CHƯƠNG 2 (tiếp theo)
Tòa Ðại sứ Hoa Kỳ
Một trường hợp thích hợp: Trong chuyến du lịch ở Pháp, tôi và hôn thê của tôi đã
chứng nghiệm một sự phân chia kỳ lạ trong niềm tin của chúng tôi về tòa đại sứ
Hoa kỳ tại Paris:
Hệ thống niềm tin 1: Vì biến cố 9/11 vẫn còn ảnh hưởng trên toàn thế
giới,chúng tôi đã quyết định khi đi du lịch sẽ cố tránh những nơi có thể là
mục tiêu của khủng bố. Ðứng đầu xếp hạng của chúng tôi cho những nơi chốn ấy
là tòa đại sứ Hoa kỳ tại Paris. Paris là nơi cư trú của đông đảo người Hồi
giáo nhất tại thế giới Tây phương, và tòa đại sứ này từng là mục tiêu của
một số âm mưu khủng bố từng bị khám phá. Tòa đại sứ Hoa kỳ sẽ là điểm cuối
cùng mà chúng tôi có thể muốn đến thăm trong thời gian ở Paris.
Hệ thống niềm tin 2: Trước khi đến Paris, chúng tôi rất khó khăn
trong việc tìm phòng khách sạn ở Paris. Chúng tôi kiểm tra thấy tất cả các
khách sạn đều đầy khách trừ một khách sạn ở khu Tả ngạn, nơi có rất nhiều
phòng trống. Người phụ nữ ở bộ phận đăng ký phòng còn biếu thêm cho chúng
tôi một quà tặng nâng cấp. Bà cũng cho chúng tôi được chọn phòng có cửa sổ
quay ra các hướng có cảnh đẹp- quay ra vườn, hoặc quay ra hướng bên ngoài
khuôn viên, nhìn thấy được tòa đại sứ Hoa kỳ “Thế theo bà thì nên chọn hướng
nào?” tôi hỏi “Hướng nhìn ra tòa đại sứ Hoa Kỳ” bà ta trả lòi “Hướng ấy nhìn
rất yên tĩnh”. Tôi liên tưởng nhìn ra một khu vườn rộng của toà đại sứ “Hay
lắm” tôi trả lời “Chúng tôi sẽ lấy hướng đó”.
Ngày hôm sau, đến khách sạn chúng tôi mới biết là mình được dành cho một phòng
quay ra hướng sân trong. Cả tôi và hôn thê của tôi đều thất vọng. Lẽ ra chúng
tôi phải có một phòng quay ra hướng tòa đại sứ như đã được hứa hẹn.
Chúng tôi gọi điện thoại cho một người bạn sống ở Paris để báo cho bà ta biết
mình đang ở đâu. Người bạn của chúng tôi, một người rất khôn ngoan về các thứ
trên thế giới, đã nói như thế này “ Cái khách sạn ấy ngay sát cạnh tòa đại sứ
Hoa Kỳ. Ðó là lý do tại sao họ biếu không cho ông bà chuyện nâng cấp. Ông bà có
điên không. Ông bà có biết hôm nay là ngày gì không? Ngày 4 tháng Bảy đấy “.
Sự xuất hiện của mức độ thiếu nhất quán này trong đời sống của chúng ta rất đáng
kinh ngạc. Rốt cuộc, chúng tôi đã mất cả nửa ngày để vừa đồng thời tránh đi
rồi lại đạt được đúng cái vị trí tương tự trên thế gian. Nhận thức được
điều này, chúng ta hẳn không khỏi ngạc nhiên hơn là chuyện mình đang mọc sừng
ra.
Nhưng cái dường như quá bí hiểm một cách tâm lý có thể lại là rất bình thường
trong phạm trù của thần kinh học. Nó cho thấy rằng cụm từ “toà đại sứ Hoa Kỳ” đã
được nói lên trong hai ngữ cảnh khác nhau, đã chỉ kích hoạt đến các hệ thống
khác nhau về sự liên tưởng trong não bộ chúng ta. Hậu quả là, cụm từ ấy đã có
được hai ý nghĩa khác biệt. Trong ý nghĩa đầu, cụm từ này ám chỉ một mục
tiêu chính của bọn khủng bố; trong ý nghĩa thứ hai, nó hứa hẹn một hướng ngắm
nhìn được ưa thích từ cửa sổ khách sạn. Tuy nhiên, ý nghĩa của cụm từ trên
thế gian thì chỉ có một và không thể phân chia, bởi vì chỉ có một toà nhà
đáp trả lời được cho cái tên này ở Paris. Cuộc đối thoại giữa hệ thống thần kinh
này trở nên không đáng kể nữa; não bộ của chúng ta đã bị phân chia một cách có
hiệu quả. Sự mỏng manh của phần phân chia này được hé lộ ra dễ dàng như cách nó
xuất hiện. Tất cả những chuyện này khiến tôi phải hợp nhất cái nhìn của hôn thê
tôi về chủ đề này là quay lại nói với nàng –người vẫn ngấm ngầm thèm muốn hướng
nhìn ra tòa đại sứ Hoa Kỳ - bằng một giọng điệu cảnh giác “Khách sạn này chỉ
cách tòa đại sứ có mười feet”. Khi con số ấy được thốt ra, nàng lặng người đi vì
kinh ngạc như tôi vậy.
Và rồi, những thực tại không thể hòa hợp được một cách tâm lý là như thế này:
trong suốt cái ngày đầy băn khoăn ấy, không khi nào chúng tôi muốn đến gần tòa
đại sứ Hoa kỳ và cũng không khi nào chúng tôi không ngưng nỗi thèm muốn được
chuyển xuống căn phòng có cảnh tòa đại sứ.
Trong
khi nhu cầu ngữ học và hành vi đòi hỏi chúng ta tìm sự liền lạc nhất quán giữa
các niềm tin của mình ở bất kỳ nơi nào có thể tìm được, chúng ta hiểu rằng sự
nhất quán toàn bộ, ngay cả trong một não bộ đã hợp nhất tối đa, cũng khó
có thể đạt được. Ðiều này trở nên hiển nhiên rõ ràng ngay khi chúng ta tưởng
tượng ra những niềm tin của một người được ghi lại như một danh sách các quyết
đoán đại loại như tôi đang đi tản bộ trong công viên, Các công viên thường có
những con thú; Sư tử cũng là thú; và tiếp tục như thế- mỗi điều là niềm tin
của chính nó, cũng như thể các căn bản khả dĩ có thể hình thành những suy diễn
khác và từ đó hình thành những niềm tin khác hơn về thế giới chung quanh( vừa
tốt: Có thể tôi sẽ gặp một con thú, vừa xấu: Có thể tôi sẽ gặp một con
sư tử). Nếu sự nhất quán hoàn hảo là có thể có được, mỗi niềm tin mới phải
được kiểm chứng với tất cả các niềm tin khác, và từ đó kiểm tra tất cả các kết
nối để xem xét các mâu thuẫn hợp lý.[11]
Nhưng ở đây, ta gặp phải một khó khăn nhỏ về tính toán: số lượng những so sánh
cần thiết tăng thêm hàm mũ cho mỗi khi thêm một tiền đề mới vào danh sách so
sánh. Một bộ não hoàn hảo có thể kiểm tra sự mâu thuẫn hợp lý được bao nhiêu
niềm tin ? Câu trả lời là một sự ngạc nhiên. Ngay cả nếu có một máy điện toán
lớn như vũ trụ được biết đến này, được xây dựng bởi những cơ phận không lớn hơn
các hạt lượng tử, với tốc độ chuyển đổi nhanh như tốc độ ánh sáng, tất cả dốc
sức song hành từ thời điểm của hiện tượng big bang đến hiện tại, vẫn còn cần
phải phấn đấu để thêm niềm tin thứ 300 vào danh sách kiểm tra của mình.[12]
Ðiều này nói được gì về cái khả thi của chúng ta về sự bảo đảm từ trước đến nay
của chúng ta rằng thế giới quan của chúng ta hoàn toàn không hề có mâu thuẫn gì
? Ðiều này thực chưa đáng được là một giấc mơ trong một giấc mơ.[13]
Và rồi thì, với yêu cầu của ngôn ngữ và hành động, vẫn đúng là chúng ta phải
phấn đấu cho sự nhất quán, ở bất cứ nơi chốn nào có nghi hoặc, bởi vì sự thất
bại ở điểm này đồng nghĩa với sự thất bại hoặc của khả năng hành động hoặc của ý
nghĩa ngữ học.[14]
Các niềm tin như những Biểu trưng của Thế gian
Ðể cho
ngay cả cái kiến thức căn bản nhất của thế gian cũng có thể khả thi, các tính
nguyên tắc trong một hệ thống thần kinh phải phản ánh một cách nhất quán những
nhguyên tắc trong môi trường chung quanh. Nếu một tập hợp khác của những dây
thần kinh trong não bộ của tôi kích hoạt lên mỗi khi tôi gặp khuôn mặt của một
ai, tôi sẽ không bao giờ hình thành được một trí nhớ về kẻ ấy. Khuôn mặt kẻ ấy
có thể lúc này là một khuôn mặt người, nhưng là một cái lò nướng bánh ở lúc kế
tiếp, và tôi cũng sẽ không có lý do gì để ngạc nhiên về tính không đồng nhất ấy,
bởi vì không hề có được một mẫu kích hoạt thần kinh cho sẵn nào để đồng nhất
với. Như Steven Pinker đã vạch rõ, chỉ có những phản chiếu có thứ tự giữa một hệ
thống xử lý thông tin (một não bộ hoặc một máy vi tính) và các quy luật về sự
hợp lý hoặc xác xuất có thể giải thích “làm thế nào để sự hợp lý có thể xuất
hiện từ một tiến trình cơ thể không có chủ tâm” ngay tự khởi điểm.
