|
ngày 11 tháng 2, 2009 |
“Darwin hay Thượng đế?”, “Tiến Hóa hay Sáng
Tạo?”, đây là những câu hỏi rất lạc lõng trong thời đại ngày nay, chỉ còn
sót lại trong những đầu óc thuộc loại khuyết tật, tôi dịch thoát từ cụm từ
“astrolabe mind” của Mục sư Ernie Bringas mô tả đầu óc của đa số tín đồ
Ki-tô, một đầu óc trong đó có một điểm mù tôn giáo (religious blind spot)
khiến cho ý thức tôn giáo của họ thuộc thế kỷ 17. Lẽ dĩ nhiên, vì trong thời
buổi này, không một người nào có đầu óc trên thế giới còn nêu lên câu hỏi
này. Các trường học đều dạy thuyết Tiến Hóa (và không được dạy thuyết Sáng
Tạo), thư viện nào cũng đầy những sách viết về mọi khía cạnh của thuyết Tiến
Hóa, và Hàn Lâm Viện Quốc Gia Khoa Học Hoa Kỳ, trong cuốn hướng dẫn cho các
viên chức các trường học, cho các giáo sư và các bậc phụ huynh, cũng đã
khẳng định là “ Trong cộng đồng khoa học, không còn có sự tranh
luận về sự tiến hóa có xảy ra hay không, và không có bằng chứng nào chứng
tỏ là sự tiến hóa đã không xảy ra.” (“There is no debate within the
scientific community over whether evolution has occured, and there is no
evidence that evolution has not occured”, the National Academy of Sciences
said in a guidebook intended for teachers, parents, school administrators
and policymakers.). Do đó chỉ có những đầu óc khuyết tật và được giữ trong
những ngục tù tâm linh mới không biết đến những sự kiện này. Tuy biết đó là
những câu hỏi lạc lõng đã mất thời gian tính, nhưng tôi vẫn phải viết về đề
tài này, vì trên thế gian vẫn còn không thiếu gì người trong đầu có một điểm
mù tôn giáo, ham hố một cái bánh vẽ trên trời (từ của Mục sư Ernie Bringas:
A-pie-in-the-sky), và do đó vẫn còn cố bám vào huyền thoại “cứu rỗi”, một
huyền thoại mà chính những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo như Giáo hoàng John
Paul II, Giám mục John Shelby Spong, Linh mục James Kavanaugh, Mục sư Ernie
Bringas v..v… đã loại bỏ.
Điều đầu tiên chúng ta cần để ý là những thắc mắc đã lỗi thời trên chỉ được
nêu lên trong nước Mỹ và trong một số ốc đảo ở trên thế giới mà Ki-tô Giáo
còn nhiều quyền và ảnh hưởng, những ốc đảo và quốc gia mà Ki-tô Giáo, theo
như nhận định của Robert G. Ingersoll: “mạnh về số đông, nhưng yếu kém
về trí thức” [numerically strong and intellectually weak]. Cùng một
ý tường, Michael Martin, Giáo sư Triết, đại học Boston, viết trong cuốn
The Case Against Christianity, trang 3: “Sự quan trọng của một tôn
giáo đo bằng số tín đồ và ảnh hưởng của nó không làm cho những giáo lý của
tôn giáo đó đúng, 1 tỷ 6 người (tổng số tín đồ Ki-tô Giáo) có
thể sai. [The importance of a religion measured by the number of its
followers and the scope of its influence does not make its doctrines true;
1.6 billion people can be wrong.] Nhưng thực ra, không hẳn là các bậc lãnh
đạo trong Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin Lành, yếu kém về trí thức. Vấn
đề là họ đã dùng trí thức của họ để giam chặt tín đồ trong những ngục tù tâm
linh tăm tối, mục đích chính là vì những quyền lợi vật chất cá nhân và tập
thể giới lãnh đạo, bất kể đến sự lương thiện và lương tâm trí thức.
Cả Âu Châu đã không còn đặt vấn đề về thuyết Tiến Hóa, và trong những
quốc gia phi-Ki-tô thì không có mấy người còn bận tâm đặt ra câu hỏi trên.
Nhưng ngay cả những nước mà tuyệt đại đa số người dân nhận là theo Công giáo
như Tây Ban Nha ngày nay cũng đã thức tỉnh. Báo Chicago Tribune ngày 8
tháng 2, 2009, có một bài của Christine Spolar viết về hiện tượng tách biệt
tôn giáo và chính quyền ở Tây Ban Nha: “Separation of church and state at a
crossroads in Spain; Crucifix removal in schools at heart of religious
debate”
Theo bài báo viết từ Barcelona thì các trường học công cộng được lệnh
phải cất bỏ những cây thập giá hoặc hình tượng Giê-su bị đóng đinh trên cây
thập giá treo trên những bức tường của trường (Public schools are being told
by judicial order to pull crucifixes from their walls). Một ông Tòa coi
những hình tượng này là vi hiến – không có một tôn giáo nào được ngự trị ở
Tây Ban Nha – và ra lệnh phải tháo bỏ chúng đi Ngoài ra còn có những xe buýt (bus) trên
có tấm bảng lớn mang khẩu hiện như “Có thể Thượng đế không hiện hữu” đã chạy khắp
thành phố Những chiếc xe bus được gọi là “vô thần” (godless
buses) đó - dập theo một chiến dịch khởi sự ở bên Anh – đã xuất hiện ở
Madrid và Malaga, Tây Ban Nha, và có kế hoạch sẽ xuất hiện ở nhiều nơi khác
ở Âu Châu [A judge ruled the crosses
violated the constitution—that no single religion should dominate in
Spain—and ordered them removed... Probablement Déu No Existex = Probably God doesn’t exist... City buses with billboards espousing atheism have been rumbling
through the streets here... The so-called godless buses — which copy a campaign begun in
Britain — have appeared in Madrid and Malaga, Spain, and are
planned for elsewhere in Europe.]
So-called godless buses, which carry a campaign begun in Britain,
have been appearing in Barcelona.(Fernandez /AP/January 12, 2009)
Ngày 12 tháng 2, 2009 là ngày kỷ niệm 200 năm sinh nhật của Charles Darwin
và Abraham Lincoln, hai vĩ nhân của thế giới. Một vĩ nhân, Charles Darwin,
đã phá sập thuyết sáng tạo hoang đường của Ki Tô Giáo, một thuyết bất nhân
của Thượng đế đối với con người; và một vĩ nhân, Abraham Lincoln, đã giải
phóng nô lệ, phá sập một chế độ bất nhân, bắt nguồn từ trong cuốn Thánh
Kinh, của con người đối với con người. Vì vậy tôi nghĩ, tôi cũng nên duyệt
lại lịch sử phát triển thuyết Tiến Hóa của Charles Darwin đối với nhân loại,
và cũng để ghi ơn ông như một vĩ nhân đã khai sáng tâm linh nhân loại, xua
đi bóng tối của vô minh, mê tín..
THUYẾT TIẾN HÓA: XƯA & NAY
Thuyết Tiến Hóa - Xưa:
Năm 1859, Charles
Darwin cho ra đời cuốn Về Nguồn Gốc Các Chủng Loại Do Chọn Lọc Tự
Nhiên (On the Origin of Species By Means of Natural Selection).
