do sự kết hợp của nhiều yếu tố: thiếu chất đạm, năng lượng, và chất vi dinh
dưỡng (micronutrients); bị nhiễm trùng và bệnh thường xuyên; cách cho ăn và
chăm sóc tồi tệ; dịch vụ y tế không thích đáng; và nước và tình trạng vệ
sinh không an toàn (unsafe water and sanitation).
Cho
rằng “không chỉ là kết quả của việc thiếu thực phẩm mà do sự kết
hợp của nhiều yếu tố: thiếu chất đạm, năng lượng, và chất vi dinh dưỡng
(micronutrients)”, vậy thì chất đạm, năng lượng, và chất vi dinh dưỡng
không lấy ở thực phẩm thì lấy ở đâu ra? Và “bị nhiễm trùng và bệnh thường
xuyên” là do hệ thống miễn nhiễm (immune system) của từng người, không
phải ai cũng giống ai. Sống trong một môi trường ô nhiễm không phải ai cũng
“bị nhiễm trùng và bệnh thường xuyên”. Cơ thể con người có khả năng
thích ứng với hoàn cảnh chung quanh và những người sống còn là những người
có khả năng thích ứng nhất với hoàn cảnh chung quanh. Đây là cốt tủy của sự
chọn lọc tự nhiên trong thuyết Tiến Hóa. Cho nên Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật
Việt Nam (sic) lập luận dựa theo những nghiên cứu tổng quát về môi trường
nhưng những điều này không thể áp dụng một cách máy móc trong mọi xã hội,
mọi môi trường.
Hội
Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (sic) đưa ra một tài liệu của Unicef như sau:
Hàng triệu trẻ em thống khổ vì suy vi dinh dưỡng –
tức cơ thể thiếu các khoáng chất căn bản – iodine, sắt và kẽm – và sinh tố
(vitamins) – sinh tố A, folate. Cơ thể cần một lượng rất nhỏ chất vi dinh
dưỡng để tạo ra enzymes, hormones và các chất cần thiết để điều tiết sự vươn
lớn (growth), phát triển và hoạt động của hệ thống miễn nhiễm và sinh sản.
Thiếu chất iodine có thể đưa đến tàn phế thân thể hoặc thần kinh. Thiếu chất
sắt có thể gây thiếu máu thập tử nhất sanh hoặc làm giảm năng suất. Thiếu
sinh tố A có thể bị mù hoặc làm suy yếu hệ miễn nhiễm. Thiếu chất folate có
thể sinh con thiếu cân hoặc dị tật bẩm sinh như spina bifida.”
Đây là những kết quả nghiên cứu có tính cách tổng quát. Mấy từ “có thể
đưa đến” [tiếng Anh là “can lead to”] đã nói lên điều này, vì tất
cả còn tùy thuộc tình trạng thiếu dinh dưỡng như thế nào. Vấn đề là thiếu
dinh dưỡng có thể xảy ra ở nhiều mức độ. Thiếu chất nào, tới mức độ nào thì
có thể đưa tới bệnh nào. Về khẳng định bâng quơ vô trách nhiệm ở trên “trẻ
em ở Việt Nam sinh sau năm 1975 bị dị dạng là vì thiếu dinh dưỡng và do bà
mẹ phải sống trong môi trường ô nhiễm của Việt Nam” thì đã có công
cuộc nghiên cứu nào cho biết chi tiết về những người mẹ Việt Nam nào đã
thiếu dinh dưỡng như thế nào, thiếu những chất gì, thiếu bao nhiêu, thiếu
tới mức độ nào, cho nên mới sinh ra con dị dạng? Về ô nhiễm môi trường
do những hóa chất DDT, PCB, HCH, HCB (dichloro-diphenyl-trichloroetane,
Poly-chlorinated-biphenyls,
hexa-chlorocyclo-hexane, Hexa-chloro-benzene] dùng ở Việt Nam sau khi chiến
tranh chấm dứt mà Hội Khoa Học cho là nguyên nhân sinh ra dị tật bẩm sinh
chứ không phải là do chất độc dioxin thì Hội không hề đưa ra bất cứ một công
cuộc nghiên cứu nào về Việt Nam bắt đầu sử dụng những chất này từ bao giờ,
số lượng sử dụng là bao nhiêu, những chất này có sinh ra các thứ bệnh mà
khoa học đã liên kết với chất dioxin, và nếu có thì liều lượng phải là bao
nhiêu, và nhất là trước khi Việt Nam dùng thì đã có những bệnh sinh ra bởi
chất độc dioxin hay không. Thí dụ như thuốc DDT dùng để xịt muỗi nhưng DDT
đã được xếp vào loại chất độc chỉ vừa phải bởi Chương Trình Nghiên Cứu Chất
Độc Quốc Gia của Mỹ, và sự nguy hại chỉ vừa phải bởi Tổ Chức Về Sức Khỏe Thế
Giới (WHO = World Health Organization) [DDT is
classified as “moderately toxic” by the U.S. National Toxicology Program,
and moderately hazardous by WHO]
Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (sic) có thể cho độc giả biết những chi
tiết nghiên cứu khoa học này không?
Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (sic) có thể cho độc giả biết những
trường hợp thiếu dinh dưỡng nào ở Việt Nam đã đưa đến tình trạng “những
hài nhi sinh ra với những cơ quan ở ngoài thân, không có tay, không có chân,
không có mắt”??
