(xem Lời Giới Thiệu của người dịch)
CHÚ THÍCH GỞI ÐỘC GIẢ
Sau khi xuất
bản cuốn sách đầu tiên của tôi Tận Cùng của Đức Tin (The End of
Faith), hàng ngàn người đã viết rằng tôi sai lầm khi không chịu tin vào
Thiên chúa. Căm phẫn gay gắt nhất của những trao đổi này đã đến từ người Ki-tô
giáo. Ðiều này thật mỉa mai, bởi vì người Ki-tô giáo luôn tưởng tượng rằng không
có đức tin nào truyền đạt được đức hạnh yêu thương và thứ tha hiệu quả hơn đức
tin của họ. Sự thật lại là nhiểu người vốn tự nhận là mình được cảm hóa bởi
Thiên chúa lại thiếu khoan dung đến mức khắc nghiệt, thậm chí triệt hạ lẫn nhau
trong bình phẩm. Dù chúng ta muốn quy lỗi việc này cho bản tính tự nhiên của con
người, nhưng rõ ràng là sự thù ghét ấy đã tìm được sự ủng hộ một cách đáng kể từ
cuốn Kinh thánh. Làm sao tôi biết được điều này ? Bởi vì những phần gây khó chịu
nhất của tôi luôn trích dẫn các tiết, chương từ Kinh thánh.
Dù cuốn sách
này chủ ý dành cho độc giả của mọi loại đức tin, nhưng nó đã được viết dưới hình
thức một bức thư gởi một người Ki-tô giáo. Trong đó, tôi trả lời nhiều tranh
luận mà người Ki-tô giáo từng đưa ra nhằm bảo vệ niềm tin vào đạo giáo của họ.
Mục đích chính của cuốn sách này là để vũ trang cho những người thế tục trong xã
hội của chúng ta, những người tin rằng tôn giáo nên đứng bên ngoài các chính
sách công cộng, ngược lại với các đối thủ của họ bên Ki-tô giáo cánh hữu. Kết
quả là, “Người Ki-tô giáo” mà tôi nhắm đến xuyên suốt cuốn sách, là một người
Ki-tô giáo trong nghĩa hẹp của phạm trù này. Người ấy, chính là người ít nhất đã
tin rằng cuốn Thánh kinh là những lời cảm hứng của Thiên chúa và chỉ những ai
chấp nhận sự thiêng liêng của Jesus Christ mới có thể hưởng được sự cứu rỗi sau
khi chết đi. Hàng chục khảo cứu khoa học cho thấy già nửa dân số Mỹ tin vào một
niềm tin như thế. Tất nhiên, những hứa hẹn ảo tưởng ấy không hề ám chỉ riêng một
loại Ki-tô giáo nào. Những người bảo thủ thuộc tất cả các giáo phái – Công giáo,
Thệ phản giáo dòng chính, phái Phúc âm, Báp tít, Pentecostals, Nhân chứng
Jê-hô-va và còn nhiều giáo phái khác nữa - đều được nhắc đến trong cùng một giá
trị ngang bằng nhau trong các lập luận của tôi. Niềm tin của những người bảo thủ
Ki-tô giáo này, như đã từng được rộng rãi biết đến, đang đặc biệt ảnh hưởng lên
các bàn luận cấp quốc gia của chúng ta – trong pháp đình, trường học và trong
tất cả các cấp chính phủ ngày nay.
Trong Thư
gửi một Quốc Gia Ki-tô giáo, tôi đã sắp xếp để đánh đổ tính tự phụ lố lăng
về đạo đức và trí thức của người Ki-tô giáo trong các hình thức thẳng thắn nhất.
Hậu quả là, những người Ki-tô tự do và ôn hòa sẽ không nhận ra mình trong ý
nghĩa “Ki-tô giáo” mà tôi đề cập đến. Tuy nhiên, họ nên nhận ra điều ấy trong
một trăm năm mươi triệu hàng xóm láng giềng của họ. Tôi hơi phân vân rằng những
người tự do và ôn hòa cũng nhìn ra các khẳng định kỳ quặc của những người Ki-tơ
giáo hữu khuynh như tôi nhìn thấy. Tuy nhiên, tôi hy vọng họ cũng sẽ bắt đầu
nhìn thấy rằng sự tôn trọng mà họ đòi hỏi cho các niềm tin tôn giáo của họ đã
tạo ra chỗ ẩn nấp cho những kẻ cực đoan của tất cả các đức tin khác. Mặc dù
những người tự do và ôn hòa không hề đâm máy bay vào các tòa cao tầng hay tổ
chức đời sống của mình theo các lời tiên tri về sự hủy diệt, họ cũng hiếm khi
đặt câu hỏi về tính hợp pháp của việc nuôi dạy một đứa trẻ nhằm hướng chúng đến
niềm tin rằng mình là Ki-tô giáo, Hồi giáo hay Do Thái giáo. Ngay cả những đức
tin tiến bộ nhất cũng đang ngầm giúp vào sự phân rẽ tôn giáo trong thế giới
chúng ta. Tuy nhiên, trong Thư Gửi một Quốc gia Ki-tô Giáo, tôi trình bày
Ki-tô giáo trong sự thoái hoá, phân rẽ và tổn thương nhất của tôn giáo này. Ở
đấy, người tự do, ôn hòa và những người không theo một tôn giáo nào có thể nhận
thấy một nguyên nhân chung của lý do ấy.