Then chốt của thuyết này là ở phần cuối tên cuốn sách: “Chọn Lọc Tự
Nhiên”. Chỉ hai chữ “Chọn lọc” (Selection) đã bác bỏ một lý luận
chống đối rất ngu ngơ của Ki Tô Giáo, cho rằng tiến trình Tiến Hóa là do sự
ngẫu nhiên hay tình cờ, để bác bỏ. Nói ngắn gọn, khi các chủng loại truyền
giống, bao giờ cũng có những sự biến thiên (variations), tuy rất nhỏ, từ thế
hệ này sang thế hệ khác, biến thiên trên kích thước, sức mạnh, hình dạng, sự
thông minh, sự chịu đựng v..v.. Sự tiến hóa bao giờ cũng từ thấp tới cao, từ
những dạng sống thấp của các sinh vật lên những dạng sống cao hơn dần, cho
tới loài người, và tiến trình này xảy ra trong một thời gian rất lâu dài, có
thể tới hàng triệu hay hàng tỷ năm. Do đó, các sinh vật tồn tại hoặc tuyệt
chủng là do khả năng tự thích nghi với môi trường xung quanh, và mọi sinh
vật, trong đó có con người, đều liên hệ với nhau vì cùng tiến hóa từ những
mầm sống xa xưa. Thuyết này là kết luận khoa học của sự quan sát lâu dài
của Darwin về sự biến thiên của một số sinh vật. Và trong 150 năm nay, kể
từ khi cuốn sách trên ra đời, dựa vào ý kiến trong thuyết Tiến Hóa trên,
nhiều tiến bộ rất ngoạn mục đã đạt được trong nhiều bộ môn khoa học, những
tiến bộ đã làm cho thuyết Tiến Hóa chính xác về chi tiết hơn và vững vàng
hơn. Ngày nay, các chuyên gia về sinh học và trong nhiều ngành khoa học
khác đã chấp nhận Tiến Hóa là một sự kiện (fact), không còn gì để bàn cãi
nữa. Tuy nhiên, các khoa học gia vẫn còn tranh luận về một số chi tiết về
vấn đề mầm sống nguyên thủy từ đâu mà ra, và cơ chế tiến hóa hay sự vận
hành của tiến hóa (mechanism of evolution)
như thế nào (how). Và đây chính là đặc tính của khoa học, tìm hiểu cặn kẽ,
rốt ráo để đi tới sự thật.
Khi thuyết Tiến
Hóa của Darwin ra đời, nhiều khoa học gia đã tích cực ủng hộ thuyết này:
Thomas Henry Huxley ở Anh, Ernst Haeckel ở Đức, Asa Gray ở Mỹ, William
Dawson LeSueur ở Gia Nã Đại, Marquis Gastonde Saporta và Albert Gaudry
Quenot ở Pháp, Cesare Lombroso ở Ý, Bozidar Knezevic’ ở Nam Tư, Vladimir O.
Kovalevskii ở Nga, và nhiều nhân vật khác.
Tuy nhiên, trong
thế giới Tây phương vào giữa thế kỷ 19, một thế giới ngự trị bởi Ki Tô Giáo
trong hơn 1000 năm, một thế giới mà Ki Tô Giáo tự cho là mình nắm chân lý
trong tay, một thế giới mà tuyệt đại đa số người dân, dưới sự cai trị độc
tài của Thần quyền và thế quyền Ki Tô, bắt buộc phải tin vào sự không thể
sai lầm của Thánh Kinh Ki Tô Giáo, thuyết Tiến Hóa đã trở thành một cái gai
đâm vào tim óc của các nhà thần học Ki Tô Giáo. Vì thuyết Tiến Hóa, tuy
không chống bất cứ niềm tin nào, nhưng hiển nhiên những ý tưởng khoa học
trong đó đã làm cho mọi điều trong Thánh Kinh, nhất là thuyết Sáng Tạo của
Ki Tô Giáo, trở thành vô giá trị. Do đó, Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin
Lành, vô cùng hoảng sợ, và đã hợp sức chống đối thuyết Tiến Hóa. Chúng ta
hãy lược duyệt vài “lý luận” chống đối Darwin và thuyết Tiến Hóa của Ki Tô
Giáo ngoài những sách lược thấp kém cố hữu như bôi bẩn, mạ lỵ cá nhân, chế
giễu, ngụy biện, xuyên tạc, vu khống v..v.. đối với cá nhân Darwin, khi Ki
Tô Giáo đã suy thoái, mất đi quyền hành, không còn khả năng giết hay thiêu
sống con người.
Charles Darwin là
người Anh nên sự chống đối bắt đầu từ bên Anh với giám mục Samuel
Wilberforce ở Oxford. Giám mục Wilberforce lên án Darwin phạm tội “có
khuynh hướng giới hạn sự vinh quang của Thiên Chúa (God) trong sự sáng tạo”
(Guilty of “a tendency to limit God’s glory in creation”); rằng “nguyên
lý chọn lọc tự nhiên thì tuyệt đối không tương hợp với lời của Thiên Chúa”
(the principle of natural selection is absolutely incompatible with the word
of God); rằng nguyên lý này “đối ngược với sự mạc khải về những mối liên
hệ giữa sự sáng tạo và đấng sáng tạo” (contradicts the revealed
relations of creation to its Creator); rằng thuyết này “không phù hợp với
sự tràn đầy vinh quang của Thiên Chúa” (inconsistent with the fullness
of His glory); rằng có một “giải thích đơn giản hơn về sự hiện diện của
những dạng kỳ lạ trong những tác phẩm của Thiên Chúa – sự giải thích đó là
“sự sa ngã của Adam”” (a simpler explanation of the presence of these
strange forms among the works of God – that explanation being “the fall of
Adam”). Rõ ràng là đầu óc của ông giám mục này, và có lẽ của đa số các giám
mục khác trong thời đó, cũng như đầu óc của những tín đồ hạ căn cuồng tín
ngày nay, điển hình là Mục sư Rick Warren, tác giả cuốn “The Purpose Driven
Life”, không chứa được cái gì khác ngoài những điều tin nhảm tin nhí vào
Thánh Kinh, cho rằng tất cả những lời “mạc khải” của Thiên Chúa, do những
người của một dân tộc du mục trong thời bán khai, Do Thái, viết trong Thánh
Kinh, tất nhiên phải là những chân lý.
Có một câu đối
thoại rất thú vị giữa giám mục Wilberforce và Thomas Henry Huxley, một khoa
học gia thời đó ủng hộ thuyết Tiến Hóa của Darwin. Sau một bài nói trước
công chúng để phê bình thuyết Tiến Hóa của Darwin, trong đó giám mục
Wilberforce tự khen mình là không phải là dòng dõi của một con khỉ, rồi ông
quay sang Huxley và hỏi một cách giễu cợt là “theo phía ông nội hay bà
nội mà Huxley là dòng dõi của một con khỉ?” (whether it was on his
grandfather’s or grandmother’s side that Huxley descended from an ape?).
Huxley đứng lên trả lời là tất cả những gì Wilberforce vừa phê bình không có
gì mới lạ, trừ câu hỏi về dòng dõi của Huxley. Và về câu hỏi này Huxley đã
trả lời như sau: “Nếu hỏi là tôi thà có một con khỉ khốn khổ làm ông nội
hay là một người có nhiều khả năng thiên nhiên và có nhiều phương tiện và
ảnh hưởng nhưng chỉ sử dụng những khả năng và ảnh hưởng đó với mục đích đem
sự chế giễu vào trong một cuộc thảo luận khoa học nghiêm chỉnh thì tôi không
do dự mà khẳng định là tôi sẽ chọn con khỉ”
(If then, the question is
put to me would I rather have a miserable ape for a grandfather or a man
highly endowed by nature and possessed of great means and influence and yet
who employs these faculties and that influence for the mere purpose of
introducing ridicule into a grave scientific discussion I unhesitatingly
affirm my preference for the ape).
Cả cử tọa phá ra
cười, và câu trả lời này đã vang dội khắp nước Anh và lẽ dĩ nhiên, lan sang
nhiều nước khác. (The audience broke out in laughter, and this shot
reverberated through England, and indeed through other countries).
Rồi đến Hồng y
Manning lên tiếng tuyên bố “căm thù quan điểm mới về thiên nhiên”
(declared his abhorrence of the new view of Nature), và mô tả quan điểm này
là “một triết lý thô bạo – nghĩa là, không làm gì có Thiên Chúa, và con
khỉ là Adam của chúng ta” (a brutal philosophy – to wit, there is no
God, and the ape is our Adam).
Một mục sư Tin
Lành, phó giám đốc viện “chống khoa học “nguy hiểm”” (institute to combat
“dangerous” science), tuyên bố là lý thuyết của Darwin là “một toan tính
truất ngôi Thiên Chúa” (an attempt to dethrone God).
Nhiều vị lãnh đạo
Ki Tô Giáo khác đã lên án Darwin là chủ trương “Thiên Chúa đã chết”
(God is dead); “Nếu thuyết của Darwin đúng thì chuyện sáng thế là láo
khoét, toàn thể cuốn sách về sự sống tan ra từng mảnh, và sự mạc khải của
Thiên Chúa cho con người, mà người Ki Tô chúng ta biết, là một ảo tưởng và
một cái bẫy” (If the Darwinian theory is true, Genesis is a lie, the
whole framework of the book of life falls to pieces, and the revelation of
God to man, as we Christians know it, is a delusion and a snare).