[15] Các
từ ngữ được sắp xếp bằng một phương cách có hệ thống, có căn bản quy luật (cú
pháp), và những niềm tin cũng tương tự (trong phương cách mà chúng phải mạch lạc
hợp lý), bởi vì cả cơ thể lẫn thế gian đều được sắp đặt hết sức chặt chẽ. Thử
xem xét câu Có một quả táo và một quả cam trong hộp thức ăn trưa của Jack.
Ý nghĩa có tính cú pháp (và từ đấy trở nên hợp lý) của chữ “và” đảm bảo rằng bất
cứ ai tin câu nói này đều cũng sẽ tin các định đề sau “Có một trái táo trong
hộp thức ăn trưa của Jack” và “Có một trái cam trong hộp thức ăn trưa của
Jack”. Ðiều này không phải vì những tính chất bí mật gì mà cú pháp đảm nhiệm
trong các câu từ; hơn thế nữa, đấy là một hệ quả đơn giản của sự thật mà chúng
ta xử dụng các từ chữ như “và”, hoặc vì chúng ta không hiểu được những vật thể
như các trái cam, trái táo và hộp đựng thức ăn trưa.
[16] Nó
xảy ra quá thường đến nỗi chúng ta sống trong một vũ trụ mà, nếu bạn bỏ một trái
táo và một trái cam vào hộp đựng thức ăn trưa của Jack, bạn tất sẽ có thể lấy
trái táo, trái cam hoặc cả hai ra. Có một cái điểm cốt yếu mà ở đó ý nghĩa của
các từ chữ, quan hệ cú pháp của chúng và sự chính bản thân sự hợp lý không còn
có thể bị ly thân khỏi tính trật tự của các vật thể trên thế gian.[17]
Bất kể
các niềm tin là gì, không ai trong chúng ta có thể chứa một con số vô hạn của
những niềm tin.[18]
Trong khi các triết gia có thể nghi ngờ về việc có phải niềm tin là loại sự vật
có thể đếm được hay không, rõ ràng là chúng ta có một sức chứa có giới hạn trong
não bộ, [19]
một số lượng có giới hạn của các trí nhớ rời rạc và một số lượng giới hạn của
ngữ vựng trồi sụt đâu đó không quá 100.000 từ. Do đó, có một khác biệt được phân
định giữa những niềm tin tích cực có tính nhân quả, [20]
thí dụ như các niềm tin đã ở sẵn trong đầu chúng ta- và những niềm tin có thể
hình thành nên khi có nhu cầu. Nếu sự tin là những gì giống như sự thông hiểu,
thì rõ ràng là trực giác của chúng ta về việc có bao nhiêu niềm tin của mình
hiện diện bên trong chúng ta ở bất kỳ khoảnh khắc nào có thể không đáng tin cậy
được. Thí dụ như, những nghiên cứu về chứng bệnh “mù vật chuyển dịch” đã khám
phá ra rằng chúng ta không hề hiểu được hầu như đa phần thế giới chung quanh như
chúng ta tưởng mình hiểu được, bởi vì một tỉ lệ lớn của thị giác có thể bị thay
đổi thình lình mà chúng ta không hề biết.
[21] Một
suy diễn loại suy về trò chơi trên máy tính cũng là một sự thích hợp: các thế hệ
trò chơi điện tử trên máy tính hiện nay không hề tính toán các phần của thế giới
ảo của chúng trừ khi một người chơi tạo nên một lệnh chuyển động yêu cầu đến sự
hiện hữu của chúng.
[22] Có
lẽ nhiều liên hệ nhận thức của chúng ta cũng giống như thế.[23]
Cho dù
hầu hết những gì chúng ta tin luôn hiện diện trong tâm thức của mình hay cho dù
chúng luôn cần được liên tục xây dựng lại, dường như đa số niềm tin của chúng ta
cần được hiệu đính và làm mới trước khi chúng có thể hướng dẫn đến hành vi của
chúng ta. Ðiều này được minh chứng mỗi khi chúng ta trở nên nghi hoặc một tiền
đề mà chúng ta từng tin tưởng trước đó. Hãy thử nghĩ xem kết quả sẽ là bao nhiêu
nếu như ta quên bản cửu chương – 12 x 7 = ? Tất cả chúng ta cùng có khoảnh khắc
khi con số 84 nghe như không đúng cho lắm. Ở những lúc đó, chúng ta sẽ phải làm
thêm một số tính toán trước khi chúng ta lại đi đến việc tin rằng 12 x 7 = 84.
Hoặc thử nghĩ xem sự thể sẽ ra sao khi ta rơi vào mối nghi hoặc về danh xưng của
một người quen (“Có phải tên anh đúng là Jeff ? Có phải đó là tên mình gọi anh
ta ?“) Thật rõ ràng là ngay cả mọi niềm tin dù cũ rích cũng có thể đôi lúc không
tìm lại được lòng tin trong hiện tại. Những thất bại của sự kiểm chứng sự thật
ấy mang lại một gợi ý quan trọng, đến một nơi mà bây giờ chúng ta sẽ rẽ sang.
Vấn đề của Ðúng và Sai
Tưởng
tượng bạn đang ăn tối trong một nhà hàng với một vài người bạn thân. Bạn rời
khỏi bàn ăn một chốc để vào phòng vệ sinh, khi trở lại nghe các bạn mình thì
thào “Khẽ nào. Anh ta không thể nào biết được những chuyện này”
Bạn là ai
trong câu nói này ? Tất cả tùy vào câu hỏi bạn có tin mình chính là “Anh ta”
trong câu nói đó không. Nếu bạn là một người phụ nữ, do đó loại trừ mình ra khỏi
câu nói vì cách chọn mạo từ thì bạn sẽ có thể không cảm giác gì ngoài sự tò mò.
Khi kéo ghế ngồi lại vào bàn bạn có thể thì thầm “ Các bạn nói về ai thế ?”, Mặt
khác, nếu bạn là người đàn ông, thì sự việc trở nên khá căng thẳng. Bí mật gì mà
các bạn định dấu diếm mình ? Nếu chỉ vài ngày nữa là sinh nhật của mình, bạn có
thể đoán là bạn bè mình định gây ngạc nhiên vinh dự cho mình bằng một bữa ăn.
Nếu không phải như thế, nhiều khả năng tựa như kịch bản của Shakespear đang chờ
đợi bạn.
Dựa vào những
ràng buộc nhận thức có trước và những ẩn ý trong ngữ cảnh mà câu thì thầm được
nói ra, một số chu trình-được-phép tin bên trong não bộ của bạn bắt đầu xét đoán
đến một loạt những điều có thể xảy ra. Bạn sẽ xem xét đến nét mặt của những
người bạn. Xem có phải các biểu hiện của họ tương thích với những diển giải ác ý
hơn của câu nói này đang xảy ra với bạn ? hay người nào trong số những bạn bè
này vừa thú nhận đã ngủ với vợ mình ? Khi nào thì xảy ra cớ sự này ? Luôn luôn
có một số nối kết hóa học giữa những điều này…Ðủ để nói rằng bất cứ diễn giải
loại nào của những sự cố này khi đã trở thành điều được bạn tin ắt có một hậu
quả quan trọng cho cá nhân và sự giao tế xã hội của bạn.
Trong hiện
tại, chúng ta không hề hiểu biết được điều ấy có nghĩa là gì, ở tầm mức của não
bộ, để bảo rằng một người tin hay không tin một tiền đề có sẵn. Ðể tin vào một
tiền đề chúng ta phải tán thành tiền đề ấy, từ đó trở nên bị ảnh hưởng về hành
vi vào nội dung biểu trưng của tiền đề ấy. Có những nguyên nhân hợp lý để tin
rằng quy trình này xảy ra khá tự động, để rồi tùy vào sự khác biệt này, tất cả
các hành động và nhận thức sẽ thay đổi theo – và, thật ra, chỉ sự hiểu thấu một
ý tưởng mới có thể tương đương với việc tin ý tưởng ấy, nếu chỉ cho một thoáng
chốc. Nhà triết học Ðức Spinoza đã nghĩ rằng niềm tin và sự hiểu biết giống như
nhau, còn sự không tin đòi hỏi đến một hành vi tiếp theo của sự từ chối. Một số
công trình rất hay về tâm lý học đã xác minh được điều này.
