CHƯƠNG 4 (tiếp theo)
Vấn nạn đối với Hồi Giáo -2
Zakaria nhận xét rằng người Hồi giáo sinh sống ở phương Tây
thường tỏ ra khoan dung với đức tin của người khác. Ngay tại đây, chúng ta thử
hãy chấp nhận tính cách này - mặc dù nó bỏ quên đi cái thực tế bất tiện là nhiều
quốc gia Tây phương giờ đang trở nên “cái ổ của các lực lượng vũ trang Hồi
giáo”.[12]
Tuy nhiên, trước khi chúng ta ghi điều này vào cuốn sổ khoan dung của người Hồi
giáo, chúng ta hãy tự hỏi mình xem sự bất dung của người Hồi giáo đã tự lộ diện
ở phương Tây như thế nào. Thiểu số nào, ngay cả một thiểu số đã cấp tiến hóa, đã
thường không “khoan dung” với thành phần đa số trong suốt quá trình phát triển
của nó ? Ngay cả những kẻ thừa nhận mình là khủng bố và những nhà cách mạng đã
chỉ suốt ngày ngồi rình chờ cơ hội thuận tiện? Chúng ta không nên lầm lẫn về sự
“dung thứ” của chính trị, kinh tế và vô số những yếu đuối khác cho chủ nghĩa tự
do chân chính.
Lewis nhận xét rằng “đối với người Hồi giáo, không một mảnh
đất nào một khi đã hội nhập vào vương quốc của Hồi giáo mà có thể sau cùng bị
chối bỏ ”.[13]
Chúng ta cũng nên thêm là không một tâm hồn nào, một khi đã nhập vào với vương
quốc sau cùng có thể chối bỏ được-bởi vì, như Lewis đã lưu ý, hình phạt cho sự
bội giáo là tử hình. Tốt hơn chúng ta nên nán lại sự việc này một chốc, bởi vì
sự việc này chính là viên ngọc đen của sự bất dung thứ mà không một bình giải
nào có thể tiêu hóa hết được. Trong thế giới Hồi giáo, hình phạt cho sự học hỏi
quá nhiều về thế gian – cũng giống như đặt nghi vấn với các tín điều của đức tin
– là tử hình. Nếu một người Hồi giáo của thế kỷ hai mươi mốt đánh mất đức tin
của y, dù y chỉ từng là một tín đồ Hồi giáo trong một giờ đồng hồ, câu trả lời
đúng nguyên tắc, ở bất cứ nơi nào trong Hồi giáo, là giết hắn đi.
Trong khi Koran đơn thuần chỉ diễn tả những sự trừng phạt
chờ đợi kẻ bội giáo trong thế giới kế tiếp (Koran 3:86-91), các dòng sử thi rất
dứt khoát để loại công lý này phải được phân phối ra trong câu “Bất cứ ai đổi
đạo, hãy giết bỏ.” Không có siêu hình gì ẩn dấu trong mệnh lệnh này, và và dường
như không có một tiến trình chú giải cổ văn nào có thể phủi sạch được. Chúng ta
đã có thể cố gắng để hòa hợp ý nghĩa vĩ đại với sự thực rằng bản thân lệnh huấn
thị không có trong bản thân kinh Koran, nhưng trong các ý nghĩa thực tiễn các
văn bản thi sử thánh dường như chính là cấu thành của thế giới quan Hồi giáo
trong từng chi tiết. Với thực tiễn là thi sử thánh thường được dùng như các ống
kính để phiên giải kinh Koran, nhiều nhà làm luật Hồi giáo còn xem nó có thẩm
quyền hơn cả trong sự thực hành đạo Hồi.[14]
Ðúng là một số nhà làm luật tự do đã đòi hỏi những người bội giáo phải thực là
có phát biểu những điều phản lại Hồi giáo trước khi phê chuẩn việc giết hắn,
nhưng bản thân sự trừng trị thường không bị xem là “quá đáng”. Cái công lý giết
hại kẻ bội giáo là một sự thể được sự chấp nhận, nếu không muốn nói là được thực
hiện, của Hồi giáo dòng chính. Ðiều này giải thích tại sao không hề xuất hiện
được một người Hồi giáo biết điều nào trên thế gian này khi Ayatollah Khomenini
đặt tiền thưởng cho cái đầu của Salman Rushdie. Nhiều người Tây phương băn khăn
tại sao hàng triệu người Hồi giáo “ôn hoà” không có ai dám công khai chối bỏ
mệnh lệnh này của giáo hội. Những câu trả lời trực tiếp đến từ các tín điều của
đạo Hồi, những tín điều mà ngay cả Cat Stevens, một danh ca nhạc folk sinh
trưởng ở Âu châu (hiện giờ mang tên là Yosuf Islam) cũng phải nghi ngờ đến khía
cạnh công lý của chúng.[15]
Như chúng ta đã thấy, Kitô giáo và Do Thái giáo có thể được
thực hiện để cho nốt nhạc thứ tha vang cùng âm điệu - như đã trải qua một vài
thế kỷ kể cả hai phía cùng làm như thế. Tuy vậy, thực tế đang xảy ra dưới ảnh
hưởng của Hồi giáo là nếu bạn mở sai một cánh cửa vào cái tự do truy cứu thế
giới của bạn, các anh em đồng đạo của bạn sẽ nghĩ rằng bạn phải nên chết đi vì
sự việc ấy. Rồi, chắc chúng ta phải rất băn khoăn, thế Hồi giáo muốn nói gì đến
ý nghĩa của việc ”không ép buộc về đạo giáo.”
