CHƯƠNG 5
Phía Tây vườn Ðịa Ðàng
SO SÁNH với những khủng khiếp của nền chính trị thần quyền
thời trung cổ ở Âu Châu, hay các nỗi kinh hoàng dai dẳng ở đa phần các nước Hồi
Giáo, ảnh hưởng của tôn giáo ở phương Tây hiện nay trông khá hiền lành. Tuy
nhiên chúng ta không nên bị lừa dối bởi so sánh ấy. Mức độ mà các tư tưởng tôn
giáo vẫn còn ảnh hưởng đến các chính sách chính phủ - đặc biệt ở Hoa kỳ - đã đem
lại một mối nguy hại lớn lao cho tất cả mọi người. Thí dụ như, ai cũng được biết
rằng Ronald Reagan nhận thức được cơn bệnh của Trung đông qua lăng kính của các
mặc khải từ thánh kinh. Ông đã đi quá xa để hội tụ cả những con người như Jerry
Falwell và Hal Lindsey trong các cuộc họp về an ninh quốc gia.[1]
Tất nhiên họ không phải là những tâm hồn điềm đạm mà chúng ta nên cần đến để
tham vấn về sự xử dụng các vũ khí hạch nhân. Chính sách của Hoa kỳ ở Trung đông
trong nhiều năm tối thiểu đã được rõ ràng trong phần bảo vệ đến quyền lợi mà
Kitô giáo chính thống sẽ có được trong một quốc gia Do thái tương lai. Kitô giáo
“ủng hộ” Do thái thực ra là một thí dụ của loại cay độc tôn giáo hết sức huyền
ảo đền nỗi đã phát triển mà không ai để ý đến trong các luận bàn của chúng ta.
Kitô giáo chính thống đã ủng hộ Do thái bởi vì họ tin rằng sự hợp nhất sau cùng
của quyền lực Do thái trong vùng thánh địa - đặc biệt là công cuộc tái thiết đền
thờ Solomon - sẽ đem lại cả sự tái sinh lần thứ hai của Chúa cứu thế cùng sự hủy
diệt cuối cùng của người Do Thái.[2]
Những cuộc dự phần hớn hở có tính diệt chủng ấy dường như đã manh động ngay từ
những thời điểm đầu tiên của nhà nước Do Thái : sự ủng hộ đầu tiên của cộng đồng
quốc tế cho sự trở lại Palestine của người Do thái, Tuyên ngôn Balfour năm 1917
của đế quốc Anh vốn được gợi ý, tối thiểu là một số phần của nó, qua sự tuân thủ
một cách có ý thức vào những tiên tri trong kinh thánh.[3]
Sự xâm phạm của một thuyết mạt thế vào nền chính trị hiện đại cho thấy những
nguy hiểm của đức tin tôn giáo không thể là một sự phóng đại. Hàng triệu người
Kitô giáo và Hồi giáo hiện đang sống trong khuôn khổ của những truyền thống tiên
tri vốn chỉ hiện thực được khi các dòng sông máu huyết bắt đầu tuôn chảy từ
Jerusalem. Thật chẳng khó khăn chút nào để tưởng tượng ra các tiên tri về một
cuộc chiến tranh cốt nhục, một khi ai đó đã thực sự tin vào, có thể trở thành
sự thỏa mãn ước nguyện cho chính mình.
Nhà
Lập pháp Bất diệt
Hiện nay, nhiều thành viên trong guồng máy chính phủ Hoa kỳ
quan niệm các trách nhiệm chuyên môn của họ từ trong các ý nghĩa tôn giáo. Hãy
xem trường hợp của Roy Moore, chánh án tối cao pháp đình Alabama. Khi nhận ra
tiểu bang mình ở trong danh sách có tỉ lệ giết người đứng thứ sáu trên toàn
quốc, quan tòa Moore đã nghĩ rằng thật thiết thực để dựng một bảng đá nặng hai
tấn rưỡi có chạm khắc Mười điều răn của Chúa ngay tại nhà vòm chính của tòa án
tiểu bang ở Montgomery. Hầu như không hề có ai tranh cãi gì rằng đó chính là sự
vi phạm vào tinh thần (nếu không nói là chữ nghĩa) của điều luật “then chốt”
trong Tu chính án Thứ nhất của hiến pháp Hoa Kỳ.
Khi tòa án liên bang yêu cầu
quan tòa Moore dẹp bỏ bảng tượng này, ông đã từ chối. Không muốn lộ cánh tay rõ
ràng thực sự dính dáng vào sự phân cách giáo hội và chính quyền, quốc hội Hoa Kỳ
đã tu chính một sắc lệnh thích hợp để bảo đảm rằng ngân quỹ của liên bang không
được đem xử dụng vào việc tháo gỡ bảng tượng này[4] .
Bộ trưởng Tư Pháp John Ashcroft, người vốn có công việc chính là thi hành luật
pháp quốc gia, đã giữ im lặng ngoan ngoãn trong suốt thời gian ấy. Điều này
không có gì là đáng ngạc nhiên, nếu cứ nhìn vào những khi ông cần phải phát biểu
– ông ta có thói quen thường hay phát biểu những điều đại loại như “Chúng ta là
một đất nước được ơn kêu gọi để bảo vệ tự do- nền tự do không phải được ban phát
từ bất cứ chính phủ hay văn bản nào – mà là tài sản từ Thiên chúa cho chúng ta”[5] .
Theo một thăm dò của viện Gallup, Ashcroft và quốc hội có lý lẽ vững chắc theo
đúng như quan tâm của dân chúng Mỹ, bởi vì 78 phần trăm người được thăm dò đã
chống lại việc tháo dỡ bảng tượng Mười điều răn của Chúa.
[6] Chắc ta phải tự hỏi phải chăng
Moore, Ashcroft, quốc hội Mỹ và ba phần tư dân chúng Mỹ không muốn nhìn thấy
những sự trừng phạt vì dám tháo dỡ các điều răn thiêng liêng vốn đã được nhấn
mạnh bằng đá hoa cương tại chốn công đình của nhà nước này.
Vậy, cuối cùng thì,
hình phạt gì sẽ dành cho tội cứ kêu tên Chúa một cách bất kính ? Tội chết
(Leviticus 24:16). Làm việc vào ngày Sabbath thì tội gì ? Cũng là tội chết
(Exodus 31:15). Thế tội gì khi nguyền rủa cha mẹ người khác ? Cũng là tội chết
(Exodus 21:17). Tội ngoại tình thì sao ? Ngươi hiểu rồi đấy (Levicitus 20:10).
Vì các điều răn rất khó nhớ (đặc biệt là bởi vì chương 20 và 34 của sách Exodus
cung cấp cho chúng ta những danh sách không giống nhau) thành ra hình phạt cho
sự vi phạm đơn giản là chính những điều răn ấy.