[24] Hiểu
một tiền đề cũng giống như sự nhận thức một vật thể trong một không gian thể lý.
Khung cảnh mặc định của chúng ta có thể là chấp nhận những thể hiện như là một
thực tại trừ khi chúng chứng tỏ được là một điều gì khác hơn. Ðiều này giải
thích tại sao chỉ giải trí với cái phản bội có thể xảy ra của một người bạn cũng
có thể khiến tim bạn chạy thình thịch trong khoảnh khắc trước đó .
Dù sự
cấu thành của một niềm tin là một quy trình thụ động hay chủ động, rõ ràng là
chúng ta tiếp tục theo dõi những lời bày tỏ (của cả chính chúng ta lẫn ngưòi
khác) để tìm những sai sót về lý luận và sự chân thực. Thất bại không tìm ra
những sai sót ấy sẽ cho phép chúng ta sống với sự hợp lý của những điều mà nếu
không sẽ chỉ là những câu từ trống rỗng. Dĩ nhiên, ngay sự thay đổi của một từ
chữ thôi cũng mang một ý nghĩa khác nhau giữa hành vi ân cần trìu mến và những
hành vi thách đố chết người : Nếu nửa đêm, con bạn đến và nói rằng “Bố ơi, có
một con voi đứng trong nhà mình” bạn sẽ hộ tống con mình về phòng nó với một
khẩu súng tưởng tượng; nhưng nếu cháu nói “Bố ơi, có một ngưòi đang đứng
ở trong nhà mình”, chắc bạn sẽ phải mang một khẩu súng thật.
Đức tin và Chứng cứ
Chúng ta
không cần đến một kiến thức đặc biệt gì về tâm lý học hay thần kinh học để nhận
ra rằng con người thường do dự khi phải thay đổi suy nghĩ của mình. Như nhiều
tác giả đã chú giải, chúng ta thường bảo thủ về các niềm tin của mình trong ý
nghĩa là chúng ta không hề thêm hoặc loại bớt chúng khỏi kho dự trữ của mình mà
không có lý do gì. Niềm tin, trong ý nghĩa trí thức-là, một niềm tin nhằm
đến sự thể hiện cái hiểu biết của chúng ta về thế giới-yêu cầu đến việc tin vào
một tiền đề có sẵn là đúng, chứ không phải chỉ là chúng ta ước muốn tiền
đề ấy được đúng. Một sự gượng ép như thế vào suy nghĩ của chúng ta chắc chắn là
một điều tốt, bởi vì một suy tưởng có tính ước ao, thả lỏng sẽ tháo gỡ những
niềm tin của chúng ta ra khỏi những quy tắc trong thế gian mà niềm tin có ý muốn
đại diện. Tại sao là sai lầm để tin vào một tiền đề là đúng chỉ vì cảm
thấy tốt để tin ? Ta chỉ cần dừng lại một chút nơi ý nghĩa của từ “bởi vì”
(“bởi” + “vì”) để nhìn ra vấn đề ở đây. “Chữ “bởi vì” cho thấy một liên hệ nhân
quả giữa một tiền để được xem là đúng và niềm tin của một kẻ tin như thế. Điều
này giải thích cái giá trị chúng ta thường đặt để trên một chứng cứ: bởi vì
chứng cứ đơn giản là một giải thích của mối quan hệ nhân quả giữa trạng thái của
thế gian và những niềm tin của chúng ta về chúng. (“Tôi tin Oswald bắn Kennedy
bởi vì tôi tìm thấy dấu tay của y trên khẩu súng, vì anh họ của tôi nhìn thấy y
bắn, và anh tôi không nói dối”) Chúng ta có thể tin vào một tiền đề là đúng
bởi vì một điều gì đó trong kinh nghiệm của chúng ta, hoặc từ các lý lẽ của
chúng ta về thế gian, đã thực nói lên được sự thực của cái tiền đề bị nghi hoặc.[25]
Hãy nói
rằng tôi tin Thượng đế hiện hữu, và một số người cứng đầu hỏi tôi vì sao
tin như thế. Câu hỏi này, thực ra - đã mời gọi, yêu cầu - đến câu trả lời của
dạng thức “Tôi tin rằng Thượng đế hiện hữu bởi vì…”. Tuy nhiên, tôi không thể
nói rằng “Tôi tin Thượng đế hiện hữu bởi vì tin như thế là khôn ngoan” (Như
Pascal từng muốn chúng ta nên như thế). Dĩ nhiên, tôi có thể nói như thế, nhưng
tôi không thể có ý dùng chữ “tin” như ý nghĩa khi tôi nói “Tôi tin nước thực sự
gồm hai phần hydro và một phần oxy bởi vì hai thế kỷ của các chứng nghiệm vật lý
học đã chứng minh điều này” hay là “Tôi tin có một cây sồi trong vườn vì tôi có
nhìn thấy cái cây ấy”. Tôi cũng không thể nói những điều như “Tôi tin vào
Thượng đế bởi vì tin như thế khiến tôi cảm thấy tốt”. Cái sự thật rằng tôi sẽ
cảm thấy tốt nếu như có Thượng đế không hề mang lại cho tôi một lý do nhỏ nhặt
nào để tin rằng Thượng đế có hiện hữu. Điều này dễ nhìn ra khi chúng ta đổi sự
hiện hữu của Thượng đế cho một số tìền đề có tính an ủi khác. Thử nói rằng tôi
muốn tin có một viên kim cương to bằng cái tủ lạnh chôn đâu đó trong vườn sau
nhà. Thực đúng là tôi sẽ thường không cảm thấy tốt để tin vào điều này. Nhưng
tôi có lý do gì để tin rằng thực có một viên kim cương to hơn thế cả ngàn lần mà
chưa từng được khám phá ra trong vườn nhà tôi ? Không. Chính ở đây chúng ta có
thể thấy sự tại sao sự đánh cuộc của Pascal, hay “cú đột biến của Kierkegaard”
về đức tin và những mưu đồ kiểu Ponzi khác về nhận thức luận thực không có ý
nghĩa gì cả. Tin rằng Thượng đế hiện hữu là tin rằng tôi đứng ở trong một số
liên hệ với sự hiện hữu của Người, rằng bản thân sự hiện hữu của Người là
nguyên nhân cho niềm tin của tôi. Phải có một liên hệ nhân quả, hoặc một
xuất hiện nào từ đó, giữa sự thực bị tra hỏi và sự chấp nhận của tôi về sự thực
ấy. Bằng phương cách này, chúng ta sẽ nhìn thấy rằng những niềm tin tôn giáo, để
trở thành những niềm tin về phương cách là gì, phải có được chứng cớ tự
cốt tuỷ như bất cứ các niềm tin nào khác.