Giới giáo sĩ Ki Tô
Giáo ở khắp nơi tiếp tục lên tiếng chống đối thuyết Tiến Hóa trong nhiều năm
liền, và sự chống đối này lan sang nhiều nước Ki Tô khác ở Âu Châu như Pháp,
Đức, Ý v..v..và lan sang cả Mỹ và Úc. Chúng ta có thể đọc những lời chống
đối tương tự ở các quốc gia trên, thí dụ như: “lên án Darwin là
không tin vào Thiên Chúa” (Infidelity); là “vô thần” (atheist);
hoặc “Nếu giả thuyết này đúng thì Thánh Kinh chỉ là một chuyện giả tưởng
không thể dung thứ được.. như vậy trong gần 2000 năm nay các tín đồ Ki Tô đã
bị lừa dối bởi một lời nói láo vĩ đại..Darwin đòi hỏi chúng ta không nên tin
vào lời đầy quyền năng của Đấng Sáng Tạo” (If this hypothesis be true,
then is the Bible an unbearable fiction..then have Christians for nearly two
thousand years been duped by a monstrous lie..Darwin requires us to
disbelieve the authorative word of the Creator); “Thuyết Tiến Hóa trái
ngược với những điều rõ ràng trong Tân Ước cũng như Cựu Ước: Nếu tất cả
chúng ta, người và khỉ, sò và chim ưmg, đều phát triển từ một mầm gốc, thì
lời tuyên bố vĩ đại của Thánh Paul: “Không phải mọi sinh vật đều có cùng một
loại xương thịt, có một loại cho người, một loại khác cho thú vật, một loại
khác cho cá, và một loại khác cho chim” – là sai bét”
(The evolution
theory is as contrary to the explicit declarations of the New Testament as
to those of the Old – If we have all, men and monkeys, oysters and eagles,
developed from an original germ, then is St. Paul’s grand deliverance – “All
flesh is not the same flesh; there is one kind of flesh of men, another of
beasts, another for fishes, and another for birds” – untrue); “Tạo trong
những độc giả một sự không tin vào Thánh Kinh” (to produce in their
readers a disbelief of the Bible); “một bức tranh chế giễu sự sáng tạo”
(a caricature of creation); “đuổi đấng Sáng Tạo ra khỏi cửa”
(turned
the Creator out of doors); “quyết tâm săn đuổi Thiên Chúa ra khỏi thế
giới” (resolved to hunt God out of the world); “hoàn toàn không phù
hợp với Thánh Kinh” (utterly inconsistent with the Scriptures);
“không biết đến sự thiết kế trong việc sáng tạo của Thiên Chúa là truất ngôi
Thiên Chúa” (to ignore design as manifested in God’s creation is to
dethrone God); “một Thiên Chúa vắng mặt, không làm gì cả, đối với chúng
ta là không có Thiên Chúa” (an absent God, who does nothing, is to us no
God); “thuyết tiến hóa và thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh về nguồn gốc
con người không thể nào hòa hợp với nhau được” (evolutionism and the
scriptural account of the origin of man are irreconciable); “không biết
đến Thần Cha và không tuân theo phúc âm của con ông ta (nghĩa là Chúa Con =
Giê-su)” (know not God and obey not the gospel of his Son); “nếu
thuyết của Darwin đúng thì không có chỗ nào cho Thiên Chúa”
(if the
Darwinian view is true, there is no place for God) v..v..
Trước những sự
chống đối thuyết Tiến Hóa của Ki Tô Giáo dựa trên niềm tin tuyệt đối vào sự
không thể sai lầm của Thánh Kinh, Herbert Spencer, một khoa học gia cùng
thời với Darwin, đã đưa ra một lời phê bình sắc bén:
“Những người
dũng cảm như hiệp sĩ bác bỏ thuyết Tiến Hóa vì thuyết này không có đầy đủ
sự kiện chứng minh có vẻ như quên rằng thuyết Sáng Tạo của họ không được
chứng minh bởi bất cứ một sự kiện nào .”
(Those who
cavalierly reject the Theory of Evolution, as not adaquately supported by
facts, seem quite to forget that their own theory of creation is supported
by no facts at all)
Năm 1871, Darwin
cho ra đời tiếp cuốn Nguồn Gốc Con Người (The Descent of Man) trong
đó ông khẳng định hai mục đích: thứ nhất, chứng tỏ rằng các chủng loại
không được tạo ra một cách riêng rẽ [bởi Thượng đế như được viết trong
Cựu Ước. TCN], và thứ nhì, sự chọn lọc tự nhiên là yếu tố chính làm thay
đổi.. (giữa các chủng loại). (firstly, to show that species had not been
separately created, and secondly, that natural selection had been the chief
agent of change..) [Xin đọc bài với chi tiết về “Nguồn Gốc Con Người:
Thuyết Tiến Hóa” trên trang nhà sachhiem.net:
https://sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh00a.php]
Trước sự tiến bộ
trí thức của nhân loại, trước sự kiện tư tưởng tiến hóa của Darwin càng ngày
càng được giới khoa học và trí thức kiểm chứng và chấp nhận, những tiếng
chống đối từ phía Ki Tô Giáo phai nhạt dần. Andrew D. White, tác giả cuốn
sách đồ sộ dày gần 900 trang, Một Lịch Sử về Cuộc Chiến Giữa Khoa Học và
Thần Học trong Ki Tô Giáo (A History of the Warfare of Science with
Theology in Christendom), đã đưa ra kết luận như sau về những chống đối của
Ki Tô Giáo đối với thuyết Tiến Hóa của Darwin trong hậu bán thế kỷ 19:
“Mọi chống đối
đều không đi tới đâu; tác phẩm của Darwin và danh tiếng của ông ta được bảo
đảm. Khi chúng ta nhìn lại cuộc sống tốt đẹp của ông ta – giản dị, lươong
thiện, khoan nhượng, từ ái – và nghĩ đến những công cuộc vĩ đại của ông ta
trong việc tìm kiếm sự thật, mọi sự tấn công đều phai nhạt vào hư vô.”
(All opposition
had availed nothing; Darwin’s work and fame were secure. As men looked back
over his beautiful life – simple, honest, tolerant, kindly – and thought
upon his great labours in the search for truth, all the attacks faded into
nothingness.)
Tưởng chúng ta cũng
nên biết, cách đây hơn một thế kỷ, Robert G. Ingersoll đã viết về Charles
Darwin một cách chính xác như sau:
“Thế kỷ này (TK
19) sẽ được gọi là thế kỷ của Darwin. Ông ta là một trong những vĩ nhân
trên trái đất. Ông ta đã giải thích rõ ràng những hiện tượng về sự sống hơn
là tất cả những ông thầy dạy của Ki Tô Giáo. Một bên, viết tên của Charles
Darwin, và bên kia viết tên của mọi nhà thần học từ trước tới nay, và từ
tên của Darwin đã tỏa ra nhiều ánh sáng hơn là ánh sáng của tất cả các nhà
thần học gộp chung lại. Thuyết Tiến Hóa, thuyết sống còn thích ứng
nhất với hoàn cảnh xung quanh, thuyết nguồn gốc các chủng loại của ông ta đã
cất bỏ cái vết tích cuối cùng của Ki Tô Giáo ra khỏi những người có đầu óc.
Ông ta không chỉ nói lên mà còn chứng minh là những người được Thần linh
khải cho viết Thánh Kinh không biết gì về thế giới này, về nguồn gốc con
người, về địa chất học, về thiên văn học, về thiên nhiên; rằng Thánh Kinh
được viết do sự ngu si – với sự dọa dẫm để làm cho sợ hãi. Hãy nghĩ đến
những người đã trả lời (phê bình) ông ta. Càng ngu bao nhiêu thì họ càng
hồ hởi làm công việc này. Darwin bị chế giễu, khinh khi và coi thường
bởi thế giới của Ki Tô Giáo, tuy vậy mà khi ông ta chết, Anh Quốc đã hãnh
diện chôn ông ta cùng với những nhân vật cao quý nhất và vĩ đại nhất của
nước Anh. [Darwin được chôn ngay gần Isaac Newton trong điện
Westminster (Westminster Abbey). Trước sự kiện này, Mục sư Laing đã phê bình
“đây là một bằng chứng chứng minh nước Anh không còn là một quốc gia theo
Ki Tô Giáo nữa” (a proof that England is no longer a Christian country).
TCN] Charles Darwin đã chinh phục thế giới trí thức, và những lý thuyết
của ông ta ngày nay đã được chấp nhận như là những sự kiện.
