Chân Dung "Người Việt Quốc Gia"
Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Nguyễn Mạnh Quang
http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN01.php
bản in mục lục
đăng ngày 08 tháng 6, 2008
Toàn tập:
Chương 1: 1 2 3 4
CHƯƠNG 1
QUAN NIỆM CỔ TRUYỀN VỀ CHÍNH THỐNG
HAY CHÍNH NGHĨA CỦA NGƯỜI LÊN CẦM QUYỀN
Chính thống và hay chính nghĩa là tính cách hợp
lý, hợp tình và chính đáng của một nhân vật hay một thế lực có đủ uy tín
hay đã tạo được những chiến công hiển hách khiến cho muôn dân kính mến và
triệt để ủng hộ đưa lên nắm giữ vai trò lãnh đạo đất nước (cũng có thể là
của một tổ chức có những hoạt động liên hệ đến đời sống của nhiều người
trong xã hội). Vì thế, cho nên, mỗi khi có cá nhân của một đảng phái chính
trị xuất hiện người ta không thể không xét đến tư cách chính thống hay
chính nghĩa của cá nhân người lãnh đạo và chính cương của tổ chính đảng đó.
Cũng vì thế mà chính thống và chính nghĩa của chính quyền là ưu tiên quan
trọng nhất trong đời sống văn hóa và chính trị mà người dân trong xã hội
theo văn minh tam giáo cổ truyền Việt Nam vẫn thường ưu tư và đặt lên hang
đầu của mọi vấn đề.
Vấn đề chính thống và chính nghĩa quan trọng
như vậy. Thế nên, trước khi bàn đến vấn đề này, chúng ta hãy tìm hiểu ý
nghĩa đích thực của từ kép “chính thống” hay “chính nghĩa” để tránh khỏi
tình trạng hiểu sai lạc trong những đề tài liên quan đến chính trị.
ĐỊNH NGHĨA
Theo Hán Việt Tự Điển của ông Đào Duy Anh thì:
“Chính thống là dòng chính của nhà vua hoặc của môn
học, (đồng nghĩa với chính thống) và “Chính nghĩa là đạo lý chính đáng
(đồng nghĩa với công đạo = justices).”
Theo Việt Nam Tự Điển của ông Lê Văn Đức cùng một nhóm
văn hữu thì:
“Chính tông là dòng chính nhà vua hay phái chính một
tôn giáo, một học thuyết (đồng nghĩa với chính thống) và “chính nghĩa là
nghĩa vụ chính đáng, việc làm đúng với lẽ phải.”.
Theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức thì:
“Chính thống là mối chính, dòng chính (nói về các
đời làm vua)” và “chính tông là chỉ về phái nào đã nối được chính truyền của
một tôn giáo hay học thuyết.”
Chúng tôi không thấy có từ “chính nghĩa” trong
cuốn tự điển này.
Trái ngược với chính thống hay chính nghĩa là “phi
chính nghĩa” hay “bất chính”..
CHÍNH THỐNG HAY CHÍNH NGHĨA
KHI LÊN NẮM CHÍNH QUYỀN
CỦA MỘT CÁ NHÂN HAY MỘT THẾ LỰC
Theo định nghĩa trên đây, chúng ta thấy hai từ kép
“chính thống” và “chính nghĩa”, khi mới nghe qua thì có thấy gần giống nhau,
nhưng nếu suy nghĩ và phân tích cho kỹ, chúng ta thấy có một điểm khác nhau
vô cùng quan trọng.
Điểm gần giống nhau.- Vào cái thuở dân trí còn
thấp kém, nhân dân thế giới còn theo chế độ quân chủ phong kiến trung ương
tập quyền, người ta có thể hiểu một cách nhập nhằng chính thống và chính
nghĩa là một. Đây là trường hợp của hai ông Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm mưu đồ
dấy binh đánh nhà Mạc vào năm Quý Tỵ (1532). Họ đã không nhân
danh chính nghĩa của đạo lý hay nhân danh nhân dân Việt Nam để đánh đổ nhà
Mạc, mà phải nhân danh nhà Lê để tiêu diệt nhà Mạc. Vì thế họ mới phải cho
người sang tới tận Ai Lao tìm kiếm được người con út của Vua Lê Chiêu Tông
là Lê Duy Ninh (với niềm tin rằng đây là dòng chính tông của nhà Lế),
đem về đặt lên ngai vàng với vương hiêu là Lê Trang Tông. Sau đó, họ mới
nhân danh ông vua bù nhìn (được coi như là có chính nghĩa) khởi binh
đánh nhà Mạc. Chính vì thế mà khi tiêu diệt xong nhà Mạc, nước ta mới có
tình trạng Vua Lê ngồi làm vì (làm bù nhìn) và Chúa Trịnh nắm thực quyền cai
trị nhân dân. Sự kiện này cho chúng ta thấy dòng chính tông của nhà Lê đã
trở thành cái chính nghĩa của thế lực dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn Kim và
Trịnh Kiểm.
