●   Bản rời    

Chân Dung NGQG 05: Đại Việt, Lập Hiến Đông Dương và Việt Nam Quang Phục (Nguyễn Mạnh Quang)

Chân Dung "Người Việt Quốc Gia"

Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN05.php

bản in mục lục | 8 tháng 6, 2008

Toàn tập:  Dàn bài

Chương 5: 1

Bổ túc 10/6/2015: Theo một nghiên cứu về thân thế của Hoàng Thân Cường Để của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, không có dấu hiệu ông là tín đồ Ca-tô. Tuy nhiên, sự kiện Hoàng Thân Cường Để có theo đạo Ca-tô hay không cũng không quan trọng, vì ông chỉ ở nước ngoài cho đến chết trong suốt thời gian hoạt động. Điều quan trọng là các vai trò chính yếu của đảng ở trong nước đã nằm ở trong tay các con chiên như ông Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, Trần Văn Lý, v.v…

CHƯƠNG 5

THỰC CHẤT CỦA MỘT SỐ CHÍNH ĐẢNG CHỐNG PHÁP TRONG NHỮNG NĂM 1930-1946

(Đại Việt, Lập Hiến Đông Dương và Việt Nam Quang Phục)

 

Vì giới hạn của tập sách này, ở đây, chúng tôi chỉ trình bày các chính đảng thường được gọi là các chính đảng Quốc Gia và không đề cập đến hai tổ chức cách mạng là Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh.

Từ cuối thập niên 1930 cho đến khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15/8/1945, tại Việt Nam có một số đảng phái chính trị hoạt động gọi là các Đảng Cách Mạng và sau này gọi là các “đảng phái Quốc Gia”. Sự thật về “các đảng phái Quốc Gia” này như thế nào, cần phải được tìm hiểu các nhà lãnh đạo các đảng phái này về khả năng (1) nhận diện được kẻ thù của dân tộc, (2) kiến thức chính trị, (3) kinh nghiệm cách mạng, (4) những việc làm trong thời kỳ hoạt động.

Ngoại trừ Đảng Cộng Sản và Mặt Trận Việt Minh, hầu hết các thành phần lãnh đạo và đảng viên của các tổ chức gọi là các "đảng phái Quốc Gia" đều là những người xuất thân từ giới tư sản giầu có và những nhân viên làm việc trong chính quyền Bảo Hộ hoặc là thuộc các gia đình hào phú trong nông thôn. Với một mớ kiến thức hữu hạn về chuyên môn thâu nhập được các trường học của chính quyền đế quốc Pháp tại thuộc địa hay ở chính quốc Pháp mà họ đã cho rằng có đủ khả năng hiểu biết về chính trị cũng như về cách mạng và có đủ khả năng kỹ thuật cách mạng để lật đổ hay đánh đuổi giặc ngoại xâm.

Thực ra, các chính đảng này hoàn toàn không có đủ khả năng và kiến thức để nhìn ra sự thật là bộ máy cai trị và đàn áp của chính quyền bảo hộ hết sức chặt chẽ và hết sức tinh vi đã có sẵn từ hơn nửa thế kỷ và lại có cả một khối giáo dân cuồng tín gần hai triệu tín đồ làm tai mắt và chân tay, nhờ vậy mà có thể dập tắt hay đánh tan bất kỳ thế lực hay tổ chức nào vừa mới nhú lên chống lại Nhà Nước.

Vì không được học toàn bộ những bài học lịch sử thế giới và toàn bộ những bài học lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, cho nên các đảng phái này không biết rằng Giáo Hội La Mã là kẻ thù nguy hiểm nhất và ác độc nhất trong lịch sử nhân loại, và cũng không biết gì về vai trò của Vatican cũng như giới tu sĩ và tín đồ Ca-tô người Việt cấu kết chặt chẽ với Đế Quộc Thực Dân Xâm Lược Pháp trong việc tiến quân đánh chiếm Đông Dương và thiết lập nên thống trị ở phần đất này.

Nói về các chính đảng chống Pháp, sách Việt Sử Khảo Luận – cuốn 4, nêu đích danh các đảng phái thân Nhật ở ba miền Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ như sau:

Các đảng phái thân Nhật có (HvĐào 1970tr. 229):

Ở Bắc Bộ có:

1.- Đại Việt Quốc Gia Xã Hội (gọi vắn tắt là Đại Việt Quốc Xã) do ông Nguyễn Xuân Tiếu sáng lập vào năm 1936.

2.- Đại Việt Quốc Dân Đảng của nhóm Trương Tử Anh.

3.- Đại Việt Dân Chính Đảng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn (Khái Hưng, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long…) thành lập vào năm 1940. Nguyễn Tường Tam bỏ trốn sang Tầu hồi năm 1942.

4.- Tân Việt Quốc Dân Đảng của nhóm Nguyễn Thế Nghiệp, Nhượng Tống….

Ở Trung Bộ có mấy đảng thân Nhật là (VnChiêu 1984 tr 22., 42-44)

1.- Tân Việt Nam Đảng do Nhật bảo trợ, với Tôn Quang Phiệt, cộng sản nằm vùng làm tổng thư ký.

2.- Đại Việt Phục Hưng Hội của nhóm Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm thành lập từ hồi 1942, liên lạc với hoàng thân Cường Để ở Nhật.

Ở Nam Bộ có những đảng thân Nhật là:

1.- Việt Nam Phục Quốc Hội của bọn Trần Trung Lập, Hoàng Lương cũ, nay do Trần Văn Ân lãnh đạo, đã được Nhật đưa đi lánh mặt ở Singapore hồi năm 1943, nay được đưa trở về Sàigòn ngày 28/5/1945. Ân được Minoda chọn là chủ tịch “Hội Đồng Nam Kỳ”.

2.- Giáo phái Cao Đài của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và ông Phối Sư Trần Quang Vinh.

3.- Giáo phái Hòa Hảo của Đức Thày Huỳnh Phú Sổ.”[1]

 

Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy các chính đảng hoặc là có hai chữ Đai Việt, hoặc là có hai chữ Phục Quốc hay Quang Phục và hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo đều là thân Nhật hay do Nhật lập ra để phục vụ cho quyền lợi của Nhật.

Đúng ra, từ khi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican khởi công tấn chiếm và đô hộ nước ta từ năm 1858 đến năm 1945, có rất nhiều phong trào hay tổ chức hoặc đảng phái cách mạng tranh đấu chống Pháp với mục đích khác nhau, chứ không phải chỉ có một số đảng phái chính trị như sách Việt Sử Khảo Luận đã nói ở trên. Xin tạm phân loại các tổ chức này như sau:

Trương Công Định1.- Các tổ chức có thực lực vũ trang chống Pháp: Đây là các lực lượng nghĩa quân dưới quyền lãnh đạo của những nhà ái quốc chân chính như các ông: Trương Công Định (1862-1864), Nguyễn Trung Trực (1861-1868), Nguyễn Hữu Huân (1863), Thiên Hội Dương, tức Võ Duy Dương (1861-1865), Mai Xuân Thường (1885-1887), Phan Đình Phùng (1885-1995), Nguyễn Thiện Thuật (1883-1888), Hoàng Hoa Thám (1888-1913), Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến (1917) Nguyễn Thái Học (1927-1930) với Quốc Dân Đảng, Hồ Chí Minh với Đảng Cộng Sản Việt Nam (1930 - ) và Mặt Trận Việt Minh (1941 - ).

