CHƯƠNG 4
Vấn nạn đối với Hồi Giáo -1
Mặc dù lập luận của tôi trong tập sách này nhắm vào bản
thân của đức tin, sự khác biệt giữa các đức tin cũng thích đáng vì chúng không
thể lầm lẫn được. Sau cùng, có một lý do tại sao hiện nay chúng ta phải đối đầu
với Hồi Giáo, hơn là với khủng bố Jain, trong mọi ngõ ngách của thế giới. Jain
không tin vào điều gì có thể đúng ở mức rất nhỏ mà khiến có thể khêu gợi họ phạm
vào các hành vi của bạo lực tự sát đối với những người không theo đạo. Bằng bất
cứ thước đo tiêu chuẩn nào mà chúng ta muốn theo đuổi (đạo đức, thực dụng, nhận
thức luận, kinh tế. v.v…), có những niềm tin tốt lành và có những niềm tin xấu
xa-và hiện nay thật rõ ràng với tất cả mọi người rằng Hồi giáo có nhiều phần
chung với các loại niềm tin thứ hai.[1]
Dĩ nhiên, giống như mọi tôn giáo, Hồi giáo cũng đã có những
thời điểm vinh quang của họ.Các học giả Hồi giáo đã sáng tạo toán đại số, dịch
các danh tác của Plato và Aristotle, và đã đóng góp quan trọng cho nhiều nền
khoa học khi mới khai sinh vào thời gian mà Kitô giáo Âu Châu đang đắm mình
trong ngu dốt sâu thẳm nhất. Chính chỉ nhờ vào cuộc chinh phục Tây ban Nha của
Hồi giáo mà các văn bản Hy Lạp cổ điển mới tìm được đường vào các phiên dịch
Latin làm nẩy mầm phong trào Phục Hưng ở tây Âu. Có thể được hang ngàn trang
sách để liệt kê danh mục các sự thực như thế này cho mọi tôn giáo, nhưng cho mục
đích gì ? Có cho thấy được đức tin tôn giáo là tốt lành, hay ngay cả nhân từ ?
Có phải là một hiển nhiên rõ ràng khi cho rằng đức tin tôn giáo đã tạo nên hầu
hết các giá trị trong thế giới của chúng ta, bởi vì gần như mỗi một người khi
dương cao chiếc búa hay chỉnh một cánh buồm để ra khơi từng là một thành viên
tận tụy của một văn hoá đạo giáo này hay một văn hóa đạo giáo khác. Có lẽ đã
không có ai khác để làm việc. Chúng ta cũng có thể nói rằng những thành quả của
nhân loại trước thế kỷ hai mươi được hình thành bởi những người đàn ông, đàn bà
từng hoàn toàn dốt đặc về các căn bản phân tử của đời sống. Ðiều này có cho thấy
rằng quan điểm sinh học của thế kỷ mười chín có đáng để giữ gìn hay không ?
Không hề có ai nói thế giới của chúng ta sẽ ra sao như hiện nay nếu không có các
vương quốc vĩ đại của Lý lẽ nổi lên vào thời của Thập tự chinh và đã bình định
được đám đông nhẹ dạ của châu Âu và Trung Ðông. Chúng ta đã có thể có nền dân
chủ hiện đại và internet từ năm 1600. Sự thật rằng đức tin tôn giáo đã để lại
dấu ấn của mình trên tất cả khía cạnh của nền văn minh chúng ta không phải là
một lập luận có lợi cho điều ấy, cũng không một đức tin riêng biệt nào được miễn
nhiễm vì một số những người ủng hộ đã tạo được những đóng góp có tính căn bản
cho nền văn hóa của nhân loại.
