Sam Harris: Tận cùng của Ðức tin

Lê Quốc Tuấn chuyển Việt

¿ Mục lục toàn bài bản in ngày 22 tháng 1, 2010

CHƯƠNG 7

Các Thử nghiệm trong Ý thức

Tại cốt tủy của mỗi tôn giáo ẩn chứa một khẳng định không thể chối từ về thân phận loài người: có thể thay đổi một cách căn bản sự hiểu biết về thế gian của một con người. Mặc dù chúng ta thường sống trong khuôn khổ những giới hạn đặt để bởi những thói quen chú ý thông thường của mình - thức dậy, làm việc, ăn uống, xem truyền hình, trò chuyện với người khác, ngủ, mộng mơ - hầu hết chúng ta đều hiểu, dù mờ nhạt, rằng những kiến thức lạ thường có thể xảy ra.

Vấn nạn của tôn giáo là ở chỗ tôn giáo đã pha trộn hết sức nhuần nhuyễn sự thực này với nọc độc của sự phi lý. Lấy Kitô giáo làm một ví dụ: Việc Jesus là một người đã tự mình chuyển hóa thật chưa đủ để trở thành một mức độ khiến cho Bài giảng trên núi có thể là lời thú tội của lòng ông. Ông còn phải là con trai của Thượng đế, phải sinh ra từ sự trinh nguyên và có số phận phải trở lại thế gian trong các đám mây của vinh hiển. Hiệu quả của các tín điều ấy là để làm cho một kiểu mẫu như Jesus là vĩnh viễn không thể với tới được. Lời rao giảng của ông không còn là một tập hợp những khẳng định có tính kinh nghiệm chủ nghĩa về mối liên lạc giữa đạo đức và các nhận thức tâm linh mà thay vào đó đã trở thành câu chuyện thần kỳ vô cớ, khá ghê tởm. Theo tín điều của Kitô giáo, trở thành một con người như Jesus là điều bất khả. Người ta chỉ có thể tính đếm các tội lỗi của mình, tin vào những điều không thể tin được và chờ ngày tận thế.

Nhưng một câu trả lời toàn bộ hơn cho sự hiện hữu là có khả năng với chúng ta, và sự minh chứng về Jesus cũng như hàng vạn sa số những người đàn ông, đàn bà khác qua nhiều thế hệ, đã chứng thực cho điều này. Thử thách cho chúng ta là sự bắt đầu nói về những khả năng này trong những ý nghĩa hợp lý.

Cuộc truy tìm Hạnh phúc

Ngay các bông hoa ngoài đồng cũng được che phủ một cách tuyệt diệu, tôi và quý bạn bị lôi ra khỏi tử cung trần truồng và kêu la thất thanh. Chúng ta cần gì để được hạnh phúc ? Hầu như tất cả những gì chúng ta làm đều được xem như câu trả lời cho câu hỏi này. Chúng ta cần thức ăn, quần áo và chốn che thân. Chúng ta cần bầu bạn. Và rồi chúng ta cần học hỏi vô vàn những điều để tận hưởng được tất cả những điều này. Chúng ta cần tìm được việc làm mà mình thích, và chúng ta cần thì giờ cho các giải trí. Chúng ta cần rất nhiều thứ, và dường như không có gì thay thế được ngoài việc cứ tìm kiếm và tiếp tục tìm kiếm, hết điều này đến điều khác, hết giờ này qua giờ khác.

Nhưng phải chăng những điều ấy có hằng đ để hạnh phúc ? Phải chăng một con người được bảo đảm sẽ được hạnh phúc chỉ từ việc có sức khỏe, tiền bạc và những người thân thích bạn bè tốt ? Rõ ràng là không. Phải chăng những điều ấy thực sự cần thiết cho hạnh phúc ? Nếu đúng là cần thiết thì tại sao những người theo phái Yoga ở Ấn độ từ bỏ tất cả vật chất và các vướng mắc gia đình chỉ để trải qua nhiều chục năm cô độc trong hang động mà thực hành suy tưởng ? Dường như những người đó cũng hạnh phúc nữa. Thực thế, một số người đó đã khẳng định là họ hoàn toàn thực sự hạnh phúc.

Rất khó để mà tìm được một từ ngữ cho cái công việc khó khăn của con người nhắm trực tiếp đến hạnh phúc - đến loại hạnh phúc có thể sống sót nổi qua những thất vọng của tất cả các niềm ao ước thông thường. Thuật ngữ "tâm linh" như không thể tránh khỏi ở đây - và như tôi đã dùng đến nhiều lần trong cuốn sách này - nhưng thẳng thắn mà nói, thuật ngữ ấy có quá nhiều nghĩa rộng đến nỗi trở thành lúng túng. Có lẽ chữ "Chủ nghĩa thần bí" có vẻ trang trọng hơn nhưng từ ngữ ấy lại có quá nhiều liên kết không may của chính nó. Không một từ ngữ nào có thể nắm được tính hợp lý và sâu sắc của cái khả năng mà giờ đây chúng ta phải cân nhắc: rằng có một hình thái sảng khoái sung sướng (well-being) thay thế được tất cả mọi hình thái khác, thực ra là, vượt khỏi được tính cách hay thay đổi của bản thân các kinh nghiệm. Tôi sẽ dùng đế cả hai từ "tâm linh" và "chủ thuyết thần bí" một cách có thể thay đổi lẫn nhau ở đây, bởi vì, không có lựa chọn nào khác, nhưng xin các độc giả nên nhớ rằng tôi sẽ dùng đến hai từ ngữ này trong một ý nghĩa nghiêm ngặt. Trong lúc thăm viếng bất cứ tiệm sách thuộc thế hệ mới nào cũng sẽ khám phá ra rằng con người hiện đại đã từng ôm nắm một vùng nản lòng của các mối thiên kiến “tâm linh”- từ loại sức mạnh chữa bệnh của các tinh thể, cách thụt rửa ruột đến các sôi nổi của việc bắt cóc người hành tinh – các bàn luận của chúng ta sẽ tập trung đến một hiểu biết đặc thù vốn có thể có được một liên quan đặc biệt cho cuộc truy tìm hạnh phúc của chúng ta.