2.- Các tổ chức không có thực lực: Đây là các tổ chức hay đảng phái chính trị không có hạ tầng cơ sở và cũng không có các đội ngũ vũ trang, không hề nghĩ đến việc chuẩn bị nổi lên cướp chính quyền và đánh đuổi Liên Minh Xâm lược Pháp – Vatican để giành lại chủ quyền cho dân tộc. Có một số trong các tổ chức này nói rằng chống Pháp, nhưng trong thực tế là tranh đấu cho quyền lợi riêng của một nhóm hay giới người của họ, chứ không phải tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của tổ quốc và cũng không phải là tranh đấu cho phúc lợi của đại khối nhân dân Việt Nam. Ta gọi những đảng phái này là các "đảng xôi thịt" của bọn chính trị phòng trà. Bộ máy tuyên truyền của Vatican và các chính quyền Việt Nam làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican gọi các đảng này là "các đảng phái Quốc Gia". Các tổ chức này được chia ra làm hai nhóm:

Nhóm thứ nhất: Nhóm này không có thực lực vũ trang và cũng không chủ trương lật đổ chính quyền Bảo Hộ Pháp – Vatican. Với chủ trương như vậy, nhóm này muốn duy trì nền thống trị của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và chỉ tranh đấu cho quyền lợi của giai cấp giầu có theo Tây học. Họ tranh đấu bằng những thỉnh cầu chính quyền Bảo Hộ ban hành luật hay quy chế cho dân bản địa được dễ dàng tham chính và được hường những đặc quyền đặc lợi giống như những người Pháp ở Việt Nam. Tiêu biểu cho nhóm này là Đảng Lập Hiến Đông Dương của của các ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) và Nguyễn Phan Long (1889-1960) được cho ra đời vào năm 1919.

Nhóm thứ hai: Nhóm này cũng không thực lực, không có hạ tầng cở cơ sở và cũng không có đội ngũ cách mạng, nhưng lại tự cho là một đảng phái cách mạng chống Pháp và cũng có tham vọng cướp chính quyền.

Không có thực lực, không có hạ tầng cơ sở và cũng không có các đội ngũ cách mạng, vậy thì họ cướp chính quyền bằng cách nào?

Bằng cách hoàn toàn trông cậy vào quân đội Nhật như tất cả các chính đảng mà sách Việt Sử Khảo Luận – cuốn 4 đã nêu đích danh ở trên, trong đó có Đảng Việt Nam Quang Phục hay Việt Nam Quang Phục Hội hoặc là Đại Việt Phục Hưng Hội của ông Cường Để và ông Ca-tô Ngô Đình Diệm trong những năm trước ngày 9/3/1945, hay hoàn toàn trông cậy vào quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa như hai đảng Việt Quốc và Việt Cách.

 

A.- ĐẢNG LẬP HIẾN ĐÔNG DƯƠNG

Đảng lập hiến Đông Dương của các ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long được cho ra đời vào năm 1919. Đây là một đảng chính trị có khuynh hoạt động công khai và hợp pháp trong thời Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đô hộ Đông Dương. Những nhân vật lãnh đạo cũng như các thành phần đảng viên của đảng này đều là những người xuất thân từ các gia đình điền chủ hay tư sản giầu có. Mục tiêu theo đuổi của họ là tranh đấu đòi hỏi chính quyền Bảo Hộ ban hành những quy chế cho họ được tham chính và được hưởng những đặc quyền đặc lợi giống như những người Pháp chính tông bất kể là dân sự hay viên chức trong chính quyền tại Đông Dương. Bách khoa toàn thư Wikipedia viết về đảng này như sau:

Đảng Lập Hiến có lực lượng tham gia chủ yếu là người việt thuộc thành phần giai cấp tư sản dân tộc, đại địa chủ, trí thức tiểu tư sản, một số là binh lính phục vụ trong hàng ngũ quân đội thực dân Pháp. Đảng này hoạt động chủ yếu ở miền nam Việt Nam.”[2]

Cũng theo nguồn tài liệu này, thì đảng trưởng của đảng này là ông Bùi Quang Chiêu có thái độ "khinh rẻ anh em nông dân và công nhân ít học" và "chỉ chấp nhận cho họ được cái quyền độc nhất là quyền sinh tồn". Đây là nguyên nhân khiến ông có chủ trương duy trì tình trạng bất công trong xã hội. Trong một bài phỏng vấn được đăng trên Phụ Nữ Tân Văn năm 1929, ông tuyên bố:

Trên đời này làm gì có bình đẳng? Tôi xin kể ra một thí dụ, giả như một người nhờ vào những trường hợp ngẫu nhiên nào đó, hoặc nhờ vào tài sản, nhờ vào những thành công của mình mà lên được hàng lãnh đạo trong giới thượng lưu; đương nhiên người đó có quyền hưởng thụ nhiều ưu đãi hơn là một anh phu quét đường. Anh phu quét đường thì ngu dốt, anh ta không làm được nghề gì khác ngoài việc quét đường. Thành ra anh ta chỉ có được 1 quyền là quyền được sống. Đó là lẽ tự nhiên.”[3] .

Có nguồn tin nói rằng một trong những mục tiêu tranh đấu của đảng này là đòi chính quyền Pháp nới rộng quy chế cho người Việt Nam nhập Pháp tịch.

Cũng nên biết là trong thời 1862-1945:

a.- Dân ta bị Thực dân Pháp Và Giáo Hôi La Mã áp bức vô cùng tàn ngược, bị bóc lột đến tận xương tận tủy bằng những chính sách thuế khóa cực kỳ dã man (thuế thân, thuế muối và hàng trăm thứ thuế khác đổ lên đầu người dân), bằng chính sách sưu dịch vô cùng man rợ, cưỡng bách người dân phải đi làm lao nô không công phục dịch tại các công trường, xây cất hàng ngàn ngôi dinh thự vĩ đại nguy nga cho nhà nước. Hàng ngàn những ngôi nhà thờ to lớn cùng với hàng ngàn tháp chuông sừng sững vươn lên bên cạnh những ngôi nhà thờ này, hàng trăm các cở sở khác như chủng viện, tu viện, nhà thương, trường học và các xí nghiệp nghiệp kinh tài của Giáo Hội La Mã đã được thiết lập trên lao công của dân ta.

b.- Ruộng đất canh tác của dân ta bị Giáo Hội La Mã cướp đoạt. Vào năm 1924, chỉ riêng ở Nam Kỳ, con số ruộng đất bị Giáo Hội La Mã đã cướp đoạt của dân ta tới trên 25% số diện tích ruộng đất trồng trọt:

Tháng 7 năm 1924, tại Đại Hội V Cộng Sản Quốc Tế, thanh niên Hồ Chí Minh lúc đó gọi là Nguyễn Ái Quốc, đã lên tiếng tố cáo chủ nghĩa thực dân bóc lột và vai trò của Giáo Hội (La Mã) trong chuyện này. Chỉ một mình Nhà Chung Công Giáo mà chiếm hết một phần tư đất trồng trọt Nam Kỳ. Phương thế để chiếm hữu các đất đai đó rất đơn giản là dùng tham nhũng, hối lộ và cưỡng ép. Đây là vài thí dụ rõ ràng. Nhà Chung lợi dụng khi mất mùa để cho nông dân vay tiền, rồi bắt họ phải đem đất ruộng làm của cầm. Tiền lời cho vay rất nặng, nên con nợ sẽ không thanh toán nổi khi đến ngày trả và như thế đất cầm trở nên đất của Nhà Chung. Giáo Hội không từ một việc nào để nắm được những giấy tờ hệ lụy bí mật và nhờ đó dọa dẫm các quan chức, bắt buộc họ phải làm theo ý mình muốn. Giáo Hội cũng liên minh với tay tài phiệt để khai thác những vùng đất nhượng cho không và những thửa ruộng cướp được của nông dân. Giáo Hội có người của mình nắm những vai trò thế giá trong chính quyền thuộc địa…[4]

Ấy là chưa nói đến con số ruộng đất bị Giáo Hội cướp đoạt ở miền Trung và miền Bắc và chưa nói đến gần 30 % diện tích ruộng cày cấy bị bọn Việt gian và quan lại (phần lớn là tín đồ Ca-tô) chiếm đoạt.

c.- Chùa chiền Việt Nam bị đập phá lấy đất để xây nhà thờ Ca-tô. Ngôi Chùa Bảo Thiên ở Hà Nôi chỉ là một trong số hàng ngàn ngôi chùa bị đập phá để lấy đất xây nhà thờ như Giáo Hội đã làm ở Châu Mỹ La-tinh trong thế kỷ 16 và ở Algerie từ năm 1830 cho đến khi Liên Minh Pháp - Vatican bị nhân dân quốc gia này đánh đuổi ra khỏi lãnh thổ.

d.- Văn hóa Việt Nam bị chà đạp, tôn giáo cổ truyền của dân tộc trong đó có đạo thờ cúng tổ tiên bị sỉ vả, và dân tộc Việt Nam bị khinh rẻ là dân tà đạo, dân mọi rợ.