Điểm khác nhau .- Sau này, vào giữa thế kỷ 19,
sau khi đã đánh tan sức kháng cự của triều đình nhà Nguyễn, Liên Minh Xâm
Lăng Pháp – Vatican cũng không nhân danh nước Pháp hay Giáo Hội La Mã để cai
trị đất nước Việt Nam, họ giữ lại cái ngai vàng tại triều đình Huế rồi tìm
một người chính tông của nhà Nguyễn là Ưng Kỳ (người con nuôi thứ 3 của vua
Tự Đức và là người con thứ 26 của Vua Thiệu Trị) cho ngồi vào đó với vương
hiệu là Đồng Khánh (1885-1889) làm bung xung cho họ nắm thực quyền cai trị
và bóc lột nhân dân ta đến tận xương tận tủy. Sự kiện này chứng tỏ Liên Minh
Thánh Xâm Lăng Pháp – Vatican đã sử dụng dòng chính tông của nhà Nguyễn để
làm chính nghĩa cho họ nắm quyền cai trị Việt Nam với dã tâm làm cho nhân
dân ta lầm tưởng rằng họ (Liên Minh Thánh Xâm Lăng Pháp – Vatican) chỉ giúp
nhà Nguyễn cai trị nhân dân ta giống như họ Trịnh trợ giúp vua Lê cai trị
nhân Bắc Hà từ đầu thập niên 1540 cho đến năm 1788.
Chưa nói đến trình độ tiến bộ của dân trí về cơ chế
chính quyền quản trị nhân dân, chỉ lấy lý trí mà suy luận, chúng ta thấy
rằng dù là Liên Minh Thánh Xâm Lăng Pháp – Vatican đã nắm được chính tông
của nhà Nguyễn giống như Chúa Trịnh đã nắm được chính tông của nhà Lê,
nhưng cũng vẫn không có chính nghĩa để cai trị nhân dân ta. Hơn nữa, theo
quan niệm Nho giáo về quân quyền, sau khi triều đình Huế ký các hòa ước:
(1) Nhâm Tuất 1862 (nhường ba tỉnh miền đông Nam Kỳ cho Liên Minh Xâm Lăng
Pháp – Vatican), (2) Giáp Tuất 1874 (nhường toàn bộ Nam Kỳ cho liên minh
giặc), (3) Qúi Mùi 1883 và (4) Giáp Thân 1884 (dâng cả nước cho liên minh
giặc), nhà Nguyễn mất hết chính nghĩa không còn tư cách gì để ngồi vào ngôi
vị lãnh đạo quốc dân cai trị đất nước nữa. Vấn đề này sẽ được trình bày rõ
ràng ở một phần sau.
Trong tập đề tài này, chúng tôi nhấn mạnh đến chính
nghĩa nhiều hơn là chính thống hay chính tông, và chỉ đặt ra vấn đề “chính
nghĩa” cho các cá nhân hay thế lực hoặc chính đảng tranh giành
quyền lực cai trị đất nước. Cá nhân hay tổ chức nào có chính nghĩa (chứ
không cần phải có chính thống), thì được nhân dân nhiệt liệt ủng hộ và hăng
say đi theo để chiến đấu cho cá nhân hay thế lực đó. Nguợc lại, cá nhân hay
thế lực nào dựa vào bạo lực hay quyền lực của ngọai bang nhảy lên bàn độc
thì sẽ bị coi là không có chính nghĩa, tức là ở vào tình trạng phi chính
nghĩa hay bất chính. Đây là theo truyền thống đạo lý từ ngàn xưa của các dân
tộc Đông Phương trong đó có Việt Nam ta.
Theo quy luật của tạo hóa, gà sinh ra gà, cuốc sinh ra
cuốc và cáo sinh ra cáo. Tương tự như vậy, thói thường, bất chính tất nhiên
sẽ sinh ra hàng ngàn thứ bất chính khác. Đồng thời, bất chính còn là cha đẻ
của bất công, bạo ngược và tham tàn. Bất công, bạo ngược và tham tàn sẽ làm
cho nhân dân bất mãn, căm giận và thù ghét. Từ ngàn xưa, từ Đông sang Tây,
ở bất kỳ quốc gia nào, khi mà nhân dân đã cảm thấy bức xúc hay bất mãn với
chính quyền, nếu không được giải tỏa, thì những bức xúc hay bất mãn này sẽ
biến thành lòng căm thù, rồi nổi loạn chống lại chính quyền. Đây là quy luật
lịch sử. Câu nói “thượng bất chính, hạ tắc loạn” là do quy luật này
mà ra. Vì thế mà từ ngàn xưa, các dân tộc Đông Phương luôn luôn đặt chính
nghĩa lên hàng ưu tiên số 1 đối với những người hay đảng phái chính trị muốn
nhẩy lên nắm quyền quản lý quốc gia. Cũng vì lý do này mà trong bài Bình Ngô
Đại Cáo của cụ Nguyễn Trãi mới có câu, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Đọc đi đọc lại từ đầu đến cuối bài Bình
Ngô Đại Cáo, chúng ta không thấy có chỗ nào cụ Nguyễn Trãi đề cập đến chính
thống hay chính tông cả.
