CHƯƠNG 7 (tiếp theo)
Sự Thông thái của Đông Phương
Những điều
đề cập trên sẽ gây ấn tượng không tránh khỏi đến một số độc giả như thể một sự
bùng nổ rối rắm về triết học có tính suy đoán. Điều này thật là không may, bởi
vì không một điều gì đã từng được suy đoán hoặc ngay cả phù hợp một cách chi
tiết với triết học-tối thiểu trong ý nghĩa mà thuật ngữ này từng được yêu cầu
đến ở phương Tây. Hàng nghìn năm đã trôi qua kể từ khi một triết gia phương Tây
nào đó đã tưởng tượng rằng một con người có thể được khiến cho trở nên hạnh
phúc, an bình, ngay cả thông thái, trong một ý nghĩa thông thường, từ cuộc truy
tìm chân lý của y [9].
Sự chuyển hóa cá nhân, hoặc ngay cả sự tự giải phóng khỏi cái ảo tưởng của bản
ngã, dường như đã từng được suy nghĩ quá nhiều để mà hỏi rằng: hay tốt hơn
là chẳng suy tưởng gì cả. Hậu quả là, đa số chúng ta ở phương Tây thường không
được trang bị một cách khái niệm để hiểu được các khẳng định có tính kinh nghiệm
của các loại viện dẫn trên.

Thực
ra, các khác biệt
về
tâm linh giữa
Đông và Tây đều
gây kinh ngạc
đến từng tiểu
tiết
một
như
những
khác biệt
thuộc
về
vật
chất
giữa
Nam và Bắc.
Để
tóm gọn
lại
trong một
dòng, luận
thuyết
đầy
quyến
rũ của
Jared Diamond, là nền
văn minh tiến
bộ
đã không mọc
ra trong vùng sa mạc
Sahara ở
Phi châu, bởi
vì người
ta không thể
cưỡi
một
con tê giác mà đi đánh nhau[10] .
Nếu
như
có một
hình ảnh
lôi cuốn
tương
đương
nào để
giải
thích được
tại
sao chủ
thuyết
thần
bí kinh nghiệm
không mang tính nghị
nguyên dường
như
chỉ
xuất
hiện
ở
Á châu mà thôi thì tôi chưa
từng
tìm thấy.
Nhưng
tôi ngờ
rằng
thủ
phạm
đã từng
là những
người
Kitô giáo, Do thái giáo và Hồi
giáo vốn
đã chú trọng
vào bản
thân của
đức
tin. Đức
tin đa phần
giống
như
một
con tê giác, thực
tế:
nó chẳng
giúp gì nhiều
về
công việc
thực
tế
cho bạn,
nhưng
khi ở
sát cạnh,
đức
tin sẽ
tạo
nên những
yêu sách ngoạn
mục
vì sự
chú ý của
bạn.
Điều
này không phải
để
cho rằng
thực
hiện
tâm linh thường
đạt
được
ở
phía đông của
Bosporus. Rõ ràng không thường
đạt
được
như
thế.
Cũng cần
phải
thừa
nhận
rằng
Á châu luôn từng
có được
phần
chia công bằng
của
họ
về
các nhà tiên tri giả
tạo
và các vị
thánh bịp
bợm,
trong khi Tây phương
chưa
từng
bi tước
đoạt
mất
hết
khôn ngoan của
mình[11] .
Thế
mà, khi đem các bí ẩn
triết
học
vĩ đại
của
Đông phương
so sánh với
các vị
sáng tạo
nên triết
học
Tây phương
và các truyền
thuyết
thần
học,
thì các khác biệt
không thể
nhầm
lẫn
được
: Phật
Thích ca, Shankara, ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), Long Thọ Bồ
Tát (Nagarjuna), Longchenpa và vô số
những
vị
khác trải
suốt
đến
hiện
tại
đều
không có một
tương
đương
nào ở
Tây phương.
Trong phạm
trù tâm linh, chúng ta trở
thành đứng
trên các đôi vai của
những
người
lùn. Do đó, có một
chút băn khoăn ở
đây là các học
giả
Tây phương
đã tìm ra một
quan điểm trong một
giới
hạn
khá là tầm
thường[12] .
Mặc
dù đây không phải
là một
luận
thuyết
về
tâm linh Phương
Đông, nó cũng không có nghĩa không thích hợp
để
xem xét một
cách khái quát sự
khác biệt
giữa
tiêu chuẩn
của
Đông và Tây phương
vì tính chân thật
đáng ngạc nhiên của
nó. Để
minh hoạ
cho điểm
này, tôi đã tuyển
chọn
ra một
cách ngẫu
nhiên một
chương
từ
một
tủ
sách văn chương
Phật
giáo. Văn bản
sau đây được
tìm ra ngay tức
khắc,
với
đôi mắt
nhắm
nghiền,
trong hàng vô số
kinh sách. Tôi xin mời
độc
giả
tìm ra bất cứ
điều
gì ngay cả
gần
giống
như
thế
này trong Thánh kinh hay từ
kinh Koran :
Trong khoảnh
khắc
hiện
tại,
khi (tâm thức
của
bạn)
còn ở
trong tình trạng
của
chính nó không tạo
dựng
nên một
điều
gì,
Sự biết ở khoảnh khắc
ấy trong tự bản thân nó thì khá là tầm thường.
Và khi bạn nhìn vào
chính mình một cách trần truồng bằng cách này (mà không kèm theo một suy tưởng
lan man nào),
Bởi vì chỉ sự quan sát
thuần chất này mới tìm thấy được một sự sáng sủa minh bạch mà không một ai ở đấy
quan sát;
Chỉ có sự hiểu biết
hiển nhiên trần truồng hiện diện.
(Sự hiểu biết này) thì
trống không và thanh khiết vô cùng, không phải được tạo nên bởi bất cứ thứ gì.
Nó là sự thật không
pha trộn, không có bất cứ thứ nghĩa đôi nào về sự sáng suốt và hư không.
Nó không lâu bền nhưng
nó thực không phải được tạo nên bởi bất cứ thứ gì khác.
Tuy thế, nó không phải
chỉ là một thứ vô nghĩa hay một thứ gì có thể bị tiêu hủy bởi vì nó rõ ràng và
nó hiện hữu.
Nó không hiện hữu như
một đơn thể bởi vì nó có mặt và rõ ràng trong các ý nghĩa của sự trở thành nhiều
điều khác.
(mặt khác) nó không
được tạo nên như thể một bội số của các sự việc bởi vì nó không thể tách chia vì
một vị riêng nào.
Cái sự biết tự thân cố
hữu này không có nguồn từ điều gì bên ngoài chính nó.
Đây là sự khởi đầu
thực sự cho các điều kiện thực của các sự thể.
Liên Hoa
Sinh (Padmasambhava)
[13]
Người ta có thể sống một
thời gian vô tận như một người Kitô giáo, Hồi giáo, hay một người Do Thái giáo
và sẽ chẳng bao giờ gặp được những lời giảng dậy về bản chất của ý thức như thế
này. So sánh với Hồi giáo thì đặc biệt dể gây ra ác cảm, bởi vì ngài Liên Hoa
Sinh (Padmasambhava) là một người gần như đương thời với Muhammad[14] .
Dù ý nghĩa của đoạn văn trên có thể không hoàn toàn rõ ràng với mọi độc giả-
đoạn văn ấy chỉ là một phần của một bài giảng dài chi tiết hơn về bản chất của
tâm thức và chứa đựng một số lượng tương đối về các biệt ngữ Phật giáo (“sự sáng
suốt”, “hư không”, “vị riêng” v.v…) – văn bản này là một tài liệu có tính kinh
nghiệm nghiêm túc chứ không phải là một phán quyết của siêu hình học. Ngay cả
các sách vở đương đại về ý thức, từ triết học, khoa học nhận thức, tâm lý học và
thần kinh học cũng không thể sánh được với các loại nghiên cứu có tính chính xác
phi thường vốn được tìm thấy trong khắp các kinh sách của Phật giáo. Dù chúng ta
không có lý do gì để bị gắn liền một cách giáo điều với bất cứ truyền thống
hướng dẫn tâm linh nào, chúng ta cũng không nên tưởng tượng rằng tất cả đều cùng
thông thái như nhau hoặc biện giải như nhau. Các nghiên cứu ấy không phải là như
thế. Để có thể sống còn, chủ nghĩa huyền bí phải cần đến những hướng dẫn có tính
chi tiết, cái mà khiến ta phải chịu đựng những mơ hồ, giả tạo trong các phô bày
của chúng hơn là bản hướng dẫn cách xử dụng cái máy cắt cỏ[15] .