Các thí dụ đương đại về lòng mộ đạo của chính phủ có thể
nhìn thấy ở mọi nơi chốn. Nhiều đảng viên Công hòa nổi tiếng thuộc Ủy ban Chính
sách Quốc gia, một nhóm Kitô giáo bí mật được tài trợ bởi nhà chính thống Tim
LaHaye (đồng tác giả các tiểu thuyết nhiều tập về ngày tận thế có tựa đề “Bị bỏ
lại”). Tổ chức này hội họp mỗi bốn tháng để thảo luận tìm hiểu xem ai biết được
những gì. George W. Bush đã đọc diễn văn riêng với Uỷ ban này vào năm 1999, sau
khi Kitô giáo cánh Hữu ủng hộ cuộc tranh cử của ông.[7]
Thực tế, hơn 40 phần trăm những cử tri thực sự bầu cho Bush là những người
truyền đạo da trắng.[8] Bắt đầu bằng
sự đề cử John Ascroft làm Tổng trưởng Tư Pháp, tổng thống Bush sau đó đã không
ngừng trả ơn tổ chức này. Các bộ Tư pháp, Phát triển đô thị, Y tế , dịch vụ Nhân
sự và Giáo dục hiện nay vẫn thường xuyên ban hành các chỉ đạo làm mờ nhạt sự
phân biệt giữa giáo hội và chính quyền. [9] Trong các “sáng kiến có căn bản từ đức tin” của ông, Bush đã thu xếp việc
tuôn hàng chục triệu tiền thu thuế của dân chúng trực tiếp vào các tổ chức hội
đoàn giáo hội, để họ tùy nghi xử dụng.[10]
Một trong những chỉ định của ông ở bộ Thực phẩm và Dược liệu là bác sĩ W. David
Hager, một bác sĩ thai sản chủ chương chống phá thai từng công khai tuyên bố
rằng có thai trước hôn thú là một tội lỗi và bất kỳ nỗ lực nào nhằm phân định
“chân lý Kitô giáo” với “chân lý thế tục” là “nguy hiểm” [11] .
Tướng William G. Boykin, vừa bổ nhiệm vị phụ tá Thứ trưởng bộ quốc phòng về tình
báo tại Ngũ giác đài, một sĩ quan lực lượng đặc biệt có nhiều huân chương cao
quý, ông Mullah Omar, ông là người hiện thảo ra các chính sách trong việc lùng
kiếm Osama bin Laden và tất cả các kẻ thù của Hoa kỳ đang còn lẩn trốn. Kết quả,
ông cũng là một đối thủ sôi nổi của quỷ Satan. Khi phân tích một bức ảnh
Mogadishu sau một trận đánh đầy tan tác chết chóc của lực lượng ông năm 1993,
Boykin nhận xét là một số bóng mờ trên tấm ảnh lộ ra “những quỷ vương của bóng
đêm…những hiện diện quỷ quái trong thành phố ấy mà Thiên chúa đã cho tôi nhìn
thấy trong hình dạng những địch quân”[12] .
Về các lãnh vực của cuộc chiến tranh chống khủng bố, ông khẳng định là “kẻ thù
của chúng ta là một gã có tên là Satan”[13] .
Dù những nhận xét này gây ra nhiều phê phán trong giới báo chí, hầu hết người Mỹ
đều cho qua. Nói cho cùng, 65 phần trăm dân Mỹ tin chắc rằng quỷ Satan có hiện
hữu.[14]
Những con người nhiệt tình làm việc Chúa cũng được bầu cử
vào các bộ phận của chính phủ Liên bang. Tom DeLay, lãnh tụ đa số tại quốc hội
đã cho thấy các thâm thúy như “Chỉ có Kitô giáo mới mang lại một lối sống đáp
ứng được với những thực tế mà chúng ta đang đương đầu trên thế giới. Chỉ có Kitô
giáo mà thôi”. Ông khẳng định mình đã đi vào chính trường “để cổ vũ một thế giới
quan theo Kinh thánh”. Cảm thấy rõ ràng là mình không thể phát biểu điều gì ngu
dại trong khi phục vụ thế giới quan này, ông đã quy những vụ bắn nhau ở trường
trung học Columbine ở Colorado vào sự kiện trường học này giảng dạy về thuyết
tiến hóa.[15] Hẳn chúng ta phải băn
khoăn tại sao những lối tuyên bố phi lý hoa mỹ này không khiến ông ta bị khiển
trách hoặc cách chức khỏi công việc.
Những sự thực này có thể liệt kê dài đến mức không có dòng
cuối – và đến cả sự bực mình cho cả người viết lẫn người đọc. Tôi xin viện dẫn
thêm một chuyện nữa thôi, bây giờ là chuyện ở nhánh luật pháp : Tháng Giêng năm
2002, Chánh án Tòa tối cao Antonin Scalia, một tín đồ Công giáo ngoan đạo, đã
đọc diễn văn tại trường Ðại học Chicago Divinity School về chủ đề án tử hình.
Tôi dẫn chứng những điều Scalia nói khá dài, bởi vì các nhận xét của ông cho
thấy chúng ta đang sống giống với kiểu chính trị thần quyền đến mức nào :
Ðây không phải là kinh Cựu Ước, tôi nhấn mạnh, nhưng mà
chính là từ Thánh Paul…Trọng tâm lời dạy của ngài là chính phủ đã có được thẩm
quyền đạo đức của mình chính từ Thiên chúa- quý vị muốn giới hạn khái niệm này
đến mức nào cũng được – … Thực ra, dường như đối với tôi, một đất nước càng Kitô
giáo chừng nào thì càng không quan niệm án tử hình như một sự phản đạo đức…Tôi
cho rằng điều ấy từ một sự thực là, đối với những người tin Kitô, cái chết không
phải là một điều gì lớn lao cho lắm. Cố tình giết hại một người vô tội mới là hệ
trọng. Ðó là một tội trọng, tội có thể khiến một người mất linh hồn. Nhưng mất
đi đời sống này, để đổi lấy đời sống kế tiếp…Còn đối với những người không tin
đạo, tước đi mạng sống của một con người là chấm dứt hiện hữu của y, thật là
một hành vi kinh khủng làm sao !
Phản ứng của con người của đức tin đối với xu hướng của dân
chủ để che khuất đi thẩm quyền thần thánh sau lưng chính phủ không nên là sự cam
chịu mà chính là giải pháp để chiến đấu hiệu quả hơn. Chúng ta đã từng hành động
như thế trên đất nước này (mà lục địa châu Âu chưa từng hành động được như vậy)
bằng cách duy trì nhiều nhắc nhở rõ rệt trong đời sống công cộng rằng – trong
chính lời phán của một Tòa án tối cao từ những năm 1940 – “chúng ta là một dân
tộc có tôn giáo, một dân tộc có nền móng đã hàm chứa một Thượng đế”… Như tôi đã
nói, tất cả những điều này là rất không giống như Âu châu, và tất cả những điều
này giúp giải thích được tại sao dân tộc chúng ta có khuynh hướng hiểu biết hơn,
như thánh Paul đã từng hiểu biết, rằng chính phủ của chúng ta mang một thanh
gươm như “Người thừa hành của Chúa” để “khai triển cơn thịnh nộ” đối với “những
kẻ bất lương hiểm ác”.[16]
Tất cả những điều này chắc phải làm kinh hoảng những ai
tưởng rằng lẽ phải đáng lý phải chiếm ưu thế trong những phòng làm việc kín đáo
của quyền lực ở phương Tây. Scalia thật đúng khi nhận xét rằng điều gì con người
tin sẽ xảy ra sau khi chết đi định đoạt đến quan điểm của y- và từ đó định đoạt
đến luân lý của ông. Mặc dù là một người Công giáo, quan điểm của Scalia khác
với Ðức Giáo hoàng về tội tử hình, và đa số dân Mỹ cũng vậy (74 phần trăm)
[17] và ngài chánh án Scalia đã ứng
dụng thẳng thừng điều này vào đặc tính tôn giáo của chúng ta. Có lẽ chúng ta nên
ngừng lại một giây lát trong nội dung này, để băn khoăn xem vị trí độc đáo của
chúng ta trên thế giới này thực sự có phải là cái thành quả đạo đức mà Scalia
tưởng tượng ra như thế không. Chẳng hạn, chúng ta biết rằng không hề có con
người nào tự tạo được chính yếu tố di truyền (gene) của mình hoặc tự tạo được
các kinh nghiệm tuổi thơ của mình, thế mà hầu hết chúng ta tin rằng những yếu tố
này ảnh hưởng đến tính cách của một người suốt đời. Có lẽ cũng đủ sự thật để bảo
rằng những người đàn ông, đàn bà trong khám tử hình hoặc là có yếu tố di truyền
xấu, hoặc có cha mẹ xấu, có tư tưởng xấu hoặc kém may mắn. Trong số những tính
cách này, họ chịu trách nhiệm cho cái nào ? Cầu cạnh đến các phán xét của kinh
thánh cho hình phạt tử hình không làm được gì để hóa giải cái kiến thức luôn
tăng trưởng của chúng ta về hạnh kiểm con người với khát vọng muốn trả thù công
khai với những tội ác kinh khủng nhất. Chắc chắn đã có những tranh cãi quan
trọng mang tính thế tục về tính đạo đức của án phạt tử hình, nhưng thật rõ ràng
là chúng ta đã phải suy luận ra từ những cội nguồn vốn cho thấy những hiểu biết
lớn lao hơn về trí thức nhân loại và xã hội hiện đại hơn là những bằng chứng từ
thánh Paul.
