CHƯƠNG 7
Các Thử nghiệm trong Ý thức
Tại
cốt
tủy
của
mỗi
tôn giáo ẩn
chứa một
khẳng
định
không thể
chối
từ
về
thân phận
loài người:
có thể
thay đổi
một cách căn bản sự hiểu biết về
thế
gian của
một
con người.
Mặc
dù chúng ta thường
sống
trong khuôn khổ những
giới
hạn
đặt để bởi
những
thói quen chú ý thông thường
của
mình - thức
dậy,
làm việc,
ăn uống,
xem truyền
hình, trò chuyện
với
người
khác, ngủ,
mộng
mơ
- hầu
hết
chúng ta đều
hiểu,
dù mờ
nhạt,
rằng
những kiến thức lạ thường có thể xảy
ra.
Vấn
nạn
của
tôn giáo là ở
chỗ
tôn giáo đã pha trộn
hết sức nhuần nhuyễn sự
thực
này với
nọc
độc
của
sự
phi lý. Lấy
Kitô giáo làm một
ví dụ:
Việc
Jesus là một
người
đã tự
mình chuyển
hóa thật
chưa
đủ
để
trở
thành một
mức
độ
khiến
cho Bài giảng
trên núi có thể
là lời
thú tội
của
lòng ông. Ông còn phải
là con trai của
Thượng
đế,
phải
sinh ra từ
sự
trinh nguyên và có số
phận
phải
trở
lại
thế
gian trong các đám mây của
vinh hiển.
Hiệu
quả
của
các tín điều
ấy
là để
làm cho một kiểu mẫu
như Jesus là vĩnh viễn không thể
với
tới
được.
Lời
rao giảng của
ông không còn là một
tập
hợp
những
khẳng
định
có tính kinh nghiệm
chủ
nghĩa về
mối
liên lạc
giữa
đạo
đức
và các nhận
thức
tâm linh mà thay vào đó đã trở
thành câu chuyện
thần
kỳ vô cớ,
khá ghê tởm.
Theo tín điều
của
Kitô giáo, trở
thành một
con người
như
Jesus là điều
bất
khả.
Người
ta chỉ
có thể
tính đếm
các tội
lỗi
của
mình, tin vào những
điều
không thể
tin được
và chờ
ngày tận
thế.
Nhưng
một
câu trả
lời
toàn bộ
hơn
cho sự
hiện
hữu
là có khả
năng với
chúng ta, và sự
minh chứng
về
Jesus cũng như
hàng vạn sa số
những
người
đàn ông, đàn bà khác qua nhiều
thế
hệ,
đã chứng
thực
cho điều
này. Thử
thách cho chúng ta là sự
bắt
đầu
nói về
những
khả
năng này trong những
ý nghĩa hợp
lý.
Cuộc truy tìm Hạnh
phúc
Ngay các bông hoa ngoài đồng
cũng được
che phủ
một
cách tuyệt
diệu,
tôi và quý bạn
bị
lôi ra khỏi
tử
cung trần
truồng
và kêu la thất
thanh. Chúng ta cần
gì để
được
hạnh
phúc ? Hầu
như
tất
cả
những
gì chúng ta làm đều
được
xem như
câu trả
lời
cho câu hỏi
này. Chúng ta cần
thức
ăn, quần áo và chốn
che thân. Chúng ta cần
bầu
bạn.
Và rồi
chúng ta cần
học
hỏi
vô vàn những
điều
để
tận
hưởng
được
tất
cả
những
điều
này. Chúng ta cần
tìm được
việc
làm mà mình thích, và chúng ta cần
thì giờ
cho các giải
trí. Chúng ta cần
rất
nhiều
thứ,
và dường
như
không có gì thay thế
được
ngoài việc
cứ
tìm kiếm
và tiếp tục tìm kiếm, hết
điều
này đến
điều
khác, hết
giờ
này qua giờ
khác.
Nhưng
phải
chăng những
điều
ấy
có hằng đủ
để
hạnh
phúc ? Phải
chăng một
con người
được
bảo
đảm
sẽ
được hạnh
phúc chỉ
từ
việc
có sức
khỏe,
tiền
bạc
và những
người
thân thích bạn
bè tốt
? Rõ ràng là không. Phải
chăng những
điều
ấy
thực
sự
cần
thiết
cho hạnh
phúc ? Nếu
đúng là cần
thiết thì tại
sao những
người
theo phái Yoga ở Ấn
độ
từ
bỏ
tất
cả
vật
chất
và các vướng
mắc
gia đình chỉ
để
trải
qua nhiều
chục
năm cô độc trong hang động
mà thực hành suy tưởng
? Dường
như
những
người
đó cũng hạnh
phúc nữa.
Thực
thế,
một
số
người
đó đã khẳng
định
là họ
hoàn toàn thực sự hạnh
phúc.
Rất
khó để
mà tìm được
một
từ
ngữ
cho cái công việc
khó khăn của
con người
nhắm
trực
tiếp
đến
hạnh
phúc - đến
loại
hạnh
phúc có thể
sống
sót nổi
qua những
thất
vọng
của
tất
cả
các niềm
ao ước
thông thường.
Thuật
ngữ
"tâm linh" như
không thể
tránh khỏi
ở
đây - và như
tôi đã dùng đến
nhiều
lần
trong cuốn
sách này - nhưng
thẳng thắn mà nói, thuật
ngữ ấy
có quá nhiều
nghĩa rộng
đến
nỗi
trở
thành lúng túng. Có lẽ
chữ "Chủ
nghĩa thần
bí" có vẻ
trang trọng
hơn nhưng
từ ngữ ấy lại
có quá nhiều
liên kết
không may của
chính nó. Không một
từ
ngữ nào có thể
nắm
được
tính hợp
lý và sâu sắc
của
cái khả
năng mà giờ
đây chúng ta phải
cân nhắc:
rằng
có một
hình thái sảng khoái sung sướng (well-being) thay thế
được
tất
cả
mọi
hình thái khác, thực
ra là, vượt
khỏi
được tính cách hay thay đổi
của
bản
thân các kinh nghiệm.
Tôi sẽ
dùng đế
cả
hai từ
"tâm linh" và "chủ
thuyết
thần
bí" một
cách có thể thay đổi lẫn nhau ở
đây, bởi
vì, không có lựa chọn nào khác, nhưng
xin các độc
giả
nên nhớ
rằng
tôi sẽ
dùng đến
hai từ
ngữ
này trong một
ý nghĩa nghiêm ngặt.