Tuy nhiên, cứ nhìn vào những thăng trầm của lịch sử Hồi
Giáo, tôi ngờ rằng ở khởi điểm mà tôi đã chọn cho cuốn sách này - về một kẻ đánh
bom tự sát đơn độc vốn có hậu quả từ các niềm tin tôn giáo của y - chắc sẽ làm
giật mình cáu tiết nhiều độc giả, vì đã bỏ mặc hầu hết các phê bình về vùng
Trung đông của các nhà bình luận về các cội rễ của những bạo lực Hồi giáo. Ðã bỏ
mặc lịch sử đau thương của của sự chiếm giữ vùng Tây ngạn sông Jordan và dải
Gaza của người Do Thái. Bỏ mặc sự thông đồng của các quyền lực Tây phương với
các chế độ độc tài tham nhũng. Bỏ mặc đi cái nghèo đói địa phương và sự thiếu
thốn các cơ hội kinh tế giờ đang quấy nhiễu trong thế giới Ả Rập. Nhưng tôi muốn
tranh luận rằng chúng ta có thể bỏ mặc đi tất cả những điều này-hoặc chỉ xem xét
giải quyết chúng ngõ hầu để chúng được nằm yên an toàn trên kệ sách- bởi vì thế
giới đang bị tràn ngập bởi những kẻ nghèo, thất học, và những kẻ bị bóc lột
không hề phạm tội ác khủng bố, thực ra là không bao giờ phạm vào các tội ác đại
loại như thế đã trở nên quá sáo rỗng tầm thường giữa những người Hồi Giáo; và
thế giới Hồi Giáo đã không thiếu những quý đàn ông, đàn bà có học thức, giàu có,
ít nhiều đang chịu đựng sự cuồng dại của họ với học thuyết mạt thế trong kinh
Koran, những người khao khát muốn giết người ngoại giáo vì Thượng đế.[2]
Chúng ta đang lâm chiến với Hồi Giáo. Công khai nhin nhận
sự thật này không đem lại lợi ích gì cho các mục tiêu chính sách đối ngoại của
chúng ta, nhưng đó là một sự thực không mơ hồ chút nào cả. Không phải chúng ta
chỉ lâm chiến với một tôn giáo hòa bình khác đã bị “không tặc” bởi những kẻ cực
đoan. Chúng ta đang ở trong cuộc chiến tranh với đúng cái cảnh tượng sống vốn
được diễn đạt đế tất cả những người Hồi giáo trong kinh Koran, được chi tiết hoá
rõ ràng trong sử thánh, thuật lại các lời dạy và hành vi của Nhà tiên tri. Một
tương lai mà Hồi giáo và Tây phương không phải đứng cạnh bờ vực của hủy diệt là
một tương lai trong đó người Hồi giáo phải học để bác bỏ đi hầu hết các kinh
sách của mình, cũng như người Kitô giáo phải hành xử tương tự như thế với kinh
sách của họ. Một chuyển biến như thế không cách chi có thể xảy ra nếu như nhìn
vào các tín lý của Ðạo Hồi.
Một cái bản lề không có chốt giữa
Nhiều tác giả đã vạch ra rằng nói về “chủ nghĩa chính
thống” Hồi giáo là mơ hồ bởi vì nó đem lại cho thấy rằng có một khác biệt lớn về
học thuyết giữa Hồi giáo chính thống và Hồi giáo dòng chính. Tuy nhiên, sự thật
là hầu hết người Hồi Giáo biểu hiện như là “chính thống” trong ý nghĩa Tây
phương của từ ngữ này – trong ý nghĩa mà ngay cả “người ôn hòa” tiếp cận với Hồi
Giáo thường xem kinh Koran như lời đúng và không thể sai lầm của một Thượng đế
duy nhất có thực. Khác biệt giữa người chính thống và ôn hòa – và chắc chắn cũng
là khác biệt giữa tất cả “những người cực đoan” và ôn hoà – là mức độ mà họ thừa
nhận các hành động chính trị và quân sự trở thành thực chất cho việc thực hành
đức tin của họ. Trong bất cứ trường hợp nào, những ai tin rằng Hồi giáo phải
thông báo mọi chiều kích của hiện hữu con người, gồm cả chính trị và luật pháp,
thì hiện nay thường được gọi –không phải là “những người chính thống” hay “những
người cực đoan”, mà nên gọi là “những người Hồi giáo”.