Trong
khi đang viết bài này thì tình cờ tôi gặp anh Huy, bạn của con tôi, nay là
“Đại Diện Trưởng” của chương trình “Cứu Trợ Trẻ Em” (Save the
children) ở Việt Nam, một chương trình đã hoạt động ở Việt Nam 20 năm qua,
thuần túy với mục đích nhân đạo. Anh Huy vừa từ Việt Nam về Mỹ có việc
riêng. Anh Huy đã làm việc ở Việt Nam 3 năm nay rồi và phụ trách chương
trình trong mấy chục tỉnh ở Việt Nam, từ Bắc vào Nam, xuống đến Cà Mâu. Tôi
có hỏi anh ta về tình trạng thiếu dinh dưỡng ở Việt Nam thì được anh ta cho
biết: “Tình trạng thiếu dinh dưỡng xảy ra rất ít trong người Kinh. Tình
trạng thiếu dinh dưỡng thường xảy ra ở những vùng biên giới với Trung Quốc,
với Cambốt, và ở một số vùng dân tộc thiểu số. Ảnh hưởng thiếu dinh dưỡng
được thấy nhiều nhất là bệnh còi, nghĩa là thân thể không phát triển
đúng mức bình thường” Anh ta cũng cho tôi biết là Chương Trình “Cứu Trợ
Trẻ Em” có hợp tác với Tòa Đại Sứ Mỹ ở Việt Nam trong chương trình giúp đỡ
các gia đình bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam, và cho biết Tổng Thống
Obama đã tháo khoán một ngân khoản là 6 triệu đô la (anh ta nhún vai cười
mỉm) cho chương trình giúp đỡ này. Hỏi về thái độ của Mỹ đối với vấn nạn
chất độc màu da cam, anh ta cho biết: “Có vẻ như Mỹ đã thừa nhận sự độc
hại của chất độc màu da cam ở Việt Nam nhưng về con số nạn nhân của chất độc
này thì còn đang tranh cãi và cho tới nay Mỹ vẫn chưa đồng ý.” Anh Huy
sẽ trở lại Việt Nam trong vòng vài tuần tới. Quý vị ở Việt Nam quan tâm đến
chương trình “Cứu Trợ Trẻ Em” có thể tiếp xúc với anh ta ở Chương trình này.
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm về vấn đề “thiếu dinh dưỡng” trên thế giới.
Trong website sau đây có một bảng liệt kê tỷ lệ trên dân số thiếu dinh dưỡng
trong một số quốc gia.
Bảng tỷ lệ trên dân số thiếu dinh dưỡng trong các quốc gia, con số
trước là vào những năm 1990-1992 và con số sau là vào những
năm 2001-2003, phúc trình vào năm 2006 bởi Liên Hiệp Quốc: [This is a list of countries by percentage of population
suffering from
undernourishment, as defined by the
United Nations
World Food Programme and the UN
Food and Agriculture Organization in its "The
State of Food Insecurity in the World" 2009 report.]
Chúng
ta nên biết là bảng thống kê trên chỉ nói đến vấn đề thiếu dinh dưỡng hay
kém dinh dưỡng tổng quát chứ không phải là “suy dinh dưỡng” để sinh ra con
bị dị tật bẩm sinh như Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (sic) nhận định láo
như trên. Nhìn trong bảng trên, chúng ta thấy so với vài nước lân cận quanh
vùng như Cambốt (33%), Thái Lan (21%), Lào (21%), Phi Luật Tân (19%) thì tỷ
lệ trên dân số thiếu dinh dưỡng ở Việt Nam thấp hơn, (17%). Chúng ta cũng
cần ghi nhận là chương trình “xóa đói giảm nghèo” của Việt Nam tương đối
thành công, trong vòng một thập niên, tỷ lệ thiếu dinh dưỡng giảm 14%, từ
31% xuống 17%. [Mới đây nhất, trong
Phúc trình 2009, dữ liệu cập nhật đến năm 2006, Việt Nam hạ được
từ 17% xuống còn 13% mà thôi]. Chúng ta cũng không thấy phúc
trình nào về tình trạng thiếu dinh dưỡng trong các nước trên đã đưa đến hậu
quả sinh ra con bị dị tật bẩm sinh.
Vậy,
chúng ta có thể kết luận thế nào về cái gọi là Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt
Nam (sic) của mấy ông lưu vong chống Cộng? Tôi cho đó là một Hội Khoa
Học Và Kỹ Thuật “dỏm” của một ông tiến sĩ Hóa Vô Cơ và vài ông kỹ sư
công chánh, dựng ra để chống Cộng chứ không phải để nghiên cứu khoa học một
cách lương thiện.
Thật vậy, trong một lần trao đổi mới đây, nhân có một thân hữu nhờ đánh giá dùm Hội KHKTVN trong vụ Agent Orange, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn có cho biết một số ý kiến như sau:
“Nhà khoa học chân chính là một thành viên có trách
nhiệm và lương tâm với xã hội, dân tộc. Người làm khoa học chân chính phải
tuân thủ theo những đạo đức khoa học. Một số trong những đạo đức căn bản
đó là: trung thực với số liệu, thành thật trước đồng nghiệp, và chấp nhận
những khiếm khuyết của khoa học.”
“Trong các diễn đàn khoa học, nhà nghiên cứu không
khi nào đi ra khỏi sở trường và chủ đề nghiên cứu của mình... Trong khoa
học, người ta có câu ‘Garbage in, garbage out,’ nếu phương pháp nghiên cứu
hư hỏng, hay sai lầm, thì kết quả của những nghiên cứu như thế chỉ là rác
rưởi mà thôi... Người làm hóa học chưa chắc hiểu được một bài báo y học, và
ngược lại, một người làm trong y học chưa chắc hiểu một bài báo hóa học...
Suy luận cần phải có kiến thức và kinh nghiệm thực tế, chứ không phải
chỉ dựa vào những con số thống kê vô hồn.” “Làm khoa học nói cho cùng là
đi tìm sự thật.”
“Làm khoa học mà không có phản biện (hay sợ phản
biện) thì không thể xem đó khoa học (hay không nên làm khoa học).” “Trong
bất cứ thảo luận nào, chỉ có luận điểm -- chứ không phải cá nhân người phát
biểu -- mới là tâm điểm, là đối tượng để bàn luận. Điều quan trọng hơn,
những luận điểm đó phải có cơ sở và bằng chứng khoa học. Đối với ý
kiến không có bằng chứng khoa học, nhưng người phát biểu lại sử dụng chuyên
môn của mình ra làm bảo kê thì đó là một hình thức ngụy biện... Giảng
người khác mà không làm theo điều mình giảng -- nói như ông bà mình vẫn nói
-- là đạo đức giả (hypocrisy).”
Tất
cả những ý kiến trên về lãnh vực nghiên cứu khoa học đều không thể áp dụng
cho cái gọi là Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam “dỏm”.