Nhưng những con người như Scalia - những con người tin
rằng chúng ta đã có được sẵn chiếu chỉ của Thiên chúa trên giấy tờ - đã được
chủng ngừa để chống lại các nghi ngờ vể chủ đề này hoặc, còn hơn cả thế nữa, để
chống lại những sắc thái của một thế giới quan khoa học. Không có gì ngạc nhiên
chính Scalia là loại quan tòa mà Tổng thống Bush đã tìm để tiến cử vào hệ thống
tòa án liên bang.[18] Scalia ủng hộ
việc xử dụng án tử hình ngay cả trong những trường hợp can phạm được nhìn nhận
là bị ảnh hưởng bởi bệnh tâm thần. [19] Ông
cũng ủng hộ các luật về quan hệ tình dục bất thường (trong trường hợp này, ngay
cả khi áp dụng luật vào các trường hợp ngoại lệ và rõ ràng về đồng tính luyến
ái)[20] . Không cần phải nói gì hơn,
Scalia đã tìm ra những lý lẽ hợp pháp để nhấn mạnh rằng tòa tối cao không hề làm
lên men sự võ đoán về tôn giáo của chính quyền, nhưng chắc chắn là ông đã trông
cậy ở thánh Paul, và có lẽ cả tác giả man rợ của sách Leviticius, để hướng dẫn
mình trong các sự việc này.
Cuộc Chiến với Tội lỗi
Ở Hoa kỳ và đa phần còn lại của thế giới, hiện nay việc tìm
kiếm một số lạc thú vẫn bị xem là bất hợp pháp. Tìm kiếm lạc thú bằng một số
phương cách bị cấm đoán ngay cả trong chốn riêng tư ở nhà mình cũng sẽ có người
mang súng tông cửa vào tận nhà mà mang mình bỏ tù. Một trong những điều đáng
ngạc nhiên nhất về tình huống này là sự không ngạc nhiên khi ta tìm thấy một
trường hợp như thế. Y như trong hầu hết các giấc mơ, chính cái khả năng lẽ ra
phải thông báo cho mình tính kỳ lạ của những chuyện trong mơ này lại thường
không chống nỗi cơn buồn ngủ.
Các hành vi như xử dụng ma túy, mãi dâm, tình dục khác
thường và xem những phim ảnh tục tĩu được liệt vào những loại “tội phạm không có
nạn nhân”. Dĩ nhiên, xã hội chính là nạn nhân hiển nhiên rõ rệt của hầu hết
những gì con người hành động - từ chuyện gây ồn ào đến việc các hãng xưởng thải
ra các chất rác hóa học - nhưng ở trong một số giới hạn, chúng ta chưa từng coi
những việc ấy là một tội ác . Ðặt định ra những giới hạn này luôn luôn là một
công việc dính líu đến rủi ro. Người ta có thể lập luận rằng điều ấy chính là, ở
mức tối thiểu, có thể hiểu được là một số hành vi có tính cách riêng tư như xem
những hình ảnh bạo dâm có thể khiến đưa đến việc một ai đó sẽ phạm vào tội ác
đến một kẻ khác. [21] Do đó, có một
sức căng giữa cái tự do cá nhân và cái rủi ro của công cộng. Nếu có một loại ma
tuý, một cuốn sách, cuốn phim hoặc một tư thế làm tình nào đó có thể khiến 90
phần trăm những ai đã dùng, đã xem đến sẽ nhảy bổ ra đường để khởi sự giết chóc
bất kỳ ai thì mối quan ngại về các lạc thú riêng tư chắc chắn phải nhường lại
cho các an toàn công cộng. Chúng ta cũng có thể khuyến khích rằng không ai muốn
nhìn thấy các thế hệ trẻ con được nuôi lớn trong các chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt
hoặc kiểu Maquis de Sade. Xã hội trong tính cách là một tổng thể, có quan tâm
về sự phát triển của trẻ em, và các hành vi riêng tư của các bậc cha mẹ, song
song với các nội dung của truyền thông, rõ ràng có một vai trò trong sự việc
này.
Nhưng chúng ta phải tự hỏi mình, tại sao lại có những người lại muốn trừng
phạt kẻ khác vì đã làm những hành vi rõ ràng không gây ra một nguy hại gì đến
bất cứ ai ? Thực vậy, sự đáng kinh ngạc của ý niệm về loại tội ác không nạn nhân
chính là ngay cả khi chính hành vi bị kết tội đã thực sự không có nạn nhân,
nhưng tính chất tội phạm vẫn được khẳng định bởi những kẻ cố tình muốn kết tội.
Ðó là ở trong những trường hợp mà các tính chất thực ẩn dấu sau nhiều luật lệ
của chúng ta lộ ra. Ý tưởng về một tội ác không có nạn nhân chính là điệp khúc
về sự trừng phạt bởi thiên chúa của quan niện Kitô giáo về tội lỗi.