Trong lúc thăm viếng
bất
cứ
tiệm
sách thuộc
thế
hệ
mới
nào cũng sẽ
khám phá ra rằng
con người
hiện
đại
đã từng
ôm nắm
một
vùng nản
lòng của
các mối
thiên kiến
“tâm linh”- từ
loại
sức
mạnh
chữa
bệnh
của
các tinh thể, cách thụt
rửa
ruột
đến
các sôi nổi
của
việc
bắt
cóc người
hành tinh – các bàn luận
của
chúng ta sẽ
tập
trung đến
một
hiểu
biết
đặc
thù vốn
có thể
có được
một
liên quan đặc
biệt
cho cuộc
truy tìm hạnh
phúc của
chúng ta.
Hầu
hết
các giảng
dậy
về
tâm linh đều
đồng
ý rằng
có nhiều
cách để
đến
với
hạnh
phúc hơn
là trở
nên một
thành viên tích cực
của
xã hội,
một
khách hàng hớn
hở
của
một
lạc
thú hợp
pháp, và một
kẻ
tích cực
sinh con đông đúc có ý thích hưởng
thụ
các lạc
thú hợp
pháp ấy
. Thật
thế,
nhiều
người cho rằng chính là cuộc
truy tìm của
chúng ta cho hạnh
phúc – nỗi
thèm muốn
kiến
thức
và kinh nghiệm
mới
của
chúng ta, nỗi
khao khát nhận
thức
của
chúng ta, các nỗ
lực
của
chúng ta để
tìm được
một
người
bạn
tình lãng mạn
đúng cho mình, ngay cả
lòng mong mỏi
của
chúng ta về
bản
thân một
kinh nghiệm
tâm linh- khiến
chúng ta không chú ý đến
một
hình thái sảng khóai sung sướng (well-being) ẩn
sâu đến
sự
hiểu
biết
trong từng
phút giây hiện
tại.
Một
số
phiên bản
của
nhận
thức
này như
nằm
sâu trong cố
tủy
của
nhiều
tôn giáo của
chúng ta, do đó không có cách gì để
phân biệt
được
dễ dàng giữa
các tín điều.
Mặc dù rất
nhiều
người
chúng ta trải
qua hàng bao nhiêu thập
niên mà không phải
chứng
nghiệm
một
ngày trọn
vẹn
nào trong cô độc
nhưng chúng ta thực
đang sống
cô độc
trong tâm thức
của
chính mình trong từng
khoảnh
khắc.
Bất
kể
là chúng ta sát kề
bên người
khác đến
đâu, các khoái lạc
và đau khổ
cũng chỉ
là của
riêng mình. Thực
hành tâm linh thường
được
nhắc
đến như
một
cách giải quyết hợp lý nhất
cho tình huống
này. Cái khẳng
định
nằm
ẩn
náu ở
đây là cái mà chúng ta có thể
nhận
ra được một
điều
gì về
bản
chất
của
ý thức
trong khoảnh
khắc
này sẽ
cải
thiện
được
đời
sống
chúng ta. Kinh nghiệm
của
vô số
nhà tu hành cho thấy
rằng
ý thức
- thuần
túy là điều
kiện
trong đó ta suy nghĩ, cảm
xúc, và ngay cả
ý thức
về
chính mình xuất hiện
– không bao giờ
thực
sự
thay đổi
bởi
cái gì nó hiểu
được.
Nghĩa là sự
biết
vui không thể
trở
thành niềm
vui, sự
biết
buồn
không thể
chuyển
thành nỗi
buồn.
Từ
trọng
tâm quan điểm
về
ý thức,
chúng ta chỉ
đon thuần
hiểu
được
về
ánh sang, âm thanh, cảm
giác, trạng
thái và các suy nghĩ. Nhiều
bài giảng
dậy
về
tâm linh cho rằng
nếu
chúng ta có thể
nhận
biết
được
bản
sắc
của
mình như
bản
thân của
ý thức,
như
chỉ
là một
chứng
nhân của
những
sự
xuất
hiện,
chúng ta sẽ
nhận
thấy
được
mình mãi mãi thoát khỏi
các thăng trầm
của
kinh nghiệm.
Điều
này không phải
để
chối
bỏ
rằng
đau khổ
có một
chiều
kích vật
lý. Cái sự thực của
một viên thuốc
như
Prozac có thể
giảm
nhẹ
được
rất
nhiều
triệu
chứng
trầm
cảm
cho thấy
rằng
các đau đớn
về
tinh thần
có thể
không còn là môt thứ siêu phàm hơn
một
viên thuốc
màu xanh. Chúng ta hiểu
bản thân các ý tưởng
có được
cái sức
mạnh
hoàn toàn xác định
được
kinh nghiệm
của
một
con người
về
cả
thế
giới.
[1] Ngay
cả
tầm
quan trọng
của
cơn
đau thể
chất
ghê gớm
cũng được
đưa
vào sự
diễn
giải
một
cách chủ
quan. Hãy thử
nghĩ đến
cơn
đau đẻ:
Có bao nhiêu phụ
nữ
thoát khỏi
được
kinh nghiệm
đau đớn
này ? Bản
thân cơ
dịp
này thường
là một
cơ
dịp
hạnh
phúc nếu như
tất
cả
đều
diễn
ra xuông xẻ
tốt
đẹp
với
cuộc
sản
sinh. Thử
tưởng
tượng
sự
khác biệt
sẽ
đến
là dường
nào nếu
người
phụ
nữ
đã bị
hành hạ
bởi
cơn
đau đẻ
thông thường
lại
phải đau khổ
thêm vì một
nhà khoa học
điên loạn
? Các cảm
giác có lẽ
cũng giống
nhau, nhưng
những
cảm
giác này có lẽ
là một
kinh nghiệm
tồi
tệ
nhất
trong đời
sống
của
bà sản
phụ.
Điều
này rõ ràng là khiến
phải đau đớn
nhiều
hơn ngay cả
về
thể
chất
hơn
là những
cái đau từ
riêng cảm
giác .
Các truyền
thống
tâm linh của
chúng ta cho thấy
rằng
chúng ta có được
khá đủ
chỗ ở
đây để
thay đổi
mối
quan hệ
của
mình đối
với
các nội
dung của
ý thức,
và từ
đó chuyển
hóa được
kinh nghiệm
của
mình về
thế
gian. Thật
vậy,
đã có một
khối
lượng
sách vở
lớn
lao chứng
minh cho điều
này.[2]
Cũng rõ ràng là không có gì cần
đến
sự
tin vào những
chứng
cớ
yếu
kém để
chúng ta xem xét đến khả
năng này với
một
tâm thức
cởi
mở.