Hầu hết các giảng dậy về tâm linh đều đồng ý rằng có nhiều cách để đến với hạnh phúc hơn là trở nên một thành viên tích cực của xã hội, một khách hàng hớn hở của một lạc thú hợp pháp, và một kẻ tích cực sinh con đông đúc có ý thích hưởng thụ các lạc thú hợp pháp ấy . Thật thế, nhiều người cho rằng chính là cuộc truy tìm của chúng ta cho hạnh phúc – nỗi thèm muốn kiến thức và kinh nghiệm mới của chúng ta, nỗi khao khát nhận thức của chúng ta, các nỗ lực của chúng ta để tìm được một người bạn tình lãng mạn đúng cho mình, ngay cả lòng mong mỏi của chúng ta về bản thân một kinh nghiệm tâm linh- khiến chúng ta không chú ý đến một hình thái sảng khóai sung sướng (well-being) ẩn sâu đến sự hiểu biết trong từng phút giây hiện tại. Một số phiên bản của nhận thức này như nằm sâu trong cố tủy của nhiều tôn giáo của chúng ta, do đó không có cách gì để phân biệt được dễ dàng giữa các tín điều.

Mặc dù rất nhiều người chúng ta trải qua hàng bao nhiêu thập niên mà không phải chứng nghiệm một ngày trọn vẹn nào trong cô độc nhưng chúng ta thực đang sống cô độc trong tâm thức của chính mình trong từng khoảnh khắc. Bất kể là chúng ta sát kề bên người khác đến đâu, các khoái lạc và đau khổ cũng chỉ là của riêng mình. Thực hành tâm linh thường được nhắc đến như một cách giải quyết hợp lý nhất cho tình huống này. Cái khẳng định nằm ẩn náu ở đây là cái mà chúng ta có thể nhận ra được một điều gì về bản chất của ý thức trong khoảnh khắc này sẽ cải thiện được đời sống chúng ta. Kinh nghiệm của vô số nhà tu hành cho thấy rằng ý thức - thuần túy là điều kiện trong đó ta suy nghĩ, cảm xúc, và ngay cả ý thức về chính mình xuất hiện – không bao giờ thực sự thay đổi bởi cái gì nó hiểu được. Nghĩa là sự biết vui không thể trở thành niềm vui, sự biết buồn không thể chuyển thành nỗi buồn. Từ trọng tâm quan điểm về ý thức, chúng ta chỉ đon thuần hiểu được về ánh sang, âm thanh, cảm giác, trạng thái và các suy nghĩ. Nhiều bài giảng dậy về tâm linh cho rằng nếu chúng ta có thể nhận biết được bản sắc của mình như bản thân của ý thức, như chỉ là một chứng nhân của những sự xuất hiện, chúng ta sẽ nhận thấy được mình mãi mãi thoát khỏi các thăng trầm của kinh nghiệm.

Điều này không phải để chối bỏ rằng đau khổ có một chiều kích vật lý. Cái sự thực của một viên thuốc như Prozac có thể giảm nhẹ được rất nhiều triệu chứng trầm cảm cho thấy rằng các đau đớn về tinh thần có thể không còn là môt thứ siêu phàm hơn một viên thuốc màu xanh. Chúng ta hiểu bản thân các ý tưởng có được cái sức mạnh hoàn toàn xác định được kinh nghiệm của một con người về cả thế giới. [1] Ngay cả tầm quan trọng của cơn đau thể chất ghê gớm cũng được đưa vào sự diễn giải một cách chủ quan. Hãy thử nghĩ đến cơn đau đẻ: Có bao nhiêu phụ nữ thoát khỏi được kinh nghiệm đau đớn này ? Bản thân cơ dịp này thường là một cơ dịp hạnh phúc nếu như tất cả đều diễn ra xuông xẻ tốt đẹp với cuộc sản sinh. Thử tưởng tượng sự khác biệt sẽ đến là dường nào nếu người phụ nữ đã bị hành hạ bởi cơn đau đẻ thông thường lại phải đau khổ thêm vì một nhà khoa học điên loạn ? Các cảm giác có lẽ cũng giống nhau, nhưng những cảm giác này có lẽ là một kinh nghiệm tồi tệ nhất trong đời sống của bà sản phụ. Điều này rõ ràng là khiến phải đau đớn nhiều hơn ngay cả về thể chất hơn là những cái đau từ riêng cảm giác .

Các truyền thống tâm linh của chúng ta cho thấy rằng chúng ta có được khá đủ chỗ ở đây để thay đổi mối quan hệ của mình đối với các nội dung của ý thức, và từ đó chuyển hóa được kinh nghiệm của mình về thế gian. Thật vậy, đã có một khối lượng sách vở lớn lao chứng minh cho điều này.[2] Cũng rõ ràng là không có gì cần đến sự tin vào những chứng cớ yếu kém để chúng ta xem xét đến khả năng này với một tâm thức cởi mở.