Dựa theo một
thăm dò mới nhất của viện Gallup, chỉ có 12 phần trăm người Mỹ tin rằng sự sống
trên địa cầu đã tiến hóa qua một quá trình tự nhiên, không hề có sự can thiệp
của một đấng thần thánh nào. Ba mươi mốt phần trăm tin rằng tiến hoá đã được
“hướng dẫn bởi Thiên chúa”. Nếu mang bỏ phiếu, thì khái niệm về “thiết kế thông
minh” sẽ thắng thế giới quan của chúng ta gần như ba ăn một. Ðiều này thật đáng
lo, khi mà thiên nhiên không hề đem lại một chứng cứ thuyết phục nào cho một nhà
thiết kế thông minh, mà chỉ đem đến vô số không kể hết được những thí dụ về sự
thiết kế không thông minh. Tuy nhiên, trong cuộc tranh cãi đương thời về “Thiết
kế thông minh” chúng ta không nên tự lóa mắt mình vào niềm hoang mang tôn giáo
đang thực có vào buổi bình minh của thế kỳ hai mươi mốt. Cũng khảo sát trên của
Viện Gallup cho thấy 53 phần trăm người Mỹ thực sự là những người tin theo
thuyết sáng thế. Ðiều này có nghĩa là bất chấp những thấu hiểu khoa học của cả
một thế kỷ đã chứng thực được tình trạng cổ xưa của sự sống và tình trạng cổ xưa
hơn nhiều của địa cầu, hơn nửa láng giềng của chúng ta tin rằng toàn bộ vũ trụ
đã được tạo nên từ sáu ngàn năm trước. Thời gian này, nhân tiện mà nói, là vào
khoảng một ngàn năm sau khi người Summerian sáng tạo ra keo dính. Những người có
quyền bầu cử chọn lựa vị tổng thống và các nghị sĩ quốc hội của chúng ta – và
nhiều người trong số đó đã được đắc cử – tin rằng loài khủng long từng sống từng
đôi trên con thuyền của Noah, tin rằng ánh sáng từ những ngân hà xa xôi đã được
tạo nên trên đường đến trái đất, và tin rằng các thành phần đầu tiên của chủng
loại chúng ta đã được nặn ra từ đất cát và hơi thở của thần thánh, trong một khu
vườn có con rắn biết nói, từ đôi tay của một Thiên chúa không nhìn thấy được.
Giữa các quốc
gia phát triển, nước Mỹ đứng lẻ loi một mình trước những cáo buộc này. Chưa bao
giờ trong lịch sử của Mỹ mà đất nước chúng ta đã xuất hiện như một anh khổng lồ
hay gây gổ, ì ạch và ngu độn như hiện nay. Bất cứ ai, ngay cả người bạn, đồng
minh của mình, quan tâm đến sinh mệnh sống còn của nền văn minh, cũng sẽ phải
vất vả để nhận ra rằng sự phối hợp của một quyền lực lớn lao với sự xuẩn ngốc vĩ
đại thì đơn giản là một điều đáng kinh sợ.
Tuy nhiên, sự
thật chính là nhiều người trong chúng ta không hề lo lắng gì đến vận mệnh của
nền văn minh. Bốn mươi bốn phần trăm dân số Mỹ tin rằng Jesus sẽ trở lại để phán
xét người sống và kẻ chết vào lúc nào đó trong năm mươi năm tới. Theo diễn giải
phổ biến nhất từ khải huyền trong kinh thánh, Jesus sẽ chỉ trở lại khi mọi thứ
đã trở nên hư hỏng tồi tệ ở thế gian này. Vì thế, chẳng phải là sự phóng đại khi
nói rằng nếu thành phố Nữu Ước đột nhiên biến thành một quả cầu lửa, một phần
đáng kể dân chúng Mỹ có thể nhìn ra một lằn chớp bạc trong biển khói hình nấm,
như họ đã từng được nhắc bảo về điều mong đợi tuyệt vời nhất đang sắp xảy đến:
sự trở lại của Chúa. Thật là một sự đui mù hiển nhiên rằng những niềm tin đại
loại như thế có thể giúp chúng ta chút ít gì vào việc tạo nên một tương lai vững
bền cho chúng ta về xã hội, kinh tế, môi trường hay địa lý chính trị. Thử tưởng
tượng hậu quả sẽ ra sao nếu một bộ phận quan trọng trong chính phủ Mỹ thực tin
rằng thế giới sắp tận thế và sẽ tận thế trong một sự huy hoàng. Sự thật là gần
một nửa dân chúng Mỹ thực sự tin vào điều này, hoàn toàn chỉ từ các căn bản của
một chủ thuyết tôn giáo, đáng xem là một tình trạng khẩn cấp cho đạo đức và tri
thức. Cuốn sách mà các bạn sắp đọc đây chính là lời giải đáp của tôi cho tình
trạng khẩn cấp này. Tôi chân thành mong mỏi quý bạn tìm được sự hữu ích từ đấy.
Sam Harris
Ngày 1 Tháng
Năm 2006
Nữu Ước
(xem "Lời Bạt cho ấn bản Của Vintage Books")