Một số truyền thuyết đã nhận ra được điều này từ cả thiên niên kỷ trước. Một số
khác thì không.
Thiền Quán
Hầu
hết
các kỹ
thuật
về
xem xét nội
tâm nhằm
vào việc
mở
hé ra các đặc
tính nội
tại
của
ý thức
thường
được
nhắc
đến
như
các phương
pháp thiền. Tuy nhiên, để
được
cho rằng
một
con người
đang “thiền” có nghĩa là không cho được một
thông tin nào cả
về
nội
dung kinh nghiệm
của
kẻ ấy.
“Thiền” trong ý nghĩa mà tôi xử
dụng
ở
đây nói đến
bất
cứ
phương
tiện
nào qua đó cái hiểu
biết
của
chúng ta về
“bản
ngã” - của
triết
lý nhị
nguyên chủ
thể/đối
thể
trong nhận
thức
và hiểu
biết
– có thể
được
làm cho tan biến
đi, trong khi ý thức
vẫn
tồn
tại
và nhận
thức
được
một
cách sinh động
về
sự
liên tục
của
kinh nghiệm[16] .
Trở
ngại
chính không thể
tránh khỏi
đối
với
thiền là sự
suy nghĩ. Trở
ngại này khiến nhiều
người
đi đến
sự
thừa
nhận
rằng
mục
đích của
thiền là để
sinh ra một
tình trạng
không-suy nghĩ. Đúng là một
số
kinh nghiệm
có đưa
đến
sự
tạm ngưng
suy nghĩ nhưng
thiền ít là một
nội
dung của
đè nén tư
tưởng
hơn
là sự phá vỡ
các nhận
dạng
của
chúng ta với
chúng, để
chúng ta có thể
nhận
biết
cái điều
kiện
mà ở
đó bản
thân các suy nghĩ nổi
lên. Các khoa học
gia và triết
gia Tây phương
thường
tưởng
tượng
rằng
suy nghĩ là một
bản
toát yếu
của
đời
sống
ý thức
và không thể
có một
tâm hồn
không có suy nghĩ cũng như
không thể
có một
bàn tay không có ngón. Tuy nhiên, tri thức
căn bản
của
hầu
hết
các nhà trường
Đông phương
về
tâm linh là dù suy nghĩ là một
sự
cần
thiết
có tính thực
tiễn,
sự
thất
bại
để
nhận
biết
được
suy nghĩ như
là các suy nghĩ, khoảnh
khắc
này đến
khoảnh
khắc
khác, là cái đem lại
cho mỗi
chúng ta cám cảm
giác mà chúng ta gọi
“tôi/ta”, và đây là sợi
dây mà tất
cả
các thể
trạng
của
sự
đau khổ
và không thỏa
mãn bị
treo lơ
lửng [17] .
Đây là một
khẳng
định
có tính kinh nghiệm
chủ
nghĩa, chứ
không phải
là nội
dung của
nghiên cứu
triết
học.
Phá vỡ
vỏ
bọc
của
suy nghĩ, tính nhị
phân của
chủ
thể
và đối
thể
sẽ
tan biến-
cũng như
thể
cái khác biệt
căn bản
giữa
các tình trạng
quy ước
của
hạnh
phúc và đau khổ.
Đây là một
sự
thực
về
tinh thần
mà ít học
giả
Tây phương
nào từng
tạo
nó thành sự
thực
hành để
am hiểu.
Chính là từ ở
đây mà sự
thực
hành thiền bộc
lộ
chính mình như
thể
là một
nghiêm túc tri thức
và không thể
thiếu
được.
Có một
điều
gì để
mà nhận
biết
được
về
bản
chất
của
ý thức,
và sự
nhận
biết
này không mang đến
sự nghĩ đến
các suy nghĩ mới.
Tựa
như
bất
cứ
sự
khéo léo nào đòi hỏi
đến
các tinh tế
trong nhận
biết
và hiểu
biết,
nhiệm
vụ
của
sự
nhận
biết
được
ý thức
trước
phép lưỡng
phân chủ
thể/đối
thể
có thể
dễ
dàng tạo
được
bởi
một
nhà chuyên môn [18] .
Nhưng
tối
thiểu
trong nguyên tắc,
nó là một
kinh nghiệm
sẵn
sàng cho bất
cứ
ai.
Bây giờ
bạn
đang ngồi
đọc
cuốn
sách này. Quá khứ
của
bạn
là ký ức.
Tương
lai của bạn là nội
dung của
sự
thuần mong đợi.
Cả
ký ức
và mong đợi
có thể
cùng trồi
lên trong ý thức
chỉ
như
các suy nghĩ trong khoảnh
khắc
hiện
tại.
Dĩ nhiên, bản
thân việc
đọc
sách là một
sinh thể
của
suy nghĩ. Có lẽ
bạn
có thể
nghe âm thanh của
chính mình đọc
những
dòng này trong tâm trí mình. Tuy vậy,
những
câu này không cảm
giác giống như
là những
suy nghĩ của
bạn.
Các suy nghĩ của
bạn
là những
cái đến
không báo trước
và đánh cắp
bạn ra khỏi
dòng chữ.
Chúng có thể
có đôi liên quan đến
điều
gì bạn
đang đọc
- bạn
có thể
nghĩ là "Phải
chăng y vừa tự
mâu thuẫn
với
mình ở
đó ?" - hoặc
chúng không hề
có một
tương
quan gì cả.
Có thể
đột
nhiên bạn thấy
chính mình nghĩ về
buổi
ăn tối,
hoặc
về
cuộc
tranh luận
mình vừa
có dăm ngày trước,
ngay cả
trong khi đôi mắt
của
bạn
vẫn
đọc
những
dòng chữ
một
cách mù lòa không hay biết.
Chúng ta đều
biết
đọc
cả
chương
và ngay cả
đọc
nhiều
trang của
một
cuốn
sách mà không hề
tiêu hóa được
một
chữ
có nghĩa là gì. Ít người
trong chúng ta biết
được
rằng
mình đã trải
qua phần
lớn
cuộc
đời
mình trong tình trạng
: chỉ
nhận
hiểu
được
hiện
tại
- hình ảnh,
âm thanh, mùi vị
cảm
giác - một
cách mập
mờ,
xuyên qua tấm
màn che của
suy tưởng.
Chúng ta đã sống
cuộc
đời
mình để
tự
kể
cho chính mình câu chuyện
về
quá khứ
và tương
lai, trong lúc cái thực
tế
của
hiện
tại
đa phần
không hề
được
khám phá. Giờ
đây chúng ta đang sống
trong sự
ngu dốt
của
tự
do và sự
giản
đơn
của
ý thức
trước
khi có sự
khởi
phát của
suy nghĩ.
Ý thức
của
bạn,
dù vẫn
chưa
được
hiểu
trong các phạm
trù khoa học,
là một
sự
đơn
giản
vô cùng như
một
nội dung của
chứng
nghiệm.
Ý thức
của
bạn
chỉ
đứng
trước
riêng mình bạn,
như
chính bạn,
khi mọi
thứ
khác chung quanh xuất
hiện
đến
sự
chú ý của
bạn.
Bạn
nhìn thấy
cuốn
sách này. Bạn
nghe thấy
nhiều
thứ
âm thanh. Bạn
cảm
thấy
được
cảm
giác của
cơ
thể
mình trong không gian và rồi
các suy nghĩ về
quá khứ,
tương
lai nổi
lên, tồn
tại
một
chốc
rồi
đi mất.
Tuy nhiên, nếu
bạn
sẽ
nhìn chăm chú vào đối
tượng
của
kinh nghiệm
mình, sự
vắng
mặt
của
nó trở
nên rõ rệt,
nếu
chỉ
trong một
thoáng chốc.
Mọi
thứ
đều
còn lại
- cuốn
sách này, đôi tay bạn-
và hãy còn nữa,
cái chia cách viển
vông từng
tách bạch
kẻ
biết
và điều
được
biết,
từ
bản
ngã và thế
giới,
nội
tại
với
ngoại
tại
cũng sẽ
tan biến
hết.
Kinh nghiệm
này đã từng
ở
tại
tâm điểm
của
tâm linh nhân loại
trong nhiều
thiên kỷ.
Không có điều
gì mình cần
hiểu
được
để
hiện
thức
hoá nó. Chúng ta chỉ
cần
nhìn kỹ
vào cái gì mình đang gọi
là "ta".