Thế giới, trong quan niệm của Hồi giáo, được chia thành
“Thế giới của Hồi giáo” và “Thế giới của chiến tranh”, và chính sự chỉ định thứ
hai đã chứng tỏ có bao nhiêu người Hồi Giáo tin những khác biệt của mình với
những ai không chia xẻ niềm tin với họ sẽ dứt khoát phải được giải quyết. Dù
không nghi ngờ gì rằng có nhiều người Hồi giáo “ôn hòa” đã quyết xem xét lại
tính chiến đấu khó xóa bỏ được của tôn giáo mình, Ðạo hồi thực không thể chối
cãi, là một tôn giáo của sự xâm lược. Tương lai duy nhất mà một con người Hồi
giáo sùng đạo có thể hình dung ra –như một người Hồi Giáo – là một tương lai
trong đó tất cả những kẻ ngoại đạo từng cải qua Hồi giáo đều phải bị khuất phục
hoặc giết bỏ.Các tín lý của Hồi giáo đơn giản không chấp nhận bất cứ thứ gì trừ
một sự tạm thời chia xẻ quyền lực với “các kẻ thù của Thượng đế”.
Như hầu hết các tôn giáo khác, Hồi giáo đã chịu đựng nhiều
sự chia cắt khác nhau. Kể từ thế kỷ thứ bảy, người Sunni (thành phần đại đa số)
đã xem người Shia như không chính thống, và người Shia đã từng đáp lễ lại. Các
chi nhánh cũng đã nổi lên giữa mỗi giáo phái này, ngay cả giữa hàng ngũ những
người rõ ràng là Hồi giáo với nhau. Chúng ta không cần phải đi sâu vào các trong
môn đại số học bè phái này, trừ sự lưu ý rằng những chia phân rẽ nhánh này đã có
ảnh hưởng tốt đến việc chia rẽ đến chính thế giới của Hồi Giáo. Dù điều này làm
giảm đi mối đe dọa Hồi giáo đang đối mặt với các nước phương Tây, Hồi giáo và
chủ nghĩa tự do Tây phương vẫn không thể hòa hợp. Hồi giáo ôn hòa, thực sự
ôn hoà, thực sự chỉ trích các phi lý của Hồi giáo-chắc chắn không hiện
hữu. Nếu có, chắc chắn họ đã trốn lánh rất giỏi như những người ôn hoà Kitô giáo
từng trốn trong thế kỷ thứ mười bốn (và vì chung một nguyên nhân).
Các đặc trưng của Hồi giáo khiến gây rắc rối nhất cho người
không-Hồi giáo, và cái biện hộ cho những việc làm ngu muội của Hồi giáo, là
những nguyên tắc của thánh chiến-jihad . Theo sát nghĩa, từ này có thể dịch là
“chiến đấu” hay “đấu tranh”, nhưng thường được hiểu thành ý nghĩa “thánh chiến”
trong Anh ngữ, và điều này không phải là không có nguyên nhân. Trong khi Hồi
giáo nhanh chóng nhận xét rằng có một thánh chiến trong nội tâm (hoặc “vĩ đại
hơn”), nghĩa là một thứ thánh chiến liên quan đến cuộc chiến đấu chống lại tội
lỗi của chính mình, nhưng không có số lượng ngụy biện nào che dấu được sự kiện
là cuộc thánh chiến ngoại tại (hoặc “nhỏ bé hơn”)- cuộc chiến tranh chống lại
bọn ngoại giao và bội giáo – là đặc diểm chính của cái đức tin Hồi giáo. Xung
khắc có vũ trang trong sự “bảo vệ Hồi giáo” là một nghĩa vụ tôn giáo đối với tất
cả đàn ông Hồi giáo. Chúng ta sẽ bị dối gạt nếu tin câu “nhằm mục đích để bảo vệ
Hồi Giáo” có nghĩa là tất cả các cuộc chiến đấu của Hồi giáo đều thực hiện trong
tinh thần “tự bảo vệ”. Ngược lại, nhiệm vụ của thánh chiến là một lời hô hào
không mập mờ cho một cuộc chinh phục toàn cầu. Như Bernard Lewis đã viết “điều
phỏng đoán chính là nhiệm vụ của cuộc thánh chiến sẽ còn tiếp tục, chỉ bị gián
đoạn bởi các sự ngừng bắn, cho đến khi toàn thể thế giới hoặc chấp nhận đức tin
của Hồi giáo hoặc chịu khuất phục dưới giới luật của Hồi giáo”.[3]
Hoàn toàn không từ chối được sự thể là Hồi giáo mong muốn một chiến thắng ở
thế giới này, cũng như ở thế giới bên kia. Như Malise Ruthven vạch ra, “Ðấng
tiên tri đã là chính Caesar … Nếu Theo chân Chúa nghĩa là từ bỏ các tham vọng
trần thế để tìm kiếm cứu rỗi từ hành động và đức hạnh riêng tư, thì theo chân
Muhammad nghĩa là sớm muộn gì cũng cầm vũ khí lên chống lại những thế lực đe dọa
đến Hồi giáo từ bên trong hay bên ngoài mình”.[4]
Trong khi kinh Koran đã đủ để thiết lập nên những chủ đế này, tài liệu của sử
thánh còn hòa điệu thêm như sau :
Thánh chiến là bổn phận của ngươi dưới bất cứ kẻ cai trị
nào, hoặc là thần thánh hoặc là kẻ hèn của y.