Trong phần phê bình cuốn sách mới của Lewis viết về Hồi
giáo, Kenneth Pollak đã nêu ra một chỉ trích có thể đem áp dụng tốt hơn cho các
chứng minh của tôi :
Lewis vẫn không bám sát được những vấn đề sâu sắc hơn cho
độc giả của mình. Ông vẫn không mang lại được lời giải thích của mình cho sự
việc vì sao vấn đề Hồi giáo ở Trung đông lại đình trệ, tại sao các nỗ lực cải
cách bị thất bại, tại sao lại thất bại đặc biệt trong việc trở thành đồng nhất
với nền kinh tế toàn cầu trong một phương cách đầy ý nghĩa và tại sao những thất
bại này ngay cả không đưa ra được một quyết tâm đổi mới để thành công (như vùng
Ðông Á trong 50 năm qua, và có thể cho là cả India, châu Mỹ La tinh và ngay cả
các phần của vùng phụ cậ Saharan Phi Châu ngày nay) mà chỉ có những cơn phẫn nộ,
thất vọng với phương Tây khiến sinh ra nạn sát nhân, khủng bố tự sát bất chấp
tất cả các ngăn cấm của đạo Hồi về những hành động như thế.[16]
Tất cả đấy là những câu hỏi hữu ích – và Zakairia mang lại
những câu trả lời khá ngay thẳng – nhưng chúng không phải là những “vấn đề sâu
sắc hơn”. Nếu bạn tin những gì như kinh Koran nói bạn phải tin thế nào để chính
bản thân mình thoát khỏi được lửa địa ngục, bạn sẽ, tối thiểu, phải có thiện cảm
với các hành động của Osama bin Laden. Các ngăn cấm của đạo giáo về “khủng bố tự
sát” không có nhiều như Pollak đưa ra. Kinh Koran chỉ có đơn độc có một dòng mơ
hồ, “Không được hủy diệt chính mình” (4:29). Như mọi nhà phê bình khác về chủ đề
này, Pollak có vẻ không thể đặt mình vào vị trí của một kẻ thực sự tin vào những
tiền đề đã đặt để sẵn trong Koran - rằng Thiên đàng đang chờ, rằng ý thức của
chúng ta không là gì ngoài một chứng tích của một thế gian tận lực cần đến sự
chinh phục cho hào quang của Thượng đế. Hãy mở cuốn kinh Koran, cuốn kinh hoàn
hảo trong mỗi vần điệu của nó, và hãy đơn giản đọc lên bằng con mắt của đức tin.
Bạn sẽ nhận ra không có bao nhiêu lòng bác ái cần phải phí bỏ đối với những kẻ
mà Thượng đế phải tự mình tham dự vào quá trình của những sự “chế diễu”, “nguyền
rủa”, “ghê tởm”, “không tha thứ”, “xấu hổ”, ”trừng phạt”, “áp bức”, “thiêu đốt”,
“không xá tội”. Thượng đế, một đấng chắc chắn là thông thái vô hạn, từng phải
nguyền rủa những kẻ không theo đạo chỉ vì sự hoài nghi của họ. Người kéo dài đời
sống và thịnh đạt của chúng để chúng có thể chất chứa hết tội lỗi này đến tội
lỗi khác và để sau cùng chúng phải chịu thống khổ bên ngoài mộ huyệt. Trong ánh
sáng này, những con người chết đi vào ngày 11 tháng Chín không gì hơn là nhiên
liệu cho ngọn lửa miên viễn cho công lý của Thượng đế. Ðể truyền đạt sự tàn nhẫn
với những gì mà người không theo đạo đã bị phỉ báng trong văn bản của Koran, tôi
cung cấp ở đây một sưu tập dài những trích dẫn, theo thứ tự mà chúng xuất hiện
trong kinh bản. Ðây là những gì mà đấng sáng tạo nên vũ trụ chắc chắc đã chứa
trong tâm thức (khi ngài không bị cuống lên bởi các hằng số của lực hút hấp dẫn
và những trọng lực nguyên tử) :
“Cảnh cáo chúng trước cũng thế thôi [những kẻ không theo
đạo] , chúng sẽ không có đức tin” (2:6). “Thượng đế sẽ nhạo báng chúng, và giữ
chúng dài lâu trong tội lỗi, vấp ngã mù lòa” (2:15). Một đám cháy “mà nhiên liệu
là con người và gạch đá” sẽ chờ đợi chúng (2:24). Chúng sẽ “được thưởng bằng sự
ruồng bỏ trên thế gian này và sự trừng phạt đau khổ trong Ngày Sống lại” (2:85).
“Thượng đế nguyền rủa những kẻ vô đạo” (2:89). “Chúng phải chịu cơn giận không
thương xót của Thượng đế. Một sự trừng phạt nhục nhã đang chờ [chúng] ” (2:90).
“Thượng đế là kẻ thù của những kẻ không tin đạo” (2:98). “Những kẻ không tin đạo
giữa Những kẻ tin Kinh sách [Kitô giáo và do Thái giáo] , và những kẻ thờ đa
thần, phật ý vì những phước lành được ban phát cho các ngươi từ Chúa của các
ngươi” (2:105). “Chúng sẽ bị cầm giữ trong hổ thẹn ở thế giới này và bị trừng
trị nghiêm khắc trong thế giới sau” (2:114). Đối với những kẻ mà ta [Thượng đế]
đã cho kinh sách, và đã đọc kinh sách như ý nghĩa vốn phải đọc, đã thực sự tin
vào đấy;còn những kẻ chối bỏ chắc chắn là không hiểu” (2:122). “ta sẽ để chúng
sống thêm một chút, rồi kéo lê chúng vào trừng phạt của lửa thiêu. Tai họa sẽ là
số mệnh của chúng” (2:126). “Phương Đông và phương Tây là của Thượng đế. Người
sẽ hướng dẫn cho những ai người muốn đến một con đường thẳng tắp” (2:142). “Đừng
bảo rằng những kẻ bị giết hại vì Thượng đế là chết. Họ thực còn sống đấy nhưng
các ngươi không trông thấy thôi” (2:154). “Nhưng những kẻ không theo đạo chết
không tin đạo sẽ gánh chịu nguyền rủa của Thượng đế, các thiên thần và tất cả