Vào
khoảnh khắc chúng ta thừa nhận rằng các niềm tin của mình là những nỗ lực để đại
diện cho các trạng thái của thế gian, chúng ta nhìn hiểu được là các niềm tin ấy
phải đang đứng trong tương quan đúng với thế gian để chúng được trở nên có giá
trị. Cũng nên rõ ràng là nếu một người tin vào Thượng đế bởi vì người ấy có một
số kinh nghiệm tâm linh, hay bởi vì Thánh kinh đã tạo nên quá nhiều ý nghĩa, hay
bởi vì người ấy tin tưởng vào uy tín của giáo hội, thì người ấy đang chơi trò
chơi biện hộ bào chữa mà tất cả chúng ta đang cùng chơi khi chúng ta khẳng định
rằng mình hiểu biết hầu hết các sự việc thông thường. Đây có lẽ là một kết luận
mà nhiều người tin đạo muốn chống lại; nhưng sự chống lại đó không phải chỉ là
sự phù phiếm mà còn là chuyện không đâu vào đâu. Đơn giản là không có hề một
không gian hữu lý nào khác để các niềm tin về thế gian chiếm cứ. Chừng nào mà
các lời xác định tôn giáo còn hàm ý về các phương cách của thế gian-Thượng đế
thực có thể nghe được các lời cầu xin, Nếu bôi nhọ danh xưng của người, bạn sẽ
phải chịu các điều xấu v.v..- những loại xác định tôn giáo này còn phải ở
trong mối tương quan với thế gian cùng các niềm tin khác của chúng ta về thế
gian. Và chỉ có thể với vị trí đúng ấy mà các xác định đại loại như thế mới có
thể ảnh hưởng đến hậu quả, suy nghĩ hay hành động của chúng ta. Chừng nào mà một
người còn duy trì rằng những niềm tin của y biểu trưng cho thạng thái thực của
thế gian (nhìn thấy hay không nhìn thấy được; tâm linh hay trần tục), anh ta còn
phải tin rằng các niềm tin của mình là kết quả từ cái phương cách của thế
gian. Điều này, bằng sự xác định, sẽ khiến anh ta bị tổn thương bởi các chứng cứ
mới. Thật vậy, nếu như không có một sự thay đổi có thể hiểu được nào trong thế
gian khiến một người phải tra vấn các niềm tin tôn giáo của mình, sẽ chứng tỏ
rằng những niềm tin của kẻ ấy không hề dựa vào bất cứ lưu tâm nào của y về thế
gian. Do đó, y sẽ không thể yêu sách rằng, các niềm tin ấy là tiêu biểu
được gì cho thế gian.[26]
Dù rất
nhiều điều có thể được nói đến trong sự bình phẩm về đức tin tôn giáo nhưng vẫn
không hề thuyên giảm được sức mạnh của chúng. Ngay cả trong hiện tại, hàng triệu
triệu con người sống giữa chúng ta, đang sẵn lòng chết cho những niềm tin không
được xác minh ấy của chúng ta, và hàng triệu người khác nữa, sẵn sàng giết người
vì những niềm tin như thế. Những kẻ mà số phận phải thống khổ suốt cả đời mình,
hoặc những kẻ sống trong ngưỡng cửa của tử thần, thường tìm được an ủi từ hết
công bố không căn cứ này đến các công bố không căn cứ khác. Đức tin khiến nhiều
người trong chúng ta chịu đựng được những khó khăn của cuộc sống bằng sự bình
thản vốn khó đạt được trong thế gian vốn chỉ được thắp sáng bởi lý lẽ. Đức tin
cũng tạo ra các hậu quả thể chất trực tiếp như trong các trường hợp khi chỉ dựa
vào sự trông đợi, dù tốt hay xấu, cũng chỉ đem người ta đến suy thoái của sức
khỏe hoặc cái chết không biết trước được.[27]
Nhưng sự thực về việc các niềm tin tôn giáo mang đến các ảnh hưởng tốt cho đời
sống không nói được gì về giá trị của các niềm tin ấy. Đối với những kẻ hoang
tưởng, tiếp tục với những dằn vặt của ảo tưởng, sự khiếp sợ CIA có thể mang đến
một ảnh hưởng mạnh, nhưng điều ấy không có nghĩa là đường dây điện thoại của y
đã bị nghe lén.
Vậy đức tin
là cái gì ? Có phải là cái gì khác hơn một niềm tin không ? Từ ngữ Do Thái cổ
’emunâ (động từ ’mn) bị chuyển dịch thành “có đức tin”, “tin” hoặc “đặt tin
tưởng vào”. Kinh Septuagint, bản dịch tiếng Hy lạp từ bản tiếng Do Thái cổ, giữ
được nghĩa tương tự như trong ý nghĩa chữ pisteuein(tin, tiếng Hy lạp),
và ý nghĩa tương đương của bản dịch Hy Lạp này được xử dụng trong kinh Tân ước.
Văn bản Do thái cổ ngữ 11:1 xác định đức tin như “ sự đoan chắc của những điều
để hy vọng, sự tin vào những điều không trông thấy”. Đọc đúng cách, câu này
dường như đưa đức tin trở thành một sự hoàn toàn tự thẩm định: có lẽ chính cái
sự thực mà một người tin vào một điều gì đó vốn chưa được chấp nhận (“những điều
để hy vọng”) hoặc cho điều mà không ai có chứng cứ gì (“những điều không trông
thấy”) kết thành chứng cứ bởi tính hiện thực của nó (“sự đoan chắc”). Chúng ta
hãy xem những điều này hiệu quả như thế nào: Tôi cảm thấy một “sự thuyết phục”
khá hồi hộp là Nicole Kidman đang yêu tôi. Dù chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau,
nhưng cảm giác trong tôi chính là bằng chứng duy nhất cho niềm mê đắm của nàng.
Tôi nghĩ ra như thế: các cảm giác của tôi cho thấy rằng tôi và Nicole phải có
một dính líu gì đặc biệt, ngay cả siêu hình nữa, nếu không thì làm sao mà tự
nhiên tôi lại cảm thấy ngay điều này ? Tôi quyết định sẽ cắm lều trước nhà nàng
để thực hiện các việc tự giới thiệu cần thiết; rõ ràng, đức tin kiểu này thực là
một chuyện rắc rối hết sức.
Xuyên suốt
qua tác phẩm này, tôi phê phán đức tin trong ý nghĩa thông thường, kinh bản của
nó – như niềm tin trong một số xác định có tính lịch sử, trừu tượng và định
hướng đời sống. Ý nghĩa của thuật ngữ này, cả trong kinh thánh lẫn trên cửa
miệng của những người tin kính, có vẻ hoàn toàn là mơ hồ. Đúng là một số nhà
thần học và các bậc tu hành đã có nỗ lực uốn nắn lại đức tin như là một nguyên
tắc tâm linh vượt hơn khỏi sự nhẹ dạ hoàn toàn bị xúi dục. Paul Tillich, trong
tác phẩm “Các động lực của Đức tin” (1957), đã làm loãng biến mất ý nghĩa
nguyên thủy của thuật ngữ, vứt bỏ đi cái mà ông gọi là “đức tin sùng bái” và,
thực ra, tất cả các sự cân bằng bù đắp qua lại giữa đức tin và niềm tin. Chắc
chắn là các nhà thần học khác cũng đã làm như thế. Dĩ nhiên, bất cứ ai cũng có
tự do để xác định lại thuật ngữ “đức tin” bằng cách nào mà họ thấy vừa vặn để từ
đó mang nó đến sự phù hợp với một số lý lẽ hoặc tư tưởng thần bí. Nhưng đây
không phải là dạng “đức tin” đã tạo sinh khí cho những người ngoan đạo suốt cả
thiên niên kỷ. Dạng đức tin mà tôi mang vào tra vấn thì đúng là cái động tác mà
Tillich đích thân chỉ trích như một “hành vi của kiến thức vốn có quá ít chứng
cứ”. Nói cho cùng, lập luận của tôi, nhằm vào số đông những người sùng đạo trong
tất cả các truyền thống tôn giáo, không phải nhằm vào cái xứ đạo vô tội nào đó
của Tillich.
Bất chấp
những nỗ lực đáng kể của những người như Tillich từng vất vả dấu đi những con
rắn dưới mỗi chân bệ thờ, sự thật đức tin tôn giáo đơn giản chỉ là một niềm tin
không được lý giải trong những nội dung đáng quan tâm nhất- đặc biệt ở
những công bố hứa hẹn những kỹ xảo mà đời sống con người có thể được tha khỏi sự
tàn phá của thời gian và cái chết. Đức tin là sự hóa thân của tính cả tin cuối
cùng đã đạt được sự thoát hiểm khỏi những ràng buộc của các luận bàn thế gian-
những ràng buộc như sự biết phải quấy, tính nhất quán nội dung, sự lễ độ và tính
không thiên vị. Cho dù bạn cảm thấy mình đã trốn chạy xa khỏi xứ đạo bao nhiêu
(ngay cả như bạn hiện đang điều chỉnh lại kính phản chiếu ở Viễn vọng đài không
gian Hubble), bạn vẫn ít nhiều là sản phẩm của một nền văn hóa có một niềm tin
được nâng lên, trong khiếm diện của chứng cứ, đến nơi cao nhất trong hệ thống
tôn ti của đức hạnh con người. Ngu dốt là tiền tệ duy nhất của vương quốc
này-“Phước cho những ai không thấy mà tin” (John 20:29)- và mỗi đứa trẻ con được
hướng dẫn rằng, nếu không phải là một nghĩa vụ linh thiêng, thì tối thiểu cũng
là một chọn lựa, để cứ tôn kính Thượng đế, người đã ẩn náu trong trí tưởng tượng
của cha mẹ chúng, bất chấp đến những sự thực của thế gian.
Nhưng đức tin
là một kẻ lừa đảo. Ðiều này có thể được nhìn thấy ngay trong phương cách của tất
cả những hiện tượng khác thường trong đời sống tôn giáo-tượng Ðức mẹ đồng trinh
than khóc, đứa trẻ con ném bỏ cặp nạng tàn tật xuống đất- đã được gìn giữ bởi
những người sùng đạo như một sự khẳng định niềm tin của họ. Ở những giây
phút này, những người tin đạo trông như những quý ông quý bà trong sa mạc của
những điều không thực được ban tặng cho một ly dữ liệu để giải khát. Không có
phương cách nào chung quanh sự thật rằng chúng ta khao khát sự biện giải cho các
niềm tin cốt lõi của mình và tin vào chúng chỉ vì chúng ta tin rằng những biện
giải ấy, tối thiểu, cũng đang sắp nổ ra. Có người hành đạo Kitô nào ở phương Tây
tỏ ra không thiên vị với những thể hiện của các bằng chứng rõ ràng không thể
chối cãi được vốn từng chứng minh cho sự thực của các Sách phúc âm? Thử tưởng
tượng nếu như các chất carbon vốn chứng thực được độ tuổi của tấm vải liệm Turin
[28] đã
chỉ cho thấy tấm liệm này cũ rích như đúng ngày Chủ nhật Easter, AD29: có mối
nghi ngờ gì rằng sự khám phá này sẽ sinh ra một cảnh tượng nhiệt thành, sợ hãi
và đắc chí về sự giảm tội xuyên khắp thế giới Kitô giáo ?