Một
khi sự
quên mình của
ý thức
được
thoáng hiện,
đời
sống
tâm linh có thể
được
nhìn như
một
chủ
đề
về
sự
từ
bỏ
sự
chú ý nhiều
hơn
và nhiều
hơn
nữa của
một
con người
để
nhận
thức
này có thể
trở
nên vững
vàng. Đây là nơi
mà mối
liên hệ
giữa
đạo
đức
và tâm linh trở
thành không thể
trốn
thoát được
nữa.
Rất
nhiều
sách vở
về
thiền cho thấy
rằng
các xúc cảm
tiêu cực
có tính xã hội
như
thù, ghen và ghét bỏ
thẩy
đều
phát sinh và đâm nhánh cái nhận
thức
nhị
nguyên của
chúng ta về
thề
giới.
Mặt
khác, các xúc cảm
như
yêu thương
và bác ái có lẽ
đã khiến
cho tâm hồn
chúng ta rất
mềm
dẻo
trong những
ý nghĩa có tính hòa giải,
và không ngừng
dể
dàng hơn
để
tập
trung dưới
ảnh
hưởng
của
chúng. Không có gì ngạc
nhiên rằng
các cảm
xúc này sẽ
trở
nên dễ
dàng hơn
để
loại
bỏ
sự
chú ý của
một
người
từ
những
nội
dung của
suy tưởng,
chỉ
đơn
giản
tồn
tại
như
ý thức,
nếu
thái độ
căn bản
của
một
người
khác là tích cực
và và nếu
một
ai có những
mối
quan hệ
đã thiết
lập
trên căn bản
này. Những
vụ
kiện
cáo, cừu
hận,
các mưu
mẹo
khó hiểu
đã bị
bỏ
ngục
đem đến
tòa án The Hague vì những
tội
ác đối
với
nhân loại
không phải
là những
thành phần
trong những
thứ
cần
thiết
cho sự ổn
định
của
suy tưởng.
Nó dường
như
cũng là một
nội
dung của
loại
hiểu
biết
thông thường
rằng
cái cảm
giác tự
ngã càng được
thư
dãn chừng
nào thì càng ít những
những
tình trạng
ấy
nảy
sinh - những
tình trạng
như
sợ
hãi và giận
dữ.
Các khoa học
gia đang tạo
nên những
cố
gắng
ban đầu
trong việc
thử
nghiệm
những
khẳng
định
này, nhưng
tất
cả
những
người
hành thiền có kinh nghiệm
đã thử
nghiệm
những
điều
này rồi [19] .
mặc
dù rất
nhiều
những
khảo
cứu
khoa học
đã được
thực
hiện
về
thiền đã đạt
đến
chỉ
một
sự
ít ỏi
như
là một
phương
tiện
làm vơi
nhẹ
sự
trầm
cảm,
không thắc
mắc
tại
sao hiện
tượng
ích kỷ
đã bắt
đầu
tạo
được
lối
vào bên trong vòng quẩn
đẹp
đẽ
của
một
yếu
tố
thứ
ba: ngành khoa học
về
chứng
nghiệm [20] .
Cũng giống
như
trong các lãnh vực
khác, trực
giác tâm linh thì tùy thuộc
vào sự
đồng
lòng và bác bỏ
có tính chủ
quan. Tựa
như
các nhà toán học
có thể
vui thú được
với
những
cuộc
đối
thoại
có thể
hiểu
được
về
các tư tưởng
trừu
tượng
(mặc
dù có có luôn không đồng
ý với
nhau về
cái gì “hiển
nhiên” bằng
trực
giác), cũng như
những
lực
sĩ có thể
trò chuyện với
nhau một
cách có hiệu
quả
về
niềm
vui của
thể
thao, người
thần
bí có thể
làm sáng tỏ
một
cách đồng
thuận
với
nhau về
các dữ
kiện
trong phạm
vi của
mình. Do đó, chủ
nghĩa thần
bí đích thực
có thể
là “khách quan” – chỉ ở
trong ý nghĩa có tính nguyên tắc
về
thế
giới
này là nó đáng được
duy trì – trong ý nghĩa là nó không cần
phải
bị
vẩn
đục
bởi
các giáo điều
võ đoán [21] .
Kinh nghiệm
tâm linh, như
thể
một
hiện
tượng
được
nghiên cứu,
không khó bảo
hơn
các giấc
mơ,
các xúc cảm,
các ảo
tưởng
tri giác hay ngay cả
chính tự
thân của
các suy nghĩ [22] .
Một
tương
lai lạ
thường
đang chờ
chúng ta: các loại
máy-đọc-được
suy nghĩ, thực
tại
ảo
xác thực,
cấy
tạo
mô thần
kinh, và sự
tăng cường
các dược
chất
tinh tế
có lẽ
tất
cả
đều có những
quan hệ
mật
thiết
đến
chính chúng ta và các quan niệm
của
chúng ta về
các khả
năng tâm linh. Chúng ta đang đi đến
một
thời
đại
mà chính các tính người
nhất
của
chúng ta, trong các ý nghĩa di truyền,
không còn là điều
kiện
cần
thiết
cho sự
hiện
hữu
của
chúng ta nữa.
Hỗn
hợp
của
trí tuệ
con người
và máy móc cũng là một
khả
năng quan trọng.
Những
thay đồi
ấy
trong các giới
hạn
truyền
thống
giữa
cái ta và thế
giới
sẽ
có nghĩa gì đối
với
chúng ta ? Các thay đổi ấy
có thích hợp
gì với
một
tâm linh vốn
cắm
rễ
sâu trong sự
thừa
nhận
tính không nhị
nguyên của
ý thức
?
Ðối
với
tôi dường
như
là bản
chất
của
ý thức
sẽ
ăn đứt
tất
cả
những
phát triển
này. Bất
kể
kinh nghiệm
gì đang chờ
đợi
chúng ta - hoặc
là với
hỗ
trợ
của
khoa học
kỹ
thuật
hay sau khi chết
đi - bản
thân kinh nghiệm
là chủ
đề
và các nội
dung của
ý thức.
Tìm được
rằng
ý thức
vốn
đã vượt
quá những
nội
dung của
nó, tìm được
rằng
ý thức
đã tận
hưởng
được
cái niềm vui sướng thỏa mãn mà nếu không thì bản
ngã sẽ
phải tìm kiếm
là bạn
đã vượt
quá được
cái lý lẽ
của
kinh nghiệm.
Thảo
nào kinh nghiệm
sẽ
luôn luôn có tiềm
năng làm thay đổi
chúng ta, nhưng
có lẽ
những
thay đổi
này sẽ
vẫn
còn là một
vấn
đề
của
việc
chúng ta có thể
ý thức
được
gì trong khoảng
khắc
kế
tiếp,
chứ
không phải
ý thức
là gì là trong tự
bản
thân nó[23] .
CHỦ
THUYẾT
THẦN
BÍ là một
sự
mạo
hiểm
có tính lý trí. Tôn giáo thì không. Người
thần
bí đã nhận
ra được
một
điều
gì về
bản
chất
của
ý thức
trước
sự
suy nghĩ, và sự
nhận
biết
này có thể
chịu
được
sự
bàn luận
có lý lẽ.
Những
người
thần
bí có những
lý do cho những
gì họ
tin, và những
lý do này thuộc
về
kinh nghiệm.
Cái bí hiểm
đục
ngầu
của
thế
gian có thể
được
phân tích với
những
khái niệm
(đây là khoa học),
hay có thể
được
chứng
nghiệm
hoàn toàn không có khái niệm
gì cả
(đây là chủ
nghỉa
thần
bí)[24] .
Tôn giáo chỉ
là những
khái niệm
tồi
luôn luôn được
giữ ở
cùng chỗ
với
những
khái niệm
tốt.
Tôn giáo là sự
chối
bỏ
- cùng một
lần
toàn bộ
hy vọng
và nỗi
sợ
hãi – cái mênh mông của
sự
ngu xuẩn
nhân loại.
Một
mạch
chảy
của
chân lý ẩn
sâu trong cốt
lõi của
tôn giáo, bởi
vì kinh nghiệm
tâm linh, hành vi đạo
đức,
và các cộng
đồng
vững
mạnh
là những
cần
yếu
của
hạnh
phúc con người.
Và do đó truyền
thống
tôn giáo của
chúng ta là loại
trí tuệ
đã chết
và loại
chính trị
đổ
nát. Dù kinh nghiệm
tâm linh rõ ràng là một
thiên hướng
tự
nhiên của
tâm thức
con người,
chúng ta không cần
phải
tin vào bất
cứ
điều
gì không đủ
chứng
cớ
để
thực
hiện.