Nói về chính nghĩa của một cá nhân hay một thế lực lên
nắm quyên quản trị quốc gia, ông Richard J. Hardy viết trong cuốn
Government In America như sau:
"Quyền lực và quyền thế không phải là những lý do
độc nhất mà nhân dân phải tuân hành các chính sách của chính quyền. Nhân dân
tuân hành những chính sách của chính quyền vì họ tin rằng chính quyền hợp
pháp hay có chính nghĩa. Như vậy có nghĩa là nhân dân chấp nhận quyền thế
và cái quyền của chính quyền được lãnh đạo đất nước. Một chính quyền có đủ
quyền lực có thể tồn tại được thường thường là dựa vào bạo lực dù là nhân
dân không chấp nhận cái chính quyền này. Nhưng nếu muốn có một chính quyền
ổn định, hữu hiệu và bền vững lâu dài thì tính cách chính nghĩa hay hợp
pháp là cần thiết." (Nguyên văn: "Power and authority are not the
only reasons people comply with the policies of their government. People
follow these policies because they believe the government has legitimacy.
That is, people accept its authority and its right to lead them. A
government enough power can exist for a while, usually by force, even if
the people do not accept it. But legitimacy is necessary if the government
is to be stable, effective, and lasting."[1].
Cuốn sách Government In America là một trong những
cuốn giáo khoa về môn "Công Dân" (Civics) được rất nhiều trường trung học ở
Hoa Kỳ chọn làm sách giáo khoa dạy trong các lớp 12. Ở Hoa Kỳ, môn Công Dân
Giáo Dục là một trong những môn học chính quan trọng bắt buộc học sinh phải
học. Xem như thế, người Hoa Kỳ coi việc rèn luyện cho các em học sinh phải
hiểu thấu đáo tính cách hợp pháp hay có chính nghĩa của một chính quyền và
của người lãnh đạo nhân dân. Ngoại trừ các nước nằm dưới ách thống trị của
Giáo Hội La Mã hay các chế độ đạo phiệt Hồi Giáo và quân phiệt, hầu như tất
cả các nước theo chế độ dân chủ tự do (thực sự) như ở Bắc Mỹ và Tây Âu đều
có cùng quan niệm về chính nghĩa và hợp lý hay hợp pháp giống như ở Hoa Kỳ.
Riêng ở Việt Nam ta, tùy theo hòan cảnh của đất nước,
tiêu chuẩn về chính thống hay chính nghĩa của một chế độ hay cá nhân người
cầm quyền trị quốc đã trở thành truyền thống của dân tộc là phải có điều
kiện hay tiêu chuẩn như sau:
1.- Nếu đất nước đang ở trong thời quân chủ chuyên chế
như các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn
Phúc, người con nào được vua cha hay hội đồng hoàng tộc (thường là vua cha)
chỉ định lên kế nghiệp, thì người đó sẽ đuợc lên cầm quyền và được coi là có
chính nghĩa. Đây là trường hợp Vua Gia Long chọn Thái Tử Đảm vào năm 1816 và
vua Thiệu Trị chọn Thái Tử Hồng Nhậm lên kế vị trước khi băng hà vào năm
1847.
Trong trường hợp vua cha từ trần đột ngột mà không để
di chiếu lại cho người con nào lên kế nghiệp, sẽ có hai trường hợp:
Trường hơp A.- Đây là trường hợp Vua Lê Thái Tông chết
đột ngột vào năm 1442 lúc đó mới có 20 tuổi. Ở vào tuổi này, nhà vua không
có người con nào lớn tuổi cả. Theo truyền thống quân quyền của Nho Giáo,
triều đình bèn đưa thái tử Băng Cơ lúc đó mới có 2 tuổi lên kế nghiệp và mọi
việc triều chính đều nằm trong tay các quan phụ chính. Nếu không làm như
vậy, triều chính sẽ trở thành rối loạn rồi biến thành đại họa cho nhân dân.
Trường hợp B.- Nếu có sự tranh giành quyền lực giữa các
người con của nhà vua (hoàng tử và công chúa) thì phe nào thắng sẽ được coi
như là đã giải quyết xong chuyện rắc rối này. Tuy nhiên, Nếu vị tân
vương này trở thành thứ “quân phi quân” hay “bạo chúa”, coi
triều thần hay các viên chức chính quyền như một thứ băng đảng hay một bầy
gia nô, coi nhân dân như chó ngựa, lạm dụng quyền chính, ưu đãi bà con và
phe đảng của mình để làm lực lượng nòng cốt bảo vệ địa vị rồi tự tung tự
tác, biến chính quyền thành bộ máy đàn áp, tra tấn và thủ tiêu những người
bất đồng chính kiến, đàn áp và khủng bố những người không chịu khuất phục,
THÌ vị tân vương này sẽ bị coi như là một thứ bạo chúa, một thứ quốc
tặc. Ở vào trường hợp như vậy, Nếu trong dòng họ nhà vua (hoàng tộc)
không còn có ai lập tức đứng lên phát cờ dấy binh khởi nghĩa để diệt trừ tên
quốc tặc này, THÌ kể như là dòng họ nhà vua này không còn chính
nghĩa nữa.