Đọc
một số bài của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn về những bài viết phi khoa học của
Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam “dỏm” như:
-
DƯ
LUẬN XUNG QUANH PHẨM CHẤT THỰC PHẨM VIỆT NAM: KHOA HỌC HAY PHẢN BỘI TINH
THẦN KHOA HỌC;
-
PHẢN
TRÍ THỨC VÀ LẠM DỤNG KHOA HỌC TRONG SO SÁNH;
-
KHOA
HỌC VÀ NGỤY KHOA HỌC: MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM VÀ KHÁC BIỆT CẦN BIẾT;
-
ĐỌC
NHỮNG "NGHIÊN CỨU" CỦA TÁC GIẢ MAI THANH TRUYẾT,
chúng
ta thấy Hội này đúng là một Hội khoa học dỏm, ngụy trang sau bộ mặt Khoa Học
và Kỹ Thuật để đưa ra những luận điểm đầy thiên kiến và một chiều, không có
sự lương thiện trí thức, vì mục đích chính của Hội nầy không phải là làm
khoa học mà là chỉ để chống đối chính quyền Việt Nam hiện nay và những người
yêu nước muốn đóng góp kiến thức của mình cho quốc gia dân tộc.. Điều này
chúng ta không chỉ thấy ở Hội này mà còn thấy trên các diễn đàn thông tin
hải ngoại chuyên phê bình xuyên tạc tiêu cực những gì xảy ra ở trong nước.
Về cái Hội Khoa Học dỏm này, trên trang nhà Giaodiem.com trước đây [
http://giaodiem.com/doithoai/dioxin_ yeucau.htm] có bài của Kevin Trần ở
đại học Fullerton, Nam California lên tiếng và yêu cầu ông Mai Thanh Truyết
từ chức chủ tịch Hội VAST như sau:
Chúng tôi đòi hỏi ông Mai Thanh Truyết phải từ chức
Chủ Tịch ban chấp hành Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (VAST) vì những lý
do sau đây:
-
không lương thiện trong công tác nghiên cứu.
-
vi phạm các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.
-
không đủ khả năng và tư cách để làm một chuyên gia.
-
không biết cách xử lý một đề án khoa học / kỹ
thuật.
-
bóp méo và xuyên tạc dữ kiện khoa học.
-
không hiểu và viết đúng tiếng Việt.
và :
- có thái độ và hoạt động chính trị mờ ám sau
ngày 30/4/75.
- tiền bạc bất minh trong những chuyến tổ
chức vượt biên.
- có mưu đồ chính trị riêng trong việc điều
hành hội.
- gây chia rẽ nội bộ của hội với khuynh hướng
"chống Bắc Kỳ".
Trong cương vị chủ tich hội, ông đã làm nhục tập
thể khoa học gia và kỹ thuật gia Việt Nam tại hải ngoại.
Ngoài
Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam “dỏm”, chúng ta hãy đọc vài luận điệu phản
bác Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn của một ông tự nhận là một “nhân chứng sống”
[phần nằm trong ngoặc vuông là lời phê của tác giả Trần Chung Ngọc]:
Thưa ông Tiến Sĩ Nguyễn Văn Tuấn,
Tôi cũng như ông, là một người thuộc ngành khoa học kỹ thuật. Vì thế, những
điều mình đưa ra phải có chứng minh bằng dữ kiện, qua sự quan sát và nghiên
cứu tường tận và hợp lý.
[Nhưng trong suốt bài không thấy ông ta đưa ra bất cứ một dữ kiện nào, hay
một kết quả quan sát tường tận và hợp lý nào.]
Trong vấn đề chất màu Da Cam, đã có quá nhiều phúc trình từ phía Hoa Kỳ cho
rằng ít độc hại đối với cơ thể con người.
[Vậy
là ông ta tin tất cả vào phúc trình của Mỹ mà mục đích chính là trốn trách
nhiệm.]
Và
Tôi Cũng Như Nhiều Bạn Chiến Đấu của Tôi Là Những Bằng Chứng Hùng Hồn…
[Những chuyện cá nhân không thể kiểm chứng không phải là những bằng chứng …
hùng hồn, vì ai cũng có thể bịa ra bất cứ một chuyện nào với một mục đích
nào đó. Hơn nữa, “nhiều bạn chiến đấu” của ông là bao nhiêu trong số một
triệu quân miền Nam?, và lẽ dĩ nhiên không ai có thể kiểm chứng được những
gì ông nói]
Chúng tôi, những người lính Bộ Binh hành quân hàng năm tại các vùng trên. Ăn
uống bằng nước lấy từ các hố bom, sông rạch đã nhiễm chất da cam; ngày đêm
hít thở không khí có residue của chất da cam; ngủ trên những thảm cỏ chắc
chắn còn vương chất cam.
Năm nay chúng tôi đã ở tuổi 60, 70, dĩ nhiên qua bao năm chiến đấu và tù
tội, sức khỏe có giảm so với những vị cao niên khác. Nhưng chúng tôi chưa hề
phát hiện các triệu chứng gì do ảnh hưởng chất cam như bên phía Việt Cộng đã
nêu ra.
[Các ông không phát hiện ra những triệu chứng do ảnh hưởng của chất độc màu
da cam không có nghĩa là ai cũng không có bất cứ một triệu chứng gì của
chất độc màu da cam. Có thể là hệ thống miễn nhiễm của ông tốt, và cũng có
thể ông nói xạo vì chỉ là chuyện bịa ra để phản bác Giáo sư Tuấn,]
Cộng Sản đưa ra hình ảnh hàng trăm em bé dị tật ở các khu cô nhi, bệnh viện
ngoài Bắc để lên án Mỹ đã dùng chất Cam làm di hại cho các em !
[Hình ảnh các em bé dị tật không chỉ có ngoài Bắc mà còn có nhiều trong Nam,
điển hình là ở nhà thương Từ Dũ]
Thưa ông Tiến Sĩ, chất da cam được sử dụng vào giữa thập niên 60, và chỉ có
ở miền Nam thôi. Từ đó đến nay đã nửa thế kỷ, nếu thực độc hại, thì nó sẽ
ảnh hưởng đến chúng tôi và con cái chúng tôi mà nay cũng ở tuổi trên dưới
40.