Rõ ràng, cần
phải
có khả
năng mang lý lẽ,
tâm linh và đạo
lý lại
với
nhau trong các suy tưởng
của
chúng ta về
thế gian. Ðây sẽ
là sự
khởi
đầu
cho một
tiếp
cận
hợp
lý đến
những
quan tâm cá nhân sâu kín nhất
của
chúng ta. Và đây cũng là tận
cùng của
đức
tin.
(còn tiếp)>>
Chú thích
[9] Do đó, một
người
như
Heidegger, người đã khâm phục Hitler một cách hèn hạ, tuy thế, có thể
được tiến cử đến sự chú ý của chúng ta, chắc chắn không với một gợi ý
của sự hổ thẹn, như một trong những nhà tư tưởng vĩ đại của Âu châu.
Schopenhauer, người quả thật là một gã can đảm, đã xô đuổi ngã nhào một
cô thợ may xuống cầu thang, khiến cô ta bị thương tật vĩnh viễn (ta được
thuật lại là ông cảm thấy phiền bực vì giọng nói của cô ta). Những nhà
tư tưởng đức độ khác cũng có thể được lựa chọn ra-Wittgenstein hiển
nhiên là một tâm hồn đọa đày và là một luật gia nhiệt thành trong các
trừng phạt về thể xác khi ở chung với các cô gái phóng túng- thế nhưng,
và đây chính là sự thực đáng ngạc nhiên, không một nhà tư tưởng Tây
phương nào có thể xứng danh để so bì với những triết gia bí hiểm vĩ đại
của phương Đông. Có những người không hề cảm thấy hổ thẹn khi phải
ngược thời gian mãi đến tận Plontius để làm một thí dụ về một người
thần bí hậu cứ trong môt góc Đông phương của phương Tây. Nhưng Plotius,
từ sự thú nhận của chính ông, đã chỉ có một đại cương phụ mờ nhạt về cái
tổng thể mà ông đã diễn tả một cách quá hùng biện, lẽ ra ông nên chỉ
được nhìn nhận không hơn sự việc đã đặt ra được một mục đích trong
nghiêm túc.
Tình huống trở
nên hơi khó khăn trong thế giới cổ đại. Các triết gia Hy lạp đã thường
phát biểu về tình trạng hạnh phúc chân thật (eudaimonia)- một
tình trạng khách quan của hạnh phúc vốn đã được tưởng là đi kèm với một
đời sống tốt đẹp-nhưng các nỗ lực của họ để đạt đến hạnh phúc ấy đã rất
là rắc rối. Cái gần nhất với chủ nghĩa thần bí của Đông phương được tìm
thấy trong thời cổ Hy lạp là chủ nghĩa hoài nghi, trong truyền thuyết về
Pyrrho của Elis ( vào khoảng 365-270 BC)- nhưng các giảng dạy của Pyrrho
rốt cuộc là sự cùng chối bỏ triết học. Hạnh phúc kể từ đó đã bị bỏ qua
một bên vào vũng tù bản thể luận của triết học đạo đức, và lý tưởng
triết gia như thể một hiền nhân cũng không còn ngay cả trong một ký ức
ngăn ngủi.
Các giảng dạy của
Pyrrho, vốn sống còn qua các tác phẩm của nhà vật lý Sextus Empiricus ở
thế kỷ thứ hai, nói lên cái rõ ràng là một nhục hình về tâm linh, không
chút nào khác phép biện chứng của Madhyamika trong Phật giáo Mahayana.
Người hay Hoài nghi (với chữ H hoa) không phải chỉ là một triết gia thất
bại trong thư phòng mình-đã tìm kiếm gom góp những niềm tin có thực về
thế gian để cuối ngày chỉ tìm thấy một giỏ trống không- ông ta là người
đã tìm thấy được an bình (tiếng Hy lạp là ataraxia) cho cái mà
một sự thất bại như thế có thể đưa đến.
Chủ nghĩa hoài
nghi, trong ý nghĩa của Pyrrho, không phải là lời quyết đoán mang tính
giáo điều mà không một điều gì có thể hiểu được. Nó là sự thừa nhận rằng
bất kể điều gì chúng ta biết trong hiện tại đơn giản chỉ là phương cách
các sự việc có lẽ như vậy, và người Hoài nghi từ chối không tiến thêm
một bước nào nữa vào cảnh hoàng hôn trừu tượng. Y biết rằng mình không
biết gì ngoài những xuất hiện bên ngoài – và sự thực rằng điều này có lẽ
là một chân lý của bản chất ý thức chính là, cũng vậy, chẳng có gì hơn
là phương cách mà sự việc xuất hiện với ông ta ở hiện tại. Như Sextus
phát biểu, "Người hoài nghi tiếp tục kiếm tìm', đã cố tình ngăn cản sự
phán đoán ( tiếng Hy lạp là epoché). Ông đã ngay cả không đánh giá rằng
đây là một quan điểm nên được duy trì- hơn thế nữa, mọi niềm tin đưa ra
có lẽ để mời gọi sự mâu thuẫn của chính nó, và người hoài nghi đã chỉ
thuần lưu ý đến những thứ không thỏa mãn của tình huống mà thôi. Người
ấy bị đần độn và y hạnh phúc với cách ấy.
Quan điểm này ít
hưởng được sự tôn trọng mà nó xứng đáng được ở phương Tây, bởi vì nó
từng bị rộng rãi nghi ngờ là phải chăng nó có thể duy trì được một cách
lương thiện bằng bất cứ phương tiện thiếu thực hành đánh liên tiếp vào
đầu người ta. Quan điểm này cũng thường được thổi phồng ( như trong B.
Russell, A History of Western Philosophy [New York: Simon and
Schuster, 1945] với nhiều ngờ vực võ đoán hơn về kiến thức chứng tỏ bởi
Arcesilaus, Carneades và nhưng quản trị viên khác của Học viện Plato
trong hai trăm năm ve vãn của học viện này với sự chối từ tất cả các
giáo điều- được quyết định, ngược lại với những mâu thuẫn hiển nhiên
trong truền thống của nó, để lấy niềm cảm hứng của nó từ Socrates chỉ từ
những trạng thái hoài nghi của ông ta. Chủ nghĩa hoài nghi kinh viện tỏa
ra là một lời chỉ trích gay gắt hơn về kiến thức của người khác- và do
đó là một thứ tuyên ngôn về “chân lý” mà không một ai biết điều gì hết
thảy-mặc dù đúng là trong trao đổi bàn bạc, sự ngừng tin của Pyrrho có
thể đã lên quá nhiều đến cùng một thứ. Hậu quả là, đa số các triết gia
đã không nhận ra được sáng kiến của Pyrrho như là một bước ngoặt quan
trọng đến sự sâu sắc vốn nó là như thế tự khởi đầu. Người ta cho rằng
Pyrrho thủ đắc được bộ môn của mình từ một người khổ hạnh trần trụi (chử
Hy Lạp là gymnosophist) ông đã gặp trong cuộc hành quân của Alexandre
đến biên giới Ấn độ. Ông cũng được thuật lại là đã trở nên một hình ảnh
của bậc thánh, có lẽ do từ kết quả của niềm an bình ông có được trong sự
vắng mặt của công chúng. Tuy nhiên, nên lưu ý rằng sự vô tâm mà Sextus
diễn tả trong Outlines of Pyrrhonism của ông không phải là sự “chứng
ngộ” trong ý nghĩa của phương Ðông-đúng hơn, rốt cuộc nó dường như không
là gì hơn một tình trạng không còn đau khổ như đa số con người bình
thường khác. Dù sao đi nữa, trạng thái vô tâm (ataraxia) đã là một cái
đích có tính tâm linh hiện thực hoá được từ sự việc nghe có vẻ hợp lý
và, do vậy, đã đại diện cho một bước tiến có tính kinh nghiệm hơn các
mục tiêu của triết học đơn thuần.
[10] Còn nhiều
ý tưởng
về
luận
thuyết
của
Diamond hơn như thế này, nhưng luận thuyết ấy đã cô đọng lại một cách cơ
bản thành sự phân phối địa lý không đồng đều của các động vật và các
thức ăn có thể bị sẵn sàng thuần hóa.