Không phải tình cờ mà những con người của đức tin thường
muốn lấy bớt đi những tự do cá nhân của người khác. Sự thôi thúc này không có
liên quan gì nhiều đến lịch sử của tôn giáo mà chính là từ ngay từ cái logic của
tôn giáo này, bởi vì ngay ý tưởng cá nhân riêng tư đã không tương thích với sự
hiện hữu của Thiên Chúa. Nếu như Chúa nhìn thấu và hiểu biết mọi sự, lúc nào
cũng như một con người quá hẹp hòi như thể bị xúc phạm đến luân lý từ một số
hành vi tình dục hoặc trạng thái suy nghĩ, thì những gì con người hành động ở
chốn riêng tư trong nhà riêng của mình, tưởng như không thể có một dính líu nhỏ
nhặt nào đối với hành vi của mình trong chốn công cộng, vẫn là một việc hệ trọng
của quan tâm công cộng đối với con người của đức tin.[22]
Nhiều quan điểm tôn giáo về điều sai trái có thể nhìn thấy
cùng đồng quy ở đây – các quan tâm về quan hệ tình dục không nhằm mục đích sinh
sản và đặc biệt là những hình thức quan hệ tình dục khác thường – chính những
quan điểm này cho phép nhiều người có được cái ý thức rằng việc trừng phạt một
người khác, thường là nghiêm khắc, về những hành vi trong chốn riêng tư không
hại đến một ai, là một hành vi đạo đức. Như trong các bằng chứng hết sức tốn kém
đến những phi lý, nơi hạnh phúc của con người đã bị phá vỡ một cách mù quáng qua
nhiều thế hệ, vai trò của tôn giáo ở đây vừa có tính nền tảng vừa triệt để. Ðể
nhìn thấy các luật lệ của chúng ta đối với các “thói hư tật xấu” thực sự không
làm được gì để giữ con con người khỏi các thương tổn về tâm lý hoặc thể chất, và
tất cả những chuyện không làm Chúa buồn giận, chúng ta chỉ cần nhìn sự việc giao
hợp bằng miệng và hậu môn giữa hai người lớn với nhau vẫn còn bị xem là một vi
phạm hình luật ở mười ba tiểu bang. Bốn trong số các tiểu bang ấy
(Texas, Kansas, Oklahoma và Missouri) nghiêm cấm những hành vi tính dục này giữa
các cặp đồng tính và từ đó có tác dụng như một sự nghiêm cấm đến đồng tính luyến
ái. Chín tiểu bang còn lại (Alabama, Florida, Idaho, Lousiana, Mississipi, North
Carolina, South Carolina, Utah và Virginia)
[23] cấm các loại giao tình khác
thường (sodomy) đối với tất cả mọi người. Ta không cần phải là một nhà nhân
khẩu học để hiểu được là động lực để phán xử những người đã ở tuổi có thể kết
hôn được ấy về những hành động giao tình không có mục đích sinh sản thường có
liên quan đến các đức tin tôn giáo nhiều hơn.
Ảnh hưởng của đức tin trong luật hình sự của chúng ta đã ở
một cái giá khá đắt. Hãy nhìn vào trường hợp về các loại ma túy. Như chúng ta
thấy, có quá nhiều loại khác nhau-nhiều trường hợp nghiện đã xảy đến một cách tự
nhiên- sự xử dụng các chất kích thích ấy chỉ dẫn đến những sảng khoái thất
thường ngắn ngủi. Và đúng là thỉnh thoảng cũng dẫn người xử dụng đến những
trạng thái đau khổ nhất thời nữa, nhưng chắc chắn sự khoái lạc là nguyên tắc
chính, nếu không thì con người đã chẳng có được nỗi thèm muốn liên tục để xử
dụng đến các chất ấy trong cả nghìn năm nay. Dĩ nhiên, khóai lạc đúng là cái vấn
nạn của các chất kích thích này, bởi vì khoái lạc và lòng mộ đạo luôn luôn có
một mối quan hệ không vui vẻ với nhau lắm.
Khi nhìn vào các luật lệ về ma túy- thực ra là cùng nhìn
vào các luật về thói hư tật xấu của chúng ta – tính chất cấu thành duy nhất
khiến có thể tạo cho chúng có ý nghĩa chính là bất cứ cái gì có thể khiến át hẳn
lời cầu nguyện hay các quan hệ tình dục chỉ có mục đích lạc thú không nhằm mục
đích sinh sản đều bị đặt ra ngoài vòng pháp luật tất. Đặc biệt, bất cứ loại ma
túy nào (LSD, messalin, psilocybin, DMT, MDMA, marijuana v.v…) mà các hậu quả về
tôn giáo và tâm linh quy tội được cho người xử dụng đều bị ngăn cấm. các quan
tâm về sức khỏe hoặc về năng lực sản xuất cho công dân của chúng ta, là những sự
đánh lạc hướng trong cuộc tranh luận này, khi tính hợp pháp của rượu và thuốc lá
được mang vào cuộc thảo luận.
Cái thực tế của sự việc thiên hạ bị truy tố, bị bỏ tù vì xử
dụng marijuana, trong khi rượu vẫn còn là một thương phẩm chính, rõ ràng là một
phương pháp bác bỏ luận đề của bất cứ quan niệm nào cho rằng các luật về ma túy
của chúng ta nhằm giữ cho dân chúng khỏi gây tổn hại đến chính mình hay kẻ khác.[24]
Rượu chắc chắn là một chất gây nghiện nguy hiểm nhiều hơn. Rượu chưa từng bao
giờ được chấp thuận xử dụng trong y học và rượu rất dễ dẫn đến việc dùng đến các
liều lượng gây chết người. Vai trò của rượu trong các tai nạn giao thông thì
khỏi cần phải bàn cãi. Cái đặc tính mà rượu có thể lôi kéo người xử dụng khỏi sự
tự chế đã góp phần vào các bạo lực, thương tật, thai nghén ngoài kế hoạch và
gieo rắc các bệnh tật về tính dục. Rượu cũng là thứ dễ gây nghiện nhất. Uống
nhiều rượu trong một thời gian dài có thể đưa đến các tổn hại về não bộ, bị xơ
gan hoặc tử vong. Riêng tại Hoa kỳ, hàng năm có hơn 100.000 người chết vì uống
rượu. Rượu mang đến nhiều độc hại cho một thai bào đang phát triển hơn là bất cứ
dược chất hoặc ma túy nào khác. (Thực tế, “crack babies” cho thấy đúng là hậu
quả của hội chứng thai bị nhiễm độc rượu)[25] .
Không một quy kết nào như thế có thể công bằng với marijuana. Marijuana được coi
như một dược liệu, đã đóng góp một cách độc đáo vào một số ứng dụng y khoa đồng
thời chưa từng bị xem là một dược liệu gây nghiện chết người. Trong khi các phản
ứng từ các dược phẩm như aspirin và ibuprofen dẫn đến khoảng 7600 trường hợp tử
vong (và 76000 trường họp phải vào bệnh viện chữa trị) chỉ riêng ở Hoa Kỳ
hàng năm, còn marijuana không hề gây tử vong đến một ai.[26]
Vai trò của marijuana như một “dược liệu cổng vào (gateway)” hiện nay trở nên ít
hợp lý hơn bao giờ (và nó sẽ không bao giờ được hợp lý cả).[27]
Thực tế, Hầu như tất cả những gì con người thường làm – như lái xe, đi máy bay,
đánh golf- đều nguy hiểm hơn là hút marijuana nơi chốn riêng tư trong nhà mình.
Bất cứ ai muốn nghiêm chỉnh tranh luận là marijuana đáng bị nghiêm cấm bởi vì nó
mang lại các hiểm nguy cho con người sẽ thấy là các quyền năng của não bộ con
người đã đơn giản không làm việc được.
Thế mà, chúng ta đã đi quá xa khỏi cái găng tay mờ ám
của lý lẽ khiến có người vẫn tiếp tục bị tù chung thân không có cơ hội giảm án
vì trồng, buôn bán, xử dụng những thứ thực ra chỉ là những cây trồng tự nhiên.[28]
Các bệnh nhân ung thư và tê liệt đã bị kết án, bỏ tù trong mấy thập niên qua vì
xử dụng marijuana. Chủ các cơ sở buôn bán vật liệu cây trồng cũng bị các xử phạt
tương tự bởi vì một số khách hàng của họ bị bắt vì xử dụng hoặc chứa marijuana. Làm sao giải thích được sự lãng phí tài nguyên và năng lực con người một
cách đáng kinh ngạc như thế này ? Lời giải thích duy nhất là cuộc bàn luận của
chúng ta về chủ đề này chưa từng bao giờ có bổn phận phải hiệu quả trong các
giới hạn của sự hợp lý. Dưới các sắc luật hiện thời của chúng ta, thật an toàn
vô hại để mà phát biểu rằng, nếu một dược liệu được làm ra mà không đem đến nguy
hiểm nào về cơ thể hoặc sự nghiện ngập với người xử dụng nhưng mang lại một cảm
giác ngắn ngủi của sự sung sướng và một phép lạ nào đó cho tâm hồn của 100 phần
trăm người dùng đến, thì dược liệu này chắc chắc sẽ là phi pháp và người xử dụng
chắc chắn sẽ bị trừng phạt không thương xót.