mọi người. Họ sẽ chịu lời nguyền ấy mãi mãi, sự trừng trị sẽ không bao giờ được
nguôi nhẹ, cũng như không được tha thứ” (2:162). “Chúng sẽ thở dài trong hối
tiếc, nhưng sẽ không bao giờ thoát khỏi lửa thiêu” (2:168). “Kẻ không theo đạo
cũng giống như thú vật, cứ gọi chúng như thế vì ta được phép, chúng sẽ không
nghe được gì cả chỉ biết kêu gào, khóc lóc. Điếc, câm và mù lòa, chúng sẽ không
thể hiểu được gì” (2:172). “Đối với chúng, sẽ là một trừng phạt kinh hoàng”
(2:175). “Họ tìm lửa thiêu mới kiên định làm sao ! Đó là bởi vì Thượng đế đã hé
lộ chân lý từ các Kinh sách; những ai không đồng ý với điều ấy chính là bọn cực
kỳ ly giáo” (2;176). “Hãy giết chúng bất cứ nơi nào ngươi tìm thấy. Đuổi chúng
ra khỏi mọi nơi chốn mà chúng muốn đuổi ngươi đi. Thờ cúng các ảnh tượng thì còn
tệ hơn cả sự tàn sát…Nếu chúng tấn công, hãy lấy kiếm mà đâm chúng. Bọn không
theo đạo đáng được ban thưởng như thế : nhưng nếu chúng chừa bỏ, Thượng đế sẽ
tha thứ và thương xót. Hãy chiến đấu chống lại chúng cho đến khi chúng không còn
thờ ảnh tượng và đạo của Thượng đế được lên ngôi tối cao. Nhưng nếu chúng chừa
bỏ, đừng đánh ai trừ bọn làm ác” (2:190-93). “Chiến đấu là bổn phận của ngươi,
kể cả ngươi có không muốn thế. Nhưng ngươi được ghét một thứ mặc dù tốt cho
ngươi, cũng như phải thích một thứ dù không có lợi cho ngươi. Bởi vì Thượng đế
hiểu, ngươi không thể hiểu được” (2;216). “Chúng sẽ không ngừng chiến đấu chống
lại ngươi cho đến khi chúng bắt đưọc ngươi phải từ bỏ đức tin của ngươi-nếu
chúng có thể. Nhưng bất kể ai trong các ngươi rút lui và chết không tin đạo, thì
các công trình của y sẽ trở thành vô nghĩa trong thế giới này và thế giới sau.
Những kẻ đó sẽ trở thành kẻ ở thuê trong chốn địa ngục, nơi họ sẽ bị cầm giữ mãi
mãi. Còn những ai giữ được đức tin, và những ai bỏ chạy khỏi đất đai mình để
chiến đấu cho lý tưởng của Thượng đế, có thể hy vọng được long xót thương của
Ngài” (2:217-18). “Thượng đế không hề hướng dẫn những kẻ làm ác” (2:258).
“Thượng đế không hề hướng dẫn kẻ không theo đạo” (2:264). “Những kẻ làm ác sẽ
không có ai giúp chúng” (2:270). “Thượng đế giúp những ai Người muốn” (2:272).
“Những kẻ chối từ khải huyền của Thượng đế sẽ bị trừng phạt
nghiêm khắc; Thượng đế vĩ đại và có năng lực để trả thù” (3:5). “Đối với bọn
không theo đạo, kể cả giàu sang và con cái chúng cũng không thể cứ chúng khỏi
phán xét của Thượng đế. Chúng sẽ trở nên nhiên liệu của Lửa thiêu” (3:10). “Hãy
nói với bọn không tin đạo” ‘các ngươi sẽ bị lật đổ và bị thảy vào địa ngục-nơi
yên nghỉ đầy tai họa’” (3;12). “Ðức tin đúng duy nhất trong cách nhìn của Thượng
đế chính là Hồi giáo… Kẻ chối bỏ Khải huyền của Thượng đế nên biết rằng Thượng
đế sẽ biết ngay” (3:19). “Ðừng để cho những kẻ tin làm bạn với bọn không đạo hơn
là những người sùng đạo-kẻ làm như thế sẽ chẳng có hy vọng gì nơi Thượng đế-trừ
trong trường họp tự vệ” (3:28). “Hỡi những kẻ tin, đừng làm bạn với ai ngoài
chính người của mình. Chúng sẽ không từ một đau đớn nào để mua chuộc ngươi.
Chúng không muốn gì ngoài sự tàn lụi của ngươi. Lòng oán hận của chúng có bằng
chứng ngay từ những lời mấp máy trên miệng chúng, nhưng hận thù mà chúng dấu kín
trong ngực chúng mới thật lớn lao hơn” (3:118). “Nếu ngươi phải chịu sự thua
cuộc, kẻ thù của ngươi cũng sẽ phải chịu như thế. Ta thay đổi luân phiên sự
thăng trầm này trong nhân loại để Thượng đế biết được kẻ tin thật và chọn các tử
đạo trong các ngươi (Thượng đế không thương kẻ làm ác); và Thượng đế có thể thử
thách sự trung tín và tiêu diệt kẻ không theo đạo” (3:140). “ Hõi những kẻ tin
đạo, nếu ngươi nhường nhịn kẻ không theo đạo, chúng sẽ kéo lê ngươi trở về sự
không tin đạo và ngươi sẽ đâm đầu vào cõi trầm luân… Ta sẽ đem gieo kinh hoàng
vào trong tâm bọn không tin đạo… Lửa thiêu sẽ là nhà ở của chúng” (3:149-51).
“Hỡi những người tin đạo, đùng tin theo những chứng minh của bọn không đạo,
những kẻ nói đến tình anh em của chúng khi chúng đối diện tử thần khắp nơi nhất
trong trận địa ‘nếu để chúng ở với ta chúng sẽ không bị chết bằng không chúng sẽ
bị giết’ Thượng đế sẽ làm cho chúng hối hận về những lời nói của chúng…Nếu ngươi
phải chết hay bị sát hại vì lý tưởng của Thượng đế, lòng thứ tha và thương xót
của Thượng đế chắc chắn sẽ tốt lành hơn tất cả của cải giàu có mà y tích lũy”
(3:156). “Ðừng bao giờ tưởng rằng những kẻ bị sát hại vì lý tưởng Thượng đế đã
chết đi. Thực họ còn sống, và được đầy đủ bởi Chúa của họ, hạnh phúc với những
ban thưởng và vui vì những gì ai bỏ lại sau lưng, những ai chưa theo họ, không
có gì để sợ hãi hay hối tiếc, vui mừng trong khoan hồng hào phóng của Thượng đế.