[11] Song le, tối
thiểu
là trên văn bản,
cái quá cằn cỗi của triết học Tây phương là ở chỗ trong khi một người
may mắn tình cờ trong những khoảnh khắc khỏe mạnh nhất trong cuộc kiếm
tìm của mình có thể tìm được một thấu hiểu vắn tắt có tính kinh nghiệm
vào bên trong bản chất nhi nghuyên của ý thức-thí dụ một người như
Schelling hay Rousseau trong lúc uể oải trên một con thuyền trong hồ
Geneva- các triết gia ở phương Ðông đã trải qua cả niên kỷ để phổ biến
và hợp nhất những thấu hiểu ấy trở thành các phương pháp thực hành tu
tập nhất định: làm chúng trở nên vừa có thể tái tạo lại được vừa minh
xác được bằng sự đồng lòng nhất trí.
[12] Đối với nhiều
độc giả, món nợ
của
tôi đối
với
nhiều truyền thống tu tập có nguồn từ Ấn độ sẽ là rõ ràng. Những giảng
dậy có tính bí truyền của Phật giáo ( thí dụ, các bài giảng về Đại viên
mãn của Kim Cang thừa[Dzogan teachings of the Vajrayana] ) và Ấn độ giáo
( thí dụ như các bài giảng dạy về Nhất nguyên Tuyệt đối [Advaita
Vedanta] ) cũng như nhiều năm tháng thực hành các hình thức khác nhau của
suy tưởng, đã thực hiện được quá nhiều để xác định được quan điểm của
tôi về các khả năng tâm linh của chúngta. Dù những truyền thống này
không mang đến một bối cảnh thống nhất về bản chất của tâm hồn hay các
nguyên tắc của đời sống tâm linh, không nghi ngờ gì rằng những truyềh
thống này đại diện được cho những nỗ lực tận hiến nhất của con người đã
từng được thực hiện để am hiểu được những sự việc này thông qua sự tự
xem xét nội tâm. Ðặc biệt, Phật giáo đã phát triển sâu sắc một cách phi
thường. Không một truyền thống nào khác từng khai triển ra quá nhiều
phương pháp mà từ đó tâm hồn con người có thể được định hình trở thành
công cụ để tự chuyển hóa. Các độc giả có chú tâm sẽ nhận ra rằng tôi đã
từng rất gay gắt với các tôn giáo của đức tin-đạo Do thái, đạo Kitô, đạo
Hồi và ngay cả Ấn độ giáo- và chưa từng nói gì xúc phạm đến Phật giáo.
Ðây không phải là sự tình cờ. Dù Phật giáo cũng đã từng là một cội nguồn
của sự ngu xuẩn và đôi khi của bạo lực, Phật giáo không phải là một tôn
giáo của đức tin, hoặc không phải là một tôn giáo gì cả trong ý nghĩa
của phương Tây. Có hàng triệu Phật tử như không hề biết đến điều này, và
họ có thể được tìm thấy nơi các đền chùa trải dọc Ðông Nam Á, ngay cả ở
phương Tây, các phật tử này cầu nguyện đức Phật như thể ông là một hiện
thân bí ẩn của ông già Noel. Dù cho biến dạng này của truyền thống, vẫn
đúng là các lời dạy bí truyền của Phật giáo mang lại phương pháp đầy đủ
nhất mà chúng ta có được để khám phá cái tự do thực chất của ý thức,
không bị vướng mắc bởi bất cứ giáo điều nào. Hoàn toàn không phải là sự
cường điệu để nói rằng những cuộc gặp gỡ giữa Ðức Dalai Lama và các tu
sĩ Kitô giáo để để cùng vinh danh các truyền thống tôn giáo của họ chẳng
khác những gặp gỡ giữa các nhà vật lý học từ Cambridge và những người du
mục Bushmen ở bộ lạc Kalahari để cùng vinh danh sự hiểu biết tương ứng
của họ về vũ trụ tự nhiên. Ðiều này không phải để nói rằng những người
Phật tử Tây tạng không cưỡi trên một số giáo điều (các nhà vậy lý học
thì cũng thế thôi) hoặc người du mục Bushmen không thể hình thành được
một số khái niệm về nguyên tử. Bất cứ một ai quen hiểu với cả hai loại
kinh liệu sẽ biết rằng Thánh kinh không hề chứa đựng được một chương
phần có thể hiểu nào về những chỉ dẫn tâm linh tỉ mỉ vốn thường thấy
trong các kinh sách của Phật giáo. Mặc dù có khá nhiều điều trong Phật
giáo mà tôi không giả vờ để hiểu-cũng như nhiều phần dường như rất không
hợp lý-nhưng thật là một sự thiếu lương thiện tri thức khi không nhìn
nhận tính ưu việt của Phật giáo như một hệ thống của các hướng dẫn tâm
linh.
Ðối với nhiều bậc
tu hành xuất sắc từng làm vẻ vang cái lịch sử nhơ nhuốc của Kitô
giáo-như Meister Eckhart, Thánh John của Thập giá, Mẹ Theresa của Avila,
thánh Seraphim của Sarov, các Desrt Father đáng tôn kính v.v…- đấy chắc
chắn là những con người phi thường; nhưng hầu hết các thấu hiểu có tính
bí ẩn của họ, vẩn bị xiềng chặt trong chủ nghĩa nhị nguyên của học thuyết
giáo hội, và do đó không thể cất cánh bay lên được. Ở nơi nào họ thực
lên được không trung, với sức đẩy từ học thuyết Platon mới và các quan
điểm không chính thống khác, đúng là bất chấp chính cái truyền thống mà
họ đã từng bênh vực (khi đã đủ khôn ngoan để vượt qua khỏi những kiêu
hãnh theo riêng nghĩa đen của nó), và do đó họ đã phục vụ như những
ngoại lệ linh thiêng chứng minh được lề luật - Kitô giáo huyền bí đã
chết vào ngày Saul lên đường đi Damascus.
Các bậc tu hành
trong khuôn khổ các truyền thống Semitic từng có các thôi thúc thần bí
miễn cưỡng tương tự. Đạo Sufi [sufism] (bản thân bị ảnh hưởng của Phật
giáo, Ấn độ giáo, đạo thờ lửa Zoroatrianism và chế độ tu Kitô giáo)
thường được xem như một hình thái của dị giáo trong thế giới Hồi
giáo-như những cái chết khủng khiếp của Al-hallaj (854-922) và những
người theo đạo Sufi xuất sắc khác
làm chứng. Mặc
dù học thuyết của họ vẫn còn tràn đầy tư tưởng Hồi giáo, chủ thuyết Sufi
đã được kết hợp với chủ thuyết nhị nguyên một cách không thể tách lìa
được; tương tự như thế, người thần thông (kabbalists) thuộc Do thái giáo
(mà các giảng dạy của họ mang ảnh hưởng của chủ thuyết ngộ tri kitô
giáo, thuyết Sufi và chủ thuyết Platon mới) dường như không xem chủ
thuyết thần bí thực sự có tính nhị nguyên là có thể thực hiện được. Xin
đọc G. Scholem, Kabbalah (New York: Dorsette Press, 1974)
Không hề có sự
chối bỏ các tài năng thần bí của nhiều bậc tu hành Do thái giáo, Kitô
giáo và Hồi giáo. Mỗi truyền thống tôn giáo, bất kể là các niềm tin của
họ ương ngạnh đến đâu, cũng có thể sản sinh được nhiều quý ông bà nhận
thức rõ ràng được niềm tự do không thể chối bỏ được của ý thức. Vì ý
thức vốn đã thoát khỏi tính nhị nguyên của đối thể, chủ thể thành ra sự
xuất hiện của một Eckhart hay một Rumi thật chẳng có gì là ngạc nhiên.