Chỉ có mối lo lắng về tội thờ bái ảnh tượng như trong thánh
kinh mới có thể tạo được một ý nghĩa cho khao khát muốn báo thù này. Bởi vì
chúng ta là những con người của đức tin, được dạy dỗ để chính mình phải lo lắng
cho các tội lỗi của hàng xóm, do đó chúng ta đã trở nên rộng lượng cho việc xử
dụng một cách phi lý quyền lực nhà nước của chúng ta.
Việc ngăn cấm một số dược chất của chúng ta đã đưa đến việc
hàng ngàn những người đàn ông, đàn bà lẽ ra hữu ích trở thành bị cầm tù ngắn
hoặc dài hạn trong nhiều thế hệ qua. Con cái của họ trở thành những kẻ phải được
nhà nước trông nom. Nếu như những mối kinh hoàng tầng tầng lớp lớp ấy chưa đủ
làm phiền mình thì các loại tội phạm về bạo lực – như giết người, hãm hiếp và
các thứ lợi dụng trẻ em - thường được tha khỏi tù để tạo thêm chỗ chứa cho
chúng.[29] Chính ở đây chúng ta đã
đi quá cái sáo nghĩa của điều ác và nhảy vào trong chiều sâu của sự ngu xuẩn.[30]
Các hậu quả của sự phi lý trong mặt trận này quá lớn đến
mức phải xem xét kỹ hơn. Hàng năm, hơn 1.5 triệu đàn ông đàn bà bị bắt giữ ở Hoa
kỳ vì luật ma túy của chúng ta. Vào ngay lúc này, vào khoảng trên dưới 400.000
người đang mòn mỏi trong các nhà tù Hoa kỳ vì những tội phạm xử dụng ma tuý
không gây hậu quả bạo hành[31] . Một
triệu kẻ khác đang ở trong các loại quản chế. Nhiều người bị tù đày vì các vi
phạm về ma tuý không bạo hành ở Hoa kỳ hơn những người bị tống giam vì bất cứ
nguyên nhân gì ở cả tây Âu (vốn có dân số lớn hơn). Các chi phí cho những nỗ lực
này, chỉ riêng ở tầng mức liên bang, là gần 20 tỉ mỹ kim hàng năm.[32]
Tổng chi phí cho luật ma tuý của chúng ta – khi các yếu tố về phí tổn của chính
phủ và các chính quyền địa phương cùng số thiệt hại về thuế thu nhập bị mất bởi
sự thất bại trong việc quản lý dược liệu của chúng ta - dể dàng vượt quá 100 tỉ
dollar hàng năm. [33] Cuộc chiến
tranh chống ma tuý của chúng ta tiêu hao chừng 50 phần trăm thời gian của chúng
ta cho các phiên tòa xét xử cùng năng lực làm việc toàn thời gian của hơn
400.000 cảnh sát.[34] Đây là những
trữ lượng lẽ ra nên dùng vào việc chống lại bọn khủng bố và các loại tội phạm
bạo hành khác.
Trong phạm trù của lịch sử, đã từng có đủ tất cả mọi lý do
để mong cho một chính sách ngăn cấm như thế ấy nên thất bại. Thí dụ như ai cũng
biết rằng cuộc thử nghiệm về luật cấm uống rượu ở Hoa kỳ đã không làm được gì
hơn sự thúc đẩy đến một sự khôi hài vô cùng của sự gia tăng việc uống rượu, các
tội phạm có tổ chức và sự thối nát của ngành cảnh sát. Điều thường không được
nhớ đến là các luật cấm chính là một thực hành tôn giáo rõ rệt, là sản phẩm liên
kết của Liên đoàn Phụ nữ Kitô giáo hạn chế uống rượu và cuộc vận động hành lang
nhiệt thành của một số hiệp hội truyền giáo Tin lành.
Vấn nạn của các ngăn cấm với bất cứ thứ hàng hóa đáng thèm
muốn nào là đồng tiền. Liên Hiệp Quốc đánh giá trị các buôn bán ma túy vào
khoảng 400 tỉ mỹ kim một năm. Con số này vượt quá ngân sách hàng năm của Bộ quốc
phòng Mỹ. Nếu con số là này là đúng, sự nghiệp buôn bán ma túy cấu thành 8 phần
trăm của tất cả các thương mại quốc tế (trong đó buôn bán vải vóc là 7.5 phần
trăm và ngành buôn bán xe cộ chỉ có 5.3 phần trăm).[35]
Thế mà, bản thân của sự ngăn cấm chính là cái đã khiến ngành sản xuất và buôn
bán ma túy trở nên vô cùng lợi nhuận. Những kẻ sinh sống bằng nghề này có thể
kiếm được từ 5000 đến 20.000 phần trăm tiền lời có được từ cuộc đầu tư của mình,
không phải trả thuế. Các chỉ dấu hiện nay của ngành buôn bán ma túy - gồm mức
độ xử dụng ma túy và các ngăn chặn, ước tính số liệu sản xuất, tinh chất của ma
túy bán trên đường phố v.v… cho thấy chính phủ không hề làm được gì để ngăn
chặn sự buôn bán bất hợp pháp này chừng nào lợi nhuận còn tồn tại được (thực ra,
những lợi nhuận này là từ những thối nát tham nhũng cao độ của việc thi hành
luật pháp trong bất cứ trường hợp nào). Tội phạm nghiện ngập, để có đủ tiền
trang trải chi phí quá cao cho mức sống của y, và tội phạm của người buôn bán ma
túy, để bảo vệ khu vực kinh doanh và hàng hóa, cũng đều là hậu quả của luật cấm.
[36] Một mỉa mai chung cuộc, xem ra
cũng đủ là công việc của chính bản thân Satan, chính là cái thị trường chúng ta
đã tạo nên từ luật ma tuý của chúng ta đã trở thành một nguồn lợi vững chắc về
tiền tệ cho các tổ chức khủng bố như Al Qaeda, Thánh Chiến Hồi giáo, Hezbollah,
nhóm Con đường Khai sáng và nhiều tổ chức khác nữa.[37]
Ngay cả nếu chúng ta nhìn nhận việc ngăn chặn xử dụng ma
tuý là một mục tiêu xã hội chính đáng, làm thế nào mà phí tổn cho cuộc chiến
chống ma tuý của chúng ta lại là một thách đố khác mà chúng ta phải đương đầu ?
Hãy thử nghĩ đến việc chỉ cần chi một lần 2 tỉ dollar để có thể bảo đảm được cho
các hải cảng của chúng ta khỏi các vụ nhập lậu các loại vũ khí hạch nhân. Hiện
nay chúng ta chỉ mới dành được 93 triệu dollar cho mục đích này mà thôi.