Chỉ cần một nỗ lực (để chiến đấu) vì đức Allah vào trước
buổi trưa hay buổi chiều còn tốt đẹp hơn cả thế gian và tất cả những gì trong
đó.
Một ngày, một đêm chiến đấu ở tiền tuyến còn tốt hơn cả
tháng trời ăn chay và cầu nguyện.
Không có ai chết và tìm được các điều lành từ Allah (trong
đời sau) mà muốn trở lại thế giới này ngay cả kẻ đó có đưọc cả thế gian và bất
cứ thứ gì trong đấy, trừ những kẻ tử đạo, khi đã thấy được cái ưu việt của sự tử
vì đạo, muốn trở lại thế gian để được giết một lần nữa (vì đấng Allah).
Kẻ nào chết mà không vì dự phần vào một chiến dịch là một
cái chết như kẻ không tin đạo.
Thiên đàng ở ngay dưới bóng mát của rừng gươm giáo.
[5]
Dễ tìm thấy nhiều thánh thi kiểu này, và chủ thuyết Hồi
giáo thường viện dẫn chúng như một biện giải cho các loại tấn công vào những
người phản đạo và không theo đạo.
Những ai muốn tìm kiếm các phương cách làm thẩm thấu và
thay đổi bản chất quân sự của Hồi giáo đã nhận thấy có một số dòng trong kinh
Koran có vẻ như trực tiếp chống lại các bạo hành bừa bãi. Những kẻ tiến hành
thánh chiến buộc không được tấn công trước (Koran 2:190) bởi vì “Thượng đế không
thích những kẻ hung hăng”. Nhưng lời huấn thị này chẳng trói buộc được ai. Theo
như pho sử dài của mối xung khắc giữa Hồi giáo và phương Tây, hầu như mọi hành
vi bạo lực chống lại những người không theo đạo nay có thể được giải thích một
cách đáng tin cậy là một hành động bảo vệ tôn giáo. Cuộc mạo hiểm gần đây của
chúng ta vào Iraq cung cấp tất cả các ý nghĩa mà những kẻ tử vì đạo cần đến để
tiến hành cuộc thánh chiến “chống bọn thân thích của satan” cho nhiều thế hệ sắp
tới. Lewis ghi nhận rằng một người chiến đấu vì Thượng đế cũng buộc không được
giết hại đàn bà, trẻ em, hay người già cả, trừ trường hợp tự vệ, nhưng chỉ một
chút ngụy biện về ý niệm tự vệ đã cho phép những kẻ vũ trang Hồi giáo tránh né
được điểm kẹt này. Chung cuộc là người Hồi giáo mộ đạo không thể nghi ngờ hiện
thực của thiên đàng hay hiệu quả của sự tử đạo như một phương cách để đạt đến
cõi trời. Họ cũng không thắc mắc gì về sự khôn ngoan và phi lý trong việc giết
người cho những gì vốn chỉ quy về những bất bình của thần học. Trong đạo Hồi,
người “ôn hòa” là những người bị bỏ lại để chẻ sợi tóc ra làm tư, bởi vì sức ép
căn bản của học thuyết không thể chối bỏ được là: thay đổi, khuất phục, hay giết
những kẻ không tin đạo; giết luôn những kẻ bội giáo; và chinh phục thế giới.