Và
dứt khoát cho dù có cuồng phong, chất da cam cũng không thể bay từ Bình
Dương ra tận ngoài Hà Nội để gây hại cho dân Bắc được. [Chắc chắn ông này không phải là người trong
ngành khoa học kỹ thuật, và cũng hầu như chắc chắn ông không phải là một
quân nhân miền Nam. Bởi vì một người có đôi chút hiểu biết về khoa học thì
không có loại kiến thức như vậy. Là một quân nhân miền Nam, không nhiều thì
ít, trừ những con ông cháu cha ngồi ở văn phòng, còn lính chiến đấu, thì ai
cũng biết là có nhiều bộ đội từ ngoài Bắc vào phối hợp với Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam để đánh Mỹ, Ngụy (những từ họ dùng). Vậy cuồng phong không
thể thổi chất độc màu da cam từ Nam ra Bắc nhưng những quân nhân Bắc Việt
vào Nam bị nhiễm độc có thể mang sự độc hại trên bản thân về Bắc và di hại
cho con cháu. Đơn giản như vậy thôi mà ông cũng không biết. Thế mà cũng
đòi lên tiếng tranh luận với Giáo sư Tuấn]
Với
những lý luận phi khoa học của Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam (sic), và
những lý luận phi kiến thức của ông “nhân chứng sống”, và một số lý luận
phản bác ngu ngơ lặt vặt khác, chẳng trách là có người trên Đàn Chim Việt đã
phê bình:
“Chỉ
có súc vật mới quay lưng với nổi đau thương, mất mát của các nạn nhân chất
độc màu da cam… Nhiều ý kiến của những người mà tôi đoán chỉ đứng ngang
dưới thắt lưng của ông TS Tuấn một gang tay , nặng về suy diễn/võ
đoán/chụp mũ, đọc lên nghe thật là ngây ngô/ngu ngơ hay ù ù cạc cạc
....”
Những
người quay lưng với nổi đau thương, mất mát của các nạn nhân chất độc màu
da cam có vẻ như rất hồ hởi với quyết định của Mỹ phủ nhận trách nhiệm
trong vấn nạn chất độc màu da cam, cho nên trong những bài phản bác Giáo sư
Tuấn họ thường đưa ra những câu như: “tòa án Thượng Thẩm ở New York đã
bác bỏ đơn kiện của Việt Nam, ngày 27/02 và ngày 02/03 một lần nữa, Tòa án
Tối cao Mỹ công bố quyết định không xem xét đơn của nạn nhân chất độc da cam
người Việt và Mỹ kiện các công ty sản xuất chất độc hóa học trong chiến
tranh ở Việt Nam. Vụ kiện kể như đã xong.” hay “Tối Cao Pháp
Viện Hoa Kỳ Bác Đơn Thưa Đòi Các Công Ty Chế Tạo Của Mỹ Bồi Thường.”
Nhưng thật ra thì vụ kiện đâu đã xong
vì càng ngày càng có nhiều tiếng nói lên án, phanh phui ra sự thật về những
tác hại của chất độc màu da cam trên đất nước Việt Nam và trên các cựu chiến
binh Mỹ. Tháng 5, 2009, trang nhà Sách Hiếm đã đăng một bài về “Vụ Án
Chất Độc Da Cam và Công Luận Quốc Tế” [http://sachhiem.net/XAHOI/TinPhapLuat.php]
với rất nhiều tài liệu về những phản ứng rất tiêu cực của thế giới trước
quyết định phi công lý của các Tòa Án Mỹ. Một trong những luận điệu ngớ
ngẩn của Tòa Án Mỹ là “Chất độc màu da cam được dùng như là một chất để
làm rụng lá, không phải là chất độc với ý định nhắm vào con người”
[Agent Orange had been used as a defoliant,
not as a poison designed for or targeting human populations ...]
Tôi không thể tưởng tượng được là một ông Tòa nào lại có thể phán một câu
rất ngu xuẩn như trên. Nó tương tự như câu: “B52 của chúng tôi thả
xuống để phá hủy nền kinh tế của kẻ thù chứ không phải là với ý định nhắm
vào thường dân và bệnh nhân như ở Nhà Thương Bạch Mai”
Hiện
nay, chính hội cựu quân nhân Mỹ, nạn nhân của chất độc màu da cam vẫn đang
tiếp tục tranh đấu để đòi chính quyền Mỷ phải xử sự ra sao với trách nhiệm
của mình. Mỹ là một cường quốc nằm trong tay nhóm tài phiệt. Về vấn đề
này, quý vị có thể đọc bài “The Hypocrite of the world” của James
Rhodes trên cái link vào Sách Hiếm ở trên. Trên chính trường quốc tế, Mỹ
muốn làm gì thì làm, vì biết rằng chẳng ai dám làm gì Mỹ. Cho nên chuyện Mỹ
bao che cho các hãng sản xuất thuốc độc màu da cam và từ chối trách nhiệm
của mình trong vấn nạn chất độc màu da cam ở Việt Nam là chuyện tất nhiên,
vì nếu Mỹ thừa nhận trách nhiệm thì hậu quả chính trị sẽ rất tai hại cho Mỹ
và lật tẩy bộ mặt đạo đức giả của Mỹ, khoan kể đến phí tổn đền bù không sao
tính được. Vì vậy, Mỹ không chỉ từ chối trách nhiệm đối với Việt Nam mà còn
đối với chính quân nhân Mỹ đã chiến đấu ở Việt Nam. Chúng ta có thể đọc mẩu
tin sau đây:
Cựu Quân Nhân Mỹ, nạn nhân của chất độc màu da cam, đưa đơn kiện hai hãng
hóa chất Dow và Monsanto và những hãng khác sản xuất thuốc trừ sâu dùng ở
Việt Nam. Vụ kiện đã được dàn xếp ngoài tòa năm 1984, với số tiền đền bù là
$180 triệu. Dàn xếp ngoài tòa được coi như là “vụ kiện kể như đã xong”
(từ
của Nguyễn Văn Lục trên Tin Nhà Tháng 12), nhưng chỉ làm cho cuộc tranh
cãi tăng gia trong suốt 25 năm qua. Vào thời điểm dàn xếp các khoa học gia
chưa hiểu đầy đủ về những tác hại lâu dài của chất dioxin, nhưng dần dần đã
kiếm ra những kết quả mới, đặc biệt là sự liên hệ của dioxin với ung thư và
những bệnh tật khác phát hiện ra từ từ. Năm 1998, luật sư lại đưa đơn kiện
các hãng sản xuất chất khai quang, cho rằng số tiền bồi thường $180 triệu đã
cạn vì càng ngày càng có nhiều cựu quân nhân phát ra những bệnh nối kết với
chất dioxin. Tòa Chống Án thứ hai của Mỹ đã bác bỏ luận cứ này, và Tối Cao
Pháp Viện từ chối không thụ lý vụ kiện này.