[38] Công cuộc ngăn cấm xử dụng
marijuana ( với chi phí hàng năm là 5 tỉ mỹ kim) của chúng ta trông sẽ ra sao
nếu một ánh dương mới cứ luôn mọc lên ở cảng Los angeles ? Hay thử nghĩ về
trường hợp chính phủ Mỹ chỉ có thể kham nổi 2.3 tỉ mỹ kim hàng năm để tái thiết
Afghanistan. Taliban và Al Qaeda hiện nay đang tái tụ trở lại. Các tướng lãnh
đang cai trị những khu vực bên ngoài giới hạn thủ phủ Kabul. Ðối với chúng ta
việc nào quan trọng hơn, lấy lại vùng đất này cho các lực lượng văn minh hay
tiếp tục chiến đấu với marijuana ? Việc xử dụng ngân sách chính phủ của chúng ta
hiện nay cho thấy một độ tuột dốc - thậm chí có thể nói là loạn trí - về các ưu
tiên quốc gia của chúng ta. Sự phân bổ ngân quỹ một cách quái quỷ như thế chắc
chắn sẽ khiến Afgghanistan trở thành hoang phế trong nhiều năm sắp tới. Và nó
cũng sẽ không mang đến cho nông dân Afghanistan một chọn lựa nào ngoài trừ việc
trồng nha phiến. Sung sướng thay cho họ vì luật pháp của chúng ta với ma túy vẫn
còn khiến cho công việc này là một kiểu kinh doanh có lợi nhuận cao.
[39]
Bất cứ ai tin rằng Thiên Chúa đang quan sát chúng ta từ
những thiên hà xa xôi sẽ cảm thấy rằng việc trừng phạt những người đàn ông, đàn
bà hiền lành vì những lạc thú cá nhân của họ là hợp lý. Chúng ta hiện đang ở thế
kỷ hai mươi mốt. Có lẽ chúng ta nên có những lý lẽ tốt hơn để dí súng mà lấy đi
những tự do cá nhân của hàng xóm chúng ta. Cứ nhìn mức trọng đại của các vấn nạn
thực sự đang đối đầu với chúng ta - nạn khủng bố, sự tăng trưởng của vũ khí hạt
nhân, sự bành trướng của các tật bệnh truyền nhiễm, sự đổ nát của hạ tầng cơ sở,
sự thiếu hụt ngân sách cho y tế và giáo dục v.v…- cuộc chiến với tội lỗi của
chúng ta đã quá dại dột một cách tàn bạo khiến trở nên xem thường những lời bình
phẩm hợp lý. Làm sao mà chúng ta có thể trở nên quá đui mù đối với các quyền lợi
quan trọng hơn của mình đến thế ? Và làm sao chúng ta đã có thể đạt đến việc để
ban hành những chính sách ấy với quá ít các tranh luận quan trọng lẽ phải có ?
(xin xem tiếp phần còn lại của chương 5)
Chú thích
[1]
Trong một bữa ăn tối, Reagan đã nói với James Mills, nhà làm luật ở
California, rằng ‘tất cả mọi việc đều ở đúng vị trí cho cuộc chiến đấu
về ngày tận thế và ngày tái sinh xuống trần lần thứ hai của Chúa’. Vị
tổng thống này đã cho phép Jerry Falwell được tham dự các cuộc họp về an
ninh quốc gia và tác giả cuốn sách Ngày tận thế Hal Lindsay đến nói
chuyện về chiến tranh hạch nhân với Nga cho các "chiến lược gia hàng đầu
của Ngũ giác đài”. Trích từ F. Johnson “Grace Halsell’s Prophecy and
Politics: Miltitant Evangelists on the Road to Nuclear War” Journal
of Historical Review 7. No. 4 (Mùa đông 1986)
[2] Đọc
G. Gorenberg, The End of day:Fundamentalism and The Struggle for the
temple Mount (Oxford: Oxford Univ. Press, 2000) để có một bản phân
tích đầy đủ.
[3]
Ibid., tr. 80.
[4]
“Justic Roy Moore’s Lawless Battle” editorial to New York Times,
ngày 17 tháng Mười hai, 2002.
[5]
Theo Frank Rich, “Religion for Dummies” New York Times, ngày 13
tháng Tư 2002.
[6]
www.gallup.com.
[7] Đọc
Rich, “Religion”. Và F. Clarkson, Eternal Hostility:The Struggle
between Theocracy and Democracy (Monroe, Maine: Common Courage
Press, 1997).
[8]
Theo E. Bumiller “Evangelicals Sway White House on Human Rights Issues
Abroad” New York Times, ngày 26 tháng Mười 2003.
[9]
Theo C. Mooney “W.’s Christian nation” American prospect, ngày 1
tháng sáu, 2003. Đồng thời xin xem website của Americans United for
Separation of Church and State (www.au.org)
[10]
Một trong những quan tâm trong việc tài trợ các tổ chức tôn giáo là
những tổ chức này không bị ràng buộc bởi các quy chế về sự bình đẳng khi
tuyển chọn lao động vốn phải áp dụng cho tất cả các tổ chức bất vụ lợi
khác. Các hội nhóm của giáo hội có thể ngăn cấm tuyển dụng những người
đồng tính, những kẻ đã ly dị hoặc tái hôn, những người đã quan hệ hôn
thú giữa các chủng tộc, v.v…và vẫn tiếp thục nhận được tài trợ. Họ cũng
tìm ra được những cách thức rất sáng tạo để xử dụng những khoản tài trợ
này cho các việc nhập đạo. Việc ban phát các tài trợ ấy trước hết đã đặt
chính phủ liên bang trong một vị trí phải quyết định cái gì là, cái gì
không phải là một tôn giáo đích thực - vốn là một trách nhiệm mang đến
quá nhiều khó khăn cho chính mình.
[11]
Theo M. Dowd “Tribulation Work Patience” New York Times, ngày 9
tháng Tư, 2003.
[12]
Theo W. M. Arkin, “The Pentagon Unleashes a Holy Warrior” New York
Times, ngày 9 tháng Tư, 2003.
[13]
Theo J. Hendren, “Religious Groups Wants Outspoken General Punished” Los Angeles Times, ngày 16 tháng Mưới 2003
[14]
Theo G. H. Gallup Jr., Religion in America 1996
(Princeton:Princeton Religion Research Center, 1996).
[15]
Theo Paul Krugman “Gotta Have Faith” New York Times ngày 27 tháng
Tư, 2002.
[16]
Ðọc A. Scalia “God’s Justice and Ours” First Thing, tháng Năm
2002, tr. 17-21.
[17]
www.gallup.com/poll/release/pros0519.asp
[18]
Theo Mooney, “W.’s Christian Nation”.
[19]
Ðọc phán quyết bài bác quan điểm của Scalia đối với Daryl Renard
Atkins, Petitoner, v. Virginia, trong lệnh tái thẩm lên Tòa án Tối
cao Virginia, ngày 20 tháng Sáu 2002.
[20]
Ðọc phán quyết bài bác quan điểm của Scalia đối với John Geddes
Lawrence and Tyron Garner, Petitioner v. Texas, trong lệnh tái thẩm
lên Tòa án Tối cao Virginia, ngày 20 tháng Sáu 2002.
[21]
Trước khi bị hành quyết, Ted Bundy khẳng định rằng các hình ảnh bạo dâm
đã hằn sâu không thể loại bỏ được trong trí óc của y. Đọc R. Shattuck,
Forbidden Knowledge : From Promentheus to Pornography (New York:
St. Martin’s Press, 1996).
[22]
Có một phân biệt giữa các tự do riêng tư và công cộng mà tôi chú giải
thêm ở đây. Rõ ràng, có vô số những hành vi không đáng chê trách trong
chốn riêng tư nhưng chúng ta lại ngăn cấm trong hầu hết những nơi công
cộng, đơn giản bởi vì chúng gây phiền đến người khác. Nấu ăn trên lề
đường, cắt tóc trên máy bay thương mại hoặc mang con rắn nuôi trong nhà
của mình vào rạp cine là những thí dụ trong muôn vàn thí dụ về những tự
do cá nhân không thể đem ra chốn công cộng được.