2.- Nếu đất nước ở vào trường hợp B trên đây,
bất kỳ người dân nào có khả năng đứng lên chiêu binh mãi mã kéo quân về khử
diệt tên bạo chúa đương quyền và phe đảng gia nô này, THÌ người đó
được coi như là có chính nghĩa nắm quyền lãnh đạo quốc dân. Đây là các
trường hợp của Lê Đại Hành vào năm 980, của ông Lý Công Uẩn vảo năm 1009,
của anh em nhà Tây Sơn trong thập niên 1770. Tính cách chính nghĩa này được
ghi rõ trong kinh điển của Nho giáo và đều được các nhà viết sử ghi lại
trong các tác phẩm lịch sử của họ. Một bậc trí giả người Âu Mỹ có nhiều tác
phẩm viết về lịch sử Việt Nam là sử gia Bernard F. Fall đã ghi nhân sự kiện
này như sau:
"Nếu người làm vua áp bức nhân dân thì người
đó không còn xứng đáng được đối xử như là vua nữa. Cá nhân ông vua đó không
còn thiêng liêng nữa, và trừ khử ông vua đó không còn là một tội ác. Nổi
loạn giết một tên bạo chúa như vậy không những là một việc làm hợp lý mà còn
là một việc làm đáng được ca tụng, và người đứng ra trừ diệt tên bạo chúa đó
xứng đáng được đưa lên nắm quyền lãnh đạo đất nước, cai trị muôn dân.”
Nguyên văn: “If the sovereign oppressed the people, he no longer
deserved to be treated as the sovereign. His person was no longer sacred,
and to kill him was no longer crime Revolt against such tyranny not only was
reasonable but was ameritorious act and conferred upon its author the right
to take over the power of the sovereign.”[2]
Cụ Trần Trọng Kim cũng viết trong sách Nho Giáo
như sau:
"Nếu ông vua nào trị dân mà yêu cái của dân ghét và
ghét cái của dân yêu, là làm những điều trái lòng dân, tức là trái mệnh
trời, thì người khác được quyền "điếu dân phạt tội", nghĩa là cứu dân mà
đánh người có tội, như vua Thang đánh vua Kiệt, vua Vũ Vương đánh vua Trụ
vậy."[3]
3.- Nếu đất nước đã hay đang nằm dưới ách thống
trị quân thù xâm lược, THÌ bất kỳ cá nhân hay thế lực nào trong nhân
dân có khả năng chiêu binh mãi mã, huy động nhân dân cùng lăn xả vào đại
cuộc đánh đuổi quân thù ra khỏi giang sơn, KHI THÀNH CÔNG, cá nhân
hay thế lực đó sẽ có chính nghĩa lên nắm quyền cai trị đất nước. Đây là
các trường hợp của Vua Ngô Quyền vào năm 939, của Vua Lê Lợi vào năm 1427,
của Vua Quang Trung vào năm 1789, của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Việt Minh
vào năm 1954. Đây là quy luật lịch sử. Thiết tưởng bất kỳ người dân nào đã
học qua bậc tiểu học cùng đều biết như vậy. Dựa vào quy luật lịch sử này,
Giáo sư Lê Xuân Khoa viết trong cuốn Việt Nam 1945-1975 như sau:
“Tình hình chính trị Việt Nam vào thời điểm
1945-1946 cho thấy rằng Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã giành
được chính nghĩa chống Pháp và lôi cuốn được sự ủng hộ của đông đảo quần
chúng.”
[4]
“Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi chính nghĩa chống
Pháp đã được dồn hết sang phía chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh
đạo.”[5] .
Truyền thống của dân tộc theo văn minh Nho Giáo là như
vậy. Nếu một cá nhân hay một thế lực nào lên cầm quyền cai trị nhân dân mà
không ở vào một trong 3 truờng hợp trên đây đều là phi chính
nghĩa hay bất chính. Hễ phi chính nghĩa hay bất chính thì tất nhiên là ở
vào tình trạng mất lòng dân và sẽ đi đến tình trạng lạm dụng quyền hành để
làm rất nhiều điều bất chính và thất nhân tâm khác nữa. Ở vào trường hợp
này, chính quyền sẽ bị nhân dân coi như một băng đảng ăn cướp, hay
bạo quyền, dù cho người lãnh đạo mang tước hiệu là “vua” hay “tổng thống”
thì cũng chỉ là một tên trùm ăn cướp hay môt tên quốc tặc
hoặc bạo chúa, và tập đoàn nắm giữ những chức vụ chỉ huy trong chính
quyền này cũng chỉ là “những quân ăn cướp ngày” mang tước
hiệu tổng thống, thủ tướng và các ông quan. Đây là tình trạng của chính
quyền Bảo Đại trong những năm 1948-1955 và các chính quyền miền Nam Việt Nam
trong thời 1954-1975. Có lẽ cùng vì thế mà người dân Việt Nam ta có thành
ngữ “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Cũng vì thế mà trong cuốn
The Politics of Heroin in Southeast Asia, nhà viết sử Alfred W. MacCoy mới
gọi chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm là “Triều đại Diệm và băng đảng
ăn cướp Ngô Đình Nhu” (Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits).[6] Gặp trường hợp
như vậy, bất kỳ người dân nào cũng có quyền đứng lên phất cở khởi nghĩa kêu
gọi nhân dân cùng nhau góp sức “diệt trừ quốc tặc, đạp đổ bạo quyền”.