Giáo
hội Ki Tô dạy rằng con người đã được sáng tạo ra thật là hoàn hảo, và trong
6 ngàn năm qua con người đã thoái hóa. Darwin đã chứng minh sự sai lầm của
cái tín lý này. Ông ta chứng minh rằng con người, trong nhiều ngàn thời
đại, đã không ngừng tiến bộ; rằng cái Vườn Eden là huyền thoại của kẻ ngu;
rằng giáo lý về tội tổ tông không có nền tảng dựa trên sự kiện; rằng chuộc
tội là một sự vô nghĩa; rằng con rắn không có quyến rũ con người ham muốn,
và con người không có “sa ngã”.
Charles
Darwin đã phá sập Ki Tô Giáo. Chẳng có gì khác còn lại ngoài một đức
tin vào cái mà chúng ta biết không thể xảy ra và đã không hề xảy ra. Ki Tô
Giáo và khoa học là kẻ thù của nhau. Một bên là mê tín, bên kia là một
sự kiện. Một bên đặt nền tảng trên sự sai lầm, một bên trên sự chân
thật. Một bên là kết quả của sự sợ hãi và đức tin, bên kia là sự tìm tòi
để hiểu biết và lý trí.
Chúng ta hãy
lương thiện. Tất cả những linh mục ở Rô Ma gộp lại có gia tăng sự phong
phú của tâm linh như là Bruno không? Tất cả những linh mục ở Pháp
gộp lại có góp phần lớn lao nào vào nền văn minh của thế giới như là Diderot
và Voltaire không? Tất cả các mục sư ở Scotland gộp lại có gia thêm vào
kiến thức của nhân loại như là David Hume không? Những người trong giới
chăn chiên, mục sư, linh mục, giám mục, hồng y và giáo hoàng, từ ngày Giê-su
thăng thiên đến cuộc bầu phiếu cuối cùng, có góp phần vào sự tự do của con
người như là Thomas Paine không? – góp phần vào khoa học như là Charles
Darwin không?
Thế giới đã trở
thành cái gì nếu không có những người không tin vào Ki Tô Giáo?
(This century will be called Darwin’s century.
He was one of the greatest men who ever touched this globe. He has
explained more of the phenomena of life than all of the Christian religious
teachers. Write the name of Charles Darwin on the one hand and the name of
every theologian who ever lived on the other, and from that name has come
more light to the world than from all those. His theory of evolution, his
theory of the survival of the fittest, his theory of the origin of species,
has removed in every thinking mind the last vestige of Christianity. He has
not only stated, but he has demonstrated, that the inspired writer knew
nothing of this world, nothing of the origin of man, nothing of geology,
nothing of astronomy, nothing of nature; that the Bible is a book written by
ignorance – at the instigation of fear. Think of the men who replied to
him. The more ignorant he was the more cheerfully he undertook the task.
He was held up to the ridicule, the scorn and contempt of the Christian
world, and yet when he died, England was proud to put his dust with that of
her noblest and her grandest. Charles Darwin conquered the intellectual
world, and his theories are now accepted facts.
The Christian
church teaches that man was created perfect, and that for six thousand years
he has degenerated. Darwin demonstrated the falsify of this dogma. He
shows that man has for thousands of ages steadily advanced; that the Garden
of Eden is an ignorant myth; that the doctrine of original sin has no
foundation in fact; that the atonement is an absurdity; that the serpent did
not tempt, and that man did not “fall”.
Charls Darwin destroyed the foundation of
Christianity. There is nothing left but faith in what we know could not and
did not happen. The Christian religion and science are enemies. One is a
superstition; the other is a fact. One rests upon the false, the other upon
the true. One is the result of fear and faith, the other of investigation
and reason.
Let us be honest.
Did all the priests of Rome increase the mental wealth of man as much as
Bruno? Did all the priests of France do as great a work for the
civilization as Diderot and Voltaire? Did all the ministers of Scotland add
as much to the sum of human knowledge as David Hume? Have all the
clergymen, friars, ministers, priests, bishops, cardinals and popes, from
the day of Pentecost to the last election, done as much for human liberty as
Thomas Paine? – as much for science as Charles Darwin?
What would the
world be if infidels had never been?)
Chúng ta nên để ý, Ingersoll viết bài trên vào
cuối thế kỷ 19, khi mà Thuyết Tiến Hóa bị Ki Tô Giáo chống đối dữ dội, dựa
trên một số chi tiết trong thuyết Tiến Hóa chưa thể kiểm chứng được. Với
thời gian qua, càng ngày những kết quả nghiên cứu của các khoa học gia càng
chứng tỏ là thuyết Tiến Hóa có một căn bản vững chắc và có thể giải thích
được rất nhiều điều trong nhiều bộ môn khoa học, nhất là trong Sinh Học.
Sau đây, tôi sẽ đưa ra nhận định điển hình về thuyết Tiến Hóa, trước hết của
một số khoa học gia và học giả, sau đến của các nhà lãnh đạo tinh thần Ki Tô
Giáo.
Thuyết Tiến Hóa - Nay:
Với sự hiểu biết
hiện nay về nguồn gốc con người trên trái đất thì Thuyết Tiến Hóa ngày
nay là một sự kiện vững chắc đã được xác nhận bởi nhiều bộ môn khoa học, và
lý trí. Thuyết Tiến Hóa mà chúng ta hiểu ngày nay là sự tổng hợp của
hàng núi những bằng chứng trong nhiều bộ môn khoa học như Sinh Học, Sinh Hóa
Học, Cổ Sinh Vật Học, Nhân Chủng Học, Di Truyền Học, Khảo Cổ Học, Vật Lý
Học, Vũ Trụ Học v..v.., có những bộ môn mà trong thời của Darwin chưa được
khám phá ra. Xin đừng nhầm lẫn, cho rằng Thuyết Tiến Hóa là của riêng
Charles Darwin. Tư tưởng Tiến Hóa đã có trong nhân loại từ lâu. Nhưng
không ai có thể phủ nhận là Charles Darwin đã lập thuyết Tiến Hóa một cách
khoa học và từ đó, thuyết Tiến Hóa đã được kiểm chứng và phát triển như ngày
nay.
Tìm hiểu về nguồn gốc con người, không chỉ là các
nhà di truyền học, mà các khoa học gia đã phối hợp kết quả nghiên cứu trong
ít nhất là 7 ngành khoa học có liên hệ với nhau và hỗ trợ nhau: Cổ Sinh
Vật và Nhân Chủng Học (Paleoanthropology), Khảo Cổ (Archaeology), Di Truyền
Dân Số Học (Population genetics), Lịch Sử Ngôn Ngữ Học (Historical
linguistics), ngành khảo cứu về các Động Vật Linh Trưởng (Primatology), Nhân
Chủng Xã Hội (Social Anthropology), và Tiến Hóa Tâm Lý (Evolutionary
Psychology). Từ những kết quả nghiên cứu này, điều rõ ràng là, cũng như mọi
vấn đề khác trong sinh học, quá khứ và hiện tại của giống người chỉ có
thể hiểu được trong ánh sáng của Tiến Hóa. [Like everything else in
biology, the human past and present are incomprehensible except in the light
of evolution.]
Ngoài ra, những công cuộc khảo cứu mới nhất về
những con bọ (fruit flies), chương trình khảo cứu “evo devo”
[evolutionary
development biology] trong sinh học về quá trình phát triển tạo ra cơ thể
sinh vật và thay đổi chúng qua thời gian [đại học Wisconsin-Madison] đã
chứng tỏ rõ ràng là loài người có cùng họ hàng không chỉ với những loại khỉ
mà còn với những con bọ, con sâu trong quá khứ xa nữa (Analysis of the genes
that build our bodies show our clear skinship not just to the apes but all
the way back to bugs, worms and beyond); rồi chương trình điện toán Avida về
các sinh vật tượng trưng bằng số (digital organisms) ở đại học Michigan,
Avida không phải là sự tái tạo tiến hóa trên máy điện toán mà chính là hiện
tượng tiến hóa (Avida is not a simulation of evolution; it is an instance of
it); và nhiều khám phá mới trong mọi ngành khoa học đã càng ngày càng cho
thấy Tiến Hóa không còn là một lý thuyết mà là một sự kiện. Kết luận:
Không còn nghi ngờ gì nữa, thuyết Tiến Hóa ngày nay đã không còn là một
thuyết, mà đã trở thành một sự kiện.