Tuy thế, sự hiện diện của các danhtài về tâm linh này chẳng đưa lại được
một điều gì về sự thích đáng của Kinh thánh và kinh Koran như thể một
thứ sổ tay tu tập. Tôi tin có một số người may mắn đã đạt được chứng ngộ
khi bị xe lửa cán qua hoặc khi nhảy bung khỏi con tàu hải tặc. Nhưng
điều này có nghĩa là những điều không may ấy có thể thiết lập nên được
một hướng dẫn tâm linh thích đáng hay không? Dù tôi không từ chối rằng
mọi truyền thống, ở phương Đông cũng như Tây, cũng đều có thể sản sinh
ra một số nhà thần bí mà các thấu hiểu của họ vi phạm nhà tù mạ vàng của
của đức tin họ, những thất bại của tôn giáo có căn bản trên đức tin thật
quá rõ ràng, sự suy thoái có tính lịch sử của chúng thật quá lớn lao
Phong trào Thời
đại mới mang lại được một chút tiến bộ về những điều này, bởi nó đã làm
cho đời sống tâm linh có lẽ đồng nghĩa một cách đại thể với sự đánh mất
các tế bào não. Hầu hết các niềm tin và các lối tu tập từng được xem là
"tâm linh" trong phong trào Thời Mới này hay các loại khác, đã hồi sinh
và phát đạt trong một vùng chân không tuyệt vời của loại trí thức phê
phán. Thật thế, nhiều tư tưởng Thời đại mới quá kỳ khôi khi sản sinh ra
sự khiếp sợ ở những người lẽ ra vô tư. Hàng năm, để đáp trả cho những
ngu xuẩn đang dàn hàng, ở những dịp quan trọng như Whole Life Expo, các
khoa học gia và những người hiểu biết khác đã tìm được những nguyên nhân
mới để chỉ trích và phế bỏ tất cả các khẳng định tâm linh và các chứng
cớ của chúng. Và như thế có nghĩa là bất cứ ai tự mình lo lắng cho bản
thân mình trong sự sắp đặt của hành tinh trước sự sắp đặt của tư tưởng
mình thì đơn giản là kẻ ấy dang chất thêm nhiên liệu vào đống lửa tối
tăm của chủ nghĩa yếm thế.
Nhưng cũng có một
cội nguồn khác của chủ nghĩa yếm thế. Các luyện tập về tâm linh phải
được chỉ dạy bởi những người thông thạo, và những người tự nhận là thông
thạo-những bậc thầy chân chính- lại không phải lúc nào cũng là những kẻ
vị tha như họ thường tự nhận. Như một hậu quả từ những trò hề của những
kẻ này, hiện nay nhiều người có ăn học tin rằng một sư phụ chỉ là một
con người mà, khi bày tỏ tình yêu thương của mình ra với tất cả mọi
người, vẫn bí mật khao khát để được cai quản một đạo viện cư ngụ riêng
chỉ toàn các phụ nữ đẹp. Lối vơ đủa cả nắm này không phải không có bản
mẫu của nó-và dù thi thoảng có nhà tu du già (yogi) đã liếm vết thương
của một người cùi hủi từ lòng chân thành rõ rệt, nhiều người khác lại
phô trương những ham muốn quá tầm thường hơn.
Tôi biết một nhóm
người truy tìm tâm linh kỳ cựu, sau nhiều tháng trời tìm kiếm một bậc sư
phụ giữa những hang động và thung lũng ở Hy Mã lạp Sơn cuối cùng đã tìm
được một vị Yoga Ấn độ có vẻ xứng đáng để dẫn đạo họ vào từng không. Bậc
sư phụ này gầy ốm như Jesus, dẻo dai như một con vượn và có mái tóc bện
dài đến đầu gối. Họ lập tức mang con người phi thường này về Mỹ để hướng
dẫn mình trong các phương thức về cống hiến tâm linh. Sau một thời gian
thích hợp để làm quen với văn hóa, đạo sư của chúng ta- người mà tình cờ
cũng dược thán phục vì vẻ đẹp thể chất của và cho cung cách mà ông đánh
trống- quyết định là là tình với người đẹp nhất trong số các bà vợ của
những người bảo trợ mình là thích hợp tốt đẹp với các mục đích sư phạm
của mình. Những mối quan hệ này ngay lập tức được khởi sự, và kéo dài
trong một thời gian từ một người từng truyên bố là hết lòng vì vợ và sư
phụ, giờ được khẩn thiết thử thách. Vợ của kẻ ấy, nếu như tôi không lầm,
là một người nhiệt thành tham dự loại thực hành "tantric" này, bởi vì sư
phụ của mình vừa "giác ngộ" vừa nồng nhiệt như tình nhân như thánh
Krisna. Dần dà, người đàn ông thần thánh này còn tinh tế hơn trong những
nhu cầu tâm linh, cũng như khẩu vị của ngài. Ngày kỷ niệm chẳng lâu sau
đã hé rạng khi ngài chẳng thích dùng chi cho bữa điểm tâm ngoài 3/4 lít
kem Vanilla hiệu Haagen-Dazs điểm hạt điều. Hẳn chúng ta tưởng tượng ra
được những hành thiền của các chàng bị cắm sừng cứ lang thang trong
những dãy thực phẩm đông lạnh của các chợ để lùng kiếm thức ăn mở mắt
cho vị khai sáng thật chẳng là gì ngoài sự sùng kính. Bậc sư phụ này
chẳng bao lâu sau bị gởi trả về Ấn độ cùng với cái trống của thầy.
[13] Theo Liên hoa Sinh
(Padmasambhava), Self-liberation through Seeing with naked Awareness,
dich bởi J.M. Reynolds (New York: Station Hill Press, 1989), tr. 12.
[14] Liên Hoa Sinh
(Padmasambhava) là một người thần bí của thế kỷ thứ tám thường được xem
như có công mang những lời giảng dạy của Phật giáo (đặc biệt là những
phần của Tanta và Dzogchen) từ Ấn độ sang đến Tây tạng.
[15] Không nghi ngờ
gì, nhiều sinh viên thuộc Kitô giáo, Hồi giáo và bí truyền Do Thái giáo
sẽ phàn nàn là sự đọc hiểu theo nghĩa đen của tôi về kinh sách của họ đã
dẫn tôi đến sự ngu dốt về tầm quan trọng tâm linh của các kinh sách này.
Để được chắc chắn, những giáo phái bí mật, thuật giả kim và các lễ nghi
bí hiểm đã diễn giải rất nhiều phần trong Thánh Kinh và kinh Koran đã
xưa cũ như bản thân các kinh sách, nhưng cái vấn nạn với các nỗ lực nhằm
chú giải-dù là loại lý thuyết đầy khả nghi gematria (dịch tiếng Do
Thái cổ của người Torah trở thành những con số tương đương để các nhà số
học có thể thực hiện những diễn giải ảo thuật dựa trên những văn bản)
hay cái biểu tượng lém lỉnh tìm kiếm những học giả được nhiều người biết
như Joseph Campbell- rằng họ hoàn toàn không bị vướng buộc bởi nội dung
của tự thân các văn bản. Người ta có thể diễn dịch mọi văn bản băng một
phương cách nhằm tránh né hầu như bất cứ hướng dẫn bí mật hay thần bí
nào.
Một trường hợp
trong quan điểm này: Tôi đã lựa ra một cuốn sách khác bất kỳ, lần này là
từ kệ sách dạy nấu ăn trong một tiệm sách. Cuốn sách có tựa là A Taste
of Hawaì: New Cooking from the Crossroads of the Pacific. Ở đó
tôi khám phá ra một luận thuyết bí hiểm chưa được nổi tiếng. Dù xuất
hiện như thể một công thức nấu ăn cho cá khô và bánh tôm với và gia
vị cà chua ogo, chúng ta chỉ cần xem xét danh mục các chất phụ gia
để hiểu rằng mình đang ở trong sự hiện diện của một loại tri thức tâm
linh vô địch :
Lườn cá
chỉ vàng hình khối vuông
3 muỗng
canh hành tăm
muối và
tiêu đen mới xay
một
chút ớt cayenne
2 muỗng
canh gừng tươi băm nhỏ
1 muỗng
canh tỏi băm
8 con
tôm, bóc vỏ, bóc bỏ phần đen ở sống lưng.
1/2
tách kem đặc; 2 quả trứng đánh nhẹ.
3 muỗng
canh rượu gạo, 2 chén bánh mì vụn
3 muỗng
dầu ăn, 2 1/2 tách gia vị cà chua ogo
Dĩ nhiên lườn
cá chỉ vàng là một chính bản thân cá nhân ấy-bạn và tôi- trôi nỗi
trong biển cả của sự hiện hữu. Nhưng ở đây chúng ta thấy nó bị chặt
thành khối vuông, nghĩa là để muốn nói rằng thân phận của chúng ta phải
được điều trị trong tất cả ba chiều của thể xác linh hồn và tâm trí.
Ba muỗng canh
hành tăm tăng thêm dự phần
của cấu trúc cân xứng hình khối, ý cho thấy rằng chúng ta cần phải thêm
vào mỗi thứ hạng của đời sống mình với sự giải độc và cũng trở nên đủ
cân xứng. Ngụ ý của đoạn văn là rõ ràng : thể xác, tâm hồn và linh hồn
cần phải được hướng đến sự chăm sóc như nhau.