Thượng đế sẽ không chối từ ban thưởng cho những người ngoan đạo” (3:169). “Ðừng
để bọn không tin tưởng rằng ta kéo dài ngày tháng của chúng vì lợi ích của
chúng. Ta cho chúng trì hoãn chỉ để chúng phạm thêm nhiều tội lỗi nữa. Các trừng
phạt đáng xấu hổ đang chờ chúng” (3:178). “Những ai phải chịu xử tội vì ta,
chiến đấu vì ta và bị sát hại :ta sẽ tha cho tội lỗi của họ và cho họ được đến
vườn thiêng tưới bằng những vòi phun như một phần thưởng từ Thượng đế. Thượng đế
giữ sự thưởng phạt phong phú. Ðừng bị gạt bởi những kho tàng của bọn không tin
đạo trên mặt đất . Bởi thịnh vượng của chúng chỉ ngắn ngủi. Ðịa ngục sẽ là nhà ở
của chúng, một nơi yên nghỉ buồn thảm” (3:195-96).
“Thượng đế đã nguyền rủa sự không tin của chúng” (4:46).
“Thượng đế sẽ không tha thứ cho kẻ nào phụng thờ các thần thánh khác ngoài
Thượng đế; nhưng Ngài sẽ tha thứ cho ai Ngài muốn vì những tội lỗi khác. Kẻ thờ
phượng các thánh thần khác ngoài Thượng đế là phạm môt tội ác ghê tởm…Hãy xem
những điều mà vì chúng một phần của kinh sách đã phải được ban ra. Chúng tin vào
các ảnh tượng, các thần thánh giả tạo và các lời của bọn không tin đạo:’ đây là
những hướng dẫn tốt hơn là những người tin đạo;” (4:50-51). “Những kẻ từ chối
Khải huyền của Ta ta sẽ thiêu chúng trong lửa. Ðể chúng được nếm mùi tai họa.
Thượng đế uy quyền và Thông thái” (4:55-56).
“Hỡi những người tin đạo, đừng tìm bạn với những kẻ không
đạo và những kẻ đã được ban cho các kinh sách trước ngươi, những kẻ đã xem tôn
giáo của ngươi như trò giải trí giễu cợt” (5:57). “Những gì tiết lộ cho ngươi
chắc chắn sẽ làm bọn chúng yếu hơn và không tin hơn như đa số chúng. Ta đã trộn
lẫn trong chúng lòng thù địch và oán hận, những thứ sẽ kéo dài đến ngày sống
lại” (5:65). “Thượng đế không chỉ đường cho bọn không tin” (5:67). “Những gì
tiết lộ cho ngươi chắc chắn sẽ làm bọn chúng yếu đi và không tin hơn. Nhưng
không đau buồn cho bọn không tin đạo” (5:69). “Ngươi thấy nhiều người trong họ
làm bạn với những kẻ không tin đạo. Sự ác là cái mà từ đó linh hồn chúng xúi
giục nên. Chúng đã gánh cơn giận của Thượng đế và sẽ phải chịu đau khổ mãi mãi…
Ngươi sẽ thấy rằng những kẻ không bao giờ có thể nguôi thù địch với người ngoan
đạo là bọn tà giáo và Do Thái và cái ảnh hưởng gần nhất đến chúng là những kẻ
nói ‘Chúng ta là Kitô giáo’” (5:80-82). “Những kẻ không tin và từ chối Khải
huyền của ta sẽ trở thành tù nhân của địa ngục” (5:86).
“Chúng dám chối từ chân lý khi chân lý công bố cho chúng
biết; nhưng chúng sẽ nhận thấy hậu quả về sự coi khinh của chúng” (6:5), “Ta đã
tạo cho chúng nhiều quyền lực trên đất đai hơn các ngươi [người Meccans] , gởi từ
trời xuống cho chúng nhiều nước và cho chúng các dòng sông chảy dưới chân. Nhưng
bởi vì chúng tội lỗi, ta sẽ hủy diệt tất cả để nuôi dậy một thế hệ mới sau chúng
nó. Nếu ta gởi xuống các ngươi một Thánh thư khắc ghi trên giấy da thật và khi
chúng sờ vào bằng chính tay mình, những đứa không tin đạo vẫn khăng khăng: ‘đây
chỉ là trò ma thuật’. Chúng hỏi :’Tại sao không có thiên thần giáng xuống cùng
ông ta [Muhammad] ?’. Nếu ta gửi xuống một thiên thần, số mạng của chúng sẽ được
định đoạt và chúng sẽ không bao giờ được tha tội” (6:5-8), “Còn ai quỷ quái hơn
kẻ dám chế ra các lời giả dối về Thượng đế hoặc từ chối Khải huyền của Ngài ?”