[4]
Nhân
bản tin nầy, tôi có một câu hỏi cho Hội Khoa Học dỏm:
Nếu
IOM chưa hề công nhận chất da cam hay dioxin là “nguyên nhân” gây ra
bất cứ một bệnh tật nào, như Hội Khoa Học dỏm đã … phán, thì
tại sao vụ kiện trên lại phải dàn xếp ngoài tòa và các hãng sản xuất chất
độc màu da cam lại chịu đền bù tới $180 triệu đô-la ngay từ năm 1984?
Chúng
ta hãy đọc thêm một tài liệu trong
“The United States, its abandonment of law and worse” của
Christopher King:
Không thỏa mãn với việc dùng các loại bom chùm và bom napalm trên những
thường dân, nhiều chục triệu lít chất độc màu da cam đã được phun trên đất
nước Việt Nam trong cuộc chiến của Mỹ chống dân Việt Nam. Thảm họa trên môi
trường và nhân loại đã giết khoảng 400000 người và gây nên khoảng 500000 vụ
dị tật bẩm sinh. Ảnh hưởng trực tiếp và bền bỉ của chất dioxin vẫn tiếp tục
cho đến ngày nay. Chất dioxin cũng còn làm hư hại đến DNA của con người cho
nên ảnh hưởng của nó sẽ còn kéo dài trong dân chúng Việt Nam mãi mãi. Từ
trước đến nay, chưa từng có một nước nào khác gây nên những điều như vậy cho
một nước khác.
[5]
Trong
khi có nhiều hội đoàn và cá nhân trên thế giới đang cố gắng giúp Việt Nam
lấy lại phần nào sự công bằng trong vấn nạn chất độc da cam thì một số người
Việt lưu vong vô sỉ cố tình chạy tội cho Mỹ bằng những luận điệu ngu đần và
sai sự thực như: Hội Khoa Học dỏm: “IOM chưa hề công nhận chất
da cam hay dioxin là “nguyên nhân” gây ra bất cứ một bệnh tật nào,”
hay “Dioxin được xem như là một chất độc. Nhưng
không phải vì thế mà gọi AO là “chất độc da cam”, hay “Trong
tiến trình sản xuất, 2,4,5-T có thể chứa một số lượng rất nhỏ chất ô
nhiễm bất đắc dĩ” v…v…
Vô
liêm sỉ vì chính Đô Đốc Elmo R. Zumwalt cũng đã phải thú nhận như sau:
Khi chúng tôi, những nhà khoa học quân sự, bắt đầu phát động chương trình
thuốc trừ sâu vào thập niên 1960 [Mỹ bắt đầu dùng chất độc màu da cam ở Việt
Nam từ năm 1961] thì chúng tôi đã biết đến khả năng tác hại của chất
dioxin ở trong chất trừ sâu. Chúng tôi cũng biết là công thức chế
tạo chất trừ sâu của quân lực có nồng độ dioxin cao hơn là công thức dùng
trong dân sự vì nó rẻ hơn và có thể sản xuất mau hơn. Tuy nhiên, vì
chất đó được dùng để chống “kẻ thù”, cho nên không ai trong chúng tôi quan
tâm.. Chúng tôi không nghĩ đến chuyện chính người của chúng tôi rồi cũng bị
nhiễm độc bởi chất trừ sâu.
[6]
Ngoài
ra, một trong những người bạn ngoại quốc của Việt Nam là ông Len Aldis, Tổng
Thư Ký Hội Thân Hữu Việt-Anh (Secretary of the Britain -Vietnam Friendship
Society), cũng đã nhiệt tình ũng hộ cho quyền đòi bồi thường của nạn nhân
Việt Nam. Sau đây là vài đoạn chính trong bài
Living
the Lie: Agent Orange Activist Confronts Monsanto
về
một trong những hoạt động của ông. Ông Len Aldis đã từng viết thư phản
kháng gửi cho giám đốc hãng hóa chất Monsanto cũng như Tổng Thống Obama về
vấn nạn chất độc màu da cam. Sau đây là chuyện ông ta với ông giám đốc hãng
Monsanto ở Việt Nam, Nguyễn Anh Thi, ở trên Salem-News.com:
Ông Len Aldis
viết cho ông Nguyễn Anh Thi, Giám đốc hãng Monsanto – Việt Nam, yêu cầu ông
Thi thảo luận về Chất Độc Màu Da Cam mà hãng Monsanto chế tạo và chính phủ
Mỹ đã phun ở Việt Nam, làm nhiều triệu người nhiễm độc. Ông Aldis yêu cầu
có một cuộc họp, nhưng ông Thi nói rằng ông ta phải đi xa và trả lời bằng
một bản tuyên bố đã viết sẵn từ Monsanto:
“Trong
cuộc chiến Việt Nam, chính phủ Mỹ, sử dụng quyền theo đạo luật chế tạo sản
phẩm quốc phòng, chỉ thị 7 công ty chế tạo ra Chất Độc Màu Da Cam, chỉ thị
chi tiết về sản xuất như thế nào và kiểm soát sự dùng chất đó ở mặt trận, kể
cả phải trải bao nhiêu..
Nghiên cứu
về chất độc màu da cam đã có hơn 30 năm nay và còn tiếp tục.. tất cả mọi
nghiên cứu đều chưa chứng minh dứt khoát sự nối kết nguyên nhân và ảnh hưởng
giữa việc phun chất độc màu da cam và những bệnh tật đã được thẩm định”
Ngày
19 tháng 10, ông Aldis viết lại cho ông Thi trong đó có vài đoạn như sau:
Ông Nguyễn, sự nguy hại của chất dioxin đã được biết ngay từ khi sản xuất.
Các công ty biết nhưng vẫn không nói ra, một việc rất đáng hổ thẹn.
