Sam Harris: Tận cùng của Ðức tin

Lê Quốc Tuấn chuyển Việt

¿ Mục lục toàn bài bản in ngày 22 tháng 1, 2010

CHƯƠNG 2

Bản chất của Niềm tin

Ta thường lý luận rằng niềm tin tôn giáo, bằng cách nào đó, là một cái gì riêng, khác với những khẳng định khác đến kiến thức của thế gian. Không còn nghi ngờ gì là chúng ta đã xem xét, đối xử với chúng một cách khác biệt - nhất là đến mức độ chúng ta đòi hỏi con người phải minh giải cho những niềm tin của mình trong các bàn luận thông thường – nhưng điều này không mang ý nghĩa các niềm tin tôn giáo là đặc biệt trong bất cứ ý nghĩa quan trọng nào. Chúng ta muốn nói gì khi bảo rằng một người tin vào một điều công bố sẵn có về thế gian này? Như đối với tất cả các câu hỏi về các sự kiện quen thuộc quan trọng về thần kinh hệ, chúng ta cũng phải cẩn trọng để những sự quen thuộc với các phạm trù của chúng ta sẽ không dẫn chúng ta đi lạc. Cái thực tại của việc chúng ta chỉ có một từ cho “niềm tin” không hề bảo đảm rằng sự tin tưởng tự bản thân là một hiện tượng duy nhất. Một phân tích loại suy có thể vạch ra được đối với trường hợp của “trí nhớ”: dù con người hay nói đến sự thất bại về “trí nhớ” của mình, nhiều thập niên của các chứng nghiệm đã cho thấy ký ức con người đến với nhiều hình thái. Không phải chỉ các ký ức ngắn hạn dài hạn của chúng ta là các sản phẩm của các mạch trung tính riêng rẽ, không đồng dạng; tự bản thân chúng còn bị chia ra thành các hệ thống phụ phức tạp[1] Do đó, hiện nay, để đơn giản nói về “trí nhớ” tốt hơn là nên nói về “kinh nghiệm”. Rõ ràng, chúng ta cần phải chính xác hơn về việc các phạm trù thần kinh của chúng ta có nghĩa gì trước khi muốn hiểu được chúng tầm mức của não bộ. [2]

Ngay cả loài chó, mèo, trong mức độ chúng có thể hình thành được một hình thức giao tiếp qua lại giữa con người, nơi chốn và các sự việc xảy ra, cũng có thể nói được rằng chúng “tin” vào nhiều điều về thế gian. Nhưng đây không phải là loại niềm tin mà chúng ta theo đuổi. Khi nói đến những niềm tin mà con người tán thành một cách có ý thức –“Căn nhà bị mối mọt”, ” Ðậu hũ không phải là món ăn điểm tâm”, ”Muhammad thăng thiên bằng một con ngựa có cánh”- là chúng ta đang nói đến những niềm tin đã được trao đổi, tiếp nhận bằng ngôn ngữ. Tin vào một tiền đề có sẵn là một sự việc của sự tin rằng nó đại diện trung thực cho một số thực trạng của thế gian, và sự thực này sẽ nhượng bộ cho một số nhận thức trực tiếp thành những chuẩn mực từ những gì mà những niềm tin của chúng ta nên tác dụng.[3] Nói một cách chi tiết, nó hé mở cho chúng ta thấy tại sao chúng ta không thể làm gì được ngoài sự đánh giá chứng cứ và yêu cầu những tiền đề về thế gian ấy phải liền lạc một cách hợp lý. Những bó buộc này áp dụng đồng đều với tất cả các vấn đề của tôn giáo. “Tự do được tin” (trong bất cứ ý nghĩa nào trừ ý nghĩa về luật pháp) là một điều hoang đường. Chúng ta sẽ nhìn thấy rằng mình không còn được tự do để tin vào bất cứ điều gì mình muốn về Thượng đế hơn là được tự do tiếp nhận các niềm tin không đúng về khoa học hay lịch sử, hoặc sự tự do muốn ám chỉ đến bất cứ ý nghĩa gì khi xử dụng đến những từ như “thuốc độc”, ”phía bắc” hay “con số không”. Bất cứ ai muốn đòi hỏi đến những quyền được thực hiện đó sẽ không nên ngạc nhiên khi tất cả chúng ta đều ngừng tai lại không nghe đến y nữa.