Ðấy chính là
cái đức tin tương tự sẽ không chịu cúi mình xuống trước chứng cứ khi nó chẳng có
lý do đúng đắn gì để có thể tin được. Tuy nhiên, nếu có một chút bằng chứng ủng
hộ nào nổi lên, kẻ sùng đạo sẽ chứng tỏ lòng nhiệt thành với sự kiện ấy như lòng
cuồng nhiệt từng có đối với các linh hồn bị đọa đày. Ðiều này minh chứng rằng
đức tin không hơn gì sự tự nguyện chờ đợi một dấu hiệu-chính là ngày phán xét
cuối cùng hay là một cơn mưa trút nước nào khác của chứng thực. Ðó là cuộc truy
tìm kiến thức trong một chương trình trả góp: hãy tin ngay bây giờ, sống với một
giả thuyết không thể minh xác cho đến ngày chết đi, bạn sẽ thấy được rằng mình
đúng.
Nhưng ở bất
kỳ bán cầu khác nào của đời sống, niềm tin là tấm ngân phiếu mà ai cũng nhất
định phải tiêu xài ở phần mộ phía bên này: viên kỹ sư bảo rằng chiếc cầu chưa
thể gãy đổ; vị bác sĩ phán rằng sự nhiễm độc này kháng cự lại với trụ sinh
penicillin- những con người này có những lý lẽ có thể thủ tiêu được cho những
khẳng định của họ về mọi chuyện của thế gian. Ngài giáo sị Hồi Giáo, vị Mục sư
Kitô giáo và thầy tế Do Thái giáo không thể có được. Không có điều gì có thể
thay đổi về thế gian, hoặc về cái thế gian mà họ từng trải qua, điều ấy đã minh
chứng cái giả tạo của biết bao niềm tin cơ bản của họ. Ðiều này chứng tỏ rằng
những niềm tin ấy không sinh ra từ bất cứ thử nghiệm nào của thế gian, hay từ sự
thử nghiệm nào từ chính thế gian mà họ từng trải qua. (Chúng chính là, “không
thể giả mạo được”, theo ý nghĩa của Karl Popper). Trông như thể ngay cả lò thiêu
người Holocaust cũng không khiến nổi người Do thái nghi ngờ sự hiện hữu của đấng
Thượng đế toàn trí, toàn năng. Nếu một nửa dân tộc mình bị đẩy lần lượt vào lò
thiêu lại không thể xem như một bằng chứng chống lại cái ý tưởng là có một đấng
Thượng đế đầy quyền năng chăm sóc đến chúng mình thì thật không thể còn một
chứng cứ nào có thể xứng đáng hơn được nữa. Làm sao các giáo sĩ Hồi giáo biết
được kinh Koran là từng lời nguyên văn của Thượng đế ? Câu trả lời duy nhất
trong mọi ngôn ngữ mà không tạo nên sự chế diễu của từ “hiểu biết” là- ngài giáo
sĩ ấy chả hề biết gì cả.
Ðức tin của
một con người đúng là tập hợp phụ của những niềm tin của y về thế gian: những
niềm tin về những sự thể đáng quan tâm bậc nhất rằng chúng ta, như một nền văn
hóa, đã bảo y rằng y không cần minh xác những niềm tin ấy trong hiện tại. Ðến
lúc chúng ta nhận thấy lối chia nhỏ thù ghét (balkanization) này của những bàn
luận của chúng ta đã bị ứng dụng trật chỗ đến như thế nào. Tất cả kỳ vọng cho
kiến thức của thần học giờ nên được nhìn từ bối cảnh của một kẻ vừa bắt đầu một
ngày của đời mình trên tầng thứ một trăm của Trung tâm Thương mại Thế giới vào
buổi sáng ngày 11 tháng Chín năm 2001, để chỉ tìm thấy những suy tưởng lan man
của y-về bạn bè, người thân, về tách cà phê đang cần bỏ đường -bị cướp đoạt
không thể tự giải thích được bởi sự chọn lựa của một sự thật trần trụi: hoặc bị
thiêu sống bởi chiếc máy bay phản lực hoặc phải nhảy bung ra một ngàn bộ xuống
thềm đá bên dưới. Thực ra, chúng ta nên lấy tất cả cái bối cảnh của hàng ngàn
người đàn ông đàn bà, trẻ em như thế, những con người bị cướp đoạt mất mạng
sống, nhanh chóng hơn họ có thể tưởng tượng ra, trong một nỗi kinh hoàng rối
loạn tột độ.Thủ phạm gây ra thảm cảnh hung bạo ngày 11 tháng Chín ấy chắc chắn
không phải “những tên hèn hạ”, như chúng được mô tả nhiều lần qua hệ thống
truyền thông phương Tây, cũng không phải là những kẻ rồ dại trong bất cứ ý nghĩa
bình thường nào. Chúng là những con người của đức tin- một thứ đức tin toàn
hảo như đã được thấy, và điều này, cuối cùng phải được nhận là một điều kinh
hoàng để mà tìm ra.
TÔI TIN CHẮC
rằng việc bài bác đức tin tôn giáo ngắn gọn như thế có lẽ nhẫn tâm với nhiều độc
giả, đặc biệt là những người đã thấm hiểu được những an ủi của đức tin tôn giáo
tự ban đầu. Nhưng cái thực tế của những niềm tin không thể minh xác lại có thể
mang một hiệu quả an ủi cho tâm hồn con người thì thật không đáng để được bênh
vực. Nếu tất cả bác sĩ bảo các bệnh nhân ốm nặngthập tử nhất sinh của mình rằng
họ đang sắp được hoàn toàn hồi phục, điều này có thể mang lại một số yên tâmcho
tâm hồn họ với cái giá đắt phải trả cho sự thật. Tại sao chúng ta nên được quan
tâm về sự thật ? Câu hỏi này chờ triết gia Socrates của nó trả lời. Trong phạm
vi các mục đích của mình, chúng ta chỉ cần nhận thấy rằng sự thật là mối quan
tâm tột bực của chính những người sùng đạo; hơn nữa, sự thực của một học thuyết
cho sẵn là đối tượng chính cho đức tin của học thuyết ấy. Tìm an ủi bằng cái giá
của sự thật chưa bao giờ là động cơ của niềm tin tôn giáo. Bởi vì tất cả các tín
điều đều tràn ngập các đề nghị kinh hoàng, những điều được kẻ sùng tín tin theo
là những điều không thể an ủi bất cứ ai, bất kể các đau khổ chúng gây nên, để sợ
phải để một số góc tối tăm của thực tại không được nhìn nhận đến.
Thực tế,
những người sùng tín giữ chân lý trong niềm trân trọng nhất. Và họ cũng tương tự
như hầu hết những triết gia và các khoa học gia trong ý nghĩa này. Con người của
đức tin không đòi hỏi gì ngoài những sự thực có tính thiêng liêng, cứu chuộc và
siêu hình : Ðấng Kitô chết vì tội lỗi của chúng ta; Ngài là con trai của
Thiên chúa; tất cả con người đều có linh hồn và đều là đối tượng bị phán xét sau
khi chết đi. Ðấy là những khẳng định đặc thù đến phương cách của thế gian.
Chính chỉ vì cái ý niệm rằng một học thuyết hòa hợp được với phần lớn thực tại
mà khiến có thể làm cho đức tin của một ai đó trở thành hữu dụng, cứu vãn
được, hay thực ra là khả thi được một cách hợp lý, bởi vì đức tin trong một học
thuyết là đức tin trong chân lý của học thuyết ấy. Có gì ngoài sự thực của những
điều được dạy bảo có thể thuyết phục được lòng trung thành từ những đứa con
hoang của các học thuyết khác ? Các học thuyết dị giáo được tưởng rằng như thế,
và được hoà hợp với các biện pháp lành mạnh của sự khinh rẻ, bởi vì không còn lý
do nào khác hơn việc cho họ là giả mạo. Do vậy, nếu một người Kitô giáo
không ngầm khẳng định về các kiến thức liên quan đến chân lý theo nghĩa đen của
kinh sách, y cũng giống như một người Hồi giáo, Do thái giáo -hoặc một người vô
thần-như một môn đệ của Thiên chúa. Nếu y hiểu được (bằng phương cách nào đó
khiến y ý thức được một cách không thể chối cãi) rằng đấng Kitô đã thực sinh ra
trong tội lỗi và chết như một con vật, thì những phát giác này chắc hắn sẽ là
một cú đấm sinh tử vào đức tin của y. Những người sùng tín chưa từng bao giờ
được trung lập với sự thực, từ đó, nguyên tắc của đức tin khiến họ không được
trang bị để phân biệt được đúng sai trong những sự việc quan hệ đến họ nhất.