Mệnh lệnh chinh phục thế giới là một mệnh lệnh đáng chú ý,
khi “chủ nghĩa đế quốc” là một trong những tội lỗi chính mà Hồi giáo quy tội cho
phương Tây:
Ðế quốc chủ nghĩa là một chủ đề đặc biệt quan trọng ở vùng
Trung đông và đặc biệt trong trường hợp đối đầu của Hồi giáo và phương Tây. Ðối
với họ, chữ chủ nghĩa đế quốc có một ý nghĩa đặc biệt. Chẳng hạn như, chữ này
không bao giờ được xử dụng bởi những người Hồi giáo trong những vương quốc Hồi
giáo vĩ đại – vương quốc đầu tiên hình thành bởi người Ả Rập, vương quốc sau đó
bởi người Thổ nhĩ kỳ, những dân tộc đã chinh phục các dân tộc và các đất đai
rộng lớn để tổ chức thành Thế giới Hồi giáo. Việc người Hồi giáo chinh phục, cai
trị Âu châu và dân Âu châu và do đó cho phép họ - nhưng không thúc ép họ - phải
theo đức tin đúng là hoàn toàn hợp pháp. Việc người Âu châu xâm lăng và cai trị
người Hồi giáo, tệ hơn nữa là cố dẫn người Hồi giáo vào đường lầm lạc, là một
hình tội và tội lỗi. Trong nhận thức của người Hồi giáo, cải đạo qua Hồi giáo là
một quyền lợi cho người muốn cải đạo và một công trạng cho người nào thực hiện
sự cải đạo cho ai. Trong luật đạo Hồi, bỏ Hồi giáo để cải sang đạo khác là một
sự bội giáo – là trọng tội cho cả hai, kẻ bõ đạo và kẻ lửa dối người kia bỏ đạo.
Luật pháp rất rõ ràng và dứt khoát về vấn đề này. Nếu một người Hồi giáo từ bỏ
đạo Hồi, ngay cả nếu một kẻ đã cải đạo qua Hồi giáo muốn trở lại đức tin trước
đó, hình phạt là tử hình.[6]
Chúng ta sẽ trở lại chủ đề bội giáo sau. Tuy nhiên, trước
hết, chúng ta nên ghi nhận rằng các bình luận của Lewis về sự không cưỡng ép
người xâm lược phải tin theo đức tin đúng là một sự đánh lạc hướng trong nội
dung này. Sự thực là kinh Koran đã cung cấp một cái thắng tay, cho những người
Hồi giáo “ôn hòa” – “Sẽ không có một sự cưỡng ép nào trong tôn giáo” (Koran
2:256) – nhưng với một cái nhìn thoáng nhanh vào hầu hết nội dung của Koran, và
lịch sử Hồi giáo, cho thấy rằng chúng ta không nên mong đợi gì nhiều vào việc
ứng dụng này. Như giá trị của nó, các dòng (kinh) này đem đến một căn bản rất
mỏng manh cho sự khoan dung của người Hồi giáo. Trước tiên, quan niệm về dung
thứ của Hồi giáo chỉ áp dụng cho người Kitô giáo và Do Thái giáo – “Những dân
tộc của kinh sách” – trong khi những sự hành đạo của Phật giáo, Ấn độ giáo và
những tôn giáo sùng bái ảnh tượng khác bị xem như các loại quá suy đồi về tâm
linh không thể chấp nhận được.
[7] Ngay
cả những Dân tộc của Kinh sách cũng phải giữ (đạo) cho riêng mình thôi và phải
“khiêm nhượng” đóng thuế ( thuế jizya) cho người Hồi giáo cai trị mình.