Sau đây, chúng ta
hãy xét đến chỗ đứng của Darwin và thuyết Tiến Hóa trong thế giới ngày nay.
Trước hết, chúng ta nên biết nước Mỹ có 80% theo
Ki Tô Giáo (Công giáo, gần 300 hệ phái Tin Lành, Chính Thống, Mormon v..v..)
nhưng năm 1984, trước phong trào của một số địa phương Ki Tô Giáo đòi hỏi
phải dạy song song thuyết Tiến Hóa và thuyết Sáng Tạo trong các trường học,
Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kỳ đã khẳng định trong bài Khoa Học
và Chủ Thuyết Sáng Tạo: Một Quan Điểm Của Hàn Lâm Viện Quốc Gia Khoa Học
(Science and Creationism: A View From the National Academy of Sciences) như
sau:
“Thật là quan trọng phải làm sáng tỏ bản chất
của khoa học và giải thích tại sao chủ thuyết sáng tạo không thể được coi
như là một bộ môn khoa học. Đòi hỏi phải dạy cả hai (thuyết tiến hóa và
thuyết sáng tạo) đồng đều trong cùng một lớp học phản ánh sự hiểu lầm về
thế nào là khoa học và khoa học đã được theo đuổi như thế nào. Những nhà
nghiên cứu khoa học tìm hiểu các hiện tượng thiên nhiên bằng quan sát trực
tiếp và thực nghiệm. Những diễn giải về những sự kiện khoa học luôn luôn
chỉ có tính cách tạm thời và phải được kiểm chứng. Những lời phán quyết
từ bất cứ một quyền lực nào, lời mạc khải nào, hay viện đến đấng siêu nhiên
đều không thích hợp với quá trình khoa học này vì không có bằng chứng để
chứng minh. Tuy nhiên, trong thuyết sáng tạo, cả hai, quyền lực cũng
như mạc khải, được đặt trên những bằng chứng. Những kết luận của những
người theo thuyết sáng tạo không hề thay đổi, cũng không thể coi là đúng khi
đặt trong sự kiểm chứng của những phương pháp khoa học. Do đó, có một sự
khác biệt sâu đậm giữa niếm tin tôn giáo vào sự sáng tạo đặc biệt và những
giải thích khoa học trong thuyết Tiến Hóa. Sự trình bày cả hai chủ thuyết
trên đồng đều trong lớp học chỉ mang đến kết quả là sự hoang mang, không có
ích lợi gì.”
(It is important to clarify the nature of
science and to explain why creationism cannot be regarded as a scientific
pursuit. The claim that equity demands balanced treatment of the two in the
same classroom reflects misunderstanding of what science is and how it is
conducted. Scientific investigators seek to understand natural phenomena by
direct observation and experimentation. Scientific interpretations of facts
are always provisional and must be testable. Statements made by any
authority, revelation, or appeal to the supernatural are not germane to this
process in the absence of supporting evidence. In creationism, however,
both authority and revelation take precedence over evidence. The
conclusions of creationism do not change, nor can they be validated when
subjected to test by the methods of science. Thus, there are profound
differences between the religious belief in special creation and the
scientific explanations embodied in evolutionary theory. Neither benefits
from the confusion that results when the two are presented as equivalent
approaches in the same classroom.)
Và năm 1998, trong
một cuốn sách hướng dẫn cho các thầy giáo, phụ huynh học sinh, nhà trường,
và các nhà đưa ra chính sách giáo dục, Hàn Lâm Viện Quốc Gia Khoa Học (Hoa
Kỳ) đã viết:
“Trong cộng đồng khoa học, không còn có sự
tranh luận về sự tiến hóa có xảy ra hay không, và không có bằng chứng nào
chứng tỏ là sự tiến hóa đã không xảy ra.”
(“There is no debate within the scientific
community over whether evolution has occured, and there is no evidence that
evolution has not occured”, the National Academy of Sciences said in a
guidebook intended for teachers, parents, school administrators and
policymakers.)
Sự kiện này cho thấy, ở Mỹ, tôn giáo, dù là Ki
Tô Giáo, tôn giáo của đa số người dân, chỉ là vấn đề tín ngưỡng riêng tư, và
những kẻ trong Ki Tô Giáo, thường là Tin Lành, vẫn tiếp tục cất lên tiếng
nói chống thuyết Tiến Hóa, chẳng qua chỉ là những kẻ cuồng tín, đi ngược
thời gian. Những tiếng chống đối này không bao giờ có thể có chỗ đứng trong
thế giới tiến bộ của nhân loại ngày nay. Tuy Pháp Viện Tối Cao Hoa Kỳ đã
phán quyết là các trường công không thể dạy là Thiên Chúa tạo ra vũ trụ
(The Supreme Court ruled that public schools cannot teach that God created
the universe.), tại một vài tiểu bang mà Ki Tô Giáo mạnh, Tin Lành vẫn còn
cố gắng vận động để thuyết sáng tạo được dạy song song với thuyết tiến hóa.
Họ vẫn tiếp tục chống đối thuyết tiến hóa và cùng lúc, đưa thuyết sáng tạo
lên như một bộ môn khoa học, không phải là tôn giáo, để tránh né điều khoản
trong Hiến Pháp Hoa Kỳ: tách rời nhà nước và tôn giáo. Có vài nơi, các nhà
bảo thủ Ki Tô Giáo (fundamentalists) còn vận động đưa ra đạo luật để bỏ danh
từ “tiến hóa” (evolution) trong những sách giáo khoa, thay thế vào đó bằng
từ “thay đổi với thời gian” (change with time). Nhưng ở khắp nơi: Arizona
1996, Illinois 1997, và Kansas 1999, Ki Tô Giáo đã thất bại trong mưu toan
này.
Chúng ta đã thấy rõ sự nguy hại của những người
cuồng tín Ki Tô Giáo trong sách lược nắm giữ đầu óc của dân chúng để ép dân
chúng phải tin vào cái ông Thần Do Thái mà họ thờ phụng. Nếu họ ở vị thế
cầm quyền như Ngô Đình Diệm ngày trước ở Nam Việt Nam thì nền giáo dục quốc
gia sẽ trở thành nền giáo dục Ki Tô Giáo, một nền giáo dục mà trong thế giới
Tây phương tiến bộ ngày nay, chỉ còn sót lại trong một số ốc đảo Ki Tô Giáo
bảo thủ, tuyệt đối không có chỗ đứng trong nền giáo dục công cộng. Người
Việt Nam chúng ta không bao giờ nên quên dưới thời Ngô Đình Diệm, một số
giáo sư bất lương trí thức Công giáo đã thao túng trong Đại Học Văn Khoa, ra
công bài bác Phật Giáo trong chương trình học. Chúng ta cũng không nên quên
chính sách bạo tàn của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với các tôn giáo khác,
một chính sách bắt nguồn từ sự cuồng tín vào Công giáo La Mã của ông ta và
gia đình. Chúng ta cũng không bao giờ nên quên vai trò thực dân, gián điệp
của những giáo sĩ Công giáo như Bá Đa Lộc, Đắc Lộ v..v…đến Việt Nam để vừa
cướp nước vừa đầu độc đầu óc những người dân Việt Nam nghèo khổ ít học,
khiến cho họ trở thành những kẻ phản bội quê hương. Chúng ta cũng không bao
giờ nên quên vai trò của Công giáo La Mã ở Việt Nam trong cuộc xâm lăng của
Pháp vào hậu bán thế kỷ 19, trong cuộc kháng chiến chống toan tính tái lập
chế độ thực dân ở Việt Nam của Pháp, với sự hỗ trợ của Anh, Mỹ, và trong
cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài 20 năm do Mỹ khởi xướng. Chúng ta có thể tha
thứ cho những đồng bào lầm đường lạc lối có tội với dân tộc này, và trên
thực tế chúng ta đã tha thứ. Nhưng chúng ta không có quyền quên đi lịch sử
vì quên đi lịch sử thì lịch sử lại có cơ hội tái diễn. Vấn đề cấp thiết
ngày nay là chúng ta phải dấn thân mở mang dân trí làm sao để cho cái lịch
sử bạo tàn, cuồng tín, mang đau thương đến cho dân tộc Việt Nam không thể
tái diễn.