Ý thức
Như
Descartes, hầu
hết
chúng ta bắt
đầu
những
câu hỏi
này như
những
nhà tư
tưởng,
bị
đào thải
bởi
những
giới
hạn
từ tính chủ
quan của
mình để
dối
trá trong một
thế
gian vốn
xuất
hiện
khác hơn
là chúng ta tưởng. Descartes làm nổi
bật
tính lưỡng
phân này bằng
cách khẳng
định
có hai thực
thể
được
tìm thấy
trong vũ trụ
của
Thượng đế : vật
chất
và tinh thần.
Ðối
với
tất
cả
chúng ta, một
chủ
thuyết
nhị
nguyên của
loại
này không khác gì một
nội dung của
hiểu biết thông thường
(dù thuật ngữ
“linh hồn” có vẻ
hùng vĩ hơn,
theo như
tâm thức
của
chúng ta thường
tự
xử
sự).
Tuy nhiên, dù khoa học
đã tỏa
ánh sáng cụ
thể
trên các bí ẩn
của
tâm thức
con người,
thuyết
nhị
nguyên của
Descartes (cùng với
“tâm lý dân gian” của
chính chúng ta) đã đi đến
một
số
cư
xử
thô bạo.
Ðược
chống
đỡ
bởi
các thành công không thể
chối
bỏ
được
qua ba thế
kỷ
của
khảo
cứu
thuần
túy khoa học,
nhiều
triết
gia và khoa học
gia giờ
đây chối
bỏ
sự
phân biệt
của
Descartes vế
tinh thần
và vật
chất,
tâm hồn
và thể
xác, như
sự
nhượng
bộ
đến
lòng mộ
đạo
Kitô giáo rằng
chắc
chắn
nó là như
thế,
và tưởng
tượng
rằng
bằng
cách ấy
chúng đã xóa bỏ
được vực
sâu khái niệm
giữa
ý thức
và thế
giới
vật
chất.
Trong chương
vừa rồi chúng ta đã thấy
là các niềm
tin của
chúng ta về
ý thức
đã gắn
liền
mật
thiết
với
đạo
lý của
chúng ta. Chúng cũng ngẫu
nhiên có một
quan hệ
trực
tiếp
đến
quan niệm
của
chúng ta về
cái chết.
Hầu
hết
các nhà khoa học
tự
nhận
mình là các nhà vật
lý học,
điều
này có nghĩa là họ
tin rằng
các đời
sống
tinh thần
và tâm linh của
chúng ta hoàn toàn tùy thuộc
vào sự hoạt động của
não bộ
chúng ta. Từ
lý giải
này, khi bộ
não chết
đi, dòng chảy
của
sự
sống
chúng ta phải
đi đến
chung cuộc.
Một
khi ngọn
đèn của
các hoạt
động
thần
kinh đã tàn lụi,
sẽ
không còn gì sống
sót nữa.
Thật
thế,
nhiều
nhà khoa học
mang đến sự
quả quyết này như
thể
tự bản
thân nó là một
lời
nguyền
thiêng liêng đặc
biệt,
thử mang điều
thẳng thắn trí thức
này mà hỏi
ý bất
cứ
người
đàn ông, phụ
nữ,
hay trẻ
em nào xem ai là kẻ
đủ
cứng
rắn
để
nuốt
vào.
Nhưng
sự
thực
là chúng ta đơn
giản không hề
biết
được
điều
gì xảy
ra sau khi chết
đi. Mặc
dù có quá nhiều
điều
đã được
bàn cãi chống
lại
một
khái niệm
ngây thơ
về
một
thứ
linh hồn
độc
lập
với
não bộ
[3] ,
nơi
chốn
của
ý thức
trong thế
giới
tự
nhiên vẫn
là một
câu hỏi
rộng
mở.
Ý tưởng
rằng
não bộ
sản
sinh ra ý thức
chỉ
đại
loại
như
một
bài viết
về
đức
tin giữa
các khoa học
gia vào hiện
tại
này, và có rất
nhiều
lý lẽ
để
tin rằng
các phương
pháp của
khoa học
sẽ
đủ
để
hoặc
là chứng
minh hoặc
phế
bỏ
điều
ấy.
Một
cách không tránh khỏi,
các nhà khoa học
coi ý thức
như là một thuộc tính đơn thuần của
một
số
động
vật
có não bộ
lớn.
Tuy nhiên, vấn
đế
là khi được
khảo
cứu
như
thể
một
hệ
thống
vật
lý, không có gì về não bộ khẳng
định
được
nó là tác nhân mang gánh cái đại
lượng
nội
tại,
khác thường
mà mỗi
chúng ta chứng
nghiệm
như
là ý thức
trong mỗi
trường
hợp riêng của
mình. Mỗi
luận
thuyết
toan tính tỏa
ánh sáng lên biên giới
giữa
ý thức
và vô thức,
tìm kiếm
sự
khác biệt
vật
chất
khiến
tạo
nên một
thứ
phi thường,
lệ
thuộc
vào các báo cáo chủ
quan để
báo hiệu
một
sự
kích thích thử
nghiệm
đã được
theo dõi
[4] .
Ðịnh
nghĩa có thể
dùng được
cho ý thức,
do đó, là tính thông báo được (reportability). Nhưng
ý thức
và tính thông báo được không phải
là cùng một
thể
loại.
Loài sao biển
có ý thức
không ? Không có khoa học
nào đúc kết
được ý thức
với
tính thông báo được để mang đến
một
câu trả
lời
cho câu hỏi
này. Để
tìm kiếm
ý thức
trong thế
giới
trên căn bản
của
các biểu
hiệu
trông thấy
được
là điều
duy nhất
chúng ta có thể
làm. Tuy nhiên, để
xác định
ý thức
trong các ý nghĩa của
những
biểu
hiện
trông thấy
được
là một
sai lầm.
Các máy điện
toán của
tương
lai, đủ
tiến
bộ
để
đậu
được
trắc
nghiệm
Turing sẽ
mang đến
được
một
tính cách phong phú về
loại
tự-thông
báo - nhưng
chúng sẽ
có tính ý thức
hay không ? Nếu
như
chúng ta chưa
từng
được
hiểu
thì sự
hùng biện
về
nội
dung này sẽ
không quyết
định
được
vấn
đề.