Ý thức

Như Descartes, hầu hết chúng ta bắt đầu những câu hỏi này như những nhà tư tưởng, bị đào thải bởi những giới hạn từ tính chủ quan của mình để dối trá trong một thế gian vốn xuất hiện khác hơn là chúng ta tưởng. Descartes làm nổi bật tính lưỡng phân này bằng cách khẳng định có hai thực thể được tìm thấy trong vũ trụ của Thượng đế : vật chất và tinh thần. Ðối với tất cả chúng ta, một chủ thuyết nhị nguyên của loại này không khác gì một nội dung của hiểu biết thông thường (dù thuật ngữ “linh hồn” có vẻ hùng vĩ hơn, theo như tâm thức của chúng ta thường tự xử sự). Tuy nhiên, dù khoa học đã tỏa ánh sáng cụ thể trên các bí ẩn của tâm thức con người, thuyết nhị nguyên của Descartes (cùng với “tâm lý dân gian” của chính chúng ta) đã đi đến một số cư xử thô bạo. Ðược chống đỡ bởi các thành công không thể chối bỏ được qua ba thế kỷ của khảo cứu thuần túy khoa học, nhiều triết gia và khoa học gia giờ đây chối bỏ sự phân biệt của Descartes vế tinh thần và vật chất, tâm hồn và thể xác, như sự nhượng bộ đến lòng mộ đạo Kitô giáo rằng chắc chắn nó là như thế, và tưởng tượng rằng bằng cách ấy chúng đã xóa bỏ được vực sâu khái niệm giữa ý thức và thế giới vật chất.

Trong chương vừa rồi chúng ta đã thấy là các niềm tin của chúng ta về ý thức đã gắn liền mật thiết với đạo lý của chúng ta. Chúng cũng ngẫu nhiên có một quan hệ trực tiếp đến quan niệm của chúng ta về cái chết. Hầu hết các nhà khoa học tự nhận mình là các nhà vật lý học, điều này có nghĩa là họ tin rằng các đời sống tinh thần và tâm linh của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào sự hoạt động của não bộ chúng ta. Từ lý giải này, khi bộ não chết đi, dòng chảy của sự sống chúng ta phải đi đến chung cuộc. Một khi ngọn đèn của các hoạt động thần kinh đã tàn lụi, sẽ không còn gì sống sót nữa. Thật thế, nhiều nhà khoa học mang đến sự quả quyết này như thể tự bản thân nó là một lời nguyền thiêng liêng đặc biệt, thử mang điều thẳng thắn trí thức này mà hỏi ý bất cứ người đàn ông, phụ nữ, hay trẻ em nào xem ai là kẻ đủ cứng rắn để nuốt vào.

Nhưng sự thực là chúng ta đơn giản không hề biết được điều gì xảy ra sau khi chết đi. Mặc dù có quá nhiều điều đã được bàn cãi chống lại một khái niệm ngây thơ về một thứ linh hồn độc lập với não bộ [3] , nơi chốn của ý thức trong thế giới tự nhiên vẫn là một câu hỏi rộng mở. Ý tưởng rằng não bộ sản sinh ra ý thức chỉ đại loại như một bài viết về đức tin giữa các khoa học gia vào hiện tại này, và có rất nhiều lý lẽ để tin rằng các phương pháp của khoa học sẽ đủ để hoặc là chứng minh hoặc phế bỏ điều ấy.

Một cách không tránh khỏi, các nhà khoa học coi ý thức như là một thuộc tính đơn thuần của một số động vật có não bộ lớn. Tuy nhiên, vấn đế là khi được khảo cứu như thể một hệ thống vật lý, không có gì về não bộ khẳng định được nó là tác nhân mang gánh cái đại lượng nội tại, khác thường mà mỗi chúng ta chứng nghiệm như là ý thức trong mỗi trường hợp riêng của mình. Mỗi luận thuyết toan tính tỏa ánh sáng lên biên giới giữa ý thức và vô thức, tìm kiếm sự khác biệt vật chất khiến tạo nên một thứ phi thường, lệ thuộc vào các báo cáo chủ quan để báo hiệu một sự kích thích thử nghiệm đã được theo dõi [4] . Ðịnh nghĩa có thể dùng được cho ý thức, do đó, là tính thông báo được (reportability). Nhưng ý thức và tính thông báo được không phải là cùng một thể loại. Loài sao biển có ý thức không ? Không có khoa học nào đúc kết được ý thức với tính thông báo được để mang đến một câu trả lời cho câu hỏi này. Để tìm kiếm ý thức trong thế giới trên căn bản của các biểu hiệu trông thấy được là điều duy nhất chúng ta có thể làm. Tuy nhiên, để xác định ý thức trong các ý nghĩa của những biểu hiện trông thấy được là một sai lầm. Các máy điện toán của tương lai, đủ tiến bộ để đậu được trắc nghiệm Turing sẽ mang đến được một tính cách phong phú về loại tự-thông báo - nhưng chúng sẽ có tính ý thức hay không ? Nếu như chúng ta chưa từng được hiểu thì sự hùng biện về nội dung này sẽ không quyết định được vấn đề. Ý thức có lẽ là một hiện tượng sơ đẳng hơn là các sinh thể sống và não bộ của chúng. Và có lẽ không có một phương cách rõ ràng nào để loại trừ một tiền đề có tính thực nghiệm [5] như thế.

Và do vậy, dù chúng ta hiểu biết khá nhiều về chính chúng ta trong các ý nghĩa về cơ thể, tâm lý, và tiến hóa, chúng ta hiện hoàn toàn không biết tại sao nó lại "giống như một điều gì" để trở thành như chúng ta. Cái sự thật mà vũ trụ lấp lánh nơi bạn đứng, các suy nghĩ và trạng thái cùng tình cảm của bạn có tính cách thuộc về phẩm chất thực là một bí ẩn tuyệt đối - chỉ so sánh được từ sự bí ẩn vốn được chắp nối mạch lạc một cách nổi tiếng bởi triết gia Schelling, rằng chắc là phải có bất cứ một điều gì trong vũ trụ này hơn là không có gì cả. Vấn nạn ở chỗ là kinh nghiệm của chúng ta về não bộ, như một đối tượng của thế gian, đã khiến chúng ta hoàn toàn vô cảm về cái thực tại của ý thức, trong khi kinh nghiệm của chúng ta như một não bộ chẳng cho chúng ta được một kiến thức gì cả. Căn cứ vào tình huống này, thật là hợp lý để kết luận rằng khu vực của tính chủ quan chúng ta cấu thành một không gian thích ứng (và thiết yếu) của sự nghiên cứu vào bản chất của vũ trụ: như thể một số sự thực sẽ được khám phá chỉ bằng ý thức, trong các giới hạn của người đầu tiên hoặc không hề khám phá ra điều gì cả.