Có thể tin
rằng những người sùng tín sẽ hành xử giống như những người hàng xóm thế tục của
mình- có nghĩa muốn nói rằng, họ cũng xử sự tương đối hiểu biết- trong các sự
việc đời thường của họ. Khi phải quyết định điều gì hệ trọng, họ có khuynh hướng
chú trọng đến chứng cứ và các nguyên bản đích thực của sự thể như bất cứ con
người không tin đạo nào khác. Khi những người theo Nhân Chứng Jê Hô Va từ chối
sự truyền máu hay khi các nhà khoa học Kitô giáo cùng kiêng cữ các thuốc men
hiện đại, họ có vẻ ngoại lệ với quy luật này, nhưng thực họ không như thế. Những
con người này chỉ hành động một cách có ý thức trong khuôn khổ những niềm tin
tôn giáo của mình. Rốt cuộc, không một người mẹ nào từng chối bỏ thuốc men cho
con cái mình từ những nền tảng tôn giáo tin rằng cầu nguyện chỉ là một thực hành
văn hóa có tính an ủi. Hơn thế nữa, bà ta còn tin rằng sự cứu rỗi cao cả của bà
đòi hỏi đến một số biểu hiện của lòng tin tưởng vào quyền lực và mối quan phòng
của Thượng đế, và điều này là một dấu chấm hết cho những gì bà sẵn lòng dâng
hiến kể cả phải ký quỹ đến mạng sống của chính con mình. Những hành vi rõ ràng
không hợp lý lẽ ấy lại thường ở trong sự phục vụ cho lý lẽ, bởi lẽ nó nhắm vào
sự chứng thực có tính kinh nghiệm của học thuyết tôn giáo. Thực ra, ngay cả các
diễn đạt cực đoan nhất của đức tin cũng thường hợp lý một cách hoàn hảo, nếu có
được những niềm tin cần thiết. Hãy lấy vũ điệu rắn của đạo Pentecostal như một
ví dụ đầy màu sắc nhất: trong nỗ lực chứng minh cả đức tin và tính chân thực của
đức tin của họ trong ý nghĩa (đen) của Kinh thánh (như trong trường hợp của Mark
16:18 ở đây), họ đã “bắt những con rắn” (nhiều chủng loại rắn rung chuông khác
nhau) và “uống bất cứ thứ gì chết người” ( thường là độc dược Stricnin) rồi thử
thách đến những nội dung can đảm (vì “sẽ không hại gì đâu”) của lời tiên tri. Dĩ
nhiên, một số người đã chết ngay trong cuộc thử nghiệm đó, như số phận của chính
kẻ khai sáng George Hensley (chết vì bị rắn cắn, năm 1955)- Chúng ta có thể chắc
chắn rằng đó là không phải chứng minh sự yếu đuối của đức tin của họ mà về hiệu
quả có khi từ nọc độc của rắn hoặc từ độc dược stricnin.
Niềm tin nào,
khi một ai đã tin như một nền tảng căn bản, cũng sẽ trở thành mệnh lệnh sai
khiến những gì có vẻ hợp lý vào bất cứ lúc nào. Khi các thành viên của giáo phái
“Cổng Thiên đàng” không tìm được con thuyền không gian mà họ tin rằng phải theo
sau sao chổi Hale-Bopp, họ bèn đem trả lại chiếc viễn vọng kính 4000 ngàn đô la
đã mua để ngắm nhìn vào vũ trụ, vì họ cho rằng viễn vọng kính này bị hỏng.
Mặc dù đức
tin vẫn phải trả phần lời cổ phần của mình, tuy thế, đức tin vẫn nằm trong sức
thuyết phục rằng tương lai sẽ tốt đẹp hơn quá khứ, hay tối thiểu cũng không thể
tệ hại hơn. Hãy thử xét đến quan điểm nổi tiếng của Julian of Norwich
(1342-1413), người đã chắt lọc thông điệp của Phúc âm trong một câu không thể
quên được “ Tất cả sẽ trở nên tốt lành, và tất cả sẽ trở thành tốt lành, và tất
cả thứ hạng của mọi sự việc sẽ đều trở nên tốt lành cả”. Cái cám dỗ của mọi học
thuyết tôn giáo không có gì bí hiểm và cao siêu hơn sự việc “mọi thứ cuối
cùng đều sẽ trở thành tốt lành cả”. Ðức tin được chào mời như một phương
tiện để qua đó sự thực của tiền đề này có thể được nhấm nháp cho hiện tại và bảo
đảm cho tương lai. Tôi nghĩ, thật là không thể tranh cãi được rằng sự hiện hữu
thực sự của cái kỹ xảo đó, cái sự thực mấp máy một số từ ngữ và ăn một chiếc
bánh cracker như là những ý nghĩa thực sự của sự chuộc tội, sự đoan chắc rằng
Thiên chúa đang nhìn xuống, lắng nghe và chờ đợi để ban phát những ơn sủng đến
một ai và tất cả- nói cho gọn hơn, sự xứng hợp theo nghĩa đen của học thuyết với
bản thân của thực tại- là điều duy nhất quan trọng đối với những người sùng tín.
Bệnh dịch
hạnh khủng khiếp tràn vào thành phố Ba lê tháng Sáu ấy
(năm 1348), và căn bệnh này đã khiến cả thành phố này điêu đứng
trong hơn một năm
rưõi… Hoàng đế Philip (VI) đã yêu cầu ngành Y của đại học Paris đưa ra giải
thích về tai họa này. Các giáo sư đại học đã tường trình rằng các
nhiễu loạn của bầu khí quyển đã khiến mặt trời nung nóng quá độ vùng biển
Ấn độ, khiến nước bốc lên các khí độc hại. Ngành Y khoa
đã đưa ra
một
số những phương pháp chữa trị. Thí dụ như một loại nước xúp có
thể
chữa trị được, nếu thêm vào gia vị của tiêu xay, gừng và hành tỏi.
Nói
chung nên tránh các loại gà vịt, giống chim nước, thịt heo non, và
mỡ
động vật. Dầu ô liu có thể nguy hiểm đến tính mạng. Tắm rửa
cũng nguy hiểm, nhưng cách thụt rửa có thể giúp được phần nào. Các
bác
sĩ khuyến cáo rằng “ con người cần phải giữ gìn sự trong sạch,
nếu
biết quý trọng mạng sống của mình”
Nhà
vua vẫn lo âu về một cơn giận của thánh thần. Ngài ra một chỉ dụ
ngiêm cấm các sự báng bổ. Ai vi phạm lần đầu, sẽ bị cắt một bờ môi,
vi
phạm lần thứ nhì, sẽ bị cắt bỏ môi còn lại, lần thứ ba sẽ phải cắt
lưỡi...
Chính quyền thành phố phản ứng bằng một loạt những biện pháp cứng
rắn
nhằm mục đích chặn đứng sự hoảng loạn. Họ ra lệnh giảm bớt đi
các
tiếng chuông báo tử. Họ đặt để việc trang phục màu đen ra ngoài
vòng pháp luật. Cấm tụ họp quá hai người tại các tang ma, hoặc
phô
bày các đau buồn ra chốn công cộng. Và để xoa dịu cơn giận
của
Thượng đế, người đã mang lại cơn thảm kịch này, họ cấm không ai
được làm việc vào các buổi chiều Thứ Bảy, cấm tất cả các trò cờ bạc,
các
sự thề thốt, đồng thời yêu cầu tất cả những ai đang sống trong tội
lỗi
phải lập tức cưới hỏi tử tế. Li Muisis [một cha trưởng tu viện ở
Tournai] sung sướng báo cáo rằng con số cưới xin tăng lên đáng kể,
không ai còn nghe thấy các lời báng bổ nữa và tệ cờ bạc cũng giảm
thiểu đến mức những người sản xuất súc sắc bây giờ phải quay ra
sản
xuất tràng hạt. Ông cũng báo cáo rằng trong nền đạo đức mới này có 25 ngàn
công dân chết vì bệnh dịch và đã được chôn cất trong
các
hầm lớn ở ngoại ô thành phố.
[29]
Các niềm tin
tôn giáo của những con người này ngừng lại ở đâu để các niềm tin trần tục của họ
được khởi đầu ? Có thế có chút nghi ngờ nào rằng những người Kitô giáo bị vây
bủa của thế kỷ mười bốn hằng khao khát đến kiến thức (nghĩa là, những niềm tin
đúng đắn và có giá trị) về cơn bệnh dịch, về nguyên nhân và cách truyền bệnh của
nó, để từ đấy, hy vọng tìm được một phương cách có hiệu quả để chống lại cơn
dịch bệnh ? Có phải cứ trông cậy vào các tín điều của đức tin chỉ là một sự ngu
xuẩn không ? Thí dụ như, nếu đã biết được rằng, cơn dịch bệnh này được mang đến
từ các thuyền buồm thương mại- biết rằng các giống chuột đã leo lên bờ từ các
chổ trú ẩn và mỗi con chuột là cả một quân đoàn bọ chét mang theo các khuẩn dịch
hạch- thì những kẽ sùng tín ấy có nghĩ đến việc bỏ bao sức lực của họ ra để cắt
lưỡi những kẻ báng bổ, dập im các tiếng chuông báo tử, mặc những y trang màu
sáng sủa, và cho xử dụng tự do các thủ thuật thụt rửa? Cách tốt nhất để thắng
cuộc tranh cãi với những kẻ bất hạnh này chỉ là dùng penicillin, mang lại không
phải từ những miền đất có “những bối cảnh văn hóa” khác thống trị, mà từ phần
cao hơn nữa từ những con dốc của thực tế.