Xin xem Mục X nói về thành tích của Vatican cướp đoạt tài sản và bóc lột nhân dân Việt Nam trong thời 1862-1945. Mục này nằm trong Phần III, bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã, đã được đăng trên sachhiem.net, giaodiemonline.com từ tháng 1/2008, và sẽ được in trong sách Từ Chùa Bảo Thiên Đến Tòa Khâm Sứ do sachhiem.net và giaodiemonline.com chủ trương đang được phát hành.

Với thảm cảnh bị áp bức, bị bóc lột, bị đày đọa, bị khinh miệt như là như quân mọi rợ như trên, thiết tưởng rằng, ngoại trừ nhóm thiểu số tín đô Ca-tô vong bản phản quốc và nhóm tư sản giầu có, ăn no rửng mỡ, đại khối dân tộc Việt Nam ta không hề và không bao giờ cần đến cái điều đòi hỏi "nới rộng quy chế nhập Pháp tịch" của Đảng Lập Hiến.

Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy Đảng Lập Hiến của ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long nói là chống Pháp mà bản chất chỉ là đảng xôi thịt tranh đấu cho nhóm người thiểu số vốn đã được ưu đãi trong xã hội thời Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican thống trị Việt Nam.

 

B.- VIỆT NAM QUANG PHỤC HAY ĐẠI VIỆT PHỤC HƯNG HỘI

Đây là đảng Ca-tô dưới quyền lãnh đạo của ông Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lưu vong ở Nhật và anh em Ca-tô Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm ở trong nước. Đảng này được Vatican hay Giáo Hội La Mã ngầm khuyến khích giáo dân Ca-tô ủng hộ với mục đích để có một thế lực chuẩn bị cho cái thế đối đầu với các lực lượng ái quốc của nhân dân ta nếu Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican phải lùi bước trước sức mạnh trỗi dậy của các dân tộc da vàng dưới quyền lãnh đạo của Nhật Bản.

Về thực lực, nhóm thiểu số gần hai triệu tín đồ Ca-tô thuộc loại siêu cuồng tín đang nằm tiềm phục trong các xóm đạo và giáo khu rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam là thực lực của đảng này. Tuy nhiên, nhóm thiểu số tín đồ Ca-tô này và Giáo Hội La Mã không dám công khai chống lại người Pháp bằng lực lượng vũ trang vì mục đích của đảng này chỉ là công cụ để Vatincan dùng để phòng hờ nếu Nhật thắng thì mới thò đầu ra thi hành kế sách “cáo đội lốt hùm” và “theo voi ăn bã mía”.

Về phương tiện, họ trông cậy vào Đế Quốc Nhật Bản hy vọng khi Nhật lật đổ chính quyền Pháp, rồi sẽ dùng đảng này làm thế lực nội địa để duy trì quyền lực.

Về mục đích, đảng này có mục đích là tranh đấu đòi chiếm ngôi vua của nhà Nguyễn cho ông Cường Để và giành ưu thế chính trị cho Giáo Hội La Mã tại Việt Nam với mục đích tối hậu chuẩn bị đưa một tín đồ Ca-tô người Việt lên cầm quyền làm tay sai cho Giáo Hội La Mã để tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân Việt Nam bằng bạo lực của Nhà Nước đúng theo tinh thần Sắc Chỉ Romanus Pontifex đã được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455). Nội dung của sắc chỉ này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi rõ như sau:

"...., quyền lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ "Romanus Pontifex" do Đức (Giáo Hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa Thánh, Đức Giáo Hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn."[5]

TỪ SỰ HÌNH THÀNH ĐẾN NGÀY TÀN CỦA ĐẢNG VIÊT NAM QUANG PHỤC

Cụ Phan Bội Châu

Đảng Việt Nam Quang Phục Hội còn được gọi và Đại Việt Phục Hưng Hội. Như đã nói ở trên, hình như các chính đảng có hai chữ Đại Việt xuất hiện từ đầu thập niên 1930 đến năm 1945 đều có bóng dáng đế quốc xâm lược Nhật ở đằng sau. Đảng Việt Nam Quang Phục cũng là một trong những tổ chức có bóng dáng người Nhật ở hậu trường.

Nguyên thủy, đảng này vốn là do các nhà ái quốc như các cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hải Thần, Bùi Phú Thiện, Nguyễn Mậu, Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài, Lê Triết, Nguyễn Chính, Đỗ Tự, Lê Ngung, v.v... thành lập ở miền Nam Trung Hoa vào năm 1912 và chủ trương trông cậy vào sự giúp đỡ của Nhật Bản, đặc biệt là vấn đề huấn luyện cán bộ quân sự và trang bị vũ khí để dân ta vùng lên đánh đuổi quân xâm lược người Da Trắng nhằm khôi phục lại cái hào khí của người Da Vàng đã bị người Da Trắng khinh rẻ và đè đầu cỡi cổ từ nhiều thập kỷ. Động lực khiến cho các cụ hướng về Nhật Bản để trông cậy như vậy là do biến cố Hải Quân Nhật đại thắng Hải Quân Nga tại Eo Biển Đối Mã mà sách sử gọi là trận Hải Chiến ở eo biển Tsushima xẩy ra vào hai ngày 27-28/5/1905. (Eo Biển này nằm ở phía Đông Đảo Tsushima. Hòn đảo này nằm ở giữa Nhật Bản và cực Nam của Triều Tiên). Chiến thắng này của người Nhật khiến cho các nhà ái quốc Việt Nam cảm thấy phấn khởi và hy vọng nước Nhật sẽ là nước dẫn đầu các dân tộc Á Châu nổi lên để chứng tỏ cho người Da Trắng thấy rằng các dân tộc Da Vàng không man di và mọi rợ như chúng đã hành xử đối với người Á Châu.


Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.
Ảnh http://gactholoc.net/

Vào khoảng cuối thập niên đầu thế kỷ 20 (1908 hay 1909), các cụ sang Nhật yêu cầu người Nhật giúp đỡ bằng cách thâu nhận sinh viên vào các trường võ bị. Một số chính khách Nhật yêu cầu các cụ nên về nước tìm minh chủ. Vì vậy, cụ Phan Bội Châu mới nhờ người về nước liên lạc được với ông Cường Để, mời nhập cuộc, tôn lên làm minh chủ và đưa sang Trung Hoa rồi tìm đường sang Nhật để cùng lo đại sự. Cho đến lúc này, tôn chỉ của đảng vẫn là chủ trương đuổi Pháp, giành lại nền độc lập cho đất nước và thành lập một chế độ quân chủ (không nói rõ là quân chủ chuyên chế hay quân chủ lập hiến). Sau này, sau khi tiếp xúc với cụ Phan Chu Trinh và sau khi đã tìm đọc thêm nhiều sách sử về cách mạng, trong đó có cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 ở Trung Hoa do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, cụ Phan Bội Châu mới thấy rằng chế độ quân chủ đã lỗi thời, rồi mới bàn với các đồng chí phải hủy bỏ tôn chỉ cũ và chủ trương thành lập một chế độ cộng hòa. Hành động này làm cho ông Cường Để không hài lòng, nhưng vì cả nể uy tín của các cụ, nhất là cụ Phan Bội Châu, cho nên ông ta chưa dám công khai phản đối. Đến năm 1912 (?), thấy rằng đã có một chút uy tín, Cường Để mới công khai chống lại tôn chỉ thành lập chế độ cộng hòa và đưa ra chủ trương sẽ thành lập chế độ quân chủ để nếu thành công, ông ta sẽ nhẩy lên làm vua với tất cả những lễ nghi sặc mùi phong kiến. Sự kiện chia rẽ giữa nhà ái quốc Phan Bội Châu và ông Hoàng Cường Để được sử gia Phạm Văn Sơn ghi lại vắn tắt như sau:

"Trong lúc đó, các đảng bộ trong nước bị khủng bố liên tiếp. Chỉ có đảng bộ Quảng Ngãi là tương đối vững hơn. Đảng triệu tập hội nghị cử đại biểu ra ngoài nước điều tra tình hình và chấp mối liên lạc.

Bùi Phú Thiện tức Cử Cần, và Nguyễn Mậu tức Cẩm Sơn được cử đi ngọai quốc. Hai người sang Xiêm gặp cụ Cử Trinh báo cáo tình hình bên ngoài về việc chia rẽ giữa cụ Phan Bội Châu và cụ Cường Để vì Cụ Phan chủ trương bỏ quân chủ lập hiến để lập chế độ cộng hòa dân chủ.”[6]

Kể từ đó (có lẽ vào năm 1912) cụ Phan Bội Châu và các nhà ái quốc đồng chí của cụ không còn hợp tác với ông Hoàng Cường Để nữa.

Cũng không biết từ năm nào, đảng này được Vatican triệt để ủng hộ, và do đó ảnh hưởng, nếu không nói là điều khiển. Điều đó không có gì lạ vì ông Cường Để thuộc dòng Hoàng Tử Cảnh, người đã được Giám Mục Bá Đa Lộc đem sang Pháp từ lúc mới 5 tuổi, sát cánh với nhau cả thời gian mấy năm trường (xem chi tiết ở Chương 17, tập "Tâm Thư Gửi Nhà Nước VN": Kế Sách Lặn Sâu Trèo Cao Vào Thượng Tầng Chính Quyền Việt Nam Từ Cuối Thế Kỷ 18 Cho Đến Ngày Nay). Sự việc Hoàng Thân Cường Để có theo đạo Ca-tô hay không cũng không quan trọng, vì ông chỉ ở nước ngoài cho đến chết trong suốt thời gian hoạt động. Điều quan trọng là các vai trò chính yếu của đảng ở trong nước đã nằm ở trong tay các con chiên như ông Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, Trần Văn Lý, v.v… cũng đủ cho chúng ta thấy rằng có bàn tay săp xếp và chỉ đạo của Vatican ở hậu trường, còn Hoàng thân Cường Để chỉ là một nhân vật được Vatican sử dụng để đánh bóng cho đảng chính trị ma nớp này mà thôi. Phần trình bày dước đây cho thấy rõ sự kiện này. (đoạn văn bổ túc ngày 10 tháng 6, 2015).

Cũng nên biết rằng dù là Vatican và Pháp cấu kết với nhau thành Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican-Pháp đánh chiếm và thống trị Đông Dương, nhưng Đế quốc Vatican và Đế Quốc Pháp là hai kẻ đồng sàng nhưng dị mộng. Tuy là liên kết với nhau để cùng đánh chiếm và thống trị Việt Nam, nhưng hai đế quốc này lại không ưa nhau nếu không muốn nói là thù ghét lẫn nhau. Phần đóng góp của Đế Quốc Vatican trong công cuộc đánh chiếm Việt Nam là công lao thu thập các tin tức tình báo chiến lược, móc nối với những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican để thành lập đạo quân thứ 5 năm hờ chờ sẵn để tiếp ứng vào khi đoàn quân viễn chinh Pháp – Vatican từ ngoài khơi tiến vào, và tìm những người Việt mang quốc tịch Vatican cung ứng cho nhu cầu làm tay sai tai mắt cũng như cung ứng cho bộ máy đàn áp và cai trị nhân dân ta. Phần đóng góp của Đế Quốc Pháp là bỏ tiền ra bao giàn cho cuộc chiến, cung ứng quân đội và hoạch định kế hoạch hành quân tấn chiếm Việt Nam. Rõ ràng là Pháp và Vatican hùn hạp với nhau như là một công ty hợp doanh để đánh chiếm Đông Dương để cùng thống trị, cùng khai thác và cưỡng bách nhân dân ta làm nô lệ. Theo quy luật hùn hạp, thế lực nào chi tiền thì thế lực đó nắm quyền chỉ huy (làm chính sách cai trị). Cũng vì thế mà Đế Quốc Pháp nắm quyền chỉ đạo trong việc đặt nền thống trị tại Việt Nam đúng theo quy luật này.

Về phía Vatican, Tòa Thánh Vatican vẫn giữ vững quan niệm bảo thủ là phải thực thi đúng theo tinh thần sắc chỉ Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1454) như đã nói ở trên.

Theo tinh thần sắc chỉ này, Thái Tử Henri Le Navigateur, Bồ Đào Nha (xin hiểu người Âu Châu và là tín đồ của Giáo Hội La Mã) có quyền “bắt thổ dân những vùng đất mới khám phá được làm nô lệ”:

Khi tiếp xúc với người da đen Phi Châu, người Âu trong tay có sẵn súng đồng, không đè nổi lòng tham. Họ tổ chức lại công việc buôn bán nô lệ mà từ thế kỷ thứ 10 họ đã bỏ cho người Hồi giáo làm. Năm 1452 Giáo Hoàng Y Pha Nho Calixte III ký sắc lệnh cho Henri Le Navigateur bắt thổ dân ở những vùng đất khám phá được làm nô lệ. Ngày ký sắc lệnh này là ngày ảm đạm nhất trong lịch sử chế độ thực dân.”[7]

Có một chút không đúng về thời điểm và niên hiệu vị giáo hoàng khi ban hành sắc lệnh dã man trên đây. Nếu sắc lệnh này được ban hành vào năm 1452 thì năm này là thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1454). Nếu các sắc lệnh ăn cướp này được bàn hành trong thời Giáo Hoàng Caliste III (1455-1458), thì thời điểm ban hành không phải là năm 1452.

Cũng theo đúng tinh thần của sắc chỉ này, Giám-mục Puginier, người đại diện của Hoàng Đế Vatican tức Giáo Hoàng Pius IX (1846-1878) tại Bắc Việt vào thập niên 1860 trong thời vua Tự Đức đã đúc kết thành một sách lược mà sau này các nhà viết sửa gọi là Kế Hoạch Puginier.

Theo kế hoạch này, Vatican đã có chủ trương diệt tận gốc, trốc tận rễ các nền văn hóa tam giáo cổ truyền của dân tộc Việt Nam, trong đó nền đạo lý Khổng Mạnh và giai cấp Nho sĩ bị liệt kê vào hàng kẻ thù số 1, vì rằng phong trào kháng chiến đánh đuổi quân xâm lăng Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican lúc bấy giờ phần lớn đều do giới Nho sĩ lãnh đạo.