Nghiên cứu trực tiếp bản chất của ý thức thông qua sự xem xét nội tâm kéo dài, đơn giản chỉ là tên gọi khác cho sự thực hành tâm linh. Nên tách bạch rõ ràng là bất kể kinh nghiệm của bạn có thể chuyển hóa được ra sao-sau bốn mươi ngày đêm trong sa mạc, sau hai mươi năm trong hang động hay là sau khi một số cơn đau serotonin đã được truyền vào hệ thống thần kinh của bạn- những chuyển hóa này sẽ là một vấn đề của các thay đổi xảy ra trong nội dung của ý thức bạn. Bất kể Jesus đã chứng nghiệm gì, ông đã chứng nghiệm bằng ý thức. Nếu ông yêu người láng giềng như chính mình thì điều này chỉ giống như là một giải thích về việc Jesus đã cảm thấy như thế nào giữa hiện diện của những con người khác. Lịch sử của tâm linh nhân loại là lịch sử của các nỗ lực khám phá và thay đổi sự cung cấp của ý thức thông qua các phương pháp như tuyệt thực, ca múa, loại bỏ cảm giác, cầu nguyện, thiền định và sự xử dụng các dược thảo về tâm lý. Không còn thắc mắc gì nữa về những chứng nghiệm thuộc loại này có thể được thực hiện trong một nội dung hợp lý. Thật thế, chúng là những phương tiện duy nhất của chúng ta để quyết đoán được các điều kiện của con người có thể chuyển hóa một cách có chủ tâm đến giới hạn nào. Công việc táo bạo đó chỉ trở nên vô lý khi con người bắt đầu tạo ra các khẳng định về thế gian mà không được hỗ trợ bởi các chứng cứ thực nghiệm.

Chúng ta đang gọi "ta" là gì ?

Các khả năng tâm linh của chúng ta phần lớn tùy thuộc vào những gì mà chính chúng ta là. Trong các ý nghĩa vật lý, mỗi chúng ta là một hệ thống, khóa chặt trong một sự hoán chuyển không gián đoạn của vật chất và năng lực với một hệ thống lớn hơn của địa cầu. Cuộc đời của chính các tế bào của bạn được xây dựng trên một mạng lưới các hoán đổi qua lại mà bạn có thể xử dụng chỉ một tác dụng ý thức thô sơ nhất - trong hình thức quyết định mình có nên nín thở hay là lấy thêm một lát pizza nữa ra khỏi tủ lạnh. Như một hệ thống vật chất, bạn không còn được độc lập hơn là lá gan của mình về bản chất ở khoảnh khắc này như toàn bộ cơ thể mình. Như một tập hợp của các tế bào tự phối và tự chia liên tục, bạn cũng có tính liên tục với những điềm báo trước có tính di truyền của mình: cha mẹ mình, và trở về hàng chục triệu thế hệ - ở cái thời điểm mà tổ tiên của bạn bắt đầu nhìn ít giống những đàn ông, đàn bà từ bộ răng xấu xí như những váng bẩn nổi trên mặt ao hồ. Thật xứng đủ để nói rằng, trong các ý nghĩa về thể chất, bạn không khác gì một gợn nước xoáy trong dòng sông vĩ đại của sự sống.

Nhưng, dĩ nhiên bản thân cơ thể của bạn là một môi trường đầy những sinh thể, trong mối quan hệ đến những sinh thể bạn có chủ quyền chỉ trong danh xưng. Ðể khảo sát cơ thể của một con người, các cơ phận và mạch máu, các tế bào và các vi sinh khuẩn đường ruột (than ôi, có khi là fauna), là để phải đương đầu với một thế giới không còn làm chứng gì hơn về trí thông minh có tính ý thức hơn là thế giới trên quy mô lớn. Có lý do nào để để nghi ngờ, khi quan sát chức năng của các ti thể bên trong một tế bào, hay sự co rút của các cơ bắp trong bàn tay, rằng có một ý thức , ở trên và vượt ra khỏi một tiến trình như thế để nghĩ rằng “tổ quốc chính là ta” (L’etait c’est moi). Thật vậy bất cứ đặc quyền nào chúng ta đã toan để hòa hợp với cái giới hạn của làn da bọc ngoài trong cuộc tìm kiếm của chúng ta cho cái ta vật chất có lẽ là hoàn toàn tùy tiện.

Các giới hạn của cái ta tâm trí còn không dễ nhận diện hơn: các di truyền văn hóa, những điều cấm kỵ, các hình thái nghi lễ, các quy ước về ngữ học, những định kiến, các lý tưởng, thành kiến thẩm mỹ, các âm hưởng thương mại – cái hiện tượng đang cư trú các miền đất xinh đẹp của tâm hồn chúng ta là các di dân từ thế giới nói chung. Nếu bạn ao ước muốn được gọn gàng - muốn có thị hiếu trong ăn mặc, ý thức cộng đồng của bạn, mong đợi của bạn về lòng tử tế với nhau, sự hổ thẹn của bạn, tính nhã nhặn của bạn, kiểu cách tình dục của bạn v.v...- điều gì bắt nguồn từ chính nơi bạn ? Đó có phải là những suy tưởng đúng nhất về những gì đang trú trong bạn hay không ? Những hiện tượng này là các kết quả trực tiếp sự ngâm nhúng của bạn vào trong một thế giới của những mối quan hệ xã hội và văn hóa ( cũng như là sản phẩm của di truyền của bạn). Nhiều hiện tượng tựa như không còn là "bạn" nữa, hơn là quy luật văn phạm Anh văn cho thấy "bạn" là ai.