Niềm tin như những Nguyên tắc cho Hành động

Não bộ con người là một cỗ máy xử lý phong phú các niềm tin về thế giới. Thực ra, cái nhân tính nhất trong bất cứ não bộ của một người phần lớn chứa đựng trong năng lực đánh giá những phát biểu mới của các sự thật có tính đề nghị trong ánh sáng của vô số những đề nghị khác vốn đã được chấp thuận. Bằng cách trông cậy vào trực giác về thật và giả, nhu cầu hợp lý và ngược lại, con người có khả năng đan kết những hình ảnh riêng tư về thế giới ăn khớp lại với nhau. Những diễn tiến thần kinh nào nằm bên trong quy trình này ? Một bộ não phải làm gì để tin một tuyên bố có sẵn là đúng hay sai ? Hiện thời chúng ta không hề hiểu được. Dĩ nhiên, xử lý ngôn ngữ chắc phải đóng một vai trò lớn lao nhưng sự thử thách của việc này sẽ ở chỗ khám phá ra việc làm thế nào mà não bộ đem đến được các sản phẩm của nhận thức, trí nhớ, và sự phải trái để quy vào những xác định riêng biệt và chuyển hóa chúng một cách thần kỳ trở thành chính thực chất của đời sống chúng ta.

Có lẽ năng lực chuyển động, có được từ một số cơ phận chính khiến lèo lái được sự phát triển về các giác quan và khả năng nhận biết của chúng ta. Ðiều này đến từ sự thật là nếu không một sinh vật nào có thể làm được bất cứ điều gì với thông tin mà chúng nhận được từ thế giới, thì thiên nhiên đã không thể sàng lọc cho những phát triển trong những cấu trúc vật chất thu lượm, tàng trữ và xử lý những thông tin như thế. Do đó, ngay cả một giác quan chính yếu như thị giác có vẻ cũng dựa vào sự hiện hữu của một hệ thống vận động. Nếu bạn không nắm được thức ăn, hoặc tránh cho chính mình khỏi trở thành thức ăn, không trượt khỏi một vực đá, thì có lẽ đã không có lý do gì cho lắm để phải nhìn thế giới trước đã- và chắc cả những cái đẹp, của những thứ có thể tìm thấy ở mọi nơi chốn trong thế giới động vật, sẽ chẳng bao giờ xảy đến cả.

Vì lý do này, thật không có gì đáng phải bàn cãi khi bảo rằng tất cả các tình trạng nhận thức ở tầng mức cao hơn (mà các niềm tin là một thí dụ) chính là một phương cách nào đó từ kết quả tự nhiên của năng lực cho hành động của chúng ta. Trong các phạm trù ứng dụng, niềm tin từng hữu ích một cách phi thường. Nói cho cùng, chính nhờ tin vào những xác định khác nhau về thế gian mà chúng ta tiên đoán được các biến cố và cân nhắc được những thứ như hậu quả cho hành động của mình. Các niềm tin là những nguyên tắc của hành động: bất kể niềm tin là gì và ở giai tầng nào của não bộ, chúng cũng được xử lý bởi những gì chúng ta hiểu đúng (hoặc sai) về thế giới được biểu hiện như thế nào và khiến các niềm tin ấy sẵn sàng để hướng dẫn các hành vi của chúng ta.[4]

Quyền lực mà niềm tin áp đặt lên đời sống xúc cảm của chúng ta có vẻ là tất cả. Bởi vì mỗi xúc cảm mà chúng ta có năng lực để cảm nhận, chắc chắn có một niềm tin có thể gợi đến xúc cảm ấy chỉ trong khoẳnh khắc. Hãy thử xem xét một xác nhận như sau :

Con gái của bạn đang bị tra tấn tàn bạo trong một nhà tù của người Anh.