Ý thức
có lẽ
là một
hiện
tượng
sơ đẳng hơn
là các sinh thể
sống
và não bộ
của
chúng. Và có lẽ
không có một
phương
cách rõ ràng nào để
loại
trừ
một
tiền
đề
có tính thực
nghiệm
[5] như
thế.
Và do vậy,
dù chúng ta hiểu
biết
khá nhiều
về
chính chúng ta trong các ý nghĩa về
cơ
thể,
tâm lý, và tiến
hóa, chúng ta hiện
hoàn toàn không biết tại
sao nó lại
"giống
như
một
điều
gì" để
trở
thành như
chúng ta. Cái sự
thật
mà vũ trụ
lấp
lánh nơi
bạn
đứng,
các suy nghĩ và trạng
thái cùng tình cảm
của
bạn
có tính cách thuộc
về
phẩm
chất
thực
là một
bí ẩn
tuyệt
đối
- chỉ
so sánh được
từ
sự
bí ẩn
vốn
được
chắp
nối
mạch
lạc
một
cách nổi
tiếng
bởi
triết
gia Schelling, rằng
chắc
là phải
có bất
cứ
một
điều
gì trong vũ trụ
này hơn
là không có gì cả.
Vấn
nạn
ở
chỗ
là kinh nghiệm
của
chúng ta về
não bộ,
như
một
đối
tượng
của
thế
gian, đã khiến
chúng ta hoàn toàn vô cảm
về
cái thực
tại
của
ý thức,
trong khi kinh nghiệm
của
chúng ta như
một
não bộ
chẳng
cho chúng ta được
một
kiến
thức
gì cả.
Căn cứ
vào tình huống
này, thật
là hợp
lý để
kết
luận
rằng
khu vực
của
tính chủ
quan chúng ta cấu
thành một
không gian thích ứng
(và thiết
yếu)
của
sự
nghiên cứu
vào bản
chất
của
vũ trụ:
như
thể
một
số
sự
thực
sẽ
được
khám phá chỉ
bằng
ý thức,
trong các giới
hạn
của
người
đầu
tiên hoặc
không hề
khám phá ra điều
gì cả.
Nghiên cứu
trực tiếp bản
chất
của
ý thức
thông qua sự
xem xét nội
tâm kéo dài, đơn
giản
chỉ
là tên gọi khác cho sự
thực
hành tâm linh. Nên tách bạch
rõ ràng là bất
kể
kinh nghiệm
của
bạn
có thể
chuyển
hóa được
ra sao-sau bốn
mươi
ngày đêm trong sa mạc,
sau hai mươi
năm trong hang động
hay là sau khi một
số
cơn
đau serotonin đã được
truyền
vào hệ
thống
thần
kinh của
bạn-
những
chuyển hóa này sẽ
là một
vấn
đề
của
các thay đổi
xảy
ra trong nội
dung của
ý thức
bạn.
Bất
kể
Jesus đã chứng
nghiệm
gì, ông đã chứng nghiệm
bằng
ý thức.
Nếu
ông yêu người
láng giềng
như
chính mình thì điều
này chỉ giống như là một
giải
thích về
việc
Jesus đã cảm
thấy
như thế nào giữa hiện
diện
của
những
con người
khác. Lịch
sử
của
tâm linh nhân loại
là lịch
sử
của
các nỗ
lực
khám phá và thay đổi
sự
cung cấp
của
ý thức
thông qua các phương
pháp như
tuyệt
thực, ca múa, loại
bỏ
cảm
giác, cầu
nguyện,
thiền định và sự
xử
dụng
các dược
thảo
về tâm lý. Không còn thắc
mắc
gì nữa
về
những
chứng
nghiệm
thuộc
loại
này có thể
được
thực
hiện
trong một
nội
dung hợp
lý. Thật
thế,
chúng là những
phương
tiện
duy nhất
của
chúng ta để
quyết
đoán được
các điều
kiện
của
con người
có thể
chuyển
hóa một
cách có chủ
tâm đến
giới
hạn
nào. Công việc
táo bạo
đó chỉ trở
nên vô lý khi con người
bắt
đầu
tạo
ra các khẳng
định
về
thế
gian mà không được
hỗ
trợ
bởi
các chứng
cứ
thực nghiệm.
Chúng ta
đang gọi "ta" là gì ?
Các khả
năng tâm linh của chúng ta phần lớn tùy thuộc vào những gì mà chính chúng ta là.
Trong các ý nghĩa vật lý, mỗi chúng ta là một hệ thống, khóa chặt trong một sự
hoán chuyển không gián đoạn của vật chất và năng lực với một hệ thống lớn hơn
của địa cầu. Cuộc đời của chính các tế bào của bạn được xây dựng trên một mạng
lưới các hoán đổi qua lại mà bạn có thể xử dụng chỉ một tác dụng ý thức thô sơ
nhất - trong hình thức quyết định mình có nên nín thở hay là lấy thêm một lát
pizza nữa ra khỏi tủ lạnh. Như một hệ thống vật chất, bạn không còn được độc lập
hơn là lá gan của mình về bản chất ở khoảnh khắc này như toàn bộ cơ thể mình.
Như một tập hợp của các tế bào tự phối và tự chia liên tục, bạn cũng có tính
liên tục với những điềm báo trước có tính di truyền của mình: cha mẹ mình, và
trở về hàng chục triệu thế hệ - ở cái thời điểm mà tổ tiên của bạn bắt đầu nhìn
ít giống những đàn ông, đàn bà từ bộ răng xấu xí như những váng bẩn nổi trên
mặt ao hồ. Thật xứng đủ để nói rằng, trong các ý nghĩa về thể chất, bạn không
khác gì một gợn nước xoáy trong dòng sông vĩ đại của sự sống.
Nhưng, dĩ
nhiên bản thân cơ thể của bạn là một môi trường đầy những sinh thể, trong mối
quan hệ đến những sinh thể bạn có chủ quyền chỉ trong danh xưng. Ðể khảo sát cơ
thể của một con người, các cơ phận và mạch máu, các tế bào và các vi sinh khuẩn
đường ruột (than ôi, có khi là fauna), là để phải đương đầu với một thế giới
không còn làm chứng gì hơn về trí thông minh có tính ý thức hơn là thế giới trên
quy mô lớn. Có lý do nào để để nghi ngờ, khi quan sát chức năng của các ti thể
bên trong một tế bào, hay sự co rút của các cơ bắp trong bàn tay, rằng có một ý
thức , ở trên và vượt ra khỏi một tiến trình như thế để nghĩ rằng “tổ quốc chính
là ta” (L’etait c’est moi). Thật vậy bất cứ đặc quyền nào chúng ta đã toan để
hòa hợp với cái giới hạn của làn da bọc ngoài trong cuộc tìm kiếm của chúng ta
cho cái ta vật chất có lẽ là hoàn toàn tùy tiện.