[23]
Sung sướng thay, phán quyết của Tòa án tối cao trong trường hợp Lawrence
nad Garner v. Texas có lẽ đã huỷ bỏ các điều luật này vô điều kiện (xin
đọc tại www.cnn.com/2003/LAW/06/26/scotus.sodomy).
[24]
Nhận xét các vấn nạn của ma túy từ bối cảnh của sự chăm sóc sức khỏe :
luật lệ của chúng ta về việc cung cấp cho người nghiện các mũi kim chích
sạch đã gia tăng các trường hợp lây nhiễm AIDS, viêm gan siêu vi B, và
các loại bệnh lây nhiễm về máu khác. Bởi vì liều lượng và chất lượng của
các loại dược liệu bất hợp pháp vẫn còn là sự phỏng đoán của người xử
dụng, do đó tỉ lệ nhiễm độc và dùng quá liều thường cao một cách không
cần thiết (như đối với rượu trong thời có luật cấm rượu). Éo le thay,
việc ngăn cấm luật hình đối với ma túy thực đã khiến tạo dễ dàng hơn cho
thiếu niên tìm đến ma túy. Bởi vì thị trường cho chúng đã được điều hành
bí mật. Luật pháp giới hạn việc xử dụng y học của chất opiate giảm đau
chả làm được gì khá hơn là khiến những kẻ đau thực phải chịu đựng hơn
trong những tháng cuối của đời mình.
[25]
Theo L. Carroll, “Fetal Brains Suffer Badly from the Effects of Alcohol”
New York Times ngày 4 tháng Mười một, 2003.
[26]
www.drugwarfacts.com.
[27]
www.rand.org/publications/RB/RB6010/.
[28]
Những biến cố này được mô tả trong Reefer Madness:Sex, Drugs and Cheap
labor in the American Black market của E. Schlosser (New York:Houghton
Miffin, 2003).
[29]
Khoảng 51 phần trăm tổng số những người phạm các tội bạo lực được thả ra
sau khi chịu án khoảng 2 năm hoặc ít hơn, 76 phần trăm được thả sau bốn
năm hoặc ít hơn (www.lp.org). Ở mức liên bang, thời gian chịu án trung
bình của một người phạm các tội về ma túy là 6.25 năm ( theo ONDCP
Office of National Drug Control Policy) Drug Data Summary,
www.whitehousedrugpolicy.gov)
[30]
Thế mà, những cái không thể lường được này vẫn tăng cao hơn. Trong nhiều
tiểu bang, một người chỉ cần vi phạm vào một cáo buộc liên quan đến ma
túy có thể bị tịch biên nhà cửa, và người nào cung cấp được những thông
tin giá trị về y có thể được thưởng đến 25 phần trăm giá trị tài sản bị
tịch biên ấy. Tất cả những phần còn lại chảy vào ngành cảnh sát, vốn
hiện nay vẫn trông dựa vào các tài sản bị sung công này để cân bằng ngân
sách của mình. Đây đúng là sự xếp đặt các loại khuyến khích để dẫn đến
những thối nát trong thời Tòa dị giáo (nếu không muốn nói là cả một quy
trình như thế đã là một sự “thối nát”). Giống như những người bị kết tội
dị giáo, kẻ bị bắt vì tội ma tuý không có hy vọng gì ngoài việc phải
trao đổi thông tin để được giảm nhẹ án phạt. Kẻ nào không thể (hay không
muốn) ám chỉ đến ai rõ ràng không tránh khỏi sự trừng phạt nghiêm khắc.
Do đó, các tin tức khai báo trở nên vô cùng giá trị, đến nỗi trong thực
tế đã mọc ra một thị trường chợ đen cho những thông tin này. Những người
bị kết án không có tin tức để trao đổi có thể mua những tin tức liên
quan đến ma túy từ những người khai báo chuyên nghiệp (và những thông
tin như thế này thường không rẻ chút nào). Kết quả cuối cùng của tất cả
những sự việc này là các ban bộ cảnh sát quay ra học hỏi cách chú ý vào
tài sản địa ốc hơn là nhằm vào tội phạm. Nhà cửa có thể bị tịch biên và
tước đoạt ngay cả khi người vi phạm cuối cùng được tìm ra là vô tội. Một
cuộc khảo sát trên toàn quốc cho thấy 80 phần trăm các nhà cửa bị tịch
biên đã thực hiện mà không phải là hậu quả từ bất cứ cuộc truy tố hình
sự nào cả (www.drugwarfacts.com) . Chính nhờ các luật lệ tỏa sáng kiểu
này, nhiều cặp vợ chồng trong tuổi 80 đã bị mất nhà mất cửa vì cháu nội,
ngoại mình bị bắt vì xử dụng marijuana. Muốn biết thêm những sự thật này
xin đọc Reefer Madness của Schlooser.
Cuộc chiến về ma túy rõ ràng đã thực hiện quá đáng
đến mức ăn mòn các tự do dân sự của chúng ta. Nhất là, trong các tiêu
chuẩn về khám xét và bắt giữ, tạm tha chờ ra tòa, và những cân nhắc của
luật pháp trong việc xét xử đã được cải biến lại tât cả trong nỗ lực làm
cho cuộc chiến không thể thắng này được dễ dàng hơn trong việc truy tố.
Vì các tội phạm về ma tuý được phán xét ở địa phương, tiểu bang rồi liên
bang, dân chúng đã bị xử tòa nhiều lần vì cùng một tội phạm-có những
người được xử vô tội ở tòa cấp này, lại bị xử chung thân ở một cấp tòa
khác. Đã hơn một lần, các thành viện Quốc hội từng đưa ra biểu quyết dự
luật phạt tử hình bất cứ ai bị bắt vì buôn bán ma túy. Thật không ngạc
nhiên chút nào là, những nỗ lực để trừ tiệt nguồn cung cấp ma tuý ở các
nước khác đã lại còn gây thiệt hại hơn cho quyền tự do dân sự của nhiều
người khác. Tại châu Mỹ la tinh, chúng ta trở nên kẻ làm việc nghĩa
không mỏi mệt cho các vi phạm về nhân quyền. (Đọc thêm bằng chứng tại:
www.hrw.org.)
Trong các ý nghĩa về môi trường sinh thái, cuộc
chiến chống ma túy không có thuận lợi gì hơn. Những chuyến phun thuốc
xịt cỏ của chúng ta từ trên không đã đẩy nhanh tiến độ hủy hoại các khu
rừng nhiệt đới cũng như làm ô nhiễm nguồn nước, mùa màng và con người.
Chính phủ Mỹ gần đây đã tìm cách chuẩn y một loại kỹ thuật gây giống
mang tên “nấm sát hại”, nhằm tấn công vào các nơi trồng marijuana trong
nội địa cùng cây coca và cây thuốc phiện ở hải ngoại. Ngay thời điểm
này, một số quan ngại rõ rệt về môi trường đã ngăn chặn đến việc xử dụng
loại kỹ thuật này. ( Xin đọc: www.lindesmith.org.)