Fareed Zakaria
[8] cũng
như nhiều người khác đã nhận xét là người Do Thái đã phải sống hàng nhiều thế kỷ
dưới ách cai trị của Hồi giáo và đã có một thời gian tương đối dễ thở - những sự
thật này chỉ để so sánh với các nỗi kinh hoàng của cuộc sống dưới ách các vương
quốc của thế quyền Kitô giáo. Sự thật là cuộc sống của người Do thái trong khuôn
khổ thế giới Hồi giáo đã được đặc điểm hóa bởi sự liên tục bị làm nhục và tàn
sát. Tình trạng phân biệt chủng tộc đã từng là một tiêu chuẩn, theo đó người Do
Thái bị cấm không được mang vũ khí, không được làm chứng ở pháp đình, và không
được cỡi ngựa. Họ bị bắt buộc phải phục sức riêng (dấu hiệu màu vàng có nguồn
gốc từ thành Baghdad chứ không phải từ Ðức quốc Xã), và phải tránh xa một số
thành phố, dinh thự. Họ có bổn phận, chỉ được đi ngang qua mặt người Hồi giáo ở
bên trái (nghĩa là bên dơ bẩn) và mắt phải nhìn xuống, ai vi phạm sẽ bị xử phạt
bằng vũ lực, thậm chí tử hình. Ở một số nơi trong thế giới Ả Rập đã từng có một
tập tục đặc biệt cho phép trẻ con Hồi giáo được ném đá và nhổ nước bọt vào người
Do Thái.[9]
Những sỉ nhục này và những điều khác đã thường xuyên được nhấn mạnh bởi các cuộc
tàn sát và giết chóc có tổ chức : Ở Morocco (trong những năm
1728, 1790, 1875, 1884, 1890, 1912, 1948, 1952 và 1955), ở Algeria ((1805 và 1934), ở
Tunisia (1864, 1869, 1932 và 1967), ở Persia (1839, 1867 và 1910), ở Iraq
(1828, 1936, 1937, 1941, 1946, 1948, 1967 và 1969), ở Ai Cập (1882, 1919, 1921,
1924, 1938-39, 1945, 19481956 và 1967), ở Palestin (1929 và 1936), ở Syria ( 1840,
1945, 1947, 1948, 1949 và 1967), ở Yemen (1947), v.v…[10]
Thành thử, đời sống của người Kitô giáo dưới ách Hồi giáo chắc chắn là không
phấn khởi tí nào.
Nhận thức của Hồi giáo về sự tha thứ, vì là một tầm quan
trọng của học thuyết mà những người không theo đạo Hồi đã phải cố làm nhẹ bớt,
thay đổi hoặc là giết bỏ đi. Cái sự thực mà thế giới Hồi giáo đã không thống
nhất được dưới một chính phủ duy nhất trong suốt lịch sử của họ, và chắc cũng sẽ
không bao giờ được như thế, khát vọng bá chủ này, dù được quan tâm đến ở đâu
cũng không quan trọng. Bởi vì đối với mỗi cộng đồng chính trị trong nội tình của
Hồi giáo “chính là đất nước Hồi giáo phải có nhiệm vụ hiện thực hóa sự vâng phục
luật đạo”.[11]
(còn tiếp)>>
Chú thích:
[1] Như chúng ta đã thấy trong chương 2, đây là hệ quả trực
tiếp-một cách logic, tâm lý và cung cách ứng xử- của các ý nghĩa trong
chương này để thấy rằng những niềm tin của chúng ta thực sự biểu thị cái
phương cách của thế gian. Chính ngay lúc bạn tin vào một tiền đề tôn
giáo (hay đạo đức, tâm linh) vốn nói lên tất cả ý nghĩa gì về tính tin
chắc, bạn sẽ có nghĩa vụ chấp nhận là tiền đề ấy ít nhiều đúng, bao quát
và hữu ích. Những tôn ti trật tự loại này hòa nhập vào trong chính cấu
trúc của thế gian. Chúng ta sẽ quan sát kỹ hơn về luân lý đạo đức trong
chương 6.