Các giới
hạn của cái ta tâm trí còn không dễ nhận diện hơn: các di truyền văn hóa, những
điều cấm kỵ, các hình thái nghi lễ, các quy ước về ngữ học, những định kiến, các
lý tưởng, thành kiến thẩm mỹ, các âm hưởng thương mại – cái hiện tượng đang cư
trú các miền đất xinh đẹp của tâm hồn chúng ta là các di dân từ thế giới nói
chung. Nếu bạn ao ước muốn được gọn gàng - muốn có thị hiếu trong ăn mặc, ý thức
cộng đồng của bạn, mong đợi của bạn về lòng tử tế với nhau, sự hổ thẹn của bạn,
tính nhã nhặn của bạn, kiểu cách tình dục của bạn v.v...- điều gì bắt nguồn từ
chính nơi bạn ? Đó có phải là những suy tưởng đúng nhất về những gì đang trú
trong bạn hay không ? Những hiện tượng này là các kết quả trực tiếp sự ngâm
nhúng của bạn vào trong một thế giới của những mối quan hệ xã hội và văn hóa (
cũng như là sản phẩm của di truyền của bạn). Nhiều hiện tượng tựa như không còn
là "bạn" nữa, hơn là quy luật văn phạm Anh văn cho thấy "bạn" là ai.
Và rồi thì,
những cảm giác về một bản ngã vẫn tiếp tục dai dẳng. Nếu như cái ý nghĩa "ta"
nói đến bất cứ điều gì, thì đơn giản là nó không chỉ nói về thể xác. Sau cùng,
hầu hết chúng ta cảm thấy như một bản ngã riêng trong khuôn khổ của thể xác. Tôi
nói về thể xác của tôi cũng như tôi nói về chiếc xe hơi của mình, vì một lý do
đơn giản là mọi hành vi của nhận thức hay nhận biết chuyên chở ý nghĩa ẩn kín
rằng cái biết là điều gì khác hơn điều được biết. Hệt như cái ý thức của tôi về
chiếc xe hơi của tôi chứng tỏ rằng tôi, như một chủ thể, là điều gì khác hơn
chiếc xe của tôi, là một vật thể, tôi có thể được nhận biết từ tay mình, hay từ
một cảm xúc, và chứng nghiệm cùng một sự phân tích giữa chủ thể và vật thể. Vì
nguyên nhân này, cái bản ngã đơn giản không thể ngang bằng với cái tổng thể của
đời sống tinh thần của một người hay với cái tính cách của người ấy như một sự
toàn bộ[6] . Hơn
thế nữa, đó là trọng tâm của quan điểm về những tình trạng thay đổi của tinh
thần và thể xác xuất hiện như sao chùm. Bất kể mối tương quan giữa ý thức và thể
xác thực sự như thế nào, trong các ý nghĩa chứng nghiệm của thể xác là một điều
gì mà đối với bản ngã ý thức nào, nếu có một bản ngã như thế, có giá trị trong
mối tương quan với nhau. Một cách chính xác là khi, trong những ý nghĩa tiến bộ
hay cách mạng, trọng tâm của quan điểm này nảy sinh không được biết đến, nhưng
có một điều rõ ràng ; vào một số thời điểm trong năm đầu của hầu hết đời sống
con người được rửa tội như thể "tôi", một chủ thể quanh năm suốt tháng, cho kẻ
mà tất cả các xuất hiện, bên trong bên ngoài, trở nên vật thể của một thể loại,
được chờ đợi để được biết đến. Và nó là cái "tôi" mà mọi nhà khoa học bắt đầu
cuộc truy tìm vào bản chất của thế gian và mọi con người ngoan đạo đều chắp tay
trong lời cầu kinh của mình.[7]
Ý nghĩa của
bản ngã có lẽ là sản phẩm của hành vi do chính mình miêu tả về hình ảnh của não
bộ; cái nhìn về thế giới của nó tạo ra một hình ảnh của kẻ nhìn thấy. Thật là
quan trọng để nhận ra rằng cảm giác này – cảm giác mà mỗi chúng ta có về sự
thích ứng, hơn là cái thuần túy tồn tại, một không gian của chứng nghiệm – không
phải là đặc điểm cần thiết của ý thức. Nói cho cùng, có thể hiểu được rằng một
sinh vật có thể tạo nên một tiêu biểu của thế giới mà không cần phải tạo nên một
tiêu biểu của chính mình trong thế giới. Và thật ra nhiều người thực hành tâm
linh khẳng định sự chứng nghiệm thế giới đúng từ cách thức này, dịch chuyển hoàn
hảo từ bản ngã.
Một tìm
kiếm căn bản về ngành thần kinh tâm lý học sẽ tăng thêm niềm tin cho các loại
khẳng định đó. Không nhiều lắm về việc chúng là gì mà chúng làm gì khiến các tế
bào thần kinh nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ và cảm được. Như các hoạt động khác xuất
hiện từ hoạt động của não bộ, cái cảm giác về tự thân được xem đúng nhất là một
tiến trình. Do đó, điều này không đáng ngạc nhiên lắm khi chúng ta có thể mất
cảm giác này, bởi vì tiến trình, bởi chính tính chất của nó, có thể bị gián
đoạn. Trong khi các chứng nghiệm về tính tự thân không cho thấy điều gì về mối
quan hệ giữa ý thức và thế giới vật chất (và từ đó lặng im về câu hỏi cái gì xảy
ra sau khi chết), các chứng nghiệm này có những ám chỉ rộng rãi cho các khoa học
về tâm thức, cho các tiếp cận của chúng ta về tâm linh, và cho các nhận thức của
chúng ta về hạnh phúc của con người.
Như một
hiện tượng tinh thần, việc đánh mất bản ngã không hiếm hoi như sự cẩu thả có
tính uyên bác về chúng mang lại. Kinh nghiệm này được đặc điểm hóa bởi sự mất
đột ngột của nhận thức khách quan/chủ quan: chuỗi liên tục của kinh nghiệm vẫn
còn lại, nhưng người ta không còn cảm giác là có một điều được biết đứng giữa
cái biết . Các suy nghĩ có thể xuất hiện, nhưng cảm giác khiến một người là kẻ
suy nghĩ của những tư tưởng này đã tan biến mất. Một điều gì đã dứt khoát thay
đổi ở mức kinh nghiệm của một khoảnh khắc -đến-khoảnh khắc của một người, và sự
thay đổi này - sự biến mất của bất cứ điều gì được gọi bằng “tôi/ta” có thể gắn
dính vào một cách trung thực – báo hiệu rằng đã từng có một chứng nghiệm có ý
thức về cái tự thân(selfhood) suốt lúc đó tuy nhiên khó có thể biểu thị được đặc
điểm của nó.