Cũng theo kế hoạch này, nước Việt Nam phải được xé ra làm nhiều tiểu quốc theo biên giới sắc tộc thiểu số và theo biên giới địa lý Bắc Trung Nam. Sau đó, họ sẽ tìm kiếm những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican làm quốc vương (thủ lãnh) để thiết lập một chế độ đạo phiệt làm tay sai của Vatican. Rồi từ đó, các chính quyền này sẽ ban hành những luật lệ chuyên chính áp đặt đạo Ca-tô làm quốc giáo và cưỡng bách nhân dân ta phải theo đạo Ca-tô Tô giống như Hoàng Đế Constantine I (306-337) và Hoàng Đế Theodosius I (379-395) của Đế Quốc La Mã đã làm vào thế kỷ thứ 4. (Độc giả có thể tìm đọc Kế Hoạch Puginier ở trong cuốn Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam (Los Angeles, CA: Hương Quê, 1988, tr. 377-414) của Tiến-sĩ Cao Huy Thuần.

Về phía Pháp, ngay từ hồi Cách Mạng 1789 đang tiến hành, “Quốc Hội Pháp có nhiều người chịu ảnh hưởng tư tưởng của các triết gia có khuynh hướng chỉ trích và lên án Giáo Hội La Mã. “[The Assembly, many of whose members were influenced by the philosophes, tended to be highly critical of the church.][8]

Họ thù ghét chính sách Ki-tô hóa vì chính sách này quá ư bạo ngược. Họ ghê tởm chính sách ngu dân và nhồi sọ của Vatican với mục đích làm cho tín đồ trở thành cuồng tín, hiếu chiến, luôn luôn có thái độ trịch thượng và hợm hĩnh với ý tưởng hão huyền là “dân Chúa”, “con Chúa”. Hậu quả lả tín đồ Ca-tô không còn lý trí, mất hết cả lương tâm, mất cả nhân tính hiếu hòa, mất cả tinh thần vô tư, thường hay có thái độ hợm hĩnh và trịch thượng, khó có thể hòa mình vào cuộc sống với những người khác tôn giáo trong cộng đồng quốc gia và nhân loại. Trong lịch sử Pháp quốc, từ đầu thập niên 1870, các nhân vật chính trị thắng thế trên sân khấu chính trị tại Pháp quốc cũng như các vị tướng lãnh chỉ huy đoàn quân viễn chinh tiến chiếm Việt Nam và các nhân vật được chính quyền Pháp gửi sang Đông Dương nắm giữ các chức vụ Toàn Quyền Đông Dương, Khâm Sứ Trung Kỳ, Thống Sứ Bắc Kỳ và Thống Đốc Nam Kỳ, hầu hết đều là những người có tinh thần chống Giáo Hội La Mã. Chúng ta thấy tại chính quốc Pháp thì có những nhân vật như Jules Ferry, Léon Gambetta, Léon Blum, các nhân vật quân sự như Đô Đốc Page, Đô Đốc Bonard, Đô Đốc Rieunier, Đại Tá Bernard cho đến các chính trị gia nắm quyền chủ chốt trong bộ máy cai trị Đông Dương như Paul Beau, Paul Bert, Pierre Pasquier, v.v… cũng đều là những người hăng say chống Giáo Hội La Mã và thường tỏ ra khinh rẻ các ông tu sĩ hoạt động cho Giáo Hội tại Đông Dương vào thời bấy giờ. Sách Các Vua Cuối Nhà Nguyễn - Tập 2 viết:

Paul Bert là đảng viên “Cộng Hòa” từng bị phe cực hữu và bảo thủ kết án như kẻ chống Giáo Hội một cách điên cuồng,” và “kẻ thù quyết liệt của Giáo Hội.” Tội lỗi lớn nhất của Bert là khi giữ ghế Bộ Trưởng Giáo Dục trong chính phủ Ferry, Bert đã cổ võ và phát động một chính sách giáo dục quốc gia phi tôn giáo. Theo Bert, nước Pháp không còn trách nhiệm hoằng dương hay rao giảng một tôn giáo nào, và cũng không công nhận một tôn giáo nào làm quốc đạo. Ra trước Hạ Viện Pháp, Bert tuyên bố: “Tôi muốn chinh phục dân An Nam bằng bàn tay mở rộng và thanh gươm đeo bên hông.”[9]

Cũng vì thế mà những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican dù là linh mục, dù là những người làm tay sai tai mắt đắc lực cho chính quyền Bảo Hộ như bọn Trần Bá Lộc, Linh-mục Trần Lục, Huyện Sĩ, Ngô Đình Khả, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Cố Ân, v.v… cũng đều bị quan thày thực dân Pháp khinh rẻ họ đến cùng độ của khinh rẻ.[10] Xin xem mấy đoạn văn này nơi Chương 6 ở sau.

Vì thế mà hai thế lực Pháp và Vatican luôn luôn không ưa nhau, hục hặc với nhau và tìm đủ mọi cách để giành thế thượng phong, chiếm ưu thế hầu có thể thi hành chính sách cai trị của phe mình. Cũng may cho dân tộc Việt Nam là phe thực dân Pháp luôn luôn thắng thế, luôn luôn cầm trịch trong bộ máy cai trị tại Đông Dương, và chỉ để cho Vatican một số quyền lợi về kinh tế cùng những ưu thế trong xã hội và việc tuyển dụng người vào làm việc do thám chỉ điểm trong bộ máy đàn áp nhân dân ta. Nhờ vậy mà Kế Hoạch Puginier của phe Vatican không được Phe thực Dân Pháp chấp thuận toàn bộ, chỉ tiến hành việc hủy bỏ dùng chữ Hán trong các công văn giấy tờ hành chánh, và thay vào đó bằng chứ Pháp và chữ Quốc Ngữ. Ngày nay, các tài liệu này đã được giải mật khiến cho người ta mới biết rõ bộ mặt thật ghê tởm về cái Tin Mừng và Hồng Ân Thiên Chúa của các nhà truyền giáo của Giáo Hội La Mã mang đến cho dân tộc Việt Nam.

Càng về sau phe Cấp Tiến càng thắng thế ở cả chính quốc Pháp cũng như ở Đông Dương và muốn loại bỏ hết quyền lực của Vatican ra khỏi sân khấu chính trị tại Việt Nam. Vì thế đảng Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hưng Hội (với Vatican ở hậu trường) được Giáo Hội La Mã và các nhà truyền giáo ở Việt Nam triệt để ủng hộ và kêu gọi giáo dân tích cực tham gia. Sự kiện này được sử gia Vũ Ngự Chiêu ghi nhận trong bài viết Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân Đến Ái Quốc (tiểu mục C: Sự Chuyển Hướng Của Hội Truyền Giáo) như sau:

"Thời gian này (từ 1890 trở về sau), Hội truyền giáo đã phát triển và củng cố tổ chức chặt chẽ theo hàng dọc, từ các giáo phận xuống giáo xứ, họ đạo. Hầu hết các họ đạo tại các xã thôn đều do các giáo mục (curé) bản xứ trông nom. Mỗi giáo phận là một tiểu vương triều tự trị, với những luật lệ riêng. Dưới sự hướng dẫn của các linh mục, giáo dân trở thành kiêu dân, hoành hành bất kể luật pháp. Alphonse Louis Klingler ở Nghệ An và Martin ở Thanh Hoá chỉ là những thí dụ tiêu biểu.

Không những chỉ lấn áp dân chúng, đập phá chùa chiền, cướp đoạt ruộng đất, công điền công thổ tại các xã lẫn lộn người Lương và giáo dân, “thập tự quân” còn kéo nhau đi làm tiền cả thân nhân Từ Dụ Thái Hoàng Thái hậu, hay cựu Phụ chính Ðại thần Trương Quang Ðãn, vì tư gia họ đã dùng gỗ lim, mới bị ra lệnh cấm đẵn để dành độc quyền cho các nhà khai thác.