Cái gì đó sẽ đứng chính giữa bạn và sự kinh hoảng tột độ mà lời xác nhận này có thể cày xới trong tâm trí và thể xác của một người tin vào điều ấy ? Có lẽ bạn không có một cô con gái, hoặc bạn biết rằng con mình đang ở nhà an toàn, hoặc bạn tin rằng những cai tù người Anh rất nổi tiếng về sự tử tế của họ. Bất kể là nguyên nhân gì, cánh cửa dẫn đến niềm tin chưa hề bung ra bằng bản lề của nó.

Mối liên hệ giữa niềm tin và hành vi gia tăng sự hiểm nguy một cách đáng kể. Một số xác định đã quá nguy hiểm đến độ có thể trở nên một sự phải đạo để giết người đối với những ai tin vào những điều ấy. Ðiều này có vẻ như một sự tố cáo nặng nề, nhưng thực nó chỉ thuần đưa ra một sự thật bình thường về cái thế giới mà chúng ta hằng sống. Một số niềm tin đặt những kẻ bám vào chúng ra ngoài tầm giới hạn của mọi phương cách an bình của sự thuyết phục để khuyến dụ người tin vào những hành vi bạo hành lớn lao chống lại người khác. Trong thực tế, có một số người không đàm thoại với ai cả. Nếu họ không bị bắt giữ, và thường thì họ không thể bị bắt, còn ngược lại, người độ lượng có thể được bào chữa trong việc giết họ vì nguyên nhân tự vệ. Ðây chính là điều mà Hoa Kỳ đã phạm phải ở Afghanistan, và chính là điều mà chúng ta và các nước phương Tây khác đang chắc chắc sẽ phạm phải, ngay cả ở một cái giá đắt hơn nhiều cho chính chúng ta, cho những người chung chuyến tàu vô tội, ở một nơi nào khác trong thế giới các quốc gia Hồi giáo. Nói cho cùng, chúng ta sẽ tiếp tục đổ máu cho cái gọi là một cuộc chiến tranh của các ý thức hệ. [5]

Cái cần thiết cho sự Mạch Lạc hợp lý

Ðiều đầu tiên để chú ý đến các niềm tin là cái chúng phải chịu đựng lũ bè bạn lôi thôi của láng giềng chúng. Các niềm tin có liên quan vừa ngữ nghĩa (semantically) vừa hợp lý với nhau. Mỗi niềm tin ràng buộc, cũng như chúng đến lượt bị ràng buộc, bởi nhiều niềm tin khác. Việc tin rằng chiếc Boeing 747 là máy bay bay nhanh nhất thế giới chính là sự kế thừa của nhiều niềm tin khác vốn căn bản hơn ( như máy bay thì có hiện hữu) và có tính tiếp nối, có nguồn căn hơn ( chẳng hạn như những chiếc 747 thì tốt hơn những chiếc 757). Niềm tin rằng một số đàn ông là người chồng đòi hỏi đến tiền đề một số phụ nữ là người vợ cũng phải được tán thành, bởi vì chính cái ý nghĩa “người chồng” và “ người vợ” đã minh chứng hỗ tương cho nhau.[6] Thực ra, các ràng buộc có tính hợp lý và ngữ nghĩa cũng giống như hai mặt của cùng một đồng xu, bởi vì nhu cầu muốn hiểu được ý nghĩa của từ ngữ có nghĩa gì trong mỗi một ngữ cảnh mới đòi hỏi các niềm tin của chúng ta không bị mâu thuẫn ( tối thiểu là không mâu thuẩn ngay trong ngữ cảnh ấy). Nếu tôi muốn nói đến cùng một ý nghĩa cho chữ “người mẹ” từ lúc này đến lúc khác, tôi không thể vừa tin mẹ tôi sinh ra ở Rome và cùng tin rằng mẹ tôi sinh ra ở Nevada. Ngay cả nếu như mẹ tôi sinh ra trên một chiếc phi cơ bay bằng một tốc độ siêu âm, thì những tiền đề này cũng không thể đúng được. Có một số lắt léo để áp dụng ở đây-có thể là có một thành phố tên là “Rome” ở một nơi nào đó trong Nevada; hoặc có lẽ chữ “mẹ” nghĩa là “mẹ đẻ” trong câu này và là “mẹ kết nghĩa” trong câu kia- nhưng điều này không thể là một ngoại lệ chấp nhận được. Ðể hiểu được một niềm tin có sẵn nói về những gì, tôi phải biết được các từ ngữ của tôi có ý nghĩa gì; để hiểu được các từ ngữ của tôi có ý nghĩa gì, những niềm tin của tôi phải được nhất quán.[7] Không hề có lối thoát cho sự thật là có một mối quan hệ chặt chẽ giữa những ngôn từ chúng ta xử dụng, giữa các suy tưởng chúng ta suy nghĩ, và cái gì chúng ta có thể tin là đúng về thế gian này.

