CHƯƠNG 5 (tiếp theo)
Thượng đế của Thuốc men
Mặc dù chắc chắn đã có sự đối nghịch giữa đức tin và lẽ
phải, chúng ta còn thấy là không hề có liên quan gì giữa lẽ phải và yêu thương
cũng như lẽ phải và tâm linh. Căn bản của khẳng định này rất đơn giản. Các kinh
nghiệm con người trải qua có thể chấp nhận được những thảo luận hợp lý về nguyên
nhân và hậu quả (hay chính từ đó về sự ngu xuẩn của mình). Mặc dù điều này để
lại nhiều chỗ chứa cho các điều kỳ lạ, nhưng không hề có chỗ chứa nào cho đức
tin. Cũng có thể có những lý do chấp nhận được để tin vào những hiện tượng đồng
bóng, đời sống ngoài hành tinh, học thuyết về tái sinh, năng lực chữa lành bệnh
bằng sự cầu nguyện hoặc bất cứ thứ gì khác – nhưng sự cả tin nhẹ dạ của chúng
ta phải được cân đo bằng chứng cứ. Học thuyết về đức tin từ bỏ điều này. Từ
quan điểm của đức tin, thà là cứ bắt chước hành vi của tiền nhân đi trước hơn là
tìm ra một phương cách sáng tạo nào nhằm khai mở những chân lý mới trong hiện
tại.
Dĩ nhiên có nhiều nguyên nhân phi lý khác hơn là đức tin
tôn giáo, nhưng không một sự phi lý nào từ những nguyên nhân khác đã tán dương
vai trò của mình trong sự uốn nắn các chính sách công cộng. Công lý của Tòa Tối
cao không có thói quen tán thưởng đất nước chúng ta vì sự tin cậy vào chiêm tinh
học, vì các phong phú trong việc ngắm nhìn các UFO, hoặc vì các minh chứng về
những thành kiến khác nhau mà các nhà tâm lý học đã tìm ra khiến ít nhiều có
tính cục bộ đến loài người chúng ta.[40]
Chỉ các chủ nghĩa giáo điều tôn giáo dòng chính nhận được các hỗ trợ bất chấp
đến sự hội đủ tiêu chuẩn hay không từ chính phủ. Do vậy, đức tin tôn giáo đã che
khuất đi những điều không chắc thực ở bất cứ đâu có những hiển nhiên ấy, để cho
phép những điều không biết, những việc không đáng tin, và các loại giả mạo rành
rành đạt được những giá trị ưu tiên vượt quá các sự thật ấy.
Hãy thử suy nghĩ về cuộc tranh luận hiện nay về các tế bào
phôi con người. Vấn nạn của cuộc khảo cứu này, theo quan điểm của tôn giáo đơn
giản là vì một khảo cứu như thế sẽ dẫn đến sự hủy hoại các phôi thai. Cái phôi
thai vốn bị đặt vấn đề là những thứ sẽ được cấy trong ống nghiệm (chứ không lấy
từ bụng thai phụ) và được để cho phát triển trong ba đến năm ngày. Ở giai đoạn
phát triển này, một phôi thai được gọi là blastocyst, chứa đựng khoảng 150 tế
bào được xếp trên ống kính hiển vi. Nội tạng của một blastocyst là một tập hợp
của khoảng 30 tế bào phôi (embryonic stem cells). Những tế bào này có hai đặc
tính khiến chúng có những lưu tâm đáng trông đợi từ các nhà khoa học : trong
trạng thái là một tế bào phôi, chúng có thể duy trì trong tình trạng không
chuyên môn hóa, tự sinh sản thông qua sự tự phân chia trong một thời gian tương
đối dài (tập hợp của những phôi bào sống trong một môi trường cấy như thế được
nhận biết như là một dòng tế bào), các tế bào phôi đó có năng lực sinh sản,
nghĩa là chúng có khả năng trở thành bất cứ tế bào chức năng nào trong cơ thể
con người – như các tế bào não, các tế bào cột sống, các tế bào sinh sản ra
insulin cho tuyến tạng, các tế bào cơ bắp cho tim và nhiều loại khác nữa.