Các quan lại chẳng ai dám phản ứng, vì phạm lỗi với các giáo sĩ hay linh mục bản xứ sẽ lập tức bị cách chức, hay quở phạt.

Trước viễn ảnh rạn nứt khó tránh giữa chế độ Bảo hộ Pháp và Hội truyền giáo – đồng thời, để tạo áp lực với các viên chức “rối đạo” – các giáo sĩ tìm cách móc nối, ăn rễ vào Hoàng tộc và những phong trào kháng Pháp. Một mặt, giới quan lại xuất thân thông ngôn được yểm trợ ngày một thăng tiến nhanh trong triều đình, hầu gây ảnh hưởng với vua và Hoàng tộc. Mặt khác, một số tìm cách liên kết với tổ chức Duy Tân Hội của Phan Bội Châu và Cường Ðể, dòng dõi duy nhất của Hoàng tử Cảnh. Sự ủng hộ của số giáo sĩ, giáo dân từ Vinh tới Quảng Nam–kể cả nhóm Ngô Ðình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Mai Lão Bạng, v.. v...– liên hệ không nhỏ với bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh giữa Giáo hội và phe tả khuynh Pháp.

Tuy nhiên, tưởng cũng cần nhấn mạnh, khối giáo dân – hoặc ít nữa các nhóm thiểu số giáo sĩ và giáo dân tham vọng– không đoàn kết, nhất trí như có thể ngộ nhận. Ðường nứt rạn lớn nhất là giữa hai giáo phận gốc Espania – có liên hệ chặt chẽ với Manila (Philippines), và Roma – và các giáo phận của Hội Truyền giáo Pháp. Thêm nữa, ý thức chủng tộc cũng tách biệt dần giáo dân Việt và giáo sĩ ngoại quốc – đặc biệt là các giáo sĩ Pháp. Sau gần nửa thế kỷ được Pháp “giải phóng” (nói theo ngôn ngữ của Petrus Key năm 1859), giáo mục và giáo dân Việt vẫn bị xếp loại tín hữu hạng nhì. Triều đình Ki-tô Ðông Dương vẫn do các “cha triều” Pháp thống trị. Chưa một “linh mục triều” người Việt nào được lên chức Giám mục. Nói cách khác, Hội truyền giáo Pháp tự nó cũng là một tiểu vương triều “trắng” bảo hộ tiểu vương quốc Ki-tô “vàng.” Hội truyền giáo cũng không chỉ có con chiên người Việt. Các giáo sĩ bắt đầu mở mang họ đạo tới những vùng sơn cước ở Trung và Bắc Kỳ. Từ thập niên 1900, toàn thể Ðông Dương đã chia làm 7 giáo phận. Tại Bắc Kỳ, thêm giáo phận “Haut Tonkin” (Ðàng Ngoài Cao), để lo việc Ki-tô hoá dân thiểu số. Tại Trung Kỳ, hai giáo phận Ðông Ðàng Trong và Tây Ðàng Trong nỗ lực Ki-tô hoá các sắc tộc Ê-đê, Gia-rai, Sê-đăng, v.. v... trên cao nguyên.”[11]

Như vậy, Đảng Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hưng chỉ là công cụ của Vatican với mưu đồ sử dụng Cường Để để thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô rồi Ki-tô hóa Việt Nam từ trên xuống dưới bằng bạo lực của chính quyền. Cũng vì dã tâm Ki-tô hóa từ trên xuống dưới bằng bạo lực của nhà nước cho nên khi không được người Nhật cho làm thủ tướng, Ngô Đình Diệm quay ra đòi nắm giữ Bộ Nội Vụ để có thể bổ nhậm bọn đàn em (cũng là tín đồ Ca-tô) làm tỉnh trưởng. Thế nhưng, "già néo thì đứt giây". Sự kiện này được Cụ Hoàng Cơ Thụy ghi lại trong Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 như sau:

"Đại Việt Phục Hưng Hội của nhóm Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm (ông Diệm sinh ngày 3/1/1901) thành lập từ năm 1942 liên lạc với Hoàng Thân Cường Để ở bên Nhật (coi VSKL/8 tr. 1842).

Sau vụ làm thủ tướng hụt cuối tháng 3/1945, một phái đoàn 5 người của "Ủy Ban Kiến Quốc" là Vũ Văn An, Vũ Đình Dy, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn sang Nhật tham dự Hội Nghị Đại Đông Á tại tỉnh Kudan hồi đầu tháng 5/1945. Cuối tháng ấy và hai tháng 6 và 7/1945, có tin đồn rằng Cường Để sắp được Nhật đưa về nước để giúp cháu là vua Bảo Đại và sẽ giữ chức vụ chủ tịch Hội Đồng Tư Vấn đang dự bị thành lập.

Theo lời bác sĩ Hồ Tá Khanh kể với chúng tôi (tháng 3/1992) thì hồi cuối tháng 7/1945, Vũ Văn An có vào Huế đề nghị với cụ Trần Trọng Kim để cho Ngô Đình Diệm tham gia nội các. Khi ấy còn khuyết mấy bộ trưởng là các bộ Công Chính (Lưu Văn Lang từ chối, Hoàng Xuân Hãn tạm kiêm nhiệm) và Y Tế (Vũ Ngọc Anh vừa chết vì bom Mỹ hôm 23/7/1945), nên cụ Kim đề nghị (cho ông Diệm giữ) một trong hai bộ đó. Song Vũ Văn An đòi cho ông Diệm (giữ) bộ Nội Vụ để có thể bổ báng bọn đàn em làm tỉnh trưởng. Vì bộ này đã có Trần Đình Nam (năm giữ), nên cụ Kim không thể nhận lời."[12]

Phần trình bày trên đây cho thấy rõ chủ trương của Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hưng là chủ trương của Vatican muốn liên kết với người Nhật trong Phe Trục với hy vọng nếu Pháp bị hất ra khỏi Đông Dương, thì Nhật sẽ đưa Cường Để lên làm vua để họ cùng với Nhật thống trị Đông Dương Đông, giống như Vatican đã liên kết với Đức Quốc Xã ở Âu Châu để củng cố quyền lực của chế độ đạo phiệt Francisco Franco ở Tây Ban Nha và chế độ đạo phiệt Ca-tô Ante Pelvalich ở Croatia.

Như vậy, ta có thể nói, Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hưng là một đảng Ca-tô được Vatican hay Giáo Hội La Mã ngầm khuyến khích giáo dân Ca-tô ủng hộ với mục đích để có một thế lực chuẩn bị cho cái thế đối đầu với các lực lượng ái quốc của nhân dân ta nếu Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican phải lùi bước trước sức mạnh trỗi dậy của các dân tộc da vàng dưới quyền lãnh đạo của Nhật Bản.

Thiết tường rằng khát vọng của toàn dân Việt Nam là làm thế nào tống cổ được Liên Minh Xâm Lươc Pháp – Vatican để giành lại chủ quyền cho dân tộc và thống nhất đất nước, khi đó Việt Nam sẽ không còn bị thống trị bởi người ngoại bang, nền văn hóa cổ truyền không còn bị chà đạp, trai gái thành hôn với nhau không còn bị cưỡng bách theo đạo Ca-tô, ruộng đất Việt Nam không còn bị cướp đoạt để làm của nhà Chúa nhà Chung, miếu đình, đền đài, chùa chiền không còn bị đập phá để lấy đất xây nhà thờ và các cơ sở của Vatican, dân ta không còn bị coi như là dân man ri, mọi rợ, không còn bị áp bức, bị bóc lột, bị đày đọa và bị dồn vào thảm cảnh đói khổ triền miên để rồi phải theo đạo lấy gạo mà ăn, nếu không thì sẽ rơi vào cảnh chết đói như hồi mùa Xuân năm Ất Dậu 1945.