Và những ức chế về cư xử thì cứ như thể thúc ép. Khi đến nhà một người bạn để ăn tối, tôi không thể vừa tin rằng anh ta ở phía bắc đường Main vừa tin ở phía nam đường Main để hành động trên cái căn cứ mà tôi tin. Một mức độ hòa hợp bình thường của tâm lý và thể lý sẽ ngăn ngừa được sự việc tôi có thể cùng một lúc đi về cả hai hướng nam bắc.

Bản thân bản sắc cá nhân đòi hỏi đến tính nhất quán ấy: trừ khi những niềm tin của một cá nhân được nhất quán chặt chẽ, y sẽ có nhiều bản sắc như những tập hợp niềm tin không thể cùng tương thích với nhau chạy lung tung trong não bộ anh ta. Nếu bạn nghi ngờ việc này, cứ thử tưởng tượng đến sự chủ quan của một kẻ tin rằng y đã nằm suốt ngày trên giường vì chứng cảm cúm, nhưng đồng thời lại chơi golf; tin rằng tên mình là Jim; là Tom; tin mình có một đứa con trai nhỏ tuổi, lại cũng tin rằng mình không con cái chi. Cứ nhân những niềm tin không ăn nhập gì với nhau này lên đến tận cùng, bất kỳ ý nghĩa nào rằng chủ nhân những niềm tin là một cá thể riêng biệt sẽ biến mất. Có một mức độ của sự thiếu nhất quán một cách hợp lý không tương thích được với khái niệm của chúng ta về tính chất con người.

Do đó có lẽ rằng cái giá trị mà chúng ta đặt để vào sự nhất quán hợp lý vừa không sai chỗ cũng chẳng bí hiểm. Ðể lời tôi nói trở nên dễ hiểu cho kẻ khác – và ngay cả, với chính tôi – các niềm tin của tôi về thế gian phải được mạch lạc, ăn khớp. Ðể các hành xử của tôi được cung cấp từ chính điều mình tin, tôi phải tin vào những điều có chỗ cho sự hành xử, ở mức tối thiểu, được xảy đến. Nói cho cùng, một số mối liên quan hữu lý, đường như đã khắc sâu vào chính cấu trúc của thế giới chúng ta.[8] Chuông điện thoại reo, chắc là anh tôi gọi hoặc không phải anh tôi. Tôi có thể tin vào tiền đề này hoặc một tiên đề khác-hoăc tôi có thể tin rằng tôi không biết-nhưng không thể có trường hợp nào cho phép tôi được tin vào cả hai.

Khởi đi từ tính quy phạm, đặc biệt với sự tôn trọng các quy luật về suy luận đưa chúng ta đến việc thiết lập nên những niềm tin mới trên căn bản của những niềm tin cũ, đã từng là chủ đề của rất nhiều bàn cãi và các công trình khảo cứu.[9] Dù bất kỳ lối hiểu nào được chọn lựa, không ai tin rằng con người là bộ máy toàn hảo về sự nhất quán. Những thất bại không thể tránh khỏi của chúng ta về tính hợp lý có thể ở nhiều dạng, từ sự thiếu nhất quán một cách hữu lý đến tính không liên tục một cách căn bản trong bản thân của tính chủ quan. Chẳng hạn như, hầu hết văn chương về “sự tự lừa dối” cho thấy rằng một người có thể ngầm tin vào một tiền đề, đồng thời vẫn có thể tự thuyết phục mình tin vào phản đề của chính tiền đề ấy (thí dụ như: vợ tôi đang ngoại tình; vợ tôi trung thực), dù tranh cãi đáng kể vẫn vây quanh các câu hỏi về sự việc làm thế nào (hay có hay không có) những nhận thức vặn vẹo như thế đã có xảy ra.[10] Những thất bại khác của các phân tích tâm lý- từ những bệnh nhân bị bệnh “não bộ chia hai” đến các trường hợp bệnh “đa nhân cách”- tối thiểu có thể giải thích được một cách không thiên vị trong các giới hạn của các khu vực xử lý niềm tin trong não bộ khiến đã từng trở nên sự phân chia một cách cơ cấu và/hoặc một cách chức năng từ lẫn nhau.