Đây là những gì chúng ta biết. Chúng ta biết rằng có nhiều
điều sẽ học hỏi được từ các khảo cứu về tế bào phôi. Đặc biệt là một cuộc khảo
cứu như thế có thể sẽ mang lại cho chúng ta các hiểu biết sâu sắc hơn về quy
trình tự phân chia của tế bào và sự phân biệt của các tế bào. Những hiểu biết
này chắc chắn sẽ mang đến một ánh sáng mới mẻ cho các điều kiện y học, như bệnh
ung thư và các sinh sản bị khuyết tật, vốn có lẽ chỉ vì quy trình sản sinh tế
bào này đã không được như ý muốn. Chúng ta cũng biết được là một khảo cứu về tế
bào phôi cần đến sự hủy diệt của một phôi thai con người ở giai đoạn phát triển
đến 150 tế bào. Tuy vậy, không có một lý do tối thiểu nào để tin rằng, những
phôi thai ấy có năng lực biết đau, khổ hoặc trải qua một thứ kinh nghiệm chết
chóc trong bất cứ hình thức nào. Điều không thể tranh cãi được là có hàng triệu
con người đang có những năng lực này, và đang phải chịu đau đớn từ những tổn
thương nặng nề đến não bộ và cột sống. Hàng triệu người khác đang khổ đau vì các
chứng Parkinson và Alzheimer. Hàng triệu người khác nữa phải chịu đau đớn vì các
chứng đột trụy, tim mạch, phỏng nặng, tiểu đường, các chứng tê thấp, chứng tế
bào Purkinje bị thoái hóa, bệnh loạn đường bắp thịt và các chứng liên quan đến
thị giác cũng như thính giác. Chúng ta biết được rằng các tế bào phôi hứa hẹn
một nguồn lực mới cho khả năng tự tái sinh của các mô và cơ phận khiến có thể
giảm nhẹ những đau khổ ấy trong một tương lai không xa lắm.
Mang đức tin vào cuộc tranh luận: hiện nay chúng ta đang
thấy mình sống trong một thế giới có các nhà chính khách có học vị cao đẳng sẽ
lao những vật cản vào để ngăn chặn các khảo cứu ấy bởi vì họ lo lắng cho số phận
của chỉ một tế bào đơn độc. Quan tâm của họ không phải chỉ từ một tập hợp
của 150 tế bào phải chịu sự huỷ hoại. Mà hơn cả thế, họ tin rằng ngay cả một hợp
tử (một cái trứng đã thụ tinh) của con người cũng nên phải được đồng lòng bảo
vệ như một con người đã hoàn toàn phát triển. Vì một tế bào như thế, cuối cùng
sẽ có được khả năng trở nên một con người phát triển đầy đủ. Thế nhưng nếu nhìn
vào những tiến bộ mới của chúng ta trong sinh học tạo giống (cloning), rất nhiều
điều đã được nói đến về mọi tế bào trong một cơ thể con người. Trong phạm vi về
tiềm năng của một tế bào, mỗi khi ngài tổng thống gãi mũi mình là ngài đã dự
phần vào việc chà xéo một cách độc ác vào biết bao linh hồn.
Từ sự tôn trọng đến các tín lý vốn chi tiết và nghèo nàn
của học thuyết Kitô giáo (nói cho cùng, không có gì trong nội dung thánh kinh
dạy rằng giết hại một phôi bào con người, ngay cả một bào thai con người là
tương đương với sự giết hại một mạng người cả), Quốc Hội Hoa kỳ đã biểu quyết
cấm chỉ các khảo cứu về tế bào phôi vào ngày 27 tháng Hai năm 2003.