[2] Theo R. A. Pape, “The Strategic Logic of Suicide
Terrorism” American Political Science Review 97, no. 3 (2003):
20-32, đã lập luận rằng những kẻ khủng bố tự sát nên được hiểu đúng nhất
như là những phương tiện để đạt được một số mục tiêu dân tộc rõ ràng và
không nên được xem như hậu quả của tư tưởng tôn giáo. Ðể hỗ trợ cho tiền
đề này, ông đã thuật lại tính cách mà Hamas và những người jihad Hồi
giáo đã xử dụng một cách có hệ thống trong những vụ đánh bom tự sát nhằm
khai thác sự nhượng bộ từ chính phủ Do Thái. Pape lập luận rằng, nếu xem
những tổ chức này là thuần “phi lý” hay “cuồng tín” ta sẽ không nhìn ra
được các toan tính được xử dụng cho các bạo lực ấy. Do đó, động lực của
chúng chủ yếu phải là vì dân tộc. Giống như hầu hết các phê bình về sự
phí phạm mạng sống con người đầy quỷ quái này, Pape dường như không thể
tưởng tượng được sự thể ra sao để thực tin tưởng vào những điều
mà hàng triệu người Hồi giáo thú nhận họ đã tin tưởng vào. Với
thực tế mà các nhóm khủng bố đã có thể minh chứng, thì những mục tiêu
ngắn hạn tối thiểu đã không thể đưa ra được lời giải thích là họ đã manh
động từ chính cái học thuyết tôn giáo của mình. Pape khẳng định rằng
“mục tiêu quan trọng nhất mà một cộng đồng có thể theo đuổi chính là nền
độc lập cho tổ quốc của họ (dân tộc, tài sản và phong cách sống) từ các
ảnh hưởng hay khống chế của ngoại bang. Nhưng ông xem nhẹ cái thực tế
của những cộng đồng này đã xác định mình trong các ý nghĩa của tôn
giáo. Các phân tích của Pape đối với Al Qaeda thật là đặc biệt lạc
lõng. Để đem các động cơ “lãnh thổ” và “dân tộc” ứng dụng vào Osama bin
laden dường như một thứ ngu đần ngoan cố, bởi vì quan tâm rõ ràng duy
nhất của bin Laden là phát tán rộng rãi đạo Hồi và sự linh thiêng của
các thánh địa Hồi giáo. Đánh bom tự sát, trong thế giới của Hồi giáo,
tối thiểu là một hiện tượng tôn giáo rõ ràng vốn không thể thoát ra khỏi
các ý định tử đạo và thánh chiến vốn có thể đoán biết được trên căn bản
của chúng và sự biện bạch từ lý luận của họ.
[3] Theo B. Lewis, the Crisis of Islam:Holy War and
Unholy Terror (New York: Modern Library, 2003), 32.
[4] Theo M.Ruthven, Islam in The World, 2d ed.
(Oxford: Oxford Univ. Press, 2000) 7.
[5] Một số thánh thi này đã được trích từ Crisis of Islam
của Lewis, 32. Những đoạn khác trích từ nguồn dữ liệu trên internet :
www.usc.edu/dept/MSA/reference/searchhadith.html.
[6] Lewis, Crisis of Islam, 55.
[7] “Idolatry is worst than carnage” (Koran 2:190). Luật lệ
của hoàng đế Mông cổ Akbar (1556-1605) cho thấy có một ngoại lệ ở đây,
nhưng rõ ràng lòng khoan dung của Akbar thuộc Ấn độ giáo là một sự vi
phạm rõ rệt với giới luật của Hồi giáo.
[8] F. Zakaria, The Future of Freedom: Illiberal
Democracy at Home and Abroad (New York: W. W. Norton, 2003), 126.
[9] Ðọc A. Derschowitz, The case for Israel (Hoboken,
N. J. :John Wiley, 2003). 61.
[10] Những sự kiện và niên đại này trích từ R. S. Wistrich,
Anti-Semitism: The Longest Hatred (New York: Schoken Books, 1991) và
Dershowitz, Case for Israel.
[11] L. Binder, Islamic Liberalism: A Critique of
Development Ideologies (Chicago: Univ. of Chicago Press, 1998), 129.