(6:21), “Một số đứa trong bọn chúng nghe lời ngươi. Nhưng ta đã tạo một mạng che
tâm hồn chúng và khiến chúng khó nghe được để chúng không thể hiểu lời ngươi
nói. Chúng sẽ không tinvào các dấu chỉ của chúng ta, ngay cả chúng được nhìn một
lần. Khi chúng đến tranh cãi với ngươi, bọn không tin đạo sẽ bảo ‘Ðây chỉ là
những chuyện kể giả tưởng thôi’. Chúng ngăn cấm và từ bỏ đi. Chúng đã không hủy
diệt được ai trừ chính chúng nó, dù chúng không hề nhận thức được. Nếu ngươi có
thể gặp chúng trước khi chất lửa đốt. Chúng sẽ nói ‘Phải chi chúng tôi có thể
quay lại ! Chúng tôi sẽ không chối bỏ Khải huyền của Thiên chúa nữa và sẽ trở
nên người tin đạo thật sự” (6:23-27), “Nhưng nếu được trở lại, chúng sẽ quay về
với những gì chúng bị ngăn cấm. Chúng là bọn dối trá cả thôi” (6:29), “Nếu
Thượng đế hài long, hẳn Người đã thí cho chúng một cơ hội chỉ dạy” (6:35),
“Những đứa chối bỏ Khải huyền của chúng ta là những đứa ngu và điếc; chúng ngớ
ngẩn trong bóng tối. Thượng đế sẽ làm bẽ mặt những kẻ Người muốn, và chỉ ra con
đường thẳng tắp cho những ai người hài lòng” (6:39), “Tâm hồn chúng đã đông
cứng, và quỷ satan đã khiến các hành vi của nó thành phải lẽ đối với chúng. Và
khi chúng quên sạch những lời khuyên răn của Ta, Ta đã ban cho chúng tất cả
những gì chúng muốn; nhưng ngay khi chúng vui sướng vì những gì chúng được ban
phát, ta sẽ thình lình vả vào mặt chúng và chúng sẽ rơi vào những tuyệt vọng
không cùng. Vì đó là những sỉ nhục dành cho bọn làm ác. Hãy ngợi ca Thượng đế,
Chúa tể của vũ trụ” (6:43-45), “Những kẻ chối bỏ khải huyền của ta sẽ phải bị
trừng phạt vì tội ác của chúng” (6;49), “Những kẻ bị nguyền rủa vì tội lỗi của
mình. Chúng phải uống nước sôi và bị trừng phạt nghiêm khắc cho sự không tin
theo của chúng” (6:70), “Ngươi không nhìn thấy bọn làm sai bị tử thần áp đảo
chúng hay sao ! Với hai tay bị căng ra, các thiê thần phán rằng ‘Linh hồn ngươi
hãy chịu thua. Hôm nay ngươi sẽ được ban thưởng bằng sự trừng phạt nhục nhã vì
những gì ngươi nói sai về Thượng đế và khinh thường khải huyền của Người”
(6:93), “Hãy tránh bọn tà giáo. Nếu muốn làm Thượng đế hài lòng, chúng đã không
thờ bái các ảnh tượng… Vì chúng không tin từ đầu, ta sẽ mang chân lý ra khỏi tâm
hồn và ánh mắt chúng. Ta sẽ để chúng mò mẫm trong sai lầm. Nếu ta gửi các thiên
thần xuống, và khiến người chết nói chuyện với chúng… và bày tất cả ra trước
mặt, chúng cũng sẽ vẫn không tin, trừ khi Thượng đế có ý gì khác hơn… Do đó, ta
đã phân công cho mỗi tiên tri một kẻ thù : bọn quỷ sứ giữa con người và thần
thánh, bọn đang cổ vũ nhau bằng các giả dối vốn phai nhạt và vô hiệu. Nhưng nếu
muốn thiên chúa được vui, chúng đã không nên làm như thế. Do đó, mặc kệ chúng
với các sáng tạo của chúng, để tâm hồn của những kẻ không có đức tin trong đời
sống sẽ xuống dốc như những gì chúng nói, và vui, trong các phương cách tội lỗi
của chúng.” (6:107-12), “Bọn quỷ sứ sẽ dạy bảo kẻ tôn sùng chúng cãi nhau với
ngươi. Nếu ngươi vâng theo chúng ngươi sẽ tự mình biến thành bọn thờ ảnh tượng…
Thượng đế sẽ làm nhục bọn phạm tội và sẽ phân phát cho chúng các trừng phạt đau
đớn cho các âm mưu của chúng” (6:121-25), “Nếu Thượng đế muốn hướng dẫn một con
người, Ngài sẽ mở tâm hồn kẻ ấy ra với hồi giáo. Nhưng nếu Ngài thích làm hỏng
y, Ngài sẽ khiến tâm hồn y nhỏ bé lại. Vì thượng đế mang phiền muộn đến những kẻ
không tin theo” (6:125).
Dĩ nhiên, đấy là tất cả những gì chán phèo và liều lĩnh.
[17] Nhưng
không hề có gì thay thế được để đối đầu với bản thân các kinh tự đó. Tôi không
thể đánh giá được chất lượng của ngôn ngữ Ả rập, chắc là tuyệt vời lắm. Nhưng
nội dung của cuốn kinh sách này thì hoàn toàn không. Trên từng trang giấy, kinh
Koran chỉ bảo kẻ tuân phục Hồi giáo khinh miệt những người không tin đạo. Trên
từng trang giấy, kinh bản này chuẩn bị sẵn chiến trường cho các xung khắc tôn
giáo. Bất cứ ai có thể đọc những đoạn trích dẫn trên mà vẫn không thấy được một
gạch nối giữa đức tin Hồi giáo và bạo lực Hồi giáo có lẽ nên đi viếng một bác sĩ
thần kinh.
Hơn tất cả các tôn giáo khác mà nhân loại đã nghĩ ra, Hồi
giáo có tất cả các cấu thành của một giáo phái triệt để về cái chết. Sayyid
Qutb, một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất trong thế giới Hồi giáo,
cha đẻ của Hồi giáo hiện đại trong phái Sunni, đã viết: “Kinh Koran nhắm vào một
tính cách đáng khinh khác của người Do Thái: nỗi khao khát hèn nhát để được
sống, bất chấp cái giá phải trả và bất kể đến danh dự, phẩm giá và nhân cách.”
[18] Lời
công bố này thực là một phép lạ của tính súc tích. Dù có vẻ chỉ là một cú đánh
nhẹ vô ý thức đối với người Do Thái, nhưng đấy thực là một sự cô đọng mạnh mẽ về
thế giới quan của Hồi giáo. Hãy nhìn thẳng vào đấy trong chốc lát, cả một cơ cấu
của bất dung và tự sát quy mô sẽ thành hình ngay trước mắt bạn. Sự ngăn cấm mơ
hồ của Koran về việc tự sát trở thành hết sức không đáng đặt ra. Chắc chắn có
những nhà làm luật Hồi giáo phán rằng việc đánh bom tự sát là trái ngược với tín
lý của Hồi giáo (nhân tiện xin hỏi là các nhà làm luật này đang ở đâu ?) và do
đó những kẻ đánh bom tự sát chẳng phải là những thánh tử vì đạo mà là các cư dân
mới của địa ngục. Thật là những ý kiến thiểu số, nếu có từng hiện hữu, các ý
kiến này không làm thay đổi được thực tế là việc đánh bom tự sát đã được hợp lý
hóa bởi hầu hết các nước Hồi giáo (những nơi gọi đánh bom tự sát là các “vụ nổ
thần thánh”). Thực thế, căn cứ vào các tín lý của Hồi giáo, những hợp lý hóa ấy
thật dễ dàng. Trong ánh sáng của Thượng đế về niềm tin của các tín đồ Hồi giáo
ngoan đạo - về thánh chiến, về thánh tử đạo, về thiên đường, và về những kẻ vô
đạo – việc đánh bom tự sát không có vẻ gì là một điều khác thường trong đức tin
của họ. Và không có gì ngạc nhiên khi tất cả nhũng kẻ chết đi theo cách này được
nhiều đồng đạo của họ xem là thánh tử đạo. Trong bất cứ trường họp nào, một kế
hoạch quân sự đưa đến những hiểm nguy đủ gây ra các tử thương có thể bị xem như
một kế hoạch “tự sát”, khiến cần đến một bàn luận về đặc thù phân biệt giữa tự
sát và tử thương trong hàng ngũ những kẻ muốn “chiến đấu cho lý tưởng của Thượng
đế”. Tận cùng của kẻ khao khát tử vì đạo là như thế này: miễn là mình giết hại
được bọn vô đạo hoặc bọn bội giáo “nhằm bảo vệ cho Hồi giáo”, đức Allah không
cần xét đến việc mình có tự sát trong công cuộc ấy hay không.