Hãy nhìn
vào cuốn sách này như một đối tượng vật chất. bạn ý thức được nó như một xuất
hiện trong ý thức. Bạn có thể cảm giác rằng ý thức của mình là một việc – nó là
bất cứ điều gì lấp lánh thế giới của bạn có lẽ từ một số điểm sau đôi mắt của
bạn, và cuốn sách là một việc khác. Đây là loại nhận thức có tính nhị phân (chủ
quan/khách quan) đã đặc điểm hóa kinh nghiệm đời sống thông thường của chúng ta.
Tuy nhiên, có thể tìm thấy chính mình bằng cách đặt phép lưỡng phân này trong
nghi vấn-và ngay cả vứt bỏ tất cả chúng đi.
Các nội
dung của ý thức – ánh sáng, âm thanh, cảm giác, suy nghĩ, tính cách v.v…- bất cứ
chúng là gì ở vị trí nào của não bộ, đơn thuần là các diễn tả của ý thức ở tầm
mức của kinh nghiệm chúng ta. Không nhận thức được như thế, đa số các xuất hiện
này có lẽ tác động đến ý thức từ bên ngoài, và ý thức về cái ta nổi lên, và trở
nên bám chặt vào, khi cái cảm giác là cái điều mình biết bị giới hạn, điều
chỉnh, và thường bị đè nén bởi cái được biết. Thật thế, điều này tựa như cha mẹ
chúng ta tìm thấy chúng ta trong những cái nôi rất lâu trước khi chúng ta tìm
thấy mình ở đó, và rằng chúng ta thuần túy bị hướng dẫn bởi những cái nhìn chăm
chú, các chỉ trỏ của họ để kết hợp chung quanh một trung tâm của nhận thức có
tính ám chỉ vốn không thực sự hiện hữu
[8] .
sau đó, mỗi vuốt ve chăm sóc, mỗi thỏa mãn của cơn đói khát cũng như các hình
thức thay đổi của sự tán thành hay khiển trách đến trong sự trả lời về các hành
động của tinh thần nội tại của chúng ta, có lẽ xác định một ý thức bản ngã mà
chúng ta, thí dụ, cuối cùng học để gọi "ta" - và do đó chúng ta đã trở nên một
quỹ tích hẹp chung quanh tất cả các sự việc và các biến cố, vui vẻ và không vui
vẻ, tiếp tục cuốn xoáy.
Trong các ý
nghĩa chủ quan, cuộc truy tìm bản ngã có lẽ dẫn đến một nghịch lý: sau cùng,
chúng ta đang tìm kiếm chính ngay điều vốn đang thực hiện sự tìm kiếm. tuy nhiên
hàng nghìn năm của kinh nghiệm nhân loại cho thấy rằng cái nghịch lý ở đây chỉ
là bên ngoài; nó không chỉ thuần túy rằng cái thành phần cấu thành của kinh
nghiệm chúng ta khiến chúng ta gọi "ta" không thể tìm thấy được; chính là nó đã
thực sự biến mất khi tìm kiếm trong một phương cách nghiêm nhặt.
Những điểm
đề cập trên chỉ là một nước bóng bên ngoài hiện tượng học ở đây, nhưng nó cũng
đủ để cho chúng ta bắt đầu. Cái căn bản sự thực (và tôi nghĩ không thể bàn cãi
được) chính là hầu hết nhân loại trải nghiệm tính hai mặt của chủ thể và đối thể
trong một số giới hạn, và hầu hết chúng ta cảm thấy sức mạnh của nó gần như
trong mọi khoảnh khắc của đời sống. Chắc chắn không phải là sự cường điệu để bảo
rằng cái cảm giác mà chúng ta gọi “ta” là một trong những đặc điểm rông khắp và
dễ thấy nhất của đời sống nhân loại: và các ảnh hưởng trên thế giới của nó, khi
sáu tỉ “bản ngã” theo đuổi các kết quả khác nhau và đôi khi hoàn toàn không
tương thích với nhau, so với những thứ có thể gán cho hầu hết những hiện tượng
khác trong thiên nhiên. Rõ ràng, Không có điều gì là tối ưu- hoặc ngay cả
sống còn được một cách cần thiết- về hình thái hiện tại của chủ quan chúng
ta. Hầu như mọi vấn nạn nào chúng ta cũng có thể gán cho sự thật là con người bị
lừa dối đến tận cùng bởi cảm giác của sự phân chia. Có lẽ rằng một tính chất tâm
linh có thể sói mòn được tính nhị nguyên ấy, chỉ qua sự trầm tưởng của ý thức,
đã không giúp được gì nhưng cải thiện được tình thế của chúng ta. Sẽ có hay
không có một số lượng rất lớn những con người dự phần vào vai trò khám phá địa
hình địa vật này là tuỳ thuộc vào cuộc luận bàn về tôn giáo của chúng ta tiến
hành như thế nào. Rõ ràng là không có một trở ngại nào cho cuộc tiếp cận thực sự
đến kinh nghiệm tâm linh lớn hơn các niềm tin hiện tại của chúng ta về Thượng
Ðế.
(còn tiếp)>>
Chú thích
[1] Tôi không có ý
cho rằng
tự
thân những
suy nghĩ ấy
không tương
đương
với
một
số
thể
trạng
của
não bộ.
Tuy nhiên, trong các phạm
trù có tính quy ước,
có một
sự
khác biệt
khá rộng
rãi giữa
việc
uống
thuốc
và tiếp
nhận
một
ý tưởng
mới.
Rằngcả
hai đều
có cái sức
mạnh
có thể
thay đổi
nhận
thức
của
chúng ta và là một
trong những
sự
thực
mê say hơn
về
tâm thức
nhân loại.
[2] Vì những
sách vở
này quá nhiều
để
có thể
trích dẫn
ở
đây, khá nhiều
thí dụ
của
những
văn bản
ấy
có thể tìm thấy
trong thư mục
của
tôi.