Ngoài Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia của Hoa Kỳ
ở trên, nếu chúng ta theo dõi báo chí hàng ngày thì chúng ta sẽ thấy, hầu
như toàn thể báo chí, ngay cả những tờ báo có ảnh hưởng nhất trên nước Mỹ
như Wall Street Journal, Newsweek, Time v..v.. , đều đưa lên những thông tin
mới nhất về những bằng chứng khoa học chứng tỏ thuyết Tiến Hóa là đúng. Sau
đây là một thí dụ điển hình. Trong tờ Chicago Tribune Sep. 22, 2002, Katrin
Schultheiss trong một bài về đề tài Tiến Hóa, đã viết:
Trong vòm trời
của những người có uy tín về khoa học, ít có ngôi sao nào sáng như Charles
Darwin. Chúng ta có thể biện luận rằng, Darwin và Copernicus, và có thể là
Pasteur và Freud, là những người duy nhất đã khởi sự các cuộc cách mạng. Và
không phải chỉ là cách mạng khoa học, mà còn là cách mạng trí thức và văn
hóa.
(In the
firmament of scientific luminaries, few stars shine as brightly as Charles
Darwin. He and Copernicus, and possibly Pasteur and Freud, are arguably the
only scientists who started revolutions. And not merely scientific
revolutions, but intellectual and cultural revolutions as well.)
Sau đây chúng ta
sẽ đi vào phần một số nhận định của các khoa học gia, học giả và cả những
bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo về Thuyết Tiến Hóa.
Trước hết là nhận
định của một số khoa học gia nổi danh trên thế giới:
1. Ernst Mayr,
Giáo sư danh dự đại học Harvard, trong cuốn What Evolution Is?):
Tiến Hóa không
chỉ đơn thuần là một ý tưởng, một lý thuyết, hay một quan niệm, mà là tên
của một quá trình trong thiên nhiên. Sự xảy ra của quá trình này có thể
chứng minh bằng tài liệu của hàng núi bằng chứng mà không ai có thể phủ bác
được. Ngày nay, xét đến số lượng to lớn những bằng chứng đã được khám
phá ra trong 140 năm nay để chứng minh sự hiện hữu của tiến hóa, thật là lạc
dẫn khi ta coi Tiến Hóa như là một thuyết. Tiến Hóa không còn là một
thuyết, nó đơn giản là một sự kiện.
(Evolution is not
merely an idea, a theory, or a concept, but is the name of a process in
nature, the occurrence of which can be documented by mountains of evidence
that nobody has been able to refute...It is now actually misleading to refer
to evolution as a theory, considering the massive evidence that has been
discovered over the last 140 years documenting its existence. Evolution is
no longer a theory, it is simply a fact.)
2. James Birx
trong Interpreting Evolution:
“Tiến Hóa là
một sự kiện vững chắc đã được cả khoa học và lý trí xác nhận; nhân loại
chúng ta thì nối kết với sự sống, lịch sử của trái đất, thiên hà này
(giải ngân hà mà thái dương hệ, trong đó có trái đất, nằm trong đó), và
cả vũ trụ.
Có một nền thần
học hiện đại nào mà chấp nhận cả hai quan điểm về vũ trụ và thuyết Tiến Hóa
trong một cách nhìn khoáng đạt và không có huyền thoại về thế giới?
Cuối cùng thì tín lý mù quáng của đức tin tôn giáo với những câu chuyện
đã lỗi thời và những giá trị cận thị thực sự không còn mấy giá trị nữa; đó
chỉ là sự mơ ước từ đó đặt niềm tin vào sự bất diệt của con người và vào một
vũ trụ tâm linh.”
(Evolution is an established
fact supported by both science and reason; our own species is linked to
life, earth history, this galaxy, and the universe itself.
Is there a modern theology that embraces both a
cosmic perspective and the evolutionary framework within an openended and
myth-free worldview? Eventually, the blind dogma of religious faith with
its outmoded stories and myopic values wears very thin, indeed; it is simply
wishful thinking to believe in human immortality and a spiritual cosmos.)
3. Stephen Jay
Gould, trong phần Dẫn Nhập của
cuốn “Tiến Hóa: Sự Chiến thắng Của Một Ý Tưởng” (Evolution: The
Triumph of an Idea), tác giả là Carl Zimmer, một cuốn sách đi kèm với chương
trình dài 8 tiếng đồng hồ của đài truyền hình PBS về thuyết Tiến Hóa (a
companion to the PBS 8-hour television series on Evolution):
“Khoa học,
như các chuyên gia chúng tôi thường vạch rõ, không thể thiết lập sự thật
tuyệt đối; do đó, những kết luận của chúng tôi luôn luôn là có tính cách
không dứt khoát. Nhưng sự hoài nghi lành mạnh này không cần phải đưa nó đến
độ hư vô, và chúng tôi có thể chắc chắn nói rằng, một số sự kiện đã được
kiểm chứng với đủ mức tin cậy cho nên chúng tôi có thể coi những sự kiện này
là đúng sự thật trong bất cứ nền văn hóa địa phương nào trên thế giới.(tính
phổ quát (universality) của các sự kiện khoa học. TCN)
Có lẽ tôi không thể tuyệt đối chắc chắn là
quả đất thì tròn thay vì phẳng, nhưng dạng hình cầu của hành tinh của chúng
ta đã được kiểm chứng đủ để cho tôi không cho phép “cái xã hội của những
người tin trái đất phẳng” được hưởng đồng đều thời gian để dạy thuyết của
họ, hay hưởng bất cứ khoảng thời gian nào, trong lớp dạy về khoa học của
tôi.
Tiến Hóa,
quan niệm căn bản của mọi khoa học về sinh học, đã được kiểm chứng rất kỹ,
và do đó có thể coi như là đúng với sự thật.”
(Science, as we professionals always point out,
cannot establish absolute truth; thus, our conclusions must always remain
tentative. But this healthy skepticism need not be extended to the point of
nihilism, and we may surely state that some facts has been ascertained with
sufficient confidence that we may designate them as “true” in any
legitimate, vernacular meaning of the world.
Perhaps I cannot
be absolutely certain that the earth is round rather than flat, but the
roughly spherical shape of our planet has been sufficiently well verified
that I need not grant the “flat earth society” a platform of equal time, or
even any time at all, in my science class.
Evolution, the
basic organizing concept of all the biological sciences, has been validated
to an equally high degree, and may therefore be designated as true or
factual.)
Và trong Lời
Nói Đầu của cuốn sách trên, Richard Hutton , nhà đạo diễn chương
trình truyền hình về thuyết Tiến Hóa trên đài PBS, đã viết:
“Triết gia
Daniel Dennett đã có lần viết về thuyết Tiến Hóa: “Nếu tôi được trao một
giải thưởng cho một ý tưởng (về khoa học. TCN) duy nhất và hay nhất
từ xưa tới nay, tôi phải trao nó cho Darwin, trước cả Newton và Einstein và
mọi người khác. Chỉ trong một sáng kiến, ý tưởng về tiến hóa do chọn lọc tự
nhiên đã kết hợp cảnh giới của sự sống, ý nghĩa, và mục đích của sự sống với
cảnh giới của không gian và thời gian, nhân và quả, cơ chế vận hành và luật
vật lý. Nhưng nó không chỉ là một ý tưởng kỳ diệu. Đó là một ý
tưởng nguy hiểm. Nguy hiểm vì, đối với những người tin những gì viết trong
Thánh Kinh, ý tưởng này đe dọa những niềm tin tôn giáo mà họ trân quý về một
quá trình sáng tạo (ra vũ trụ) trong 6 ngày.”
(Philosopher Daniel Dennett once wrote of the
theory of evolution: “If I were to give an award for the single best idea
anyone has ever had, I’d give it to Darwin, ahead of Newton and Einstein and
everyone else. In a single stroke, the idea of evolution by natural
selection unifies the realm of life, meaning, and purpose with the realm of
space and time, cause and effect, mechanism and physical law. But it is not
just a wonderful idea. It is a dangerous idea. Dangerous because, for
people who interpret the Bible literally, it threatens dearly held religious
beliefs about a six-day process of creation.)