Và rồi thì, những cảm giác về một bản ngã vẫn tiếp tục dai dẳng. Nếu như cái ý nghĩa "ta" nói đến bất cứ điều gì, thì đơn giản là nó không chỉ nói về thể xác. Sau cùng, hầu hết chúng ta cảm thấy như một bản ngã riêng trong khuôn khổ của thể xác. Tôi nói về thể xác của tôi cũng như tôi nói về chiếc xe hơi của mình, vì một lý do đơn giản là mọi hành vi của nhận thức hay nhận biết chuyên chở ý nghĩa ẩn kín rằng cái biết là điều gì khác hơn điều được biết. Hệt như cái ý thức của tôi về chiếc xe hơi của tôi chứng tỏ rằng tôi, như một chủ thể, là điều gì khác hơn chiếc xe của tôi, là một vật thể, tôi có thể được nhận biết từ tay mình, hay từ một cảm xúc, và chứng nghiệm cùng một sự phân tích giữa chủ thể và vật thể. Vì nguyên nhân này, cái bản ngã đơn giản không thể ngang bằng với cái tổng thể của đời sống tinh thần của một người hay với cái tính cách của người ấy như một sự toàn bộ[6] . Hơn thế nữa, đó là trọng tâm của quan điểm về những tình trạng thay đổi của tinh thần và thể xác xuất hiện như sao chùm. Bất kể mối tương quan giữa ý thức và thể xác thực sự như thế nào, trong các ý nghĩa chứng nghiệm của thể xác là một điều gì mà đối với bản ngã ý thức nào, nếu có một bản ngã như thế, có giá trị trong mối tương quan với nhau. Một cách chính xác là khi, trong những ý nghĩa tiến bộ hay cách mạng, trọng tâm của quan điểm này nảy sinh không được biết đến, nhưng có một điều rõ ràng ; vào một số thời điểm trong năm đầu của hầu hết đời sống con người được rửa tội như thể "tôi", một chủ thể quanh năm suốt tháng, cho kẻ mà tất cả các xuất hiện, bên trong bên ngoài, trở nên vật thể của một thể loại, được chờ đợi để được biết đến. Và nó là cái "tôi" mà mọi nhà khoa học bắt đầu cuộc truy tìm vào bản chất của thế gian và mọi con người ngoan đạo đều chắp tay trong lời cầu kinh của mình.[7]

Ý nghĩa của bản ngã có lẽ là sản phẩm của hành vi do chính mình miêu tả về hình ảnh của não bộ; cái nhìn về thế giới của nó tạo ra một hình ảnh của kẻ nhìn thấy. Thật là quan trọng để nhận ra rằng cảm giác này – cảm giác mà mỗi chúng ta có về sự thích ứng, hơn là cái thuần túy tồn tại, một không gian của chứng nghiệm – không phải là đặc điểm cần thiết của ý thức. Nói cho cùng, có thể hiểu được rằng một sinh vật có thể tạo nên một tiêu biểu của thế giới mà không cần phải tạo nên một tiêu biểu của chính mình trong thế giới. Và thật ra nhiều người thực hành tâm linh khẳng định sự chứng nghiệm thế giới đúng từ cách thức này, dịch chuyển hoàn hảo từ bản ngã.

Một tìm kiếm căn bản về ngành thần kinh tâm lý học sẽ tăng thêm niềm tin cho các loại khẳng định đó. Không nhiều lắm về việc chúng là gì mà chúng làm gì khiến các tế bào thần kinh nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ và cảm được. Như các hoạt động khác xuất hiện từ hoạt động của não bộ, cái cảm giác về tự thân được xem đúng nhất là một tiến trình. Do đó, điều này không đáng ngạc nhiên lắm khi chúng ta có thể mất cảm giác này, bởi vì tiến trình, bởi chính tính chất của nó, có thể bị gián đoạn. Trong khi các chứng nghiệm về tính tự thân không cho thấy điều gì về mối quan hệ giữa ý thức và thế giới vật chất (và từ đó lặng im về câu hỏi cái gì xảy ra sau khi chết), các chứng nghiệm này có những ám chỉ rộng rãi cho các khoa học về tâm thức, cho các tiếp cận của chúng ta về tâm linh, và cho các nhận thức của chúng ta về hạnh phúc của con người.

Như một hiện tượng tinh thần, việc đánh mất bản ngã không hiếm hoi như sự cẩu thả có tính uyên bác về chúng mang lại. Kinh nghiệm này được đặc điểm hóa bởi sự mất đột ngột của nhận thức khách quan/chủ quan: chuỗi liên tục của kinh nghiệm vẫn còn lại, nhưng người ta không còn cảm giác là có một điều được biết đứng giữa cái biết . Các suy nghĩ có thể xuất hiện, nhưng cảm giác khiến một người là kẻ suy nghĩ của những tư tưởng này đã tan biến mất. Một điều gì đã dứt khoát thay đổi ở mức kinh nghiệm của một khoảnh khắc -đến-khoảnh khắc của một người, và sự thay đổi này - sự biến mất của bất cứ điều gì được gọi bằng “tôi/ta” có thể gắn dính vào một cách trung thực – báo hiệu rằng đã từng có một chứng nghiệm có ý thức về cái tự thân(selfhood) suốt lúc đó tuy nhiên khó có thể biểu thị được đặc điểm của nó.