[3] Ðiều
gì xảy
ra sau khi chết
thực
sự
là một
bí ẩn,
tương
tự
như
mối
quan hệ
giữa
ý thức
và thế
giới
vật
chất,
những
không còn mối
hoài nghi nào về
việc
tính cách của
các tâm thức
của
chúng ta có lệ
thuộc
vào các chức
năng của
não bộ
hay là không- và lệ
thuộc
trong các phương
cách hết
sức
phản
trực
giác. Thử
suy nghĩ về
một
trong những
đặc
điểm
chung của
kinh nghiệm
cận
kề
cái chết:
sự
gần
chết
có lẽ
thường
là gặp
lại
những
người
thân thương
đã chết
trước
đó trong một
thế
giới
khác. Hãy đọc
: Experiences near Death:Beyond Medicine and Religion của
A. Kellerhear (Oxford:Oxford Univ. Press, 1996). Tuy nhiên, chúng ta hiểu
rằng
nhận
ra được
dung mạo
của
một
người
phải
cần
đến
một
phần
não hình thoi nguyên vẹn,
chủ
yếu
nằm
trong bán cầu
não bên phải.
làm tổn
thương
đến
phần
não này dứt
khoát sẽ
tước
đoạt
mất
khả
năng nhận
biết
được
khuôn mặt
(giữa
các thứ
khác), một
tình trạng chúng ta gọi
là chứng
bệnh
mù diện
mạo
(prosopagnosia). Một
người
ở
trong tình trạng
này không có gì hư
hỏng
với
thị
giác chính của
mình. Họ
có thể
thấy
được
màu sắc
và hình dạng
rất
tốt.
Họ
có thể
nhận
biết
được
hầu
hết
mọi
thứ
từ
môi trường
chung quanh, nhưng
không phân biệt
được
các diện
mạo
khác nhau của
ngay cả
thân nhân, bạn
bè mình. Phải
chăng chúng ta sẽ
tưởng
tượng
ra trong những
trường
hợp
như thế một
người
sở
hữu
một
tâm hồn
nguyên vẹn,
đang ở
đâu đó đàng sau tâm trí, khiến
duy trì được
khả
năng nhận
biết
được
những
người
than yêu của
mình ? Có thể
là như
thế.
Thực
ra, trừ
khi tâm hồn
duy trì được
tất
cả
những
năng lực
thuộc
về
nhận
thức
và kinh nghiệm
thông thường
của
một
não bộ
lành mạnh,
thiên đường
sẽ
được
trú ngụ
bởi
những
con người
đau khổ
vì tất
cả
các loại
thiếu
hụt
thần
kinh. Nhưng
rồi
thì, chúng ta là gì để
nghĩ được về
tình trạng
của
thần
kinh hư
hại
khi chúng ta còn đang sống
? Một
người
bị
bệnh
mất
ngôn ngữ
(aphasia) có thể
có một
linh hồn
biết
đọc,
nói và suy nghĩ trôi chảy
không ? Một
người
có hệ
thống
thần
kinh vận
động
bị
thoái hóa bởi
chứng
mất
khả
năng điều
hòa (cerebellar ataxia) có thể
có một
linh hồn
mang được
sự phối
hợp
của
tay-mắt
không ? Điều
này tựa
như
tin rằng
bên trong bất
cứ
chiếc
xe hỏng
nát nào cũng ẩn
chứa
sẵn
một
chiếc
xe mới
khác chỉ
chờ
để
được
chui ra.
Sự
không hợp
lý của
một
linh hồn
có năng lực
độc
lập
với
não bộ
chỉ
gia tăng một
khi chúng ta nhận
ra được
rằng
ngay cả
một
bộ
não bình thường
cũng có thể
được
đặt
ở
đâu đó trong quá trình liên tục
của
bệnh
lý. Tôi biết
linh hồn
mình nói tiếng
Anh bởi
vì đó là cái ngôn ngữ
vốn
đi ra từ
trong tôi mỗi
khi tôi nói hay viết.
Tôi cũng biết
khá nhiều
tiếng
Pháp nữa.
Dường
như
là tôi đã quên hầu
hết
tiếng
Pháp mặc
dù vì những
cố
gắng
giao tiếp
của
tôi khi ở
Pháp đã khiến
tạo
nên không ít khôi hài và kinh hoảng
nơi
nhiều
người
bản
xứ.
Tuy nhiên, chúng ta biết
rằng
cái khác nhau giữa
điều
tôi nhớ
và không nhớ
là một
nội
dung thuộc
về
các khác biệt
thể
lý nơi
các mạch
dẫn
trong não bộ
của
tôi-đặc
biệt
là ở
các mối
tiếp
giáp có nhiệm
vụ
thu thập
và giải
mã thông tin hoặc
cả
hai. Do đó, việc
quên tiếng
Pháp của
tôi, cũng có thể
được
xem như
một
hình thức
hư
hại
về
thần
kinh. Và bất
cứ
người
Pháp nào bỗng
thấy
khả
năng ngôn ngữ
của
mình bị
xuống
cấp
đến
mức
như
tôi chắc
phải
mau mau đến
bệnh
viện
để
chữa
trị.
Vậy
linh hồn
của
y có giữ
được
cái năng lực
ngôn ngữ
trong bất
cứ
trường
hợp nào ? Linh hồn
của
tôi có giữ
trong ký ức
của
nó cách chia động
từ
bruie ? Ý niệm
về
sự
độc
lập
của
linh hồn
não bộ
này sẽ
chấm
dứt
ở
đâu ? Một
người
nói tiếng
bản
xứ
của
một
trong những
ngôn ngữ
Batu sẽ
nhận
ra rằng
chức
năng từ
bộ
phận
vỏ
não của
tôi thực
còn đáng thèm hơn.
Cứ
cho rằng
tôi chưa
từng
nghe các âm thanh Batu khi còn là đứa
trẻ,
chắc
chắn
rằng
tôi sẽ
tìm thấy
một
sự
khó khăn vô cùng nếu
không muốn
nói là bất
khả
để
phân biệt
được
các âm thanh ấy,
ngay cả
đến
việc
không thể
chế
biến
lại
trong một
cách thức
khiến
người
nói tiếng
bản
xứ
có thể
thỏa
mãn. Nhưng
có lẽ
là linh hồn
của
tôi cũng tinh thông ngôn ngữ
Batu nữa.
Chỉ
có năm trăm loại
ngôn ngữ
Batu như
thế.