Không một tiếp cận hợp lý nào đến luân lý có thể dẫn chúng
ta đến một bế tắc như thế. Chính sách về tế bào phôi của chúng ta hiện thời đã
bị bóp méo bởi những niềm tin vốn đã ly dị khỏi tất cả những trực giác hợp lý mà
chúng ta có thể hình thành được từ những kinh nghiệm khả thi của các hệ thống sự
sống. Trong phạm trù của khoa thần kinh học, chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhiều đau
khổ trên địa cầu này từ việc giết một con ruồi hơn là giết hại một blastocyst
người chứ chưa cần bàn đến việc giết hại một hợp tử (bởi vì con ruồi, xét cho
cùng, chỉ riêng trong não của chúng đã có 100.000 tế bào). Dĩ nhiên, cái mục
đích mà chúng ta muốn đạt đuợc về nhân loại tính, về năng lực chịu đựng đau đớn
của chúng ta vẫn còn là một câu hỏi chưa giải đáp được. Nhưng bất cứ ai cứ khăng
khăng một cách võ đoán rằng những điểm này phải nảy sinh ra trùng hợp với khoảnh
khắc thụ thai không có gì để đóng góp vào cuộc tranh luận ngoài chính sự ngu
xuẩn của y. Những ai chống lại việc khảo cứu tế bào phôi vì những căn cứ của tôn
giáo tạo nên một tương đương sinh học và luân lý học của một xã hội thời còn tin
quả địa cầu có dạng hình phẳng dẹp. Cuộc luận bàn của chúng ta nên phản ánh điều
này. Chỉ riêng trong lãnh vực chính sách công cộng, các tiện lợi mà chúng ta tạo
ra cho đức tin sẽ chẳng làm được gì hơn ngoài việc trân trọng cất vào giáo đường
cả một cõi bao la của khổ đau nhân loại cho nhiều thập niên nữa.
Nhưng những nhánh leo của phi lý còn bò lan xa hơn nữa.
Tổng thống Bush mới đây đã quyết định cắt khoản tài trợ dành cho các tổ chức kế
hoạch hóa gia đình ở hải ngoại nếu biết được họ có tiến hành phá thai. Theo tờ
Thời Báo Nữu Ước, việc cắt giảm ngân sách này “đã cắt đi hoàn toàn các dự
trữ cung cấp bao cao su cho 16 quốc gia, giảm số lượng cung cấp đến 13 quốc gia
khác, bao gồm những quốc gia có tỉ lệ lây nhiễm bệnh AIDS cao nhất thế giới”[41] .
Dưới ảnh hưởng từ các quan điểm Kitô giáo về tội lỗi trong những trường hợp quan
hệ tình dục không hôn thú, chính phủ Hoa kỳ đã yêu cầu dành ra một phần ba ngân
quỹ dành cho việc phòng chống bệnh AIDS cho Phi châu để dành vào việc giáo dục
các sự kiêng cữ tình dục hơn là dùng đến bao cao su. Thành ra, hoàn toàn không
cường điệu chút nào khi nói rằng hàng triệu con người có thể phải chết trực tiếp
từ hậu quả riêng từ sự đơm hoa kết trái của chủ nghĩa giáo điều tôn giáo này.
Như Nicholas Kristof vạch rõ, “quan hệ tình dục, cũng như sự e thẹn đoan trang
này đã giết người”.[42]
Thế mà, thậm chí những người đã nhìn thấy tất cả những vấn
nạn này trong tất cả hãi hùng của nó cũng cho rằng không thể chỉ trích đến bản
thân đức tin. Đơn cử Kristol như một bằng chứng : ngay chính từ hành động phô
bày tính trung cổ đang thắng thế trong chính phủ Hoa Kỳ, và chắc chắn có ảnh
hưởng đến quốc ngoại, ông vẫn tiếp tục đánh luôn những ai dám đòi hỏi người mộ
đạo phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về niềm tin của họ :
Tôi có khuynh hướng không đồng ý với các nhà rao giảng phúc
âm hầu như trong tất cả mọi điều, và tôi cũng nhìn thấy không có vấn đề gì trong
sự kiên quyết vạch ra những hậu quả đau lòng của các ảnh hưởng tôn giáo đang
tiến triển này. Thí dụ như, mối bực bội của các nhà truyền giáo về việc xử dụng
bao cao su và giáo dục tính dục đã dẫn chính phủ đến các chính sách khiến gần
như đưa nhiều nạn nhân đến cái chết vì bệnh AIDS hơn ở quốc nội và quốc ngoại,
chưa tính đến sự tăng trưởng của các vụ mang thai và phá thai.
Nhưng các chỉ trích phóng khoáng dường như thường không chỉ
dừng lại ở sự miệt thị, vốn là một sự thẳng thắn, đến các chính sách ủng hộ
những nhà truyền giáo, nhưng còn có giọng điệu diễu cợt đến bản thân Kitô giáo
bảo thủ nữa. Sự châm chọc đức tin tôn giáo như vậy là không thể tha thứ được.