Gần đây, hơn 38.000 người tham dự vào một cuộc thăm dò trên
toàn cầu thực hiện bởi Trung tâm Khảo cứu Pew cho Báo chí và Dân chúng. Kết quả
cuộc khảo sát tạo nên ấn bản đầu tiên của Ðề án về Tính cách Toàn cầu có tựa đề
“Thế giới Nghĩ gì trong năm 2002”[19] .
Cuộc khảo sát đưa ra câu hỏi sau đây, đặt ra với riêng người Hồi giáo :
Một số người cho rằng việc đánh bom tự sát và các hình thái
bạo lực khác hướng đến các mục tiêu dân sự là chính đáng trong tính thần bảo vệ
Hồi giáo trước các kẻ thù của họ. Một số khác cho rằng, bất kể từ nguyên nhân
nào, hành động bạo lực như thế này không bao giờ được xem là chính đáng. Cá nhân
quý vị cảm thấy hành vi bạo lực này thường là chính đáng để bảo vệ Hồi giáo, đôi
khi là chính đáng, hiếm khi được coi là chính đáng hay không bao giờ được coi là
chính đáng ?
Trước khi nhìn vào kết quả cuộc nghiên cứu này, chúng ta
nên hiểu rõ giá trị tầm quan trọng của các nhóm từ ghép “đánh bom tự sát” và
“các mục tiêu dân sự”. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà người Hồi giáo
đã được thăm dò một cách khoa học (với tỉ số sai biệt chênh lệch từ 2 đến 4 phần
trăm) xem họ có ủng hộ (“thường”, “độ khi”, “hiếm khi” hay “không bao giờ”) việc
giết người và gây thương tật cho đàn ông , đàn bà, trẻ em một cách có chủ tâm và
để bảo vệ Hồi giáo. Sau đây là một vài kết quả từ nghiên cứu của tổ chức Pew :
ÐÁNH BOM TỰ SÁT ÐỂ BẢO VỆ HỒI GIÁO
Chính đáng hay không?
|
Chính đáng |
Không CÐ |
Không Biết/Từ chối |
|
Lebanon |
73 |
21 |
6 |
Ivory Coast |
56 |
44 |
0 |
Nigeria |
47 |
45 |
8 |
Bangladesh |
44 |
37 |
19 |
Jordan |
43 |
48 |
8 |
Pakistan |
33 |
43 |
23 |
Mali |
30 |
57 |
11 |
Ghana |
30 |
57 |
12 |
Uganda |
29 |
63 |
8 |
Senegal |
28 |
69 |
3 |
Indonesia |
27 |
70 |
3 |
Turkey |
13 |
73 |
14 |
Nếu bạn thấy những con số này chửa đủ phiền muộn, hãy nhớ là những nơi như
Saudia Arabia, Yemen, Egypt, Iran, Sudan, Iraq và các khu vực của người
Palestine không hề có trong kết quả khảo sát trên. Nếu các nước này ở trong danh
sách, những người Lebanon chắc chắn mất vị trí hàng đầu của họ phải dưới nhiều
bậc. Ðánh bom tự sát ,dĩ nhiên là dẫn đến việc tự sát mà hầu hết người theo đạo
Hồi tin rằng đã bị Thượng đế cấm đoán rõ ràng. Hậu quả là, nếu nhu câu hỏi là “
Có từng là chính đáng để nhắm vào các mục tiêu dân sự nhằm bảo vệ Hồi giáo”,
chúng ta sẽ thấy được một sự ủng hộ lớn hơn từ tín đồ Hồi giáo cho chủ nghĩa
khủng bố.
Nhưng kết quả khảo sát của Pew thực sự ảm đạm hơn là những gì mang lại trên bảng
liệt kê trên. Nhìn kỹ vào các dữ liệu sẽ thấy rằng người thăm dò đã bóp méo kết
quả bằng cách nhập nhằng kết quả của “hiếm khi chính đáng” và “không bao giờ
chính đáng” với nhau, từ đó dẫn đến một ý nghĩa sai về chủ nghĩa hòa bình của
Hồi giáo. Hãy nhìn lại một lần nữa vào dữ liệu của Jordan: 43% dân Jordan rõ
ràng đứng về phía bên vực khủng bố, trong khi 48% thì không. Tuy nhiên, vấn đề
là, có phải 22% dân Jordan ấy thực sự trả lời câu “hiếm khi chính đáng” và số
phần trăm này tính vào gần một nửa của các câu trả lời “không”. “Hiếm khi chính
đáng” vẫn có nghĩa là ở một số trường hợp, những người trả lời câu hỏi này có
thể đồng ý sự giết hại bừa bãi, không phân biệt vào những con người không tấc
sắt trong tay (và đồng ý cả hành vi tự sát nữa), không phải như một sản phẩm phụ
có nguyên nhân từ tai nạn của một chiến dịch quân sự mà là một thứ có chủ đích.