[31]
Từ ONDCP Drug Data Summary (tháng Ba 2003). Cuộc chiến chống ma
túy cũng trở thành một bộ máy vĩ đại của sự bất bình đẳng về chủng tộc,
bởi vì trong khi người da đen chiếm 12 phần trăm dân số Mỹ và 13 phần
trăm của tổng số người xử dụng ma túy, chiếm 38 phần trăm tổng số người
bị bắt nhưng có đến 59 phần trăm bị kết án về tội ma túy là người da
đen. Luật bài trừ ma tuý của chúng ta đã đóng góp vào thảm cảnh không
cha mẹ trong cộng đồng da đen, và điều này – song song với các lợi nhuận
và tính tội phạm trong việc buôn bán ma túy – đã tàn phá nội tình các
thành phố của chúng ta ( Xem www.drugwarfacts.com).
[32]
Ibid.
[33]
Theo M. S. Gazzaniga, “Legalizing Drugs:Just Say Yes” National Review,
ngày 10 tháng Bảy 1995. Tr.26-37, đã có những ước tính tương tự. Thiết
tưởng không cần phải nói, chi phí chỉ tăng trưởng theo thời gian.
[34]
Theo W. F. Buckley Jr. “The War on Drugs Is Lost” National Review
ngày 12 tháng Hai, 1996
[35]
Theo www.lindersmith.com.
[36]
Lần cuối cùng mà có người đã phải giết nhau vì các thương vụ về rượu và
thuốc lá bị thất bại là khi nào ? Chúng ta có thể tự tin là một tính
cách bình thường tương tự sẽ đạt đến nếu ma túy được quản lý bởi chính
phủ.Ngay khởi điểm của “cuộc chiến tranh về ma tuý” hiện đại, nhà kinh
tế Milton Friedman nhân xét rằng “hợp pháp hóa ma túy sẽ lập tức giảm
thiểu số tội phạm và tăng chất lượng thi hành luật pháp”. Sau đó, ông
mời độc giả “nghĩ ra bất cứ biện pháp nào giúp củng cố và ổn định luật
pháp tốt hơn” (Friedman, “Prohibition and Drugs”, Newsweek, ngày 1 tháng
Năm 1972). Cái gì đúng vẫn là đúng sau 3 thập niên của sự cai trị ngoan
đạo tồi; tội phạm kết hợp với sự nghiệp buôn bán ma túy là kết quả không
tránh khỏi của chính bản thân luật chống ma túy của chúng ta.
[37]
Theo chính phủ Hoa Kỳ, mười hai trong số hai mươi tám nhóm tổ chức đã bị
chính thức liệt vào danh sách các tổ chức khủng bố đã tài trợ từng phần
hoặc toàn bộ hoạt động của chúng từ buôn bán ma túy ( Xem
www.theantidrug.com/drugs_terror/terrorgroups.html.)
[38]
Theo S. Weinberg, “What Price Glory”, New York Review of Books,
ngày 6 tháng Mười một 2003 tr. 55-60.
[39]
Tất cả những sự điên rồ này vẫn tiếp tục, ngay cả nếu việc hợp pháp hóa
và quản lý việc buôn bán ma túy có thể hiệu quả đến mức có thể giữ cho
thiếu niên không với tay đến được (lần cuối cùng bắt được một kẻ bán
rượu vodka trong sân trường là khi nào ?), triệt các tổ chức tội phạm
đến tận gốc, giảm chi phí hàng năm trong việ thi hành luật pháp xuống
hàng chục triệu, tăng thu thêm cả hàng tỉ mỹ kim khi đánh thuế thương vụ
mới này và giải tỏa được hàng trăm ngàn viên chức cảnh sát để đi chiến
đấu chống khủng bố và các tội phạm khác. Ðối nghịch với những phúc lợi
rõ rệt này là nỗi lo sợ rằng việc hợp pháp hóa và quản lý ma túy sẽ dẫn
đến cơn dịch bệnh của sự nghiện ngập và lợi dụng thuốc. Rất dễ hiểu,
cũng như sự so sánh giữa Hoa Kỳ và những nơi như Hòa lan, cho thấy nỗi
lo sợ này là không có cơ sở. Với hơn 100 triệu trong số 108 triệu người
Mỹ từng xử dụng các loại ma túy bất hợp pháp có thể làm chứng, nghiện
ngập là một hiện tượng rõ ràng khác biệt với việc xử dụng, và việc xử
dụng chỉ đòi hỏi đến các thông tin tốt để khỏi rơi vào nghiện ngập. Dĩ
nhiên, chứng nghiện ngập cần phải được điều trị - cái mà hiện nay chúng
ta không có đủ ngân sách.
Ðiều này không phải để chối bỏ rằng một tỉ lệ phần
trăm nhỏ của một số người dùng các ma túy (cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp)
có cuộc sống bị đổ vỡ vì chúng. Chúng ta thường nghĩ về vấn nạn này như
thể có hai mặt nghiệt ngã:”lạm dụng” và “nghiện ngập”. Tuy vậy, vẫn đúng
là đa số người xử dụng ma túy không lạm dụng nó, và nhiều nguồn ma túy
bất hợp pháp không sẵn sàng để trỡ thành nguồn nghiện ngập ngay cả chúng
ở sẵn trong tay người xử dụng (như marijuana, LSD, psilobin, mescaline
v.v…). Bảo rằng ma túy dễ gây nghiện ý muốn nói là con người phát triển
cả sức chịu thuốc và sự khoan dung với nó (do đó cần đến các liều càng
cao hơn để đạt được hiệu quả tương đương) cùng các triệu chứng chịu thua
việc ngưng xử dụng. Không khó khăn để mà nhìn thấy tại sao những người
có thiện ý phải lo ngại cho kẻ khác có thể trở nên loại nô lệ không chủ
tâm của tính chất hóa học như thế. Trong khi thuốc phiện và các phó sản
của nó (như heroin và morphine) là những bằng chứng cổ điển của ma túy
các loại, nicotine và rượu cũng có thể được xếp vào danh mục này (tuỳ
theo liều lượng xử dụng). Tuy nhiên, Theo luật lệ của chúng ta, đối với
tất cả những người xử dụng ma túy trái phép - bất kể là có khác thường
hay không, nghiện ngập hay không - đều bị xem là tội phạm, là đối tượng
bị bắt giữ, bỏ tù, tịch biên tài sản và các hình phạt khác của tiểu
bang.
Luật về ma tuý của chúng ta đã tạo nên sự phân biệt
tùy tiện và không rõ ràng giữa các tinh chất hóa học trong khi làm giảm
nhẹ đi những loại có gía trị. Không ai nghi ngờ việc xử dụng một số ma
túy có thể hủy hoại đời sống của một số người. Nhưng cũng có thể nói đến
cùng một ý nghĩa tương tự như vậy với nhiều mặt hàng khác. Con người phá
hủy đời mình và cuộc đời những người lệ thuộc mình chỉ đơn giản từ một
việc là ăn quá nhiều. Năm 2003 Trung Tâm kiểm soát Tật bệnh công bố rằng
chứng béo phì trở thành một lo ngại lớn nhất cho sức khoẻ công chúng ở
Mỹ, thế mà ít có ai trong chúng ta tưởng tượng đến việc bộ luật hình sự
mới của chúng ta cần phải soạn về sự kiểm soát việc ăn cheeseburger. Bất
cứ ở đâu có vấn đề về ma túy, chính là các vấn đề về chính sách giáo dục
tốt và hệ thống y tế tốt hơn chứ không phải là chuyện bỏ tù. Chỉ cần đơn
giản quan sát dân chúng trong đời sống công cộng vốn không đủ khả năng
để có những thảo luận hợp lý về những sự việc này (bắt đầu từ
JohnAscroft trở xuống), bạn sẽ thấy rằng đức tin tôn giáo đã làm hết các
phần việc thông tin các quan điểm về thế gian của nó.