Hãy nhìn vào cuốn sách này như một đối tượng vật chất. bạn ý thức được nó như một xuất hiện trong ý thức. Bạn có thể cảm giác rằng ý thức của mình là một việc – nó là bất cứ điều gì lấp lánh thế giới của bạn có lẽ từ một số điểm sau đôi mắt của bạn, và cuốn sách là một việc khác. Đây là loại nhận thức có tính nhị phân (chủ quan/khách quan) đã đặc điểm hóa kinh nghiệm đời sống thông thường của chúng ta. Tuy nhiên, có thể tìm thấy chính mình bằng cách đặt phép lưỡng phân này trong nghi vấn-và ngay cả vứt bỏ tất cả chúng đi.

Các nội dung của ý thức – ánh sáng, âm thanh, cảm giác, suy nghĩ, tính cách v.v…- bất cứ chúng là gì ở vị trí nào của não bộ, đơn thuần là các diễn tả của ý thức ở tầm mức của kinh nghiệm chúng ta. Không nhận thức được như thế, đa số các xuất hiện này có lẽ tác động đến ý thức từ bên ngoài, và ý thức về cái ta nổi lên, và trở nên bám chặt vào, khi cái cảm giác là cái điều mình biết bị giới hạn, điều chỉnh, và thường bị đè nén bởi cái được biết. Thật thế, điều này tựa như cha mẹ chúng ta tìm thấy chúng ta trong những cái nôi rất lâu trước khi chúng ta tìm thấy mình ở đó, và rằng chúng ta thuần túy bị hướng dẫn bởi những cái nhìn chăm chú, các chỉ trỏ của họ để kết hợp chung quanh một trung tâm của nhận thức có tính ám chỉ vốn không thực sự hiện hữu [8] . sau đó, mỗi vuốt ve chăm sóc, mỗi thỏa mãn của cơn đói khát cũng như các hình thức thay đổi của sự tán thành hay khiển trách đến trong sự trả lời về các hành động của tinh thần nội tại của chúng ta, có lẽ xác định một ý thức bản ngã mà chúng ta, thí dụ, cuối cùng học để gọi "ta" - và do đó chúng ta đã trở nên một quỹ tích hẹp chung quanh tất cả các sự việc và các biến cố, vui vẻ và không vui vẻ, tiếp tục cuốn xoáy.

Trong các ý nghĩa chủ quan, cuộc truy tìm bản ngã có lẽ dẫn đến một nghịch lý: sau cùng, chúng ta đang tìm kiếm chính ngay điều vốn đang thực hiện sự tìm kiếm. tuy nhiên hàng nghìn năm của kinh nghiệm nhân loại cho thấy rằng cái nghịch lý ở đây chỉ là bên ngoài; nó không chỉ thuần túy rằng cái thành phần cấu thành của kinh nghiệm chúng ta khiến chúng ta gọi "ta" không thể tìm thấy được; chính là nó đã thực sự biến mất khi tìm kiếm trong một phương cách nghiêm nhặt.

Những điểm đề cập trên chỉ là một nước bóng bên ngoài hiện tượng học ở đây, nhưng nó cũng đủ để cho chúng ta bắt đầu. Cái căn bản sự thực (và tôi nghĩ không thể bàn cãi được) chính là hầu hết nhân loại trải nghiệm tính hai mặt của chủ thể và đối thể trong một số giới hạn, và hầu hết chúng ta cảm thấy sức mạnh của nó gần như trong mọi khoảnh khắc của đời sống. Chắc chắn không phải là sự cường điệu để bảo rằng cái cảm giác mà chúng ta gọi “ta” là một trong những đặc điểm rông khắp và dễ thấy nhất của đời sống nhân loại: và các ảnh hưởng trên thế giới của nó, khi sáu tỉ “bản ngã” theo đuổi các kết quả khác nhau và đôi khi hoàn toàn không tương thích với nhau, so với những thứ có thể gán cho hầu hết những hiện tượng khác trong thiên nhiên. Rõ ràng, Không có điều gì là tối ưu- hoặc ngay cả sống còn được một cách cần thiết- về hình thái hiện tại của chủ quan chúng ta. Hầu như mọi vấn nạn nào chúng ta cũng có thể gán cho sự thật là con người bị lừa dối đến tận cùng bởi cảm giác của sự phân chia. Có lẽ rằng một tính chất tâm linh có thể sói mòn được tính nhị nguyên ấy, chỉ qua sự trầm tưởng của ý thức, đã không giúp được gì nhưng cải thiện được tình thế của chúng ta. Sẽ có hay không có một số lượng rất lớn những con người dự phần vào vai trò khám phá địa hình địa vật này là tuỳ thuộc vào cuộc luận bàn về tôn giáo của chúng ta tiến hành như thế nào. Rõ ràng là không có một trở ngại nào cho cuộc tiếp cận thực sự đến kinh nghiệm tâm linh lớn hơn các niềm tin hiện tại của chúng ta về Thượng Ðế.

 

(còn tiếp)>>


Chú thích

[1] Tôi không có ý cho rằng tự thân những suy nghĩ ấy không tương đương với một số thể trạng của não bộ. Tuy nhiên, trong các phạm trù có tính quy ước, có một sự khác biệt khá rộng rãi giữa việc uống thuốc và tiếp nhận một ý tưởng mới. Rằngcả hai đều có cái sức mạnh có thể thay đổi nhận thức của chúng ta và là một trong những sự thực mê say hơn về tâm thức nhân loại.

[2] Vì những sách vở này quá nhiều để có thể trích dẫn ở đây, khá nhiều thí dụ của những văn bản ấy có thể tìm thấy trong thư mục của tôi.