Theo đúng truyền thống cao đẹp này của Nho giáo, quân dân miền Nam đã vùng
lên đạp đổ cái chế độ tham tàn khốn nạn này vào ngày 1/11/1963 và lôi cổ tên
bạo chúa tam đại Việt gian họ Ngô ra đập chết vào hơn 7 giờ sáng ngày hôm
sau. Đến đây, thiết tưởng cũng nên nhớ lại lời Nho giáo đã dạy rằng:
“Người làm hại nhân gọi là tặc, người làm hại nghĩa
gọi là tàn, người tàn tặc gọi là đứa không ra gì. Ta nghe giết đứa Trụ, chứ
chưa nghe nói giết vua vậy.”[7]
Do đó, chúng ta có thể nói quân dân miền Nam đã đập chế
thằng quốc tặc phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm, chứ không phải đập
chết ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
4.- Nếu đất nước đã giành lại độc lập rồi và
theo thể chế dân chủ tự do giống như các nước dân chủ tự do ở Bắc Mỹ, Tây
Âu, Nhật Bản và Ấn Độ, THÌ việc chọn lựa người lên nắm quyền lãnh đạo
quốc dân được quyết định bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do, bỏ phiếu kín
và không có gian lận. Cá nhân hay chính đảng nào được đa số phiếu nhân
dân tín nhiệm, sẽ được coi như là có chính nghĩa, hợp pháp, hợp lý và hợp
tình lên nắm quyền cai trị quốc dân.
Sở dĩ người viết nhấn mạnh đến cụm từ “tuyển cử tự
do, bỏ phiếu kín và không có gian lận” là vì trong thời kỳ 1954-1975,
chính quyền miền Nam Vỉệt Nam, tuy rằng mang danh hiệu là Việt Nam Cộng Hòa
và cao rao là theo đuổi lý tưởng tự do dân chủ, nhưng trong thực tế (bản
chất), cá nhân người lãnh đạo của chính quyền này, không những đã không
có chính nghĩa khi lên cầm quyền, mà khi nắm chính quyền rồi, lại còn
có rất nhiều hành động bất chính và thất nhân tâm khiến cho nhân dân miền
Nam vô cùng kinh tởm, thù ghết và vùng lên khử diệt. Chuyện này sẽ được
trình bày đầy đủ trong Phần VI trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của
Giáo Hội La Mã. Ở đây, chúng tôi chỉ nói về chuyện bầu cử gian lận. Trong
thời gian 1954-1975, người dân miền Nam có quá nhiều kinh nghiệm về chuyện
bầu cử gian lận cùng với hàng rừng những việc làm bất chính khác do chính
quyền chủ mưu. Tất cả những việc làm bất chính này đều được rất nhiều nhân
chứng sống cũng như các nhà viết sử ghi lại rõ ràng trong các tác phẩm của
họ. Giáo-sư Lê Xuân Khoa ghi lại chuyện chính quyền Ngô Đình Diệm gian lận
bầu cửa trong cuốn Việt Nam 1945-1975 với nguyên văn như sau:
“Ngày 23 tháng Mười (1955), một cuộc trưng cầu dân ý
được tổ chức để dân chúng miền Nam lựa chọn theo Bảo Đại hay Ngô Đình Diệm.
Khi đó, Bảo Đại đã trở lại thân Pháp và đang ủng hộ Bình Xuyên, do đó chắc
chắn là ông phải thất bại vì đã mất hết tín nhiệm trong dân chúng. Tuy
nhiên, ban tổ chức trưng cầu dân ý đã sắp đặt cho việc thắng cử của Ngô
Đình Diệm quá bảo đảm đến độ ông được 98.2 phần trăm trong khi Bảo Đại chỉ
được 1.1 phần trăm. Bằng chứng gian lận lộ liễu nhất là ở nhiều nơi số phiếu
ủng hộ ông Diệm nhiều hơn số cử tri. Chẳng hạn riêng vùng Sàigòn - Chợ Lớn
có 450,000 cử tri ghi danh mà số phiếu bầu lên tới 605, 025.”[8]
“Khi thành lập chính phủ cũng như trong những lần
cải tổ nội các, Ngô Đình Diệm đều không muốn có sự tham dự của Phan Huy
Quát, một lãnh tụ Đại Việt cũng được Hoa Kỳ tin cậy. Trong cuộc bầu cử Quốc
Hội Lập Hiến tháng Ba 1956, ứng cử viên đối lập Phan Quang Đán đắc cử nhưng
không được công nhận vì “gian lận”, và bị thua ứng cử viên chính phủ
trong lần bầu lại. Năm 1959, ông Đán ra tranh cử lần nữa và trúng cử với đa
số phiếu nhưng vẫn bị loại vì “vi phạm luật bầu cử.” Một ứng cử viên