(còn tiếp)>>
Chú thích:
[11] Ðiều này giả định rằng nhiều niềm tin có chung những quy cách, như các
niềm tin con người thường có chung như thế.
[12] Thí dụ này trích từ W. Pounstone,
Labyrinths of Reason: Paradox,
Puzzles, and The Frailty of Knowledge (New York: Anchor Press,
1998), 183-88.
[13] Gần đây, các lý thuyết về vật lý đã tiến đến mức tiên đoán được các tính
toán quán tính xuyên qua một con số vô định của các vũ trụ song song (D.
Deutsch, The Fabric of Reality [New York:Penguin, 1997] ) hoặc khả
năng là tất cả các sự việc một ngày nào đó sẽ được hệ thống hóa như một
siêu máy tính “toàn trí” (F. Tipler, The Physics of Immortality [New
York:Doubleday, 1995] ) để tự bản thân sẽ sẵn sàng cho một chắt lọc của
thời-không kết quả từ sự xụp đổ sức hấp dẫn của vũ trụ. Tôi đã loại trừ
những điều này và những huyền bí không thực tế khác ra khỏi cuộc luận
bàn hiện tại.
[14] Một phương cách khác để đạt đến những gượng ép của ngữ nghĩa và sự hợp
lý là bảo rằng các niềm tin của chúng ta phải có tính hệ thống.
Tính hệ thống là một đặc tính của những niềm tin thừa hưởng được từ ngôn
ngữ, sự hợp lý và ở cả thế gian. Tương tự như hầu hết các từ ngữ tìm
được ý nghĩa của chúng từ hiện diện của những từ ngữ khác, các niềm tin
cần những niềm tin khác tồn trú trong một biểu trưng tổng thể của một
con ngưòi về thế giới. Cái bóng mờ của nhận thức bắt đầu được dệt lên
như thế nào vẫn còn là bí ẩn, nhưng dường như không có mấy nghi ngờ gì
rằng chúng ta trở nên có tính kiểm soát được bằng vi mạch đến hàng loạt
các năng lực có tính ngữ học-nguyên thủy, niềm tin-nguyên thủy (từ chữ
doxa, tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “tin”) Những năng lực cho phép
chúng ta khởi sự diễn giải những xôn xao của giác quan như những sự hợp
quy, cân đối của chúng ta trong môi trường chung quanh và trong chính
chúng ta. Chúng ta không học một ngôn ngữ bằng cách ghi nhớ một loạt
những câu từ liên quan, không hình thành một thế giới quan bằng cách
tiếp nhận một loạt những niềm tin không dính dáng gì với nhau, và chúng
ta không hình thành một cái nhìn về thế giới bằng cách chấp nhận vào một
loạt những niềm tin không liên kết với nhau. Ðể hiệu thêm về cuộc bàn
luận đến hệ thống hóa của ngôn ngữ, xin đọc J. A. Fodor và Z. W.
Pylyshyn “Systematicity of Cognitive Rrepresentation” trích từ
“Connectionism and Cognitive Architecture”, trong Connections and
Symbols, ed. S. Pinker and J. Mehler (Cambridge: MIT Press, 1988).
Một niềm tin phải được đan kết với các niềm tin khác để trở nên một niềm
tin cho tất cả mọi thứ. (Ngay tại đây, tôi gác qua một bên, sự việc có
hay không những niềm tin không hề dựa vào bất kỳ niềm tin nào khác để
suy đến ý nghĩa của mình. Dù có hay không có hiện hữu của những niềm tin
về nguyên tử như thế, rõ ràng là hầu hết các niềm tin của chúng ta không
phải là thuộc về loại niềm tin như thế này).
Tính hệ thống của lý
luận có lẽ được bảo đảm bởi sự thực sau: nếu như một tiền đề cho sẵn là
“đúng”, thì bất cứ một tiền đề (hoặc một loạt những lý do) nào ngược lại
đều là “sai”. Một yêu cầu như thế có lẽ để phản ánh sự sắp xếp của các
sự thể trong thế gian, và từ đó đặt được những kiềm chế mạch lạc vào các
hành vi của chúng ta. Nếu một câu nói như “Những cái bánh ở trong cái
tủ bếp” được tin vào, ắt nó sẽ trở nên một nguyên tắc để hành động- ý
muốn nói rằng khi thèm ăn bánh, tôi sẽ tìm bánh ở trong tủ bếp. Trong
dung mạo của một niềm tin như thế, một phản đề như “cái tủ bếp trống
rỗng” sẽ được xem như một sự chống đối lại sự thành hình một kế hoạch
hành động của tôi. Ứng xử tìm-bánh một cách tự tin phải cần đến một số
liên quan hợp lý trong niềm tin của tôi.
[15]
Theo S. Pinker, The Black Slate (New York: Viking, 2002), p. 33.
[16]
Có một điểm tiếp giáp giữa nhận xét của tôi ở đây và giải thích lý do
“các khuôn mẫu tâm thần” (mental models) phát triển bởi P. N.
Johnson-Laird và R. M. J. Byrne, Deduction (Hillsdale,
N.J.:Elbaum, 1991), chaps. 5-6. Tuy nhiên, tôi muốn ghi nhận rằng, các
khuôn mẫu tâm thần của các vật thể trong thế giới cư xử như chúng từng
cư xử bởi vì các vật thể cũng cư xử như vậy. Ðọc L. Rips, “Deduction and
Cognition, ” trong An Invitation to Cognitive Science:Thinking,
ed. E. E. Smith và D. N. Osherson (Cambridge: MIT Press, 1995), 297-343,
về mối nghi ngờ phải chăng chúng ta có thể học hỏi được gì từ khái niệm
về AND.
[17]
Dĩ nhiên chúng ta có thể nghĩ đến những thí dụ mà ở đấy một số những câu
từ của chúng ta chạy điên loạn ra khỏi sự hợp lý thông thường. Thí dụ
như, người ta không thể đặt cái bóng của quả táo và cái bóng
của quả cam vào trong hộp đựng thức ăn trưa của Jack, đóng nắp lại
rồi nghĩ đến việc cuối ngày sẽ lấy một trong hai thứ ra được.
[18]
Một đặc tính khác của niềm tin trực tiếp đến từ bản chất của ngôn ngữ:
Cũng tựa như không thể có một giới hạn nào cho số lượng của các câu mà
một con ngưòi có tiềm năng nói ra được (ngôn ngữ thường được xem như “có
sinh sản” là từ trong ý nghĩa này), không hề có sự giới hạn của những
niềm tin về thế giới mà con người có tiềm năng hình thành. Bởi vì bây
giờ tôi biết rằng không hề có con cú trong tủ áo của tôi, tôi
cũng tin rằng không có hai con cú, ba con cú, bốn con cú …và đến vô
tận.
[19]
Hầu hết các nhà khoa học về thần kinh học tin rằng chúng ta có vào
khoảng 10 lũy thừa 11 đến 10 lũy thừa 12 các dây thần kinh, mỗi sợi thần
kinh này trung bình tạo nên 10 lũy thừa 15 đến 10 lũy thừa 16 các giao
tiếp với đồng loại của chúng. Do đó chúng ta có khoảng 10 lũy thừa 15
hay 10 lũy thừa 16 các khớp thần kinh. Ðó là những con số tuy lớn nhưng
vẫn hữu hạn.
[20]
Theo N. Block, “The Minds as the Software of the Brain, ” trong An
Invitation to Cognitive Science:Thinking, ed. E.E. Smith and D. N.
Osherson (Cambridge:MIT Press, 1995) , 377-425.
[21]
D. J. Simons et al., “Evidence for Preserved Representations in Change
Blindness, ” Consciousness and Cognition 11, no. 1 (2002):78-97;
M. Niermer et al., “A Bayersian Approach to Change Blindness, “Annals of
the New York Academy of Science 956 (2002):474-75 [abstract] .
[22]
R. Kutzwell, The Age of Spiritual Machines (New York:Penguin,
1999).