Một bức tranh rõ ràng hơn về lòng tha thứ của người Hồi giáo về sự khủng bố nổi
rõ khi chúng ta tập chú vào phần trăm của những người trả lời vốn không thể nào
tìm được trong tâm mình để trả lời “không bao giờ là chính đáng” (bỏ qua một bên
những người vẫn lẩn trốn trong bóng che của câu trả lời “Không biết/Từ chối).
Nếu chia các dữ kiện ra theo cách phân tích này, mặt trời của tính hiện đại sẽ
lặn xuống khỏi thế giới Hồi giáo:
ÐÁNH BOM TỰ SÁT ÐỂ BẢO VỆ HỒI GIÁO
Có khi nào là chính đáng được không?
|
Chính đáng |
Không CÐ |
Không Biết/Từ chối |
|
Lebanon |
82 |
12 |
6 |
Ivory Coast |
73 |
27 |
0 |
Nigeria |
66 |
26 |
8 |
Jordan |
65 |
26 |
8 |
Bangladesh |
58 |
23 |
19 |
Mali |
54 |
35 |
11 |
Senegal |
47 |
50 |
3 |
Ghana |
44 |
43 |
12 |
Indonesia |
43 |
54 |
3 |
Uganda |
40 |
52 |
8 |
Pakistan |
38 |
38 |
23 |
Turkey |
20 |
64 |
14 |
Ðây là những con số bị che dấu. Nếu tất cả mọi người Hồi
giáo trả lời như Turkey đã trả lời (nơi mà chỉ có 4 phần trăm cho rằng đánh bom
tự sát “thường” là chính đáng , 9 phần trăm là “đôi khi” chính đáng, và 7 phần
trăm “hiếm khi”), ta vẫn có một vấn nạn đáng để lo lắng; sau cùng, ta sẽ nói về
hơn 200 triệu người thú nhận có ủng hộ nạn khủng bố. Nhưng Turkey là một bán đảo
có thiện chí chứ không phải như các phần khác của thế giới Hồi giáo.
Chúng ta hãy tưởng tượng một ngày hòa bình sẽ đến trong
vùng Trung Ðông. Người Hồi giáo sẽ nói gì về những vụ đánh bom tự sát mà họ từng
rộng rãi tán đồng ? Họ sẽ bảo “Chúng tôi bị điên cả lên vì sự chiếm đóng của Do
Thái” hay không ? Họ sẽ bảo “Chúng tôi đã từng là một thế hệ bị tâm thần” hay
không ? Họ sẽ giải thích thế nào về những liên hoan theo sau những vụ “nổ thần
thánh” ? Một người thanh niên, sinh ra trong hoàn cảnh tương đối khá, gói ghém
trong y phục của mình các chất nổ, bi đạn rồi tự hủy mình theo hàng loạt trẻ con
khác trong một vũ trường disco, và mẹ y lập tức được chúc tụng bởi hàng trăm
hàng xóm láng giềng. Người Palestin sẽ nghĩ thế nào về các hành vi này một khi
hòa bình được thiết lập ? Nếu như họ vẫn còn là những tín đồ Hồi giáo ngoan đạo
thì đây là những gì họ phải nghĩ : Các con trai mình đã ở trên thiên
đàng, và chúng đang dọn đường cho chúng ta đi theo. Chốn địa ngục đã sắp sẵn cho
bọn vô đạo rồi”. Ðối với tôi, dường như có một chân lý hết sức hiển nhiên rành
rọt của bản chất con người khiến không thể có một nền hoà bình nào, nếu như đã
từng được thiết lập, có thể tồn tại lâu giữa những niềm tin như thế này.
Chúng ta không nên xem thường thực tế là một số phần trăm
đáng kể của các niềm tin Hồi giáo trong thế giới chúng ta cho rằng những kẻ phá
xập tòa nhà Thương mại Quốc tê giờ đang ngồi ngay bên phải của Thượng đế, giữa
các dòng sông nước chảy tinh khiết, các dòng suối của sữa tươi mát, các dòng
sông rượu nho ngọt ngào cho kẻ nào được uống cùng các dòng sông của mật ong tinh
khiết” (47:15). Những kẻ này – đã cắt đứt cuống họng những chiêu đãi viên hàng
không và giao nộp các cặp vợ chồng trẻ cùng con cái của họ đến cho thần chết ở
tốc độ năm trăm dặm một giờ - hiện nay đang được “chăm sóc bởi các trẻ trai mãi
mãi thanh xuân” trong một “vương quốc sung sướng và huy hoàng.” Họ chưng diện
trong các y phục bằng lụa xanh cùng kim tuyến dầy đặc, tô điểm bằng những dây
vàng bạc” (76:15). Danh sách các bổng lộc của họ thì vô kể. Nhưng cái gì đã đánh
thức các vị thánh tử đạo ấy thức dậy trong buổi sáng cuối cùng giữa những người
sống chung quanh mình ? Có ai trong số mười chín không tặc ấy vội vã đến khu
vườn của Allah đơn giản chỉ vì muốn nhận thưởng phần lụa là của mình ? Rất đáng
ngờ là như thế. Sự mỉa mai ở đây chính là một phép lạ trong chính cái lý do của
nó: ngày nay, những kẻ bị ức chế tình dục nhất trong cuộc sống - những kẻ bị
kích động đến cơn phẫn nộ giết chóc để được hưởng những gì như trong phim truyền
hình Baywatch - bị quyến rũ vào tử đạo từ một ý niệm thiên đàng vốn thêu
dệt nên bởi những điều không khác gì hình ảnh trên bức tranh treo trên tường vẽ
một ổ chứa điếm.[20]
Ngoài những hậu quả luân lý khủng khiếp đến từ những kiểu
cách trần tục khác này, chúng ta nên chú ý đến sự đáng ngờ vực của loại thiên
đường trong kinh Koran này sâu nặng đến đâu. Thay vì để cho một nhà tiên tri vào
thế kỷ thứ bảy phán được rằng thiên đàng là một vườn cảnh, hoàn thiện bởi các
dòng sông của sữa và mật ngọt, tốt hơn nên để cho một nhà tiên tri của thế kỷ
hai mươi mốt mô tả thiên đàng như một thành phố tráng lệ nơi tất cả các linh hồn
đều lái xe Lexus mới tinh. Một chút suy nghĩ sẽ lập tức nhận ra rằng những công
bố như thế chẳng cho thấy một điều gì về thế giới kế tiếp và chỉ thực giới hạn
trong các tưởng tượng của con người mà thôi.