Nếu Nhật hất cẳng Liên Minh Pháp - Vatican mà đưa Hoàng Thân Cường Để lên làm vua thay thế ông Bảo Đại và đưa ông Ca-tô Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng, THÌ ĐÚNG LÀ Việt Nam ta rơi vào tình trạng "tránh vỏ dưa gặp vở dừa", tức là "đuổi con Cọp Liên Minh Xâm Lược Pháp- Vatican ra khỏi cửa trước thì lại rước con beo Liên Minh Xâm Lược Nhật - Vatican vào cửa sau". Cũng vì thế mà cụ Phan Bội Châu đã phải xa lìa ông Ca-tô Cường Để từ giữa thập niên 1910, và nhân dân Việt Nam không những không tham gia vào cái đảng Ca-tô bán nước hại dân này, mà còn tích cực chống lại nó đến cùng.

 

C.- ĐẢNG ĐẠI VIỆT QUỐC DÂN ĐẢNG

Người viết đã cố gắng sưu tầm tài liệu nói về đảng chính trị cách mạng này. Nhưng không có tài liệu nào nói đầy đủ rõ ràng và ngắn gọn bằng Bách Khoa Toản Thư Mở wikipedia. Xin ghi lai đây nguyên văn bản tài liệu này để rộng đường dư luận:

Đại Việt Quốc Dân Đảng còn gọi tắt là Đại Việt là một tổ chức chính trị do Trương Tử Anh (1914-1946) sáng lập vào năm 1939 lấy Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn làm nền tảng lý thuyết. Đảng ca của Đảng Đại Việt là bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông.

Năm 1944, Đại Việt Quốc Dân Đảng kết hợp với Đại Việt Quốc Xã của Nguyễn Xuân Tiếu và Đại Việt Duy Dân của Lý Đông A và Đại Việt Dân Chính của Nguyễn Tường Tam thành lập một mặt trận chung với tên gọi là Đại Việt Quốc Gia Liên Minh.

Tháng 9 năm 1945, Đại Việt Quốc Dân Đảng đưa ra kế hoạch bốn điểm nhằm chống lại Việt Minh trong việc bầu cử Quốc Hội và thành lập Chính Phủ Liên Hiệp:

1.- Phát động phong trào toàn dân hợp tác với Việt Minh.

2.- Tách rời cựu hoàng Bảo Đại ra khỏi Việt Minh và vô hiệu hóa Quốc Hội Việt Minh.

3.- Thành lập một Trung Tâm Chính Trị Hải Ngoại.

4.- Củng cố các chiến khu, tăng cường khối Quốc Dân Quân, mở rộng địa bàn hoạt động.

Ngày 15/12/1945, Đại Việt Quốc Dân Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc Dân Đảng (lãnh tụ là Vũ Hồng Khanh) và Đại Việt Dân Chính (lãnh tụ Nguyễn Tường Tam) thành Mặt Trận Quốc Dân Đảng Việt Nam. Trương Tử Anh làm Chủ Tịch, Vũ Hồng Khanh là Bí Thư và Nguyễn Tường Tam làm Tổng Thư Ký.

Ngày 19/12/1946, sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương thì đảng trưởng Trương Tử Anh đột ngột mất tích.[13]

Theo tài liệu này, Đại Việt Quốc Dân Đảng của ông Trương Tử Anh, Đại Việt Quốc Xã của ông Nguyễn Xuân Tiếu, Đại Việt Duy Dân của ông Lý Đông A cũng như Đại Việt Dân Chính của ông Nguyễn Tường Tam và Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông Vũ Hồng Khanh liên kết với nhau để đánh đổ chính quyền Kháng Chiến của Việt Minh do cụ Hồ Chí Minh lãnh đạo nhằm thỏa mãn tham vọng quyền lực, chứ không phải là theo đuổi lý tưởng đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican hay quân xâm lăng Nhật để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc.

Điểm đặc biệt cần phải chú ý là từ đầu năm 1945 đến cuối năm 1946, dân ta ở trong tình trạng vô cùng khó khăn cùng với những thảm họa dồn dập xẩy ra vừa làm cho dân ta khốn khổ vừa và làm nguy hại đến vận mệnh của dân tộc và đất nước. Những thảm họa đó là:

1.- Hai triệu người chết đói trong mấy tháng mùa xuân năm Ất Dậu 1945.

2.- Nạn lụt tàn phá toàn thể vụ lúa mùa tháng Mười trong các tỉnh Thái Bình, Phủ Lý và Hưng Yên.

3.- Từ biên giới Việt - Hoa đến vĩ tuyễn 16, 180 ngàn Quốc Quân Trung Hoa với danh nghĩa sang giải giới quân đội Nhật mà thực chất là 180 ngàn quân thổ phỉ ăn cướp làm cho dân ta khốn khổ trăm bề.

4.- Tại Nam Bộ, Liên Quân Pháp – Vatican núp bóng quân Anh đổ bộ vào Sàigòn vào ngày 12/9/1945 rồi xua quân đánh phá chính quyền ta ở Sàigòn và tấn chiếm các vùng phụ cận và nhiều nơi khác.

5.- Giáo Hoàng Hoàng Pius XII cũng như đại diện của Vatican tại Việt Nam và tu sĩ Ca-tô các cấp đang dồn nỗ lực xúi giục gần hai triệu nổi loạn để chuẩn bị tiếp tay cho Liên Minh Xân Lược Pháp – Vatican trở lại tái chiếm Đông Dương. Hành động này được vị Khâm Sứ Đại diện của Vatican Vaticantại Hà Nội là Tổng Giám Mục Antoni Drapier công khai tuyên bố vào ngày 28/12/1945. Sách sử ghi lại lời tuyên bố này  như sau:

“28/12/1945: Huế: Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại diện Roma tuyên bố: Gia đình Bảo Đại là “gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophilende tous les annamites), và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3/ (1945) (À mon avis, il serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi come le chef regulier avant le mars; DOM [Aix], CP 125).

Drapier cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long lên kế vi, và Nam Phương là Giám Quốc [Phụ Chính].”[14]

Ngoài ra, có tới hơn 95% dân ta còn ở trong tình trạng mù chữ, không biết đọc, không biết viết. Số còn lại, hầu như không thấu hiểu lịch sử nước nhà trong thời cận và hiện đại và mù tịt không biết gì về toàn bộ bài học lịch thế giới. Hậu quả là gần như toàn thể dân ta không biết gì là bộ mặt thật ghê tởm của Giáo Hội La Mã, một tổ chức tội ác mà văn hào Voltaire đã phải gọi là “cái tôn giáo ác ôn”, học giả Henri Guillemin gọi là “Cái Giáo Hội Khốn Nan”, nhân dân Âu Châu đã phải lánh xa như lánh hủi, và nhân dân Pháp gọi bọn tu sĩ Ca-tô là “lũ quạ đen” (les corbeaux noirs).

Tình trạng nước ta lúc bấy giờ khốn đốn như vậy! Ấy thế mà các ông lãnh tụ của các chính đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Xã, Đại Việt Duy Dân, Đại Việt Dân Chính và Việt Nam Quốc Dân Đảng không những đã không chung lưng góp sức với chính quyền Việt Minh và dân ta để giải quyết những khó khăn do thiên tai gây ra và đối phó với thù trong giặc ngoài đang đánh phá đất nước mưu đồ đưa dân nước ta trở lại thời nô lệ như thời 1885-1945, mà lại còn đành lòng cúi mặt gục đầu liên kết với nhau để đánh đổ chính quyền Kháng Chiến Việt Minh. Làm như vậy, rõ ràng là cac chính đảng này nếu không phải là nối giáo cho giặc thì cũng là cố tình tạo cơ hội thuận tiện cho Liên Minh Pháp – Vatican dễ dàng tái chiếm Việt Nam. Sự kiện này cùng với những hành động cấu kết với giặc Nhật trong những năm 1939-1945 của các chính đảng này, đặc biệt là Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hưng trước đó (đã nói rõ ở trên) cho chúng ta thấy rõ là có bàn tay của Vatican ở đằng sau các chính đảng này.