Tôi phải đặt vấn đề với ông khi ông viết “tất cả mọi nghiên cứu đều chưa
chứng minh dứt khoát sự nối kết nguyên nhân và ảnh hưởng giữa việc phun chất
độc màu da cam và những bệnh tật đã được thẩm định”
Ông Nguyễn, đây là một lời tuyên bố lạ thường đập vào mặt những công cuộc
nghiên cứu quốc tế bởi các khoa học gia trong một số quốc gia.
Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia đã phổ biến danh sách những bệnh tật do sự
nhiễm chất độc màu da cam. Tất cả những bệnh tật này đều được giữ trong hồ
sơ và không thể bị phủ nhận.
Các cựu quân nhân Mỹ đã thành công trong vụ kiện các công ty sản xuất chất
độc màu da cam và sau cuộc dàn xếp ngoài tòa đã được đền bù $180 triệu. Ông
Nguyễn, nếu chất độc màu da cam không gây ra những bệnh tật, tại sao các
công ty lại thỏa thuận đền bù $180 triệu?
Tôi xin nhắc để ông nhớ rằng, 80 triệu lít chất độc da cam đã được phun trên
nhiều vùng ở Việt Nam, không phải trên đất Mỹ. Chắc đây là hơn một lý do để
cho các công ty, và chính phủ Mỹ, phải bồi thường cho các nạn nhân Việt Nam
và gia đình của họ.
Tôi hi vọng ông sẽ đến thăm Làng Hòa Bình (Peace Village) ở Nhà Thương Từ Dũ
để thấy những đứa trẻ nạn nhân của chất độc màu da cam mà tôi đã thấy. Hãy
nhìn những bình thủy tinh trong một phòng đặc biệt chứa các hài nhi chết
trong bụng mẹ với sự biến dạng kinh khủng mà nguyên nhân là chất độc màu da
cam. Hãy nhìn kỹ chúng, ông Nguyễn, rồi có lẽ ông sẽ hiểu sự giận dữ của
nhiều ngàn người như tôi, những người sẽ tiếp tục tìm kiếm công bằng cho
những nạn nhân thê thảm này của sản phẩm sản xuất bởi Monsanto.
[7]
Vấn
nạn về sự tác hại của chất độc màu da cam ở Việt Nam thật ra chỉ cần một
chút lô-gíc thông thường cũng có thể hiểu đâu là nguyên nhân chính của vấn
đề. Lẽ dĩ nhiên không phải là tất cả các bệnh tật đều có thể đổ thừa cho đó
đều là do ảnh hưởng của chất độc màu da cam. Vấn đề “thiếu dinh dưỡng” hay
“sống trong môi trường ô nhiễm” cũng là những yếu tố phương hại đến sức khỏe
của con người, nhưng những yếu tố này không gây ra những tác hại nghiêm
trọng và nhiều như chất độc màu da cam.. Dưới thời ông Diệm, ông Tướng Trần
Tử Oai phụ trách chương trình diệt trừ sốt rét và chất DDT được dùng nhiều
nhưng chúng ta cũng không thấy những bệnh tương tự như những bệnh trong thời
“hậu chất độc màu da cam” xuất hiện.
Việt
Nam nghèo, hiển nhiên người Việt ăn uống không đầy đủ như dân trong các nước
Tây phương. Nhưng chúng ta cũng không thấy những bệnh quái lạ xảy ra. Chỉ
sau khi Mỹ phun tới gần 80 triệu lít chất độc màu da cam trong suốt 10 năm
trên đất nước, chúng ta mới thấy sự tác hại của chất độc này xuất hiện.
Ngoài Bắc, trong thời chiến, dân chúng sống khó khăn và nghèo khổ hơn trong
Nam, nhưng cũng không xảy ra những trường hợp dị dạng bẩm sinh trong dân
chúng. Những trường hợp này chỉ xảy ra sau khi cuộc chiến chấm dứt và tập
trung trong số binh sĩ đã vào Nam chiến đấu và con cháu của họ. Ở miền Nam,
cuộc sống tương đối đầy đủ hơn, nhưng những trường hợp do ảnh hưởng của chất
độc màu da cam đã xuất hiện ngay trong thời chiến, vào thập niên 1960, khi
Mỹ bắt đầu trải thuốc khai quang từ năm 1961. Như vậy chẳng cần đến những
bằng chứng khoa học, sự tác hại của chất độc màu da cam trên môi trường và
nhân mạng người Việt đã rõ ràng. Chúng ta cần cám ơn Giáo sư Nguyễn Văn
Tuấn về công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh của ông ta về những tác hại của
chất độc màu da cam ở Việt Nam. Còn đối với những kẻ vô sỉ ngụy trang đằng
sau bộ mặt “khoa học và kỹ thuật” để phản bác công trình của Giáo sư Tuấn mà
mục đích chính là chống quốc gia dân tộc, bất kể đến sự đau khổ của những
nạn nhân chất độc màu da cam, chúng ta chỉ có thể nói lên hai từ “khinh bỉ”.
Để
kết luận, tôi xin kể một chuyện lạ. Vào một diễn đàn truyền thông của người
Việt hải ngoại, Đàn Chim Việt, đọc Tin Nhà Tháng 12 của ông Nguyễn Văn Lục,
tôi thấy có một sự lạ. Cách đây khoảng 6 ngàn năm có chuyện con rắn và con
lừa biết nói tiếng người. Ngày nay chúng ta có chuyện một con chiên
biết viết tiếng Việt và viết một bức “Thư gửi cho con người”
nhắm vào tác giả Nguyễn Văn Tuấn. Văn phong và tư tưởng của con chiên thì
chỉ có các bậc chăn chiên thường chăn dắt nó mới hiểu nổi, và lời nói của
các bậc chăn chiên thì chỉ có con chiên mới hiểu được, chứ con người thì
chịu, không làm sao hiểu được thứ tiếng nói này. Vì là một con người, không
hiểu tiếng nói của một con chiên, nên tôi xin miễn phê bình.
Trần Chung Ngọc
Bài đọc thêm – Tin cập nhật mới nhất (Los Angeles Times ngày
3 thánh
Giêng, năm 2010)
Findings point new path for dealing with
Vietnam War's poisonous legacy
[Những phát hiện hướng về con đường mới để giãi quyết di sản độc hại của
Chiến tranh Việt Nam]
A
Canadian firm says U.S. use of defoliants in Vietnam has left perilous
dioxin levels, but that the issue is solvable.