Muối và tiêu
mới xay: ở đây chúng ta có
được câu thần chú bất diệt về sự tương phản-hai mặt trắng và đen của
thiên nhiên chúng ta. Cả lương thiện và quỷ dữ phải được am hiểu nếu
chúng ta muốn hoàn hảo được công thức của đời sống tâm linh. Nói cho
cùng, không có gì có thể được loại trừ khỏi kinh nghiệm của con người
(đây có lẽ là một văn bản Tantric). Còn gì nữa, muối và tiêu đến với
chúng ta trong hình thức của các hạt xay nhuyễn, nghĩa là để nói rằng
các phẫm chất tốt và xấu của chúng ta sản sinh từ những hành vi vô cùng
bé nhỏ. Do đó, nói chung chúng ta không phải là lương thiện hay ác độc,
nhưng chỉ từ hiệu quả của những vô số khoảnh khắc không đếm được, khiến
phản ánh màu sắc dòng chảy của của chúng ta từ lực tái diễn.
Một chút ớt
Cayenne, rõ ràng, trờ nên
một màu sắc và huơng vị rõ rệt như thế, nghĩa là báo hiệu ảnh hưởng tâm
linh của một người chứng đạt lão luyện. Làm sao chúng ta có thể tạo được
sự tối nghĩa trong nhận xét về chúng. Môt chút ớt bao lớn ? Ở đây ta phải dựa vào cái khôn ngoan
của cả thế gian. Bản thân người thầy giáo sẽ biết chính xác cái gì chúng
ta cần từ cách thức hướng dẫn. Và đúng ở chính tại điểm này mà cái công
thức nấu ăn vốn tỏ ra sức nóng của nỗ lực tâm linh được thêm vào danh
sách-bởi vì sau một chút ớt cayenne, chúng ta thấy có hai muỗng canh
gừng tươi băm nhỏ và một muỗng canh tỏi băm. Những thứ này hình
thành một thứ đại loại như tam giác cân ba ngôi, ám chỉ hai mặt (nam,
nữ) của bản chất tâm linh của chúng ta đoàn tụ với suy tưởng của đối
tượng.
Kế đến là tám
con tôm, lột vỏ, tước bỏ chỉ đen ở lưng và xắt vuông. Dĩ nhiên tám
con tôm đại diện cho tám mối quan tâm của thế gian mà mọi khao khát tâm
linh đều phải dèm pha: khen ngợi và chỉ trích, khoái lạc và đau khổ, mất
và được, vinh hiển và nhục nhã. Mỗi một điều này cần phải được rút bỏ
phần đen (dơ bẩn), bóc vỏ và xắt thành hình vuông- nghĩa là, phải tẩy
sạch các quyền lực của nó để vào được bên trong chúng ta và hợp nhất với
chúng ta trên con đường tu tập.
Nhưng cuộc nhào
lộn tung hứng có tính ẩn dụ như thế có thể được thực hiện trong hầu hết
các trang sách- và từ đó chúng trở nên vô nghĩa- nên được làm cho rõ
ràng. Ở đây chúng ta có bài học rút ra từ Kinh thánh như một vết nhơ của
Rorschah : ở bất cứ điểm nào người huyền bí có thể tìm được sự phản ánh
hoàn hảo cho các nguyên lý ma thuật của mình; một người thần bí có tính
truyền thống có thể tìm được công thức nấu ăn của mình cho sự siêu việt;
và một người giáo điều cực quyền có thể nghe được Thượng đế bảo mình hãy
áp chế sự thông minh và sáng tạo của người khác. Điều này không phải để
cho rằng không một soạn giả nào từng hướng dẫn tâm linh hay các thông
tin về huyền bí trong lời bóng gió hay từng soạn ra một văn bản khiến
cần đến một nỗ lực chú giải cổ văn căng thẳng để tạo nên sự hợp lý.
Chẳng hạn, nếu bạn cầm lấy một cuốn Finnegans Wake, và tưởng tượng rằng
bạn đã tìm ra trong đó những ám chỉ đến nhiều loại bí ẩn thiên văn cùng
những âm mưu của thuật giả kim, mà có nhiều cơ hội là bạn sẽ tìm ra như
thế, bởi vì Joyce (James) đã đặt chúng ở trong đó. Nhưng để nạo vét kinh
thánh bằng cách thức này và để khám phá được châu ngọc một cách tình cờ
chẳng qua chỉ là một trò chơi chữ mà thôi.
[16] Về
một
nghiên cứu gần đây đến hiện tượng thiền của Phật giáo thích ứng với các
xử dụng của tôi ở đây xin đọc B. A. Wallace trong "Intersubjectivity in
Indo-Tibetian Buddhism", Journal of Consciousness Studies 8, nos
5-7 (2001): 209-30. Về cuộc bàn luận chi tiết giữa các khoa học gia tâm
thần học hãy đọc J.H. Austin, Zen and the Brain (Cambridge:MIT
Press, 1998) và C. deCharms, Two Views of Mind:Abhidharma and Brain
Science (Ithaca, N.Y: Snow Lion Publications, 1998)
[17] Tôi tin rằng
phép ẩn dụ này bắt nguồn từ Sri Nisargadatta Maharaj, nhưng tôi đã quên
không biết nó ở đâu trong rất nhiều luận thuyết của ông mà tôi đã đọc.
[18] Người
ta thường
bảo
rằng
một người không thể hiểu biết được những điều này từ việc đọc sách.
Trong một trường hợp thông thường, rõ ràng điều này là sai. Tôi muốn
thêm rằng bảo đảm không có cách chi một ai có thể nhận thức được tính
nhị nguyên thuộc bản chất của ý thức chỉ đơn giản bằng cách được một bậc
thầy đức độ về suy tưởng chỉ cho. Các điều kiện cần phải được đúng: vị
thầy cần phải cung cấp được những điều đúng, không để lại bất cứ nghi
hoặc có tính ý niệm nào về những điều cần phải được nhận thức và người
học trò cần phải được phú cho sự tập trung tinh thần đủ để theo được các
hướng dẫn và chú ý được cái gì phải chú ý. Trong ý nghĩa này, suy tưởng
đúng là một loại năng khiếu thủ đắc.
[19] Nhận
thức
về tính nhị nguyên của ý thức không bị ảnh hưởng đến các phân tích định
hướng thuộc về ngữ học. Mặc dù hoàn toàn tự nhiên một cách hoàn những
người chỉ biết đến suy nghĩ của mình sẽ cố gắng đưa mọi thứ vào trong
ngôn ngữ.
[20] Thực
ra, Thiền đã từng là chủ đề nghiên cứu khoa học từ nhiều năm qua. Xin
đọc J. Andresen, "Meditation Meets Behavioral Medicine: The Story of
Experimental Research onMeditation", Journal of Consciousness Studies
7, nos 11-12): tr. 17-73, để có được một phê bình thấu đáo. Phần lớn
khảo cứu này đã dùng đến EEG và các biện pháp tâm lý và, khi thực hiện
như thế, đã không cố gắng để giới hạn các thay đổi trong chức năng của
não. Hầu hết các nghiên cứu từng tận dụng các kỹ thuật hiện đại về
neuroimaging đã không nghiên cứu thiền trong mối tương quan đến tự bản
thân ý thức bản ngã. Xin đọc A.B. Newberg et al., "The Measurement of
Regional Cerebral Blood Flow during the Complex Cognitive task of
Meditation: A preliminary SPECT Study, " Psychiatry
Research:Neuroimaging Section 106 (2000 and 2001): tr. 113-22, cho
các kết quả của một nghiên cứu SPECT. Theo hiểu biết của tôi, chỉ có một
nhóm đã khởi sự làm việc với người thực hành thiền nào tạo nên được hiệu
quả chủ quan, đặc biệt về sự đánh mất các ý thức về bản ngã; một bản
tường thuật có tính sơ bộ về những nghiên cứu này có thể tìm được ở D.
Goleman, Destructive Emotions: A Scientific Dialogue with the Dalai
Lama (New York: Bantam, 2003).
[21] F.Valera "Neurophenomenology, "
Journal of Consciousness Studies
3, số 4 (1996): tr.