[12] A. Cowel, “Zeal for Suicide Bombing Reaches British
Midland” New York Times, ngày 2 tháng Năm, 2003. Hãy thử suy nghĩ
trường hợp của Anh quốc : những người Hồi giáo quốc tịch Anh đã được tìm
thấy đang chiến đấu cùng Taliban, đã sắp đặt âm mưu khủng bố ở Yemen,
toan làm nổ tung các chuyến bay và bắt cóc cũng như sát hại các nhà báo
tại Pakistan. Gần đây, hai công dân Anh đã tình nguyện cho sứ mạng tự
sát ở Do thái (một người đã thành công, người kia thất bại).
Terrorist Hunter (New York:HarperCollins,
2003), mà tác giả ẩn danh đã bí mật thu băng tiến trình ở một cuộc họp
của người Hồi giáo trong nước Mỹ, mô tả một mức độ đáng sợ của sự bất
dung giữa những người Hồi giáo sống ở Tây phương. Tác giả đã tường thuật
là ở một hội nghị, tổ chức tại khách sạn Ramada ở ngoại ô Chicago, trẻ
em Mỹ gốc Ả rập đã trình diễn các vở kịch châm biếm trong đó có những
cảnh diễn tả việc giết hại người Do Thái để trở nên các thánh tử đạo.
Sheik Ikrima Sabri, vị đại giáo sĩ của Jerusalem và Palestine (được bổ
nhiệm bởi Yasir Arafat), gần đây đã công bố: “Bọn Do thái không dám làm
phiền đến ta, bởi vì chúng là những sinh vật hèn hạ nhất mà đấng Allah
từng tạo nên… Ta bảo chúng: các ngươi ham sống chừng nào, chúng ta ham
chết và tử đạo chừng nấy” (ibid., 134). Sabri, kẻ luôn luôn kêu gọi huỷ
diệt nước Mỹ và tất cả các quốc gia vô đạo khác đồng thời luôn khuyến
khích trẻ con trở thành những kẻ đánh bom tự sát. (“Các tử đạo càng trẻ
chừng nào, ta càng khâm phục hơn” – ibid., 132), phát biểu những điều
này không phải từ các ngôi đền Hồi giáo ở Tây ngạn nhưng ở tại chính ở
Hội nghị thưòng niên lần thứ hai mươi sáu của giới Hồi giáo tại Bắc Mỹ,
ở Cleveland, Ohio.
[13] Lewis, Crisis of Islam, xxviii
[14] Ruthven, Islam in The Wolrd, 137.
[15] Yosuf Islam, bằng sự lịch duyệt của mình, đã trình bày
như sau trong bài trả lời những ai ngạc nhiên về việc ông tán thành rõ
ràng sắc luật của Khomeini:
Trong khuôn khổ luật pháp của Hồi giáo, các điều
luật về sự phỉ báng rất rõ ràng; kẻ nào vi phạm phải bị giết chết. Sự ăn
năn chỉ được chấp nhận trong một số trường hợp…Thực tế là chừng nào việc
áp dụng luật Hồi giáo và sự thực hiện đầy đủ phong cách sống Hồi giáo ở
Anh quốc được quan tâm đến, những người Hồi giáo ý thức rằng sẽ có rất
ít cơ hội cho điều ấy được xảy đến trong một tương lai gần. Nhưng điều
ấy không thể ngăn cản chúng ta cải thiện tình hình và trình bày quan
điểm Hồi giáo ở bất cứ khi nào, nơi nào có thể làm được. Đó là bổn phận
của mội tín đồ Hồi giáo và đó là điều tôi đã làm.
( Xem catstevens.com/artivles/00013). Nếu ngay cả
đến một chàng cựu hippie có ăn học mà ăn nói như thế này, thì bạn nghĩ
xem các ý kiến trên đường phố ở Tehran sẽ ra sao ?
[16] K. H. Pollak, “’The Crisis of Islam’: Faith and
Terrorism in the Muslim World”. New York Times Book Review, ngày
6 tháng Tư năm 2003.
[17] Như Thomas Carlyle (1795-1881)đã viết :”Tôi phải nói
rằng, thật là một sự đọc khổ nhọc mà tôi đã từng làm. Một mớ lộn xộn rối
beng tẻ nhạt, lỗ mãng, trước tác kém, lập đi lập lại không dứt, dài dòng
chán ngắt, vướng víu lung tung… tóm lại là một sự ngu xuẩn không thể
chịu được trong kinh Koran”. Trích từ Islam in The World,
của Ruthven, 81-82.
[18] Trích dẫn từ P. Berman, Terror and Liberalism
(New York: W. W. Norton, 2003), 68.
[19]
www.people-press.org
[20] Christopher Luxenberg (đây là một bút hiệu), một học
giả về ngôn ngữ Do Thái cổ, gần đây đã tranh luận rằng việc dịch sai có
trách nhiệm trong sự trang bị các “trinh nữ” cho cõi thiên đàng (chữ Ả
rập hur, chuyển ngữ thành “trinh nữ thiên đàng”-thực ra là “những
thứ màu trắng”). Có lẽ những đoạn diễn tả về thiên đàng trong kinh Koran
đã lấy từ các kinh bản Kitô giáo trước đó khiến trở thành việc xử dụng
thường xuyên của chử Ả rập hur, có nghĩa là “nho màu trắng”. Nho
trắng dường như là một cao lương mỹ vị thời cổ đại. Thử tưởng tượng hình
ảnh khuôn mặt của một vị thánh tử đạo trẻ khi, thấy mình đang ở trên
thiên đàng nhung nhúc các tên du côn đồng loại, và bảy mươi hai trinh nữ
thiên đàng hiện đến như một nắm nho trắng. Xin đọc A. Stille, “Scholars
Are Quietly Offering New Theories of the Koran, ” New York Times,
ngày 2 tháng ba, 2002.