đối lập khác là Nguyễn Trân cũng đắc cử với ông Đán ở Sàigòn cũng bị loại
cùng một lý do.”[9]
Đến đây, thiết tưởng cũng nên nói sơ qua về tiểu sử ông
Da-tô Ngô Đình Diệm. Thân phụ của Ngô Đình Diệm là tên đại việt gian Da-tô
Ngô Đình Khả. Ngô Đình Khả được Giáo Hội La Mã đưa sang chủng viện Pinang
(Mã Lai) huấn luyện làm nghề thông ngôn một thời gian rồi được đưa về Việt
Nam tiếp tay cho Liên Minh Pháp – Vatcian đặc trách việc dẫn đường chỉ điểm
trong những chiến dịch tấn công đánh chiếm Việt Nam và những chiến dịch tiêu
diệt các lực lượng nghĩa quân kháng chiến Việt Nam. Một trong những tội ác
của Ngô Đình Khả là cùng với Nguyễn Thân dẫn quân thập tự bản địa đi đánh
phá và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân kháng chiến Văn Thân dưới quyền lãnh
đạo của cụ Phan Đình Phùng ở Vụ Quang. Sau khi cụ Phan đã qua đời vì bệnh
kiết lị, lực lượng nghĩa quân Văn Thân suy yếu, Nguyễn Thân và Ngô Đình Khả
thừa thắng xông lên, xua quân vào tiến chiếm căn cứ nghĩa quân và đào mả cụ
Phan lấy xác đốt thành tro, lấy tro trộn vào thuốc súng bắn xuống sông Lam
Giang theo đúng truyền thống của đạo Da-tô. Cũng nên biết đạo Da-tô có
truyền thống trả thù người đã chết bằng cách đào mả nạn nhân, lấy xác đốt
thành tro đã có ở Âu Châu từ thời Trung Cổ:
“Vào thế kỷ 13, dân vùng Toulouse, miền Nam nước
Pháp ngày nay, nhận thấy Jehovah (Chúa Cha) độc ác, đúng là quỉ Satan mạo
nhận là thiên chúa, chớ không phải là thiên chúa thật. Họ thấy vị thần ấy
gớm ghiếc quá, bỏ không thờ nữa tuy họ vẫn kính thờ Jesus; họ lập thành giáo
hội Cathari. Giáo Hội Công La (Công Giáo La Mã) kết họ tội tà đạo. Năm 1209,
Giáo Hoàng Innocent III (1198-1216) ra lệnh thánh chiến để diệt họ. Vua chúa
ở miền Bắc đất Pháp, ở đất Đức tuân lời, phái binh lính đến làm thành thập
tự quân để đánh bọn tà đạo. Rất đông tín đồ Giê-su phe giáo hoàng tới trợ
lực thập tự quân. Đám quân này, dưới quyền giáo sĩ Arnaud Amauri, đại diện
giáo hoàng, bao vây thành Béziers. Thành bị hạ ngày 22/7/1209, toàn dân ở
trong thành bị giết hết, kể cả đàn bà, trẻ con. Tòa án đạo Jesus theo đuổi
trừng phạt cả những người bị kết tội là tà đạo dù họ đã chết. Chẳng hạn,
năm 1309, tòa án đạo Jesus ở Carcassonne cho đào mả bẩy người phạm tội tà
giáo móc xác lên đốt đi; của cải của họ bị tịch thu, dòng dõi họ bị trừng
phạt.”
[10]
Cõ lẽ vì truyền thống này, các Tòa Án Dị Giáo
(Inquisitions) của Giáo Hội La Mã mới xử tử những người bị kết án là “tà
giáo” bằng cách trói nạn nhân vào một cái cọc, rồi chụm củi khô và châm lửa
hỏa thiêu.
Do thành tích dã man này mà Ngô Đình Khả được giặc
thăng quan, cho nắm giữ chức Tổng Quản Cấm Vệ Thành với nhiệm vụ vừa theo
dõi ông vua bù nhìn Thành Thái vừa biến ông vua gỗ này thành một tín đồ
Ca-tô. Nhờ làm việc đắc lực cho liên minh giặc và nắm giữ chức vụ Tổng Quản
Cấm Vệ Thành, đàn con của Ngô Đình Khả cũng được ban thưởng nhiều đặc quyền
đặc lợi. Ngô Đình Khôi đựơc cho làm tri phủ Tùy An (Phú Yên) vào năm 1917,
năm 1920 được thăng lên chức Bố Chánh Bình Định, năm 1926 thăng lên chức
Tuần Vũ Quảng Ngãi, tới năm 1930 được đưa lên giữ chức Tổng Đốc Quảng Nam.
Ngô Đình Thục được cho đi học làm linh mục rồi được thăng chức giám mục vào
năm 1938. Ngô Đình Diệm đuợc hưởng qui chế tập ấm, được đặc cách cho theo
học Trường Hậu Bổ và sau đó được bổ nhậm làm tri huyện huyện Hải Lăng, rồi
được thăng chức vù vù, tới năm 1932 được cho giữ chức Thượng Thư Bộ Lại.