 

(còn tiếp)>>


Chú thích:

[1] Bằng chứng cho sự thực này chưa khi nào được hùng hồn hơn như khi sự tổn thương não bộ hủy hoại đến một mặt của ký ức con người mà không ảnh hưởng gì đến các phần khác- thật thế, kiến thức của chúng ta về ký ức con người phần lớn dựa vào những sử liệu được ghi lại từ các bệnh viện (như W. B. Scoville và B. Milner, “Loss of Recent Memory after Bilateral Hippocampal Lesions, ” Journal of Neurology, Neurosurgery and Psychiatry 20 (1957): 11-21). Ký ức dài hạn của chúng ta từ đó đã từng vỡ ra thành các căn nghĩa, chương đoạn, trình tự (semantic, episodic, procedural) và các hình thái khác của xử lý thông tin; còn ký ức ngắn hạn (thường được gọi là “ký ức sống”) hiện nay được chia thành âm vị, thị giác, khoảng không, nhận thức, âm vang (phonological, visual, spatial, conceptual, echoic ) và các bộ phận thi hành trung tâm. Các phân tích của chúng ta về hai thể loại ký ức này chắc chắn là chưa đầy đủ. Thí dụ như sự khác biệt giữa ký ức căn nghĩa (semantic) và ký ức chương đoạn (episodic) có lẽ không thể xem như là sự thay thế được cho bản tâm đồ (topographical). (E.A. Maguire et al., “Reading Routes around London:Activation of the Right Hippocamus in Taxi Drivers, ”Journal of Neuroscience 17 [1997] :7103-10); và ký ức căn nghĩa có vẻ nhạy cảm đến sự chia nhỏ thêm nữa thành các phạm trù-phụ thuộc-đặc biệt, như trong trường hợp ký ức về các vật thể sống đối nghịch với các vật thể không thuộc về sự sống (S. L. Thompson-Schill et al., “A Neutral Basis for Category and Modality Specificity of Semantic Knowledge, ” Neuropsychologia 37 [1999] :671-76; R. Hart et al., “Category Specific Naming Deficit following Cerebral Infarction, ” Nature 316 [ngày 1 Tháng Tám, 1985] :439-40)

[2] Có những phương cách để giải thích khái niệm về sự “tin” khiến tạo cho nó rời ra ngang bằng nhau. Nếu xử dụng một giới hạn quá lỏng lẻo, nó có thể giống như toàn bộ não bộ bị vướng mắc quá sâu vào việc cấu thành sự “tin”. Thí dụ như, tưởng tượng rằng một người đến cửa nhà mình mà bảo rằng y đại diện cho trò “Rút thăm của các Nhà Xuất bản bán Ðại hạ giá”:

1. Bạn nhìn nét mặt y, nhận diện nét mặt ấy, và do đó “tin” rằng mình biết ngưòi đàn ông này là ai. Hoạt động trong vỏ não hình thoi, nhất là ở phía bán cầu bên phải, quyết định chủ yếu cho sự nhận biết ấy xảy ra, và một tổn thương y học ở đây sẽ đưa đến chứng mù diện mạo (prosopagnosia), nghĩa là sự bất lực trong việc nhận diện một khuôn mặt quen thuộc, hoặc đúng hơn là nhìn khuôn mặt nào cũng ra như nhau cả. Xử dụng chữ “tin” trong khôn khổ này, chẳng khác nào bảo rằng chứng mù diện mạo đã mất đi những “niềm tin” về các khuôn mặt người khác nhìn giống như thế nào.