330-49 đã đưa ra quan điểm này về giá trị khoa học của dữ liệu "có tính
chủ quan":"Vạch phân chia-giữa run rẩy và sự thiếu run rẩy-không thể rút
ra từ những bằng chứng giữa người thứ nhất và người thứ ba, nhưng đúng ra
phải được xác quyết từ việc có hay không có một nền tảng rõ ràng về
phương pháp học đưa đến một giá trị chung và chia xẻ kiến thức"
[22] Tôi xin được
đề cập ngắn gọn đến mối quan tâm rằng cái kinh nghiệm về không nhị
nguyên đem đến bởi suy tưởng không hoàn toàn là cái gì riêng tư do đó
không phải tùy thuộc vào một sự xác minh độc lập. Phải chăng chúng ta có
nghĩa vụ chỉ tin vào lời phán của một vị suy tưởng cho điều ấy ? và nếu
quả là như thế thì đấy có phải là vấn đề gì không ?
Những ai muốn
đòi hỏi một sự đánh giá độc lập về những biến cố tâm thức trước tiên nên
suy nghĩ về hai điều: (1) nhiều đặc điểm của kinh nghiệm nhân loại là
một điều gì riêng tư không thể bù đắp được và, hậu quả là, các tường
thuật có tính tự ngã vẫn còn là chỉ hướng duy nhất cho chúng ta đến các
kinh nghiệm của họ: phiền muộn, giận dữ, vui sướng ảo tưởng thị giác,
thính giác, các giấc mơ, và ngay cả đau đớn là những thứ thuộc về vô số
những sự thực thuộc về “người đầu tiên” cuối cùng chỉ có thể minh xác
bởi sự tự thuật [self-report] ; (2) trong các trường hợp ấy khi những
đánh giá độc lập về tình trạng nội quan thực có hiện hữu, chúng chỉ hiện
hữu bằng tác dụng của mối tương quan có thể tin cậy được với sự tự
thuật. Ngay cả sự sợ hãi, cái mà hiện nay nối kết một cách lệ thuộc vào
một loạt các biện pháp về tâm lý và hành xử-khiến tăng cường các phản
ứng giật mình, làm tăng các hoóc môn, khiến da trở nên dẫn truyền hơn
v.v… - không thể đem ra khỏi quy luật vàng ngọc của sự tự thuật. Thử
tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra nếu sự đánh giá chủ quan về sự sợ hãi từng
thoát khỏi được những biện pháp "độc lập"ấy: nếu như, bảo rằng 50 phần
trăm đối tượng nhận rằng mình không có cảm giác sợ hãi khi mức kích
thích tố (hormon) tăng và có cảm giác hãi hùng khi mình té ngả. Điều
quan trọng là chúng ta không mất đi khối giá trị tiền bạc mà các thay
đổi về tâm lý và hạnh kiểm chứa đựng trong các nghiên cứu của các biến
cố tâm thần: chúng chỉ tốt như những chủ thể bảo rằng chúng là như thế.
(Tôi không có ý muốn cho rằng thiên hạ là không thể sửa chữa được một
cách chủ quan, hoặc mỗi biến cố tâm thần được nghiên cứu tốt nhất từ sự
trông cậy vào loại tự thuật lại. Tuy nhiên, khi chủ đề ở trong sự suy
xét xem sự việc có vẻ như thế nào đối với chủ thể sự tự thuật sẽ là chỉ
hướng duy nhất cho chúng ta.
[23] Thực
ra tương lai sẽ khá là giống như quá khứ trong quan điểm này. Chúng ta
có thể còn sống để nhìn thấy sự toàn thiện của khoa học cho tất cả các
bộ phận huyền ảo của chủ nghĩa huyền bí truyền thống: Saman giáo (ở
Siberian hay Nam Mỹ), Thuyết ngộ giáo, Kabbalah, bí ẩn giáo và
Hermerticism cái nanh vuốt thời Phục hưng bí hiểm của nó, cùng tất cả
các lối mòn phức tạp khác nơi mà con người đã từng tìm kiếm những Kẻ
khác (the Other) từ tất cả các hóa trang của khái niệm ấy. Nhưng tất cả
các lối tiếp cận đến tâm linh này đều là con đẻ của một niềm ước ao cái
kiến thức bí truyền và nỗi khao khát khai quật lớp hư ảo của tâm
thức-trong các giấc mơ, trạng thái hôn mê hay trong niềm ngây ngất tâm
lý- để tìm kiếm sự linh thiêng. Mặc dù tôi không còn nghi ngờ gì rằng
các kinh nghiệm đáng kể ấy đang nằm chờ người thụ giáo trên từng con
đường xa lạ này, cái sự thật rằng ý thức luôn luôn là các điều kiện và
cảnh giới đầu tiên của mỗi kinh nghiệm hão huyền chính là một chân lý
trong sáng vĩ đại-và là cái sẽ làm ô nhục tất cả những sai lạc ấy như
một sự cần thiết có tính nguyên tắc. Ý thức ấy sẽ không được phát triển
– không tạo nên sự trống rỗng của bản ngã, hay bí hiểm siêu việt hơn
v.v…- từ pháo hoa của chủ nghĩa bí hiểm là một thực tế, mà các bậc tu
hành của mọi tín ngưỡng có thể xác định bằng chính kinh nghiệm của mình.
Phiên bản hiện
đại của sức thôi thúc hão huyền, có lẽ được minh họa tốt nhất cho lòng
đam mê tuyệt vời của Terence McKenna, là sự tương đương của siêu việt
tâm linh với các thông tin của một thứ loại mơ hồ. Do vậy, bất cứ
kinh nghiệm nào (bị tác động một cách có hiệu quả từ những trợ giúp của
các dược phẩm kích thích tâm lý) mà ở đấy tâm thức bị tràn ngập bởi các
bộc lộ phi lý-các hình ảnh về những vương quốc khác, những hình thức
siêu thoát, văn phạm học (grammatology) về những trí tuệ xa lạ v.v… được
xem như một tiến bộ trên ý thức thông thường. Tuy nhiên, cái siêu phàm
của bản thân ý thức là gì với những quan sát lãng mạn tinh tế như thế
trước khi có khái niệm về chủ thể/đối thể. Không nghì ngờ gì là các biểu
lộ có tính tinh tế ấy làm say đắm người trí thức (cho dù các biểu lộ ấy
có "đúng" hay không). Nhưng tính nhất thời của chúng-bất cứ hình ảnh
nào, khi xuất hiện cũng mang một số phận phải tan biến đi- chứng tỏ rằng
nhưng hiện tượng ấy không phải là căn bản cho sự thay đổi vĩnh cửu.
Tuy thế, tôi
không có ý muốn cho rằng nên bỏ mặc những cảnh quan "nội thất" này
không khai phá. Sự gia tăng của các xuất hiện tinh vi khó thấy thu hút
quan tâm thực sự cho bất cứ ai muốn có được nhiều kiến thức hơn về thể
xác, tâm hồn hay rộng lớn hơn là cả cũ trụ. Tôi chỉ đơn giản nói rằng
tìm kiếm tự do giữa bất cứ các tiếp nối của các bộc lộ có thể là một sai
lầm, điều mà chỉ có các trường không nhị nguyên (nondual) về chủ nghĩa
thần bí đã từng phê phán một cách xứng đáng. Những gì hơn thế, niềm say
mê với những bí truyền ấy phần lớn là bổn phận của tính trẻ con và lòng
nhẹ dạ thuần túy vốn từng dự phần vào hầu hết các diễn đạt về tâm linh ở
phương Tây. Hoặc chúng ta tìm chỉ niềm tin, gả cưới cho các giả định ẩn
giấu của chính cái đầy đủ của tự thân niềm tin, hoặc chúng ta được gặp
gỡ bởi cuộc tìm kiếm điên cuồng cho điều mới lạ- kinh nghiệm đồng bóng,
các tiên tri về tận thế huy hoàng, và cả ngàn nhận thứ tội lỗi sai lầm
về nhân cách của Thượng đế. Nhưng sự thực còn lại mà bất chấp các thay
đổi nào trong dòng chảy kinh nghiệm của chúng ta-dù một hình ảnh của
Jesus hiện ra trước mỗi chúng ta, hay tất cả kiến thức nhân loại có thể
một ngày nào nhập liệu trực tiếp vào não chúng ta- trong các ý nghĩa về
tâm linh chúng ta sẽ đầu tiên và duy nhất có được ý thức rồi được thoát
khỏi cái "tôi". Chắc chúng ta không sớm nhận thức được điều này.
[24] Việc chủ
thuyết thần bí mang lại tính siêu việt của tất cả các khái niệm chắc
chắn là một câu hỏi đang bỏ ngỏ. Khẳng định ở đây chỉ thuần có nghĩa là
các khái niệm vốn bảo đảm được cho khái niệm nhị nguyên của chúng ta về
thế gian đã bị bỏ quên bởi những người thần bí.