Ngô Đình Nhu được gửi đi du học ở Pháp.
Bản thân Ngô Đình Diệm cũng là một tên Việt gian làm
việc đắc lực cho liên minh giặc (Pháp – Vatican) với những hành động cực kỳ
dã man đối với nhân dân ta. Thành tích nổi tiếng nhất của Diệm là trói cột
các tù nhân chính trị (các nhà ái quốc bị liên minh giặc bắt được) vào một
chiếc ghế có khoét lỗ ở ngay chính giữa chỗ ngồi, rồi đốt đèn cầy (nến) ở
dưới để tra khảo nạn nhân lấy khẩu cung. Đây là thời gian còn được Pháp tin
cậy. Sau này, Vatican bắt đầu trở cờ kết thân với Phát Xít Ý, rồi Đức Quốc
Xã ở Âu Châu khiến cho Liên Minh Pháp – Vatican ở Âu Châu có chuyện cơm
không lành canh không ngọt. Cũng vì thế mà có sự tranh chấp quyền lực giữa
đám Việt gian làm tay sai cho Pháp là nhóm ông Phạm Quỳnh và đám Việt gian
làm tay sai cho Vatican là nhóm đàn con Ngô Đình Khả và hậu quả là cả Ngô
Đình Khôi và Ngô Đình Diệm bị Pháp cho về vườn. Bị thất thế, Diệm quay ra
tìm cách liên lệ với Hoàng Thân Cường Để (đang là con bài của Nhật và đang ở
Đông Kinh) trong mưu đồ bán nước cho Nhật. Như vậy là cả đời hai cha con Ngô
Đình Khả và Ngô Đình Diệm đều là Việt gian phản quốc. Dòng họ Ngô Đình quả
thật là một thứ Việt gian gia truyền.
Vì đã biết rõ bộ mặt thật của Vatican với kinh nghiệm
lịch sử ở ngay chính quốc Nhật từ thế kỷ 17 (sẽ nói rõ trong Phần VII của
bộ sách này), cho nên khi hất Pháp ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam vào
chiều tối ngày 9/3/1945, Nhật cương quyết giữ ông Bảo Đại tiếp tục làm vua
gỗ cho Nhật, và dùng ông Trần Trọng Kim làm thủ tướng, chứ nhất định không
đưa ông Cường Để về làm vua bù nhìn và cũng không dùng Ca-tô ông Ngô
Đình Diệm làm thủ tướng dù rằng hai ông Ca-tô này đã thậm thụt chạy chọt
với Nhật từ nhiều năm trước.
Năm 1954, nhờ có Tòa Thánh Vatican chạy chọt
với siêu cường Hoa Kỳ, Ngô Đình Diệm được đưa về Việt Nam cầm quyền làm tay
sai cho cả hai thế lực này. Ngay sau được đưa lên cầm quyền, Diệm làm hàng
ngàn việc làm bất chính, thất nhân tâm và cược tàn ngược. Việc làm bất
chính đầu tiên của Diệm là gian lận bầu cử như đã nói trên. Diệm không
những đã gian lận (vi phạm luật bầu cử) mà lại còn vu cáo cho các ông Phan
Quang Đán và Nguyễn Trân cái tội “vi phạm luật bầu cử”. Như vậy, Ngô
Đình Diệm không những đã hành động bất chính, mà còn can tội “cáo
gian”. Ngòai những việc làm bất chính trên đây, trong gần chín năm
cầm quyền, anh em Ngô Đình Diệm cùng băng đảng Giám-mục và Linh-mục Ca-tô di
cư Bắc Kỳ còn làm cả hàng rừng việc làm bất chính khác. Trong cái rừng
việc làm bất chính này là lạm dụng quyền, Ca-tô hóa chính quyền và cảnh sát
hóa bộ máy cai trị bằng cách thiết lập những tổ chức mật vụ, công an, lực
lượng đặc biệt như thiên la địa võng, rồi sử dụng những tổ chức mật vụ này
để giết hại những thành phần thuộc các đảng phái chính trị đối lập và sát
hại những người đã được chiếu cố dụ khị hay rủ rê vào đạo nhưng vẫn không
chịu cúi đầu khuất phục theo đạo để tạo danh đời hay lấy gạo mà ăn. Dã man
hơn nữa, Ngô Đình Diệm còn hăng say hồ hởi đồng lõa với chính quyền Mỹ dùng
một số lượng khổng lồ vũ khí hóa học để hủy hoại môi sinh và tàn sát nhân
dân không theo đạo Da-tô ở trong các vùng ngoài tầm kiểm soát của Liên Minh
Xâm Lược Mỹ - Vatican:
“Ngày 30/11/1961, Tổng Thống John F. Kennedy phê
chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ Việt Nam.