[23]
Thử xem xét một niềm tin toán học như 2+2=4. Không chỉ tất cả chúng ta
tin vào tiền đề này; mà niềm tin này là một tiền lệ luôn luôn
đúng đối với tất cả chúng ta trong bất cứ thời điểm hiện tại nào. Chúng
ta không cần phải xây dựng nó như một đảm bảo ngẫu nhiên, hơn là bởi
tính cách của những niềm tin sơ khai mà chúng phải xây dựng từ những
niềm tin khác. Thế còn một niềm tin như 865762 + 2 = 865764 thì sao ?
Tất cả chúng ta đều chưa từng nghĩ đến số tổng này trước đó, và chúng ta
tin vào đấy chỉ từ tính cách xác lập nó theo các quy luật của số học.
Hơn nữa, bằng cách ấy, chúng ta có thể tính ra y như là chúng ta thực
hiện với tiền đề 2 + 2= 4. Có sự khác biệt nào giữa hai niềm tin toán
học này không ? Chắc chắn là có trong các ý nghĩa của khoa nghiên cứu
hợp lý hiện tượng học (phenomenological). Thí dụ như, bạn sẽ nhận thấy,
mình không dễ dàng nói, hoặc nghĩ một tổng số dài hơn, trong khi hai
cộng hai bằng bốn đến với ý thức hầu như chỉ trong một cách phản xạ.
Song le, trong phạm vi quan tâm của chúng ta đến các đóng góp có tính
trí thức, những niềm tin này đều “đúng” ngang nhau . Thực ra, tất cả
chúng ta liều lĩnh với mạng sống của mình vào giá trị những tiền đề toán
học phức tạp (do đó ít rõ ràng) hơn nhiều mỗi kho chúng ta đi một chuyến
bay hay đi ngang một cây cầu. Ở nền tảng, hầu hết chúng ta tin rằng một
phép tính như tính cộng là sự thực được lâu bền, trong loại sự
thực ấy, chúng ta có thể lập đi lập lại, với các giá trị lớn tùy ý mà
vẫn đến được kết quả đúng. Nhưng câu hỏi vẫn còn là làm sao chúng ta
biết được niềm tin 2 + 2 = 4 không xây dựng lại mới mỗi khi chúng ta
dùng đến ? Nói một cách khác, làm sao chúng ta biết được mình tin một
cách tiền lệ đúng ? Nếu như chúng ta thử nói rằng niềm tin này
luôn xây dựng lại mới, chúng ta phải hỏi, xây dựng với cái gì ?
Với quy luật tính cộng ? Thật đáng nghi ngờ một người nhận biết rằng y
thành công trong phép tính cộng trừ khi y đã tin rằng 2 + 2 = 4. Tuy
nhiên, cũng như chắc chắn rằng bạn không thức dậy sáng nay và tin rằng
tám trăm sáu mươi lăm ngàn bảy trăm sáu mươi hai công hai bằng tám
trăm sáu mươi lăm ngàn bảy trăm sáu mươi bốn. Ðể thực sự thoát ra
khỏi não bộ của mình, niềm tin này cần phải được cấu thành, trong khoảnh
khắc của hiện tại, trên căn bản của niềm tin trước đó của bạn rằng
hai cộng hai bằng bốn. Rõ ràng, nhiều niềm tin khác cũng như thế
này. Thực ra, chúng ta không tin vào hầu hết những gì chúng ta tin về
thế giới trừ khi chúng ta bảo rằng mình có tin vào.
[24]
Ðọc D. T. Gilbert et al., “Unbelieving the Unbelievable:Some Problems in
the Rejection of False Information, “Journal of Personality and
Social Psychology 59 (1990):601-13; D. T. Gilbert, “How Mental
Systems Believe, “American Psychologist 46, no. 2 (1991):107-19.
[25]
Ðiều này giải thích tại sao các niềm tin tình cờ đúng không thể
cấu thành kiến thức, ngay cả khi chúng được chứng minh. Như triết gia
Edmund Gettier nhận xét rất lâu trước đây, chúng ta có thể tin vào điều
gì có thể đúng (td. Tôi có thể tin rằng thời điểm chính xác là 12:31
am), chúng ta có thể tin vì nguyên nhân đúng (Tôi đang nhìn đồng hồ và
thấy kim chỉ 12:31am), và niềm tin của chúng ta có thể đúng (đúng thực
là 12:31 am), nhưng chúng ta có thể không ở trong tình thái của kiến
thức về thế giới (bởi vì, chẳng hạn như trong thời điểm hiện tại, cái
đồng hồ bị hư và chỉ tình cờ chỉ đúng giờ). Trong khi có quá nhiều chi
tiết triết học để mà khám phá ở đây, cái căn bản sự thật là để cho các
niềm tin của chúng ta thực sự là biểu hiện của thế giới, chúng
phải ở được trong mối quan hệ đúng với thế giới.
[26]
Các vấn đề của nhận thức luận như khuấy động ở đây: Nói cho cùng, làm
sao chúng ta có thể có khả năng có được kiến thức thực của thế giới ?
Tùy vào cách giải thích hai từ “thực” và “thế giới”, những câu hỏi như
thế này hoặc là khó vô vọng hoặc là bình thường. Từ đó cho thấy, sự đọc
hiểu bình thường cũng đủ cho các mục đích hiện tại của chúng ta. Bất kể
thực tế ra sao, trong các ý nghĩa tận cùng, thế giới các chứng nghiệm
của chúng ta biều thị những nguyên tắc không thể chối từ. Dĩ nhiên,
những nguyên tắc này là từ nhiều dạng thức, và một số nguyên tắc ấy đưa
ra những tương quan luật lệ giữa một số biến cố. Có sự khác biệt giữa sự
tương quan với phép ghán ghép về các loại mà chúng ta
tưởng là thuộc về nguyên nhân. Như triết gia Tô Cách Lan David
Hume đã nhận xét là sự kiện này đặt ra một câu đố rất hay, bởi vì chúng
ta chưa bao giờ chạm trán với các căn nguyên trong thế giới, mà chỉ chạm
với những tương quan có thể tin cậy. Cái gì, chính xác, đã dẫn chúng ta
đến việc đóng góp sức mạnh của nguyên nhân đến một số diễn biến, trong
khi chiếm giữ chúng từ những diễn biến khác vẫn còn là một sự kiện đang
bàn cãi. (Ðọc M. Wu và P. W. Cheng, “Why Causation Need Not Follow From
Statistical Association : Boundary Condition for the Evaluation of
Generative and Preventative Causal Powers, ” Psychological Science
10 [1999] : 92-97). Hơn nữa, một khi chúng ta có các niềm tin về thế gian
trong tay, và các niềm tin ấy chỉ đạo hành vi của chúng ta, dường như
không có gì đáng bí hiểm để lưu tâm. Và rất thường xảy ra là một số
nguyên tắc (những nguyên tắc mà chúng ta cho là thuộc về nguyên nhân),
khi chấp nhận chúng như những chỉ đạo cho hành động, phục vụ cho mục
đích của mình một cách đáng ngưỡng mộ; trong khi những niềm tin khác vốn
có các tính chất tương tự (chỉ thuần liên quan, có tính hiện tượng phụ)
lại không. Sự ngạc nhiên ở đây chỉ đơn giản đưa đến sự đánh giá lại về
các vai trò nguyên nhân và để hình thành những niềm tin mới.Chúng ta
không cần phải vật nhau với Hume để biết được nếu đấy chính là hơi nóng
mình cần, thì hãy tìm lửa tốt hơn là đi tìm khói; cũng không cần phải
biết rằng tất cả những tiêu chuẩn chúng ta dùng đến trong việc phán xét
nguyên nhân để hiểu được quan hệ hành xử và hợp lý của niềm tin rằng A
là nguyên nhân của B, trong khi không phải là C. Một khi chúng ta nhận
ra chính mình đang tin vào điều gì (dù từ nguyên nhân tốt hay xấu), thì
ngôn từ và hành động của chúng ta đòi hỏi chúng ta phải chỉnh sửa những
mâu thuẫn trái nghịch ở bất cứ nơi nào mình tìm thấy.
[27]
Ð ọc H. Benson, với M. Stark, Timeless Healing:The Power and Bilogy of
Belief (New York:Scribner, 1996).
[28]
Tấm vải liệmTurin có lẽ là một di vật được tôn kính nhất của những người
theo Kitô giáo, vì tấm vải này được tin là chính tấm khăn liệm thi hài
Jesus khi mang chôn. Năm 1988, tòa thánh Vatican cho phép ba phòng thí
nghiệm khác nhau được dùng một mảnh nhỏ để xác nghiệm thời gian bằng độ
carbon (Ðại học Oxford ; Ðại học Arizona và Viện nghiên cứu Khoa học kỹ
thuật liên bang Zurich) trong một nghiên cứu kín không ai nhìn thấy phối
hợp với Viện bảo tàng Anh Quốc. Cả ba viện nghiên cứu này kết luận rằng
tấm liệm này là một miếng vải giả mạo có độ tuổi thời gian giữa năm 1260
và 1390.
[29]
Theo O. Friendrich, The End of the World:A History (New York:
Coward, McCann & Geoghehan, 1982), 122-24.