[3] Ðiều gì xảy ra sau khi chết thực sự là một bí ẩn, tương tự như mối quan hệ giữa ý thức và thế giới vật chất, những không còn mối hoài nghi nào về việc tính cách của các tâm thức của chúng ta có lệ thuộc vào các chức năng của não bộ hay là không- và lệ thuộc trong các phương cách hết sức phản trực giác. Thử suy nghĩ về một trong những đặc điểm chung của kinh nghiệm cận kề cái chết: sự gần chết có lẽ thường là gặp lại những người thân thương đã chết trước đó trong một thế giới khác. Hãy đọc : Experiences near Death:Beyond Medicine and Religion của A. Kellerhear (Oxford:Oxford Univ. Press, 1996). Tuy nhiên, chúng ta hiểu rằng nhận ra được dung mạo của một người phải cần đến một phần não hình thoi nguyên vẹn, chủ yếu nằm trong bán cầu não bên phải. làm tổn thương đến phần não này dứt khoát sẽ tước đoạt mất khả năng nhận biết được khuôn mặt (giữa các thứ khác), một tình trạng chúng ta gọi là chứng bệnh mù diện mạo (prosopagnosia). Một người ở trong tình trạng này không có gì hư hỏng với thị giác chính của mình. Họ có thể thấy được màu sắc và hình dạng rất tốt. Họ có thể nhận biết được hầu hết mọi thứ từ môi trường chung quanh, nhưng không phân biệt được các diện mạo khác nhau của ngay cả thân nhân, bạn bè mình. Phải chăng chúng ta sẽ tưởng tượng ra trong những trường hợp như thế một người sở hữu một tâm hồn nguyên vẹn, đang ở đâu đó đàng sau tâm trí, khiến duy trì được khả năng nhận biết được những người than yêu của mình ? Có thể là như thế. Thực ra, trừ khi tâm hồn duy trì được tất cả những năng lực thuộc về nhận thức và kinh nghiệm thông thường của một não bộ lành mạnh, thiên đường sẽ được trú ngụ bởi những con người đau khổ vì tất cả các loại thiếu hụt thần kinh. Nhưng rồi thì, chúng ta là gì để nghĩ được về tình trạng của thần kinh hư hại khi chúng ta còn đang sống ? Một người bị bệnh mất ngôn ngữ (aphasia) có thể có một linh hồn biết đọc, nói và suy nghĩ trôi chảy không ? Một người có hệ thống thần kinh vận động bị thoái hóa bởi chứng mất khả năng điều hòa (cerebellar ataxia) có thể có một linh hồn mang được sự phối hợp của tay-mắt không ? Điều này tựa như tin rằng bên trong bất cứ chiếc xe hỏng nát nào cũng ẩn chứa sẵn một chiếc xe mới khác chỉ chờ để được chui ra.

Sự không hợp lý của một linh hồn có năng lực độc lập với não bộ chỉ gia tăng một khi chúng ta nhận ra được rằng ngay cả một bộ não bình thường cũng có thể được đặt ở đâu đó trong quá trình liên tục của bệnh lý. Tôi biết linh hồn mình nói tiếng Anh bởi vì đó là cái ngôn ngữ vốn đi ra từ trong tôi mỗi khi tôi nói hay viết. Tôi cũng biết khá nhiều tiếng Pháp nữa. Dường như là tôi đã quên hầu hết tiếng Pháp mặc dù vì những cố gắng giao tiếp của tôi khi ở Pháp đã khiến tạo nên không ít khôi hài và kinh hoảng nơi nhiều người bản xứ. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng cái khác nhau giữa điều tôi nhớ và không nhớ là một nội dung thuộc về các khác biệt thể lý nơi các mạch dẫn trong não bộ của tôi-đặc biệt là ở các mối tiếp giáp có nhiệm vụ thu thập và giải mã thông tin hoặc cả hai. Do đó, việc quên tiếng Pháp của tôi, cũng có thể được xem như một hình thức hư hại về thần kinh. Và bất cứ người Pháp nào bỗng thấy khả năng ngôn ngữ của mình bị xuống cấp đến mức như tôi chắc phải mau mau đến bệnh viện để chữa trị. Vậy linh hồn của y có giữ được cái năng lực ngôn ngữ trong bất cứ trường hợp nào ? Linh hồn của tôi có giữ trong ký ức của nó cách chia động từ bruie ? Ý niệm về sự độc lập của linh hồn não bộ này sẽ chấm dứt ở đâu ? Một người nói tiếng bản xứ của một trong những ngôn ngữ Batu sẽ nhận ra rằng chức năng từ bộ phận vỏ não của tôi thực còn đáng thèm hơn. Cứ cho rằng tôi chưa từng nghe các âm thanh Batu khi còn là đứa trẻ, chắc chắn rằng tôi sẽ tìm thấy một sự khó khăn vô cùng nếu không muốn nói là bất khả để phân biệt được các âm thanh ấy, ngay cả đến việc không thể chế biến lại trong một cách thức khiến người nói tiếng bản xứ có thể thỏa mãn. Nhưng có lẽ là linh hồn của tôi cũng tinh thông ngôn ngữ Batu nữa. Chỉ có năm trăm loại ngôn ngữ Batu như thế.

[4] Bất kể góc độ tiếp cận là thông qua nghiên cứu về các ảnh hưởng chính, chứng mù thoáng qua [change blindness] (D.J.Simsons et al., “Evidence for Preserved Representations in Change Blindness, ” trong Consciousness and Cognition 11, số 1 [2002] : tr. 78-97), chứng mất thị giác và cẩu thả thị trường [visual extinction and visuospatial neglect] (G. Rees et al., “Neural Correlates of Consciousness in Humans” Nature Reviews Neuroscience 3, [tháng Tư 2002] tr. 261-70, chứng thị giác ganh đua và các tri giác ổn kép khác [binocular rivalry and other bistable percepts] (R.Blake và N.K. Logothetics, “Visual Competition” Nature Reviews Neurocience 3, s số 1 [2002] : tr. 13-21; N.K. Logothesis, “Vision: A Window on Consciousness” Scientific American Special Edition 12, số 1 [2002] 18-25, hoặc chứng mù blind sight (L. Weikrantz, “Prime-sight and Blindsight” Consciousness and Cognition 11, số 4 [2002] : 568-81, chỉ dấu của một nhận thức tỉnh táo luôn luôn như nhau: chủ thể (là một người cường tráng [he man] hay một con khỉ) chỉ đơn giản nói với chúng ta, bằng ngôn từ hay hành động, rằng đặc điểm kinh nghiệm của y đã đổi thay hay không.