Quyết định này được Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng Thống nam Việt Nam ủng hộ
nồng nhiệt. Diệm cho rằng ông ta “biết cộng sản đang ở đâu”, và tin rằng
chiến dịch này sẽ thành công mĩ mãn. Ngược lại với quan điểm của Diệm, các
giới chức cao cấp trong Bộ Ngoại Giao Mỹ như Roger Hilsman và W. Averell
Harriman phản đối quyết định của Tổng Thống Kennedy, vì họ cho rằng không có
cách gì để biết được là chiến dịch “khai quang” sẽ làm cho đồng ruộng của
dân bị tiêu hủy. (Họ người Mỹ, xem ra họ còn có quan tâm đến sinh mạng và
cuộc sống của người Việt hơn là ông Diệm). Ông Averell và Hillsman còn lý
giải rằng Nếu Mỹ dùng hóa chất trong cuộc chiến, Việt Nam sẽ có lý do để tố
cáo Mỹ là “đế quốc ngoại bang dã man” (“foreign imperialist barbarism”).
Nhưng chiến dịch vẫn được thi hành.” [11]
“Trong thời gian từ 1962 đến 1971, quân đội Mỹ rải
khoảng 77 triệu lít chất độc màu da cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam,
gây ảnh hưởng và tác hại đến môi trường của 2.63 ha (mẫu Tây) và gần 5 triệu
người sống trong 25.585 thôn ấp. Tuy chưa có một nghiên cứu qui mô nào
trong những người dân trên, nhưng dựa theo kết quả vừa nghiên cứu vừa điểm
qua trên đây, chúng ta có thể đoán được số đàn ông có nguy cơ bị ung thư
tiền liệt tuyến chắc không thấp hơn tỉ lệ trong các cựu chiến binh (Hoa Kỳ
đã sự dụng loại vũ khí dã man này), bởi vì họ là nạn nhân và phải sống với
độc chất sau cuộc chiến. Cũng có thể có một số nạn nhân với ung thư tiền
liệt tuyến đã qua đời vì ung thư.”[12]
Trong nỗ lực Ca-tô hóa đất nước, chính quyền dùng tiền
công quỹ, quân đội và nhân lực chính quyền tổ chức đại lế hiến dâng nước
Việt Nam cho Giáo Hội La Mã vào tháng 2 năm 1959, tàn sát dân lương bất
khuất không chịu theo đạo Ca-tô. Tổng số nạn nhân bị giết hại lên đến gần
400 ngàn người.[13] Ngoài ra, chính quyền này còn lừa gạt
Hoa Kỳ trong chương trình cải cách điền địa (mua lại ruộng đất của điền chủ
lớn để phân phối cho tá điền mà không rớ tới 370 ngàn mẫu ruộng của Giáo
Hội La Mã)[14], cướp đọat tài nguyên quốc gia, kinh
tài bất chính, bóc lột nhân dân, ăn chặn tiền ngọai viện, v.v…. Chinh vì
những việc làm tàn ngược và dã man như trên mà sách sử đã khẳng định và quy
liệt tên phản thần tam đại Việt gian họ Ngô này vào danh sách 100 trăm tên
bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại.[15]
Đến đây, chúng ta thấy rõ cái quy luật lịch sử “bất
chính tất nhiên sẽ sinh ra hàng ngàn bất chính khác…” áp dụng cho
trường hợp ông Ngô Đình Diệm và chế độ đạo phiệt Da-tô của ông ta không sai
một li nào.
(xem tiếp, các bài trong Chương 1:) 1 2
3 4
CHÚ THÍCH
[1]Richard J. Hardy, Government In America (Boston, MA: McDougal Litell/Houghton Mifflin, 1996), p 6.
[2] Beranrd B. Fall, The Two Vieb.-tnams (New Nork: Frederick A. Praeger,1964), tr 18.
[3]Trần Trọng Kim, Nho Giáo Tập 1 (Saigòn: Tân Việt, 1952), tr 168.
[4] Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1975 ( Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004), tr. 206
[5] Lê Xuân Khoa, Sđd. Tr. 210.
[6] Alfred W. McCoy, The Politics of Heroin Southeast Asia (New York: Harper & Row, Publisher, 1972), tr.159.
[7] Trần Trọng Kim, Sđd., tr. 248.
[8] Lê Xuân Khoa, Sđd., tr 432.
[9] Lê Xuân Khoa, Sđd., tr 437.
[10] Trần Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Ðấy! (Wesminster, CA: Đồng Thanh & Văn Nghệ, 1996), tr 132-133.
[11] Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 35.
[12] Nguyễn Văn Tuấn, Sđd., tr. 171.
[13] Nguyễn Mạnh Quang, Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004), tr. 124-131.
[14] Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New Yorl Frederick A. Praeger, Publishers, 1967), pp. 932-933.
[15] Nigel Cawthorne, Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004), PP.167-168.
Các bài trong tập sách Chân Dung VNCH
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02a: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02b: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07a: Đặc Tính -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02c: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03a: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03b: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03c: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03d: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 05: Đại Việt, Lập Hiến Đông Dương và Việt Nam Qu -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06: Việt Quốc và Việt Cách -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06a: Phụ Bản -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07: Đặc Tính -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07b: Không Dám Đối Đầu Sự Thật -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08: Chính Sách Ngu Dân Và Giáo Dục Nhồi Sọ -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08a: Chính Sách Ngu Dân Và Nhồi Sọ -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 09: Tác Dụng Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10a: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 1
2 ▪
>>>