Trên đây là vài nhận định về thuyết Tiến Hóa của
một số nhân vật điển hình có uy tín trong cộng đồng các khoa học gia. Hiển
nhiên là, đối diện với sự thật bất khả phủ bác của khoa học về vũ trụ nhân
sinh, một số các nhà lãnh đạo Ki Tô Giáo cũng đã phải lên tiếng chấp nhận
thuyết Tiến Hóa. Sự thật là ngày nay, đa số những bậc lãnh đạo trong Ki Tô
Giáo đã chấp nhận thuyết Tiến Hóa và tìm cách giải thích Thánh Kinh khác đi
cho phù hợp với sự tiến bộ trí thức của nhân loại để duy trì niềm tin trong
Ki Tô Giáo, nhưng vì những giải thích này không thuộc lãnh vực khoa học cho
nên chúng chỉ có tác dụng huyễn hoặc đầu óc của đám tín đồ ở dưới chứ thực
chất là vô giá trị đối với giới khoa học. Mặt khác họ cũng còn cố giữ những
thông tin mới nhất về khoa học, về thực chất cuốn Thánh Kinh v..v.. ở ngoài
sự hiểu biết của giáo dân, cho nên ngay cả những lời thú nhận của các bậc
lãnh đạo trong Ki Tô Giáo về thuyết Tiến Hóa cũng chỉ được rất ít tín đồ
biết đến. Sau đây là nhận định của một số các bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo
về thuyết Tiến Hóa.
a)
Giáo Hoàng Công giáo La Mã John Paul II phát biểu năm 1996:
Thân xác con
người có thể không phải là sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả
của một quá trình tiến hóa dần dần...Những kiến thức mới nhất dẫn đến việc
phải chấp nhận Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là một giả thuyết.
(The human body may not have been the immediate
creation of God, but is the product of a gradual process of
evolution...Fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution
as more than just a hypothesis).
b) Linh mục dòng Tên Teillard de
Chardin trong The Phenomenon of Man:
Tiến Hóa là một
thuyết, một hệ thống, hay một giả thuyết? Nó còn nhiều hơn nữa: nó là một
điều kiện tổng quát mà mọi thuyết, mọi giả thuyết, mọi hệ thống phải cúi
đầu trước nó và phải phù hợp với nó nếu chúng muốn được nghĩ tới và coi
là đúng.. Tiến Hóa là một ánh sáng soi sáng mọi sự kiện, một đường cong
mà mọi đường thẳng phải theo nó.
(Is evolution a theory, a system or a
hypothesis? It is much more: it is a general condition to which all
theories, all hypotheses, all systems must bow and which they must satisfy
henceforth if they are to be thinkable and true. Evolution is a light
illuminating all facts, a curve that all lines must follow...)
c) Mục sư
Ernie Bringas trong cuốn: Going By The Book: Past and Present
Tragedies of Biblical Authority:
Thuyết Tiến
Hóa là một trong những cấu trúc tuyệt vời và thành công nhất của tư tưởng
con người. Mọi ngành khoa học đều tiếp tục ủng hộ và kiểm chứng quan niệm
về sự tiến hóa. Thuyết Tiến Hóa , giống như Thuyết Tương Đối, không còn
là một "thuyết" theo nghĩa thông thường nữa, mà là một nguyên lý khoa học
đặt căn bản trên rất nhiều bằng chứng không còn phải bàn cãi nữa.
(The theory of
evolution is among the most elegant and fruitful structures of human
thought... All scientific disciplines continue to support and verify the
concept of evolution. The theory of evolution, like the theory of
relativity, is no longer a "theory" in the popular sense, but a scientific
principle based on considerable, indisputable evidence.)
d)
Giám mục John Shelby Spong trong cuốn
Why Christianity Must Change or Die:
Thuyết Tiến Hóa
làm cho Adam và Eve trở nên may nhất là những nhân vật theo truyền thuyết.
Thuyết Tiến Hóa không dễ gì cho tổ chức tôn giáo chấp nhận, và ngày nay
vẫn còn những tiếng nói cất lên từ những miền hẻo lánh của thế giới để chống
đối thuyết này. Những tiếng nói này sẽ không bao giờ thành công. Nhân
loại rõ ràng là tiến hóa theo một quá trình trải dài từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ
năm. Không làm gì có hai cha mẹ đầu tiên
(nghĩa là Adam và Eve. TCN), và do đó cái
hành động bất tuân lúc đầu của hai bậc cha mẹ đầu tiên không thể nào có ảnh
hưởng đến toàn thể nhân loại. Do đó cái huyền thoại về tội tổ tông đã bị
một đòn khai tử, và cái câu chuyện vững chắc về sự cứu rỗi do những người
bảo vệ Ki-tô giáo dựng lên qua nhiều thời đại đã bắt đầu chao đảo.
(The theory of
evolution made Adam and Eve legendary at best. Evolution was not easy for
the religious establishment to accept, and still voices are raised
today in remote areas of the world to resit it. Those voices will never
succeed. Human life clearly evolved over a
four-and-a-half-to-five-billion-year process. There were no first parents,
and so the primeval act of disobedience on the part of first parents could
not possibly have affected the whole human race. The myth was thus dealt a
blow, and the monolithic story of salvation built by Christian apologists
over the age began to totter.)
Chúng ta thấy, ngày nay, hầu hết các khoa
học gia và giới trí thức có hiểu biết, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội
Ki-tô, đều đồng thuận ở điểm: Thuyết Tiến Hóa đã trở thành một sự kiện
(fact). Những tiếng chống đối thuyết Tiến Hóa cất lên từ những ốc đảo si
ngây mê tín đã trở thành lạc lõng trong thế giới loài người. Nhưng
chúng vẩn tiếp tục cất lên vì trong thế giới loài người ngày nay, không ít
người, kể cả những người được gọi là trí thức, vì một đức tin không cần
biết, không cần hiểu, nên vẫn sống trong bóng tối và nhắm mắt đi theo một
quá trình mà học giả Ki-tô Neale Donald Walsch đã nhận định trong cuốn
The New Revelations, trang 51: “Những nhà bảo thủ Tin Lành tin rằng
con đường tiến tới là con đường đi giật lùi, giật lùi về đúng những
lời nguyên thủy của cuốn Kinh Thánh – một cuốn sách phải đọc nguyên văn, và
áp dụng từng câu từng chữ.” (Fundamentalists believe that the way
forward is the way backward, to the original and exact words of the Holy
Scripture – to be read verbatim, and applied literally), đồng nghĩa với
thoái hóa. Thật vậy, trong khi phần lớn thế giới đã ra khỏi vòng mê tín thì
một số lại quay đầu đi trở về những mê tín phi lý trí, phi lô-gic, phản khoa
học của thời Trung Cổ. Tệ hơn nữa, họ còn tìm đủ mọi cách để kéo những
người khác đi vào sự điên rồ tăm tối như họ. Như Giám mục Spong đã nhận
định ở trên, những tiếng nói này không bao giờ có thể thành công, vì nhân
loại không đi giật lùi, và những kẻ đi giật lùi trước sau gì cũng bị đào
thải..
Thật ra thì, những
sự chống đối thuyết Tiến Hóa, hầu hết thuộc hệ phái Tin Lành trong Ki Tô
Giáo, không phải vì trong thuyết Tiến Hóa có những vấn nạn chưa giải quyết
được thỏa đáng, một đặc tính của khoa học, mà vì thuyết Tiến Hóa đã phá vỡ
nền tảng của đức tin trong Ki Tô Giáo. Công Giáo không có mấy chống đối
thuyết tiến hóa, nhất là trong vài thập niên gần đây, vì Công Giáo đã thành
công xây dựng được một định chế trong đó tín đồ tuyệt đối tuân phục những
lời giáo hội dạy, bất kể là những giáo điều này trái với sự thật khoa học.
Trái lại, Tin Lành tuyệt đối tin rằng Kinh Thánh của Ki Tô Giáo là những lời
mạc khải của Thiên Chúa nên không thể nào sai lầm, do đó vẫn tiếp tục chống
đối thuyết Tiến Hóa, dựa trên những hiểu biết ấu trĩ và nông cạn của họ về
khoa học. Những người Tin Lành lên tiếng chống đối thuyết Tiến Hóa thường
không hiểu thuyết Tiến Hóa là gì. Cho nên, khi họ cố gắng đưa ra một “luận
cứ” để bác thuyết Tiến Hóa thì luận cứ đó trở thành ngớ ngẩn vì tính chất
ngụy biện của nó, vì thực chất chỉ phản ánh niềm tin đã lỗi thời của họ
thuộc loại mê tín đã không còn chỗ đứng trong thế giới văn minh tiến bộ ngày
nay.
Qua sự trình bày
về Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa ở trên, chúng ta rút tỉa được những gì?