2. Sau khi đã nhận xét diện mạo của y, bạn sẽ định hình sự “tin” căn cứ vào ký ức dài hạn của mình về cả những diện mạo và sự thực chứng tỏ rằng y chính là Ed McMahon, người phát ngôn viên nổi tiếng của Nhà Xuất bản bán Ðại hạ giá. Sự tổn thương đến phần vỏ não chung quanh sống mũi và phần não mang tên perihippocampal đã có thể ngăn cản sự hình thành của sự “tin” này. Xin đọc R. R. Davies et al., “The Human Perirhinal Cortex in Semantic Memory: An in Vivo and Postmoterm Volumetric Magnetic Resonance Imaging Study in Semantic Dementia, Alzheimer’s Disea and Matched Controls, ”Neuropathology and Applied Neurobiology 28, no. 2 (2002):167-78 [abstract] , và A. R. Giovagnoli et al., “Preserved Semantic Access in Global Amnesia and Hippocampal Damage, ”Clinical Neuropsychology 15 (2001):508-15 [abstract] .

3. Chưa biết chắc chắn đây là một chuyện hoang đường hay đại loại như thế (có lẽ ông McMahon hiện nay đang làm việc cho công ty Candid Camera) bạn dùng thêm vài khoảnh khắc để nhận diện người đàn ông đứng trước cửa. Bạn định dạng sự “tin”, căn cứ vào âm hưởng giọng nói của y, ánh mắt và nhiều yếu tố khác nữa, để biết chắc y đáng tin hầu từ đó tin vào những gì y muốn trình bày. Năng lực định hình những phán đoán đó của bạn có thể tin cậy được, đặc biệt là năng lực phát hiện ra những gì không đáng tin- đòi hỏi tối thiểu bạn phải có phần não amygdale hoạt động được (R. Adolph et al., “The Human Amygdala in Social Judgment, ” Nature 393 [4 Tháng Sáu , 1998] :470-74), vốn là một phần nhỏ, giống như hạt hạnh nhân trong phần trung tâm não thái dương của bạn.

4. Sau đó, ông McMahon thông báo rằng bạn là người may mắn trúng một “big jackpot”. Trí nhớ của bạn về từ (cần đến nhiều xử lý khác so với trí nhớ về dung mạo) dẫn bạn đến niềm tin rằng mình đã trúng được một số tiền hơn là một loại “pot” nào đấy. Ðể hiểu được ý nghĩa của từ “jackpot” này sẽ cần đến sự làm việc của các nếp cuộn não trong phần thái dương chính và phần giữa, chiếm phần lớn bán não cầu bên trái của bạn. Ðọc A. Ahmad et al., “Auditory Comprehension of Language in Young Children:Neutral Networks Identified with fMRI, Neurology 60 (2003):1598-605, và M. H. Davis và I. S. Johnsrude, “Hierachical Processing in Spoken Language Comprehension, ”Journal of Neuroscience 23 (2003):3423-31.

5. Sau đó, McMahon trình bày một văn bản và mời bạn đọc. Y làm như thế bằng cách chỉ tay vào. “Niềm tin” của bạn rằng y muốn mình đọc cần đến sự vận hành của cái được gọi là “lý thuyết về ý thức” về phần bạn. (D. Premack và G. Woodruff, ”Does Chimpanzee Have a Theory of Mind” Behavioral and Brain Sciences 1 (1978):515-26)- nếu có một nhánh cây tình cờ xoay hướng về phía tờ giấy, bạn sẽ không nghĩ là nhánh cây ấy có ý “chỉ trỏ” gì cả. Cuộc mổ xẻ ẩn bên trong xử lý của lý thuyết về ý thức không hoàn toàn rõ ràng trong thực tại, nhưng có lẽ cả vành vỏ não phía trước cùng khu não thùy thái dương và phía trước cho phép bạn quy về các trạng thái tinh thần (bao gồm cả niềm tin) đến những cái khác. Ðọc K. Vogeley et al., “Mind Reading:Neutral Mechanism of Theory of Mind and Self-perspective” Neurolimage 14 (2001):170-81; C. D. Frith và U.Frith, “Interacting Minds-A Biological Basis”, Science’s Compass 286 (1999):1692-95; và P. C. Fletcher et al., “Other Mind in the Brain:A functional Imaging Study of Theory of Mind in Story Comprehension “Cognition 57 (1995): 109-28.