 

CHÚ THÍCH


[1] Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận – Cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 1962-1964.

[2] Bách khoa toàn thư Wikipedia. “Đảng Lập Hiến Đông Dương” 6/6/2008.

[3] Theo bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/.../050809_morebuiquangchieu.shtml

[4] Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), tr. 76-77.

[5] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 14-15.

[6] Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tân Biên - Quyển 7 (Glendale, CA., Đại Nam, 1980 (?), tr. 20.

[7] Nguyễn Hiến Lê, Lịch Sử Thế Giới (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1994), tr. 349.

[8] Carlton J. H. Hayes, Modern Times – The French Revolution to the Present (New York: Macmillan Publishing Co., Inc.. 1893), tr. 35.

[9] Chính Đạo, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn – Tập 2 (Houston, TX: 2000), tr. 471.

[10] Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam 1858-1897 (St. Raphael, Pháp, 1995), tr. 101-102.

[11] Vũ Ngự Chiêu.“Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân sang Ái Quốc.” chuyenluan.net Tháng 6/2006.

[12] Hoàng Cơ Thụy, Sđd., tr. 1963.

[13] Theo Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia. Ngày 1/4/2008.

[14] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu (Houston, TX: Văn Hóa 1996), tr. 295.

 


Các bài trong tập sách Chân Dung VNCH


 ▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02a: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02b: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07a: Đặc Tính - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02c: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03a: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03b: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03c: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03d: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 05: Đại Việt, Lập Hiến Đông Dương và Việt Nam Qu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06: Việt Quốc và Việt Cách - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06a: Phụ Bản - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07: Đặc Tính - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07b: Không Dám Đối Đầu Sự Thật - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08: Chính Sách Ngu Dân Và Giáo Dục Nhồi Sọ - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08a: Chính Sách Ngu Dân Và Nhồi Sọ - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 09: Tác Dụng Của Chính Sách Ngu Dân - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10a: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân - Nguyễn Mạnh Quang -

▪ 1 2 >>>

Trang Nguyễn Mạnh Quang




Đó đây


2024-03-28 - 25: Khắc Phục Hậu Quả Sau Khi Ông VVT Rời Ghế CTN - Ông Võ Văn Thưởng ra đi có chấm dứt mọi chuyện chưa?

2024-03-28 - Chấn động người Việt ở #Thailand: Thiếu tướng GĐ CA tỉnh Gia Lai … xuất hiện … chuyện gì xảy ra …? -

2024-03-24 - Thiếu tướng Hoàng Kiền _BUỒN, VUI, "GIẢI OAN" VẤN ĐỀ CHỐNG LẬT SỬ - Đôi lời với ông Võ Văn Thưởng

2024-03-22 - Thật là buồn khi một người mình đặt nhiều kỳ vọng lại làm mình thất vọng -

2024-03-22 - Tá hoả tịch thu! Tòa án NY bắt đầu kê biên tài sản sân golf, dinh thự Seven Springs -

2024-03-21 - VKSND TP HCM: Bị cáo Trương Mỹ Lan không ăn năn - VKSND TP HCM nêu quan điểm bị cáo Lan phạm tội nhiều lần, phạm tội có tổ chức, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiếm đoạt và gây thiệt hại số tiền đặc biệt lớn cho nhà nước

2024-03-21 - NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TÚY Ở VIỆT NAM -

2024-03-20 - Toàn cảnh đề nghị mức án với vợ chồng Trương Mỹ Lan, Trương Huệ Vân và đồng phạm -

2024-03-20 - Lý do đồng chí Võ Văn Thưởng có đơn xin thôi các chức vụ -

2024-03-20 - Trung ương đồng ý ông Võ Văn Thưởng thôi chức Chủ tịch nước - Ban Chấp hành Trung ương đồng ý để ông Võ Văn Thưởng thôi giữ các chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng khóa 13, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng An ninh nhiệm kỳ 2021-2026, theo nguyện vọng cá nhân



▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 >>>




Thư, ý kiến ngắn
● 2024-03-21 - CHỐNG CỘNG: Chuyện cười ra nước mắt ở Sở Học Chánh Tacoma, Wa - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-09 - Tổng thống Nga, Vladimir Putin đọc thông điệp gửi Quốc hội Liên bang (29/2/2024) - Gò Vấp -

● 2024-03-09 - Các hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong những năm 1942-1954 - trích Hồi ký Nguyễn Đình Minh -

● 2024-03-08 - Hồi ký lịch sử 1942-1954 - Liên Quan đến Giám mục Lê Hữu Từ, Khu tự trị Phát Diệm, Công Giáo Cứu Quốc - VNTQ/ Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư -

● 2024-02-15 - Trương vĩnh Ký dưới con mắt của người dân - Trần Alu Ngơ -

● 2024-02-14 - Các nhà hoạt động ẤN ĐỘ GIÁO phản đối chuyến viếng thăm của Giáo hoàng John Paul II - FB An Thanh Dang -

● 2024-02-09 - “KHÁT VỌNG NON SÔNG” của VTV1 và chuyện Trương Vĩnh Ký - Nguyễn Ran -

● 2024-02-05 - Góc kể công - Đồng bào Rô ma giáo cũng có người yêu nước vậy! Đúng. - Lý Thái Xuân -

● 2024-02-01 - Câu Lạc Bộ Satan Sau Giờ Học Dành Cho Trẻ 5-12 Tuổi Sắp Được Khai Trương Ở Cali, Hoa Kỳ - Anh Nguyen -

● 2024-01-29 - Giáo hội Rô ma giáo Đức "chết đau đớn" khi 520.000 người rời bỏ trong một năm - The Guardian -

● 2024-01-29 - Một tên Thượng Đế-Chúa ngu dốt về vũ trụ, nhưng thích bốc phét là tạo ra vũ trụ - Ri Nguyễn gửi Phaolo Thai & John Tornado -

● 2024-01-29 - Kinh "Thánh" dạy Con Chiên Giết Tất Cả Ai Theo Tôn Giáo Khác - Ri Nguyễn vs John Tomado -

● 2024-01-29 - Nhân Quyền Ở Nước Mỹ: Vụ Án Oan, 70 Năm Sau Khi Tử Hình Bé George Stinney - - Giác Hạnh sưu tầm -

● 2024-01-29 - NOEL - Ba Giáo Hoàng John Paul II, Benedict XVI, Francis I Thú Nhận Đã Bịp Chiên- Cừu Chuyện Jesus Ra Đời - Ri Nguyen -

● 2024-01-29 - Một dàn đồng ca, ngày càng đặt câu hỏi về quyền lực của Giáo hoàng - John L. Allen Jr. -

● 2024-01-29 - Tỷ lệ phá thai nơi người công giáo lại cao hơn nơi người ngoài công giáo! - Lê Hải Nam -

● 2024-01-29 - Kinh Khải Huyền Cho Biết Jesus Là Một Tên Ác Qủy Đê Tiện, Man Rợ - Ri Nguyễn -

● 2024-01-29 - Vatican Cho Phép Linh Mục Hiếp Dâm Trẻ Con - Đó là chính sách! - Ri Nguyen -

● 2024-01-28 - Quận Utah cấm Kinh Thánh ở các trường tiểu học và trung học cơ sở - Ri Nguyen -

● 2024-01-26 - Chiên Hô Hào Các Bạn Chiên Đừng Đọc Sachhiem.net: "Nhận Diện!" - SH vs Nguyễn Trọng Nghĩa -


▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 >>>