Tran
Huynh Thuong Sinh, who was born without eyes, is examined by a nurse at a
hospital in Ho Chi Minh City. Many children at the facility are from areas
once heavily sprayed by U.S. forces with the defoliant Agent Orange. (Kuni
Takahashi / Chicago Tribune / July 8, 2009)
By
Jason Grotto - Los Angeles Times - January 3, 2010
Reporting from Da Nang, Vietnam - When a small Canadian environmental firm
started collecting soil samples on a former U.S. air base in a remote
Vietnamese valley, Thomas Boivin and other scientists were skeptical that
they would find evidence proving herbicides used there by the American
military decades ago still posed a health threat.
But
results showed that levels of the cancer-causing poison dioxin were far
greater than guidelines set by the U.S. Environmental Protection Agency
for residential areas.
That's when Boivin, now president of the firm, says he had his "eureka
moment." Vancouver-based Hatfield Consultants Ltd. began tracing the toxin
through the food chain, from the soil and sediment of nearby ponds to the
fat of ducks and fish to the blood and breast milk of villagers living on
the contaminated site.
The
breast milk of one woman in the study contained dioxin levels six times
higher than what the World Health Organization deems safe. She also had
a 2-year-old child with spina bifida, one of the birth defects for which the
U.S. Department of Veterans Affairs compensates the children of U.S.
veterans.
Since
then, Hatfield and Vietnamese scientists have taken samples from nearly
3,000 former U.S. military installations scattered throughout former South
Vietnam and have identified 28 "hot spots," including three highly
contaminated sites around populated areas in Da Nang, Bien Hoa and Phu
Cat.
Their
findings offered a way to recast the legacy in Vietnam of Agent Orange and
related defoliants as a solvable, though urgent, issue. Instead of a messy
controversy over birth defects and other complex health issues, the
discovery of persistent contamination focused attention on a measurable,
present-day problem that could be addressed.
Yet
since the first Hatfield study was published in 2000, the U.S. government
has done little to help clean up the sites it contaminated during the
Vietnam War, providing just $6 million to tackle both the serious health
issues related to the contamination and the significant environmental damage
caused by the defoliants.
Boivin and others who have worked on the issue say that since the first
studies came out, there has been more cooperation between the U.S. and
Vietnam. Hatfield started working in Vietnam pro bono in hopes of
landing Canadian government subsidies, but the firm later became committed
to studying the problem, donating hundreds of hours and resources.
"During the past few years in particular, there's been huge movement on the
U.S. and Vietnamese sides," Boivin said. "It's very encouraging to see."
Yet
the United States' overall pace of action on polluted former military bases
in Vietnam has been slow. Officials in Vietnam and the U.S. have not settled
on an exact cost, but the price tag to clean up Vietnam War-era hot spots
would run into the tens of millions of dollars.
"There's no question that there are levels of dioxin in Vietnam that are
harmful, and there is no doubt that U.S. and South Vietnamese forces
storing it there has had a cause and effect," said Michael Marine, the U.S.
ambassador to Vietnam from 2004 to 2007.
"It's
a relatively easy argument to make that the U.S. should help to address this
issue."
The
impact of Agent Orange isn't felt only by soldiers and civilians who were
directly sprayed. The chemical has had a lasting effect in and around the
bases where it was stored -- and spilled.
When
Nguyen Van Dung took a job cleaning sewers at the Da Nang airport in 1996,
he didn't know that U.S. forces had stored hundreds of thousands of gallons
of herbicides there during the Vietnam War or that those herbicides
contained a highly toxic compound linked to more than a dozen illnesses.
He didn't know that the compound had soaked into the soil and remained there
at dangerously high levels.
Dung
moved with his wife, Thu, and their healthy infant daughter into a one-room
cinder-block house next door to the former U.S. air base. During the next 13
years, Dung and Thu, who also works at the airport, had two children with
devastating illnesses, including rare blood and bone diseases, that the
couple suspect were caused by contamination at the airport.
Their
second daughter died when she was 7, and now their 10-month-old son, who
suffers from the same ailments, requires painful blood transfusions every
month to stay alive.
"I am
a man, and men seldom cry," said Dung, 41, who sat cross-legged on the floor
in his home, tears welling in his eyes as Thu cradled the frail infant in
her lap. "But every time my son has a blood transfusion, I cry."
During the last three years, Hatfield and Vietnamese scientists measured
levels of dioxin in the blood and breast milk of workers at the Da Nang
airport that were as much as 100 times higher than WHO safety guidelines.
Dioxin is considered the most persistent toxin known. In the environment,
its half-life can be decades, meaning it takes that long for the chemical
contamination to diminish by half. In the human body, the half-life of
dioxin is about 7 1/2 years. That means that, not even a decade ago, some
residents tested by Hatfield could have had even higher levels of the toxin.
The
contamination at Da Nang isn't confined to the air base. Scientists also
found that dioxin from the herbicides had seeped into nearby Sen Lake, where
for decades residents bought and sold fish.
The
dioxin levels in the fish and in sediment are so high that the Vietnamese
government prohibited fishing and swimming in the lake and moved families
living close by. The government also sealed the contaminated site with
concrete and built a wall around the lake to keep residents out, although
reporters on a recent trip to the site met teenagers who were fishing in the
lake.
For
more than 10 years, Pham Thi Cuc, 74, grew lotus flowers and kept a fishery
on the picturesque lake just west of the Da Nang airport. Her business was
shut down in 2007 after studies by Hatfield showed that dioxin levels in
the lake's sediment were about 40 times greater than global safety standards.
Blood
drawn from Cuc showed that she had some of the highest levels of dioxin ever
measured in Vietnam, more than 50 times greater than WHO standards.
Her children, who worked with her on the lake and ate large quantities of
contaminated fish, also had high levels in their blood.
Although none of them is ill, Cuc said she has lost 10 pounds since the
tests because she's terrified about how the dioxin might affect her children
and grandchildren.