Đồng thời những người tự do đôi khi còn hiếu kỳ một cách trí thức đến tôn giáo ở
Afghanistan hơn là hiếu kỳ như thế về tôn giáo ở Alabama, lại thích đọc kinh Áo
Nghĩa Thư (Upanishad) hơn là đọc các sách Kinh Khải Huyền.[43]
Đây là các lý lẽ trong lụi tàn. Kristol đả phá “những hậu
quả đau lòng” của đức tin nhưng lại vinh danh cái nguyên nhân của chúng.[44]
Đúng là các luật lệ về luận bàn dân sự đang đòi hỏi nàng Lý lẽ phải mang một cái
khăn che mặt mỗi khi nàng du hành trong công chúng. Nhưng các lề luật về tranh
luận dân sự phải thay đổi.
Đức tin chia rẽ luân lý và khổ đau. Ở những nơi một số
hành vi không hề gây khổ đau gì, những người giáo điều tôn giáo vẫn cứ xem chúng
như sự ác đáng phải bị trừng phạt (các quan hệ tình dục khác thường, việc xử
dụng marijuana, chứng đồng tính luyến ái, sự giết hại các blastocyst v.v…) Thế
nhưng, khi đau khổ và tử thần được tìm ra từ trong cả đống những nguyên nhân
thường cứ được cho là tốt lành (như việc rút lại các ngân sách cho các kế hoạch
hoá gia đình trong các nước thứ ba, truy tố những người vi phạm vào việc xử dụng
các loại ma tuý không gây bạo lực, ngăn cản các khảo cứu về tế bào phôi v.v…) Sự
đảo ngược các ưu tiên này không chỉ khiến người vô tội trở thành nạn nhân và
hoang phí năng lượng vốn hiếm hoi mà còn là sự bóp méo đến tận cùng nền luân lý
của chúng ta. Đã đến lúc chúng ta tìm được cách tiếp cận hợp lý hơn để trả lời
những câu hỏi về đúng và sai.
Chú thích
[40]
Đọc, thí dụ., D. Kahneman and A. Tversky “On the Realty ofCognitive
illusions”, Psychological Review 103 (1996): 582-91.
[41]
Đọc “Misguided Faith on AIDS (Editorial), New York Times ngày 15
tháng Mười 2003.
[42]
Đọc N. Kristof “When Pudery Kills” New York Times, ngày 8 tháng
Mười, 2003.
[43]
Ibid.
[44]
Kristof cũng đã hiểu sai câu phát biểu nổi tiếng của Einstein “Khoa học
không có tôn giáo là què quặt, tôn giáo không có khoa học là đui mù” để
cho rằng Einstein đã bày tỏ sự tôn trọng đến tính cả tin đạo giáo. Khoa
học không có tôn giáo là què quặt, chỉ có nghĩa là “khoa học chỉ có thể
được sáng tạo bởi những ai hoàn toàn thấm đẫm bởi những khao khát về
chân lý và hiểu biết. Tuy nhiên, nguồn gốc của cảm giác này, có được từ
vũ trụ của tôn giáo”. Trong khi tôn giáo mà không có khoa học là mù lòa
bởi vì tôn giáo không có được lối vào chân lý- nghĩa là, theo suy
tưởng của Einstein, không có gì khác hơn “nguồn cảm giác” này, nỗ lực
cho một điều gì vĩ đại hơn này không thể tự mình được đánh giá có tính
khoa học. Đức tin, do đó, chỉ là kẻ đói khát, trong khi lý lẽ là thức ăn
của nó.
Einstein có lẽ quan niệm đức tin không khác gì hơn
một hoạn quan được dùng vào việc canh giữ hậu cung khi những kẻ khôn
ngoan bận giải quyết những vấn đề của thế gian. Từ cách lấy cớ là tôn
giáo có thể tiến hành mà không hề cần đến một khát vọng tri thức nào,
ông cũng an ủi cho khả năng phạm lỗi lầm của tôn giáo. Đây không phải là
cái đức tin khiến các nhà rao giảng phúc âm, hay bất cứ người theo đạo
nào, từng thực hành. Đọc Einstein, Ideas and Opinions (New
York:Wing Books. 1954) 41-49.