6. Xem xét văn bản bằng mắt, bạn nhìn thấy các ký hiệu dính liền vào tên mình :$10, 000, 000. Một số xử lý liên quan đến chữ số Ả Rập (có lẽ ở bên não thùy đỉnh trái của bạn) – G.Denes và M.Signorini “Door But Not Four and 4 a Category Specific Transcoding Deficit in a Pure Acalculic Patient” Cortex 37, no 2 [2001] 267-77) khiến bạn “tin” rằng văn bản này đúng là một tấm ngân phiếu mười triệu dollars.

Dù cho nhiều dòng khác nhau của các hoạt động thần kinh đã quy tụ lại khiến bạn tin rằng mình đã trúng một số tiền cực lớn, chính là ý tưởng này - biểu hiện rõ ràng bằng ngôn ngữ - đã chi phối những thay đổi lướt qua cực nhanh xảy ra bên trong hệ thống thần kinh và trong đời sống của bạn. Có lẽ bạn sẽ giật mình rú lên vì sự độ lượng của Ô. McMahon, có thể bạn sẽ bật khóc. Niềm tin rằng mình vừa trúng số 10 triệu mỹ kim sẽ là tác giả của tất cả các hành vi, cả chủ động lẫn không chủ động như thế này. Đặc biệt, niềm tin ấy còn chỉ đạo đến hành vi theo sau: khi được hỏi là “Có phải bạn vừa trúng 10 triệu không ?” bạn sẽ trả lời “Đúng vậy” nếu bị kích thích bởi sự bộc trực.

[3] Niềm tin, trong ý nghĩa này, là cái mà các triết gia thường gọi là một “thái độ có tính đề nghị”(propositional attitude). Thực tế, chúng ta có rất nhiều các thái độ như thế, và chúng thường hướng đến bằng một mệnh đề có chứa những từ ngữ “rằng”; chúng ta tin rằng, sợ rằng, có ý rằng, biết ơn rằng, hy vọng rằng v.v…

[4] Sự hình thành một số niềm tin nguyên thủy có thể không thể phân biệt được từ sự chuẩn bị một sơ đồ thần kinh vận động. Ðọc J. I. Gold và M. N. Shadlen “Representation of a Perceptual Decision in Developing Oculomotor Commands” Nature 404 ( ngày 3 tháng Ba 2000):390-94, và “Banburismus và the Brain: Decoding the Relationship between Sensory Stimuli, Decision, and Rewards” Neuron 36, no 2 (2002):299-308, để theo dõi cuộc thảo luận về các phán đoán thị giác và sự đáp ứng của thần kinh mắt (oculomotor).

[5] Chúng ta không cần phải đem tất cả thành viên Al Qaeda “ra công lý” chỉ vì những gì đã xảy ra ngày 11 tháng 9.2001. Hàng ngàn đàn ông, đàn bà, trẻ em tan biến theo đống gạch vụn của Trung Tâm Thương mại Thế giới đã vượt quá sự chịu đựng và khả năng đáp trả của chúng ta, và hành vi trả thù thành công ấy tuy có thỏa mãn một số người nhưng không ai có thể thay đổi được thảm trạng bi đát này. Các phản ứng tiếp theo của chúng ta ở Afghanistan và một số nơi khác được coi là đúng vì những gì có thể xảy đến cho nhiều ngưòi vô tội khác nếu như các thành viên Al Quaeda được tiếp tục theo đuổi các niềm tin kỳ dị của họ. Nỗi kinh hoàng của ngày 11 tháng 9, nên là một động cơ thúc đẩy chúng ta, không phải chỉ vì chúng mang lại cho chúng ta một mối bất bình mà giờ chúng ta phải báo thù, nhưng chính bởi vì nó đã chứng tỏ một số người Hồi giáo của thế kỷ hai mươi mốt này thực đã tin vào những tín điều phi lý và nguy hiểm nhất từ đức tin của họ.

[6] Việc xem xét đến cấu trúc của ngôn ngữ chúng ta cho thấy rằng đây không phải là một trường hợp đặc thù, bởi vì tất cả các từ và sự xử dụng của các từ ấy đã dẫn chúng ta đến các vòng luẩn quẫn của những lời giải thích lẫn nhau.