Studies have shown that dioxin exposure raises the risk of cancer and
other diseases, but it can take decades for its effect on the body to
show up, and some exposed people will never suffer ill effects. Scientists
believe the chemical disrupts cell development and can even alter a person's
DNA.
In
2006, the EPA began providing technical assistance as a way of contributing
to efforts by the Vietnamese and private philanthropic organizations, most
notably the Ford Foundation, to find inexpensive ways to eliminate the
dioxin at the airport and in Sen Lake. In October of last year, the U.S.
Agency for International Development signed a $1.4-million contract to
research how best to clean up the site, a study the agency says will take
three years.
But
that won't alleviate Cuc's fears about the damage that has already been
done.
"I
cannot stop worrying about health problems with my children and
grandchildren," she said. "I am old now, so I don't worry about my health.
But I care very much about them." The money allocated by Congress also falls
far short of what it will take to clean up the Da Nang site, let alone the
dozens of other hot spots scattered throughout southern Vietnam.
A
report from the Congressional Research Service released in June quoted cost
estimates to clean up the Da Nang air base at about $17 million; the
Vietnamese peg the cost to clean up the three major hot spots at about $60
million.
"We
both have opened the door to say freely what we think," said Le Ke Son,
deputy director of Vietnam's General Environment Department. "I know the
U.S. government cannot do everything, but I think they should show some
sympathy to Vietnam for what has happened."
[Source:
http://www.latimes.com/news/nation-and-world/la-fg-agent-orange32010jan03,0,614 4418.story
– 1/2010]
Chú thích
[1]
Dao Thi Kieu, 57, works her rice field outside of Bien Hoa, Vietnam.
Her fields were sprayed with herbicides by the U.S. military during
the Vietnam War. Of her eight children, seven were born with birth
defects and five have died. Kieu also lost her husband, who fought
for South Vietnam's army, to cancers associated with exposure to
Agent Orange and other defoliants. (Tribune photo by Chris Walker /
September 19, 2009)]
[2]
What is becoming clear, however, is that people -- especially women
-- who are exposed to even trace amounts of TCDD, which scientists
measure in parts per trillion “ppt”, have a higher risk of bearing
children with birth defects.
[3] The Tribune saw many
children at Tu Du and elsewhere in Vietnam who suffer from birth
defects and illnesses that science has linked to dioxin exposure.
[4]
Veterans joined a massive class-action lawsuit against Dow, Monsanto
and other chemical companies that produced herbicides used in
Vietnam. The case was settled out of court in 1984 for $180 million…
Out-of-court settlements often suggest closure of a dispute, but the
controversy has only grown in the last 25 years. At the time of the
agreement scientists did not fully understand the long-term effects
of dioxin, especially its connection to cancer and other
slow-developing diseases, gradually documented in small studies.
In 1998, attorneys filed a new lawsuit against chemical companies
that manufactured defoliants, contending that the settlement money
had dried up by the time thousands of veterans developed illnesses
linked to the defoliants. The 2nd U.S. Circuit Court of Appeals
rejected the argument, and the Supreme Court declined to hear the
case in March.
[5] Not content with using explosives and napalm on
civilians, millions of gallons of agent orange were sprayed on
Vietnam’s land during America’s war on the Vietnamese. This
environmental and humanitarian disaster killed about 400,000 persons
and caused about 500,000 birth defects. Dioxin is persistent and its
direct effects continue to the present time. Dioxin also damages
human DNA so that its effects will persist in the Vietnaamese
population indefinitely.
No other country has ever before done
such things to another.
[6]
When we (military scientists)
initiated the herbicide program in the 1960s, we were aware of the
potential for damage due to dioxin contamination in the herbicide.
We were even aware that the 'military' formulation had a higher
dioxin concentration than the 'civilian' version due to the lower
cost and speed of manufacture. However, because the material was to
be used on the 'enemy,' none of us were overly concerned. We never
considered a scenario in which our own
personnel would become contaminated with the herbicide. - quoted by
Admiral Elmo R. Zumwalt, 1990
[7] Len Aldis, Secretary of the Britain -Vietnam Friendship Society,
wrote to Nguyen Anh Thi, director of Monsanto Vietnam, asking him to
discuss Agent Orange, which Monsanto manufactured and the US
government sprayed in Vietnam, poisoning millions.
Aldis asked for a meeting, but Thi said he was out of town and
replied with a pre-written statement from Monsanto: “During the
Vietnam War, the US government, using its authority under the
Defence Production Act, directed seven companies to manufacture this
material [Agent Orange].The government specified how it would be
produced and controlled how it was used in the field, including
application rates...
“...The research on the issue of Agent Orange has gone on more than
30 years and continues today... all of this study has not
conclusively demonstrated a cause-and-effect link between spraying
of Agent Orange and the diseases that were evaluated.”
On October 19, Aldis wrote back to Thi:
“Mr Nguyen, the danger of dioxin was known at the time of
manufacture. The companies knew but shamefully kept silent…
I must take issue with you when you write ‘All of this study has not
conclusively demonstrated a cause-and-effect link between spraying
of Agent Orange and the diseases that were evaluated.’ Mr Nguyen,
this is an incredible statement that flies in the face of
international research carried out by scientists from a number of
countries.
The National Academy of Science has published lists of illnesses and
disabilities due to the use of Agent Orange. These illnesses and
disabilities are on record and cannot be denied.
US Veterans succeeded in their lawsuits against the companies that
manufactured Agent Orange for the effects it has had on them, and
their children, this is on record. In 1984 Monsanto was one of the
companies involved in the out of court settlement of US $180
million. Mr Nguyen, if Agent Orange does not cause illnesses or
disabilities, why did the companies agree to pay $180 million?
Let me remind you that 80 million liters of Agent Orange were
sprayed over areas of Vietnam, not areas of the US. More reason
surely for the companies, and the US government to make a financial
settlement to the Vietnamese victims, and to their families.
I hope that you will make that visit to the Peace Village at Tu Du
Hospital and see the children and teenagers, victims of Agent
Orange, that I have seen. Look at the glass containers in the
special room that contain the babies, stillborn due to the horrific
abnormalities caused by Agent Orange. Look carefully at them Mr
Nguyen, you will then perhaps understand the anger felt by thousands
of people like me who will continue to seek justice for these tragic
victims of the products produced by Monsanto.]
Trang khoa học