[5] Tại sao những cách gây mê thông thường không phải là một phương cách để loại bỏ ? Ngâm não bộ vào trong những hoá chất cần thiết, và con người mấy ý thức- thế là hết chuyện. Tuy nhiên, vấn nạn là chúng ta không biết rằng tự bản thân ý thức thực sự bị gián đoạn trong khi bị gây mê. Cái khó khăn của việc thổi phồng ý thức lên với khả năng có thể chuyển đạt là ở chỗ chúng ta không thể phân biệt được sự ngưng lại đích thực của ý thức chỉ từ sự thất bại của ký ức. Lúc ngủ vào ban đêm thì sao ? Bạn có thể cảm thấy là không có gì cả - bạn đã là"không có ý thức". Thế còn những giấc mơ mà bạn không nhớ ? Chắc chắn là bạn có ý thức khi mình mơ. Thật thế, bạn có thể đã có ý thức trong suốt các giai đoạn của giấc ngủ. Chúng ta không thể loại trừ khả năng này xuyên qua chỉ riêng sự chuyển đạt có tính chủ quan (subjective report).

[6] Tuy nhiên, đây đúng là những loại tương đương mà các nhà khoa học và triết học nghiên cứu về "cái ta' dể bị lôi kéo. Một hội nghị vừa được tổ chức ở Viện Khoa học Nữu Ước có tên gọi "Cái ta:Từ Tâm hồn đến Não bộ", và dù cho đa phần các quan tâm được phát biểu về não bộ, không có đến một thuyết trình viên nào định rõ được cái ta trong một phương cách để có thể phân biệt được nó từ những khái niệm thực sự có tính toàn thể như "tâm hồn con người" hay "tính cách người". Cái cảm giác mà chúng ta gọi "tôi/ta" đã bị bỏ qua không hề đụng chạm đến.

[7] Dù rõ ràng không vượt qua khỏi được sự phân chia chủ thể/khách thể như là một vấn đề của kinh nghiệm ổn định, một số triết gia đã thoái thác vấn đề ấy một cách khái niệm trong suy nghĩ của mình. Thí dụ như Satre đã nhìn thấy rằng chủ thể có thể không là gì hơn một đối thể khác trong lãnh vực của ý thức, và do đó, đã là một thứ “ có tính cùng thời với Thế gian” :

Thế gian không tạo ra tôi; tôi không tạo nên thế gian. Đấy là hai khách thể cho ý thức tuyệt đối không liên quan đến ai, và từ cái hiệu quả của ý thức này mà chúng liên hệ với nhau. Cái ý thức tuyệt đối này, khi được thanh tẩy bởi cái tôi, sẽ không còn có điều gì về cái chủ thể…Đó đúng là một điều kiện đầu tiên và cội nguồn tuyệt đối của sự hiện hữu. Và mối quan hệ của sự phụ thuộc lẫn nhau được hình thành từ ý thức tuyệt đối này giữa tôi và thế giới, cho cái tôi (gián tiếp và thông qua các tình trạng trung gian) để mô tả nên tất cả các nội dung của nó từ Thế giới. Không có điều gì khác cần đến trong phương cách của nền tảng triết học cho một phương cách xử thế và một quan điểm chính trị nào chắc chắn tuyệt đối.

Theo J.P.Sartre trong The Transcendence of the Ego: An Existentialist Theory of Consciousness, dịch bởi F.Williams và R. Kirpatrick (New York: Hill and Wang, 1937), tr. 105-6.

Maurice Merleau-Ponty có quan điểm tưong tự, ngay cả khi ông tự hạn chế mình trong ngôn ngữ của chủ thể/khách thể: “Thế giới không thể tách khỏi chủ thể, nhưng từ một chủ thể vốn không là gì ngoài một phỏng chiếu của thế giới, và chủ thể không thể tách khỏi thế giới nhưng từ một thế giới mà chủ thể phỏng chiếu tự nó” Trích từ F. Varela at al., The Embodied Mind: Cognitive Science and Human Experience ( Cambridge: MIT Press, 1991) tr. 4.

[8] Điều này không phải để nói rằng trẻ con là bí ẩn. Tuy nhiên, một tiến trình gia tăng cá tính hoá xuất hiện rõ rệt ngay từ khi sinh ra trở đi. Xin đọc K. Wilber, Sex, Ecology, Spirituality (Boston: Shambhala, 1995) về một phê phán đến sự tương đương sai giữa cái ông gọi là tiền-lý trí và chuyển tiếp-lý trí. Như Wilber chỉ ra, không có lý do gì để lãng mạn hóa tuổi thơ trong các ý nghĩa tâm linh. Thực ra, nếu như con trẻ của chúng ta như được sống trên vương quốc của thiên đàng, tại sao lại ngăn chúng lại. Có lẽ chúng ta đã hướng lòng ghen tỵ của mình đến những anh em linh trưởng của mình, bởi vì chúng- khi không quá mất tự chủ bởi những khoái cảm của thói ăn thịt người, hãm hiếp tập thể và tục giết trẻ sơ sinh- là những trẻ em sung sướng hơn tất cả.

Trang Tôn Giáo