[4] Bất
kể
góc độ
tiếp
cận
là thông qua nghiên cứu
về
các ảnh
hưởng
chính, chứng
mù thoáng qua [change blindness] (D.J.Simsons et al., “Evidence for
Preserved Representations in Change Blindness, ” trong Consciousness
and Cognition 11, số
1 [2002] : tr. 78-97), chứng
mất
thị
giác và cẩu
thả
thị
trường
[visual extinction and visuospatial neglect] (G. Rees et al., “Neural
Correlates of Consciousness in Humans” Nature Reviews Neuroscience
3, [tháng Tư
2002] tr. 261-70, chứng
thị
giác ganh đua và các tri giác
ổn kép khác [binocular rivalry
and other bistable percepts] (R.Blake và N.K. Logothetics, “Visual
Competition” Nature Reviews Neurocience 3, s số
1 [2002] : tr. 13-21; N.K. Logothesis, “Vision: A Window on
Consciousness” Scientific American Special Edition 12, số
1 [2002] 18-25, hoặc
chứng
mù blind sight (L. Weikrantz, “Prime-sight and Blindsight”
Consciousness and Cognition 11, số
4 [2002] : 568-81, chỉ
dấu
của
một
nhận
thức
tỉnh
táo luôn luôn như
nhau: chủ
thể
(là một
người
cường
tráng [he man] hay một
con khỉ)
chỉ
đơn
giản
nói với
chúng ta, bằng
ngôn từ
hay hành động,
rằng
đặc
điểm
kinh nghiệm
của
y đã đổi
thay hay không.
[5] Tại sao những cách gây
mê thông thường không phải là một phương cách để loại bỏ ? Ngâm não bộ
vào trong những hoá chất cần thiết, và con người mấy ý thức- thế là hết
chuyện. Tuy nhiên, vấn nạn là chúng ta không biết rằng tự bản thân ý
thức thực sự bị gián đoạn trong khi bị gây mê. Cái khó khăn của việc
thổi phồng ý thức lên với khả năng có thể chuyển đạt là ở chỗ chúng ta
không thể phân biệt được sự ngưng lại đích thực của ý thức chỉ từ sự
thất bại của ký ức. Lúc ngủ vào ban đêm thì sao ? Bạn có thể cảm thấy là
không có gì cả - bạn đã là"không có ý thức". Thế còn những giấc mơ mà
bạn không nhớ ? Chắc chắn là bạn có ý thức khi mình mơ. Thật thế, bạn có
thể đã có ý thức trong suốt các giai đoạn của giấc ngủ. Chúng ta không
thể loại trừ khả năng này xuyên qua chỉ riêng sự chuyển đạt có tính chủ
quan (subjective report).
[6] Tuy nhiên, đây đúng là
những loại tương đương mà các nhà khoa học và triết học nghiên cứu về
"cái ta' dể bị lôi kéo. Một hội nghị vừa được tổ chức ở Viện Khoa học
Nữu Ước có tên gọi "Cái ta:Từ Tâm hồn đến Não bộ", và dù cho đa phần các
quan tâm được phát biểu về não bộ, không có đến một thuyết trình viên
nào định rõ được cái ta trong một phương cách để có thể phân biệt được
nó từ những khái niệm thực sự có tính toàn thể như "tâm hồn con người"
hay "tính cách người". Cái cảm giác mà chúng ta gọi "tôi/ta" đã bị bỏ
qua không hề đụng chạm đến.
[7] Dù rõ ràng không vượt
qua khỏi được sự phân chia chủ thể/khách thể như là một vấn đề của kinh
nghiệm ổn định, một số triết gia đã thoái thác vấn đề ấy một cách khái
niệm trong suy nghĩ của mình. Thí dụ như Satre đã nhìn thấy rằng chủ thể
có thể không là gì hơn một đối thể khác trong lãnh vực của ý thức, và do
đó, đã là một thứ “ có tính cùng thời với Thế gian” :
Thế gian không tạo ra tôi; tôi không tạo nên thế gian. Đấy là hai khách
thể cho ý thức tuyệt đối không liên quan đến ai, và từ cái hiệu quả của
ý thức này mà chúng liên hệ với nhau. Cái ý thức tuyệt đối này, khi được
thanh tẩy bởi cái tôi, sẽ không còn có điều gì về cái chủ thể…Đó đúng là
một điều kiện đầu tiên và cội nguồn tuyệt đối của sự hiện hữu. Và mối
quan hệ của sự phụ thuộc lẫn nhau được hình thành từ ý thức tuyệt đối
này giữa tôi và thế giới, cho cái tôi (gián tiếp và thông qua các tình
trạng trung gian) để mô tả nên tất cả các nội dung của nó từ Thế giới.
Không có điều gì khác cần đến trong phương cách của nền tảng triết học
cho một phương cách xử thế và một quan điểm chính trị nào chắc chắn
tuyệt đối.
Theo J.P.Sartre trong The Transcendence of the Ego: An Existentialist
Theory of Consciousness, dịch bởi F.Williams và R. Kirpatrick (New
York: Hill and Wang, 1937), tr. 105-6.
Maurice Merleau-Ponty có quan điểm tưong tự, ngay cả khi ông tự hạn chế
mình trong ngôn ngữ của chủ thể/khách thể: “Thế giới không thể tách khỏi
chủ thể, nhưng từ một chủ thể vốn không là gì ngoài một phỏng chiếu của
thế giới, và chủ thể không thể tách khỏi thế giới nhưng từ một thế giới
mà chủ thể phỏng chiếu tự nó” Trích từ F. Varela at al., The Embodied
Mind: Cognitive Science and Human Experience ( Cambridge: MIT Press,
1991) tr. 4.
[8] Điều này không phải để
nói rằng trẻ con là bí ẩn. Tuy nhiên, một tiến trình gia tăng cá tính
hoá xuất hiện rõ rệt ngay từ khi sinh ra trở đi. Xin đọc K. Wilber, Sex,
Ecology, Spirituality (Boston: Shambhala, 1995) về một phê phán đến sự
tương đương sai giữa cái ông gọi là tiền-lý trí và chuyển tiếp-lý trí.
Như Wilber chỉ ra, không có lý do gì để lãng mạn hóa tuổi thơ trong các
ý nghĩa tâm linh. Thực ra, nếu như con trẻ của chúng ta như được sống
trên vương quốc của thiên đàng, tại sao lại ngăn chúng lại. Có lẽ chúng
ta đã hướng lòng ghen tỵ của mình đến những anh em linh trưởng của mình,
bởi vì chúng- khi không quá mất tự chủ bởi những khoái cảm của thói ăn
thịt người, hãm hiếp tập thể và tục giết trẻ sơ sinh- là những trẻ em
sung sướng hơn tất cả.