Thứ nhất, trong
suốt dòng lịch sử, Ki Tô Giáo đã cố sức ngăn chận sự tiến bộ trí thức của
nhân loại, đã cố sức giam hãm đầu óc của tín đồ vào một niềm tin không cần
biết, không cần hiểu. Và cái nguy hại chính của Ki Tô Giáo là ở nơi nào mà
Ki Tô Giáo nắm được vị thế có quyền lực, ở nơi đó sự trở lại thời man rợ và
đen tối trí thức (the age of barbarism and intellectual darkness) không phải
là không thể xảy ra. Đối với lớp người tự nhận là công dân của vương
quốc Thiên Đàng của Đức Chúa Jésus Christ và luôn luôn cảm
thấy hãnh diện tự nguyện làm đầy tớ, xiêng năng hầu việc Chúa, thì không
làm gì có quốc gia và dân tộc, không làm gì còn nền văn hóa, truyền thống
quốc gia và dân tộc. Đây là một mối nguy hại có thực nếu chúng ta áp dụng
thái độ của con đà điểu, rúc đầu vào cát, không nhìn thấy gì hết, và cho đó
là yên, sẽ không có chuyện gì xảy ra.
Thứ nhì, tại sao
chỉ có những tôn giáo “Độc Thần” như Ki Tô Giáo, Do Thái Giáo, và Hồi Giáo
là phát dị ứng đối với thuyết Tiến Hóa, trong khi các tôn giáo Đông Phương
như Thích, Nho, Lão, và ngay cả Ấn Độ Giáo, đều không có một lời chống đối?
Phải chăng sự chống đối của Ki Tô Giáo bắt nguồn từ một tâm cảnh thiếu tự
tin và hoảng sợ trước những sự thật khoa học có tác dụng loại bỏ những điều
mê tín hoang đường trong Ki Tô Giáo? Phải chăng Ki Tô Giáo đã được xây
dựng trên một căn bản thần học đã bị bật gốc rễ trước những sự kiện khoa
học, và do đó không còn thích hợp với sự tiến bộ trí thức ngày nay? Phải
chăng sự chống đối chỉ có mục đích duy trì thần quyền và thế quyền tự nhận
của các giáo hội Ki Tô?
Thứ ba, điểm đặc
biệt nhất ở đây là chính những luận cứ của Ki Tô Giáo chống đối thuyết Tiến
Hóa đã quật ngược lại họ một cách không thể cứu vãn, do đó cái đường thẳng
“tin Chúa” của Ki Tô Giáo chỉ còn có thể cúi đầu khuất phục đi theo cái
đường cong Tiến Hóa như linh mục dòng Tên Teillard de Chardin nhận định.
Thật vậy, như trên chúng ta đã biết, những luận cứ chống đối như:
“Nếu thuyết của Darwin đúng
thì chuyện sáng thế là láo khoét, toàn thể cuốn sách về sự sống
(cuốn Thánh Kinh) tan ra từng mảnh, và sự
mạc khải của Thiên Chúa cho con người, mà người Ki Tô chúng ta biết, là một
ảo tưởng và một cái bẫy”;
“Nếu giả thuyết này đúng
thì Thánh Kinh chỉ là một chuyện giả tưởng không thể dung thứ được.. như vậy
trong gần 2000 năm nay các tín đồ Ki Tô đã bị lừa dối bởi một lời nói láo vĩ
đại.. Darwin đòi hỏi chúng ta không nên tin vào lời đầy quyền năng của Đấng
Sáng Tạo”;
“Nếu thuyết của Darwin đúng
thì không có chỗ nào cho Thiên Chúa”
“Thuyết Tiến Hóa trái ngược
với những điều rõ ràng trong Tân Ước cũng như Cựu Ước”
Ngày nay, nhân
loại đã có câu trả lời thích đáng: “Thuyết Tiến Hóa đúng, là một quá
trình thiên nhiên, là một sự kiện (fact) không ai có thể phủ bác, và không
còn cần phải bàn cãi nữa.” Và lẽ dĩ nhiên, câu trả lời này kéo theo
những sự kiện (facts) khác, kết luận từ những luận điệu chống đối nêu trên:
“Chuyện sáng thế là láo
khoét, toàn thể cuốn sách về sự sống (cuốn Thánh Kinh) đã tan ra từng mảnh,
và sự mạc khải của Thiên Chúa cho con người, mà người Ki Tô biết, là một ảo
tưởng và một cái bẫy”
“Thánh Kinh chỉ là một
chuyện giả tưởng không thể dung thứ được.. và trong gần 2000 năm nay, các
tín đồ Ki Tô đã bị lừa dối bởi một lời nói láo vĩ đại..”
“Không có chỗ nào cho Thiên
Chúa” [ở trong thế giới của chúng
ta ngày nay. TCN]
“Thuyết Tiến Hóa đúng, vậy
Thánh Kinh (Cựu Ước & Tân Ước)
phải sai.”
Hi vọng những tín
đồ Ki Tô Giáo Việt Nam, Công giáo cũng như Tin Lành, nhận thức được những sự
thật trên và từ bỏ hi vọng viển vông làm công dân của vương quốc
Thiên Đàng của Đức Chúa Jésus Christ, cái Thiên Đàng đã bị Giáo Hoàng
John Paul II sổ toẹt, và Giám Mục John Shelby Spong coi như là một sự mê tìn
tiền-Darwin và một sự vô nghĩa hậu-Darwin, trở về làm “công dân yêu
nước” của nước Việt Nam, đất nước đã sinh ra và nuôi dưỡng từ tổ tiên, ông
cha, cho đến mình, và rồi đến con cháu mình. Được như vậy thì sự hòa hợp
tôn giáo và đoàn kết dân tộc tự nhiên sẽ đến, không cần phải phải che dấu sự
thật, không cần phải ngăn chận thông tin, như Giáo hội Công giáo thường
làm. Bởi vì, thuyết “chọn lọc tự nhiên” (natural selection) hay “thích ứng
nhất với môi trường xung quanh” (best fit) để tồn tại và phát triển là một
qui luật thiên nhiên. Nếu cứ cố giữ bản chất lạc hậu trong sự tiến bộ trí
thức của nhân loại, thu mình trong những ốc đảo xa lạ với nền văn hóa, xã
hội xung quanh, cứ cố giữ bản chất phi quốc gia dân tộc trong một dân tộc có
truyền thống yêu nước cao độ v..v.. thì trước sau gì cũng bị suy tàn. Hiện
tượng này đã rõ rệt ở phương trời Âu Mỹ. Then chốt của vấn đề chính là ở
điểm này.
Năm nay, 2009, ngày kỷ niệm 200 năm sinh
nhật của Darwin được tổ chức ăn mừng trên khắp nơi, từ các đại học đến các
viện bảo tàng trên thế giới. Vào trong Internet chúng ta thấy tràn ngập
những thông tin về Ngày Kỷ Niệm 200 Năm Sinh Nhật Để Tôn Vinh Darwin, điển
hình là trong trang nhà sau:
https://news.search.yahoo.com/search/news?p=Darwin%27s+200th+birthday&ei=UTF-8
Celebrating Darwin's 200th birthday [Brigham Young]
Stanford will celebrate Darwin's 200th birthday today [Stanford]
Darwin's evolution is celebrated, despite controversy, on 200th
birthday [USA Today]
Events scheduled in celebration of Darwin's 200th birthday
[Oxford]
University events commemorate Darwin s birthday [West Virginia
University]
Darwin's 200th birthday marks occasion to reflect on his
contributions [The Current Online]
Darwin's Theory of Evolution celebrated at symposium [Columbia]
Điều này cho thấy,
không có một thế lực nào có thể ngăn chận được sự tiến bộ trí thức của nhân
loại. Ánh sáng của khoa học, của chân lý, đã dần dần xua đi bóng tối của
những niềm tin đã lỗi thời, không còn bất cứ một giá trị trí thức nào trong
cộng đồng của những người tiến bộ trên thế giới. Chiều hướng này rất rõ rệt
ở Âu Châu và chúng ta cũng hi vọng Việt Nam sẽ đẩy mạnh chiều hướng mở mang
dân trí, song hành với sự tiến bộ trí thức của nhân loại.
Mời đọc thêm đề tài về Darwin:
Tiến Hóa Hay Sáng Tạo? (Trần Chung Ngọc)
Nguồn Gốc Con Người - Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Các Nước Trên Thế Giới Nghĩ Gì Về Thuyết Tiến Hóa Của Darwin (Sưu Tầm Liên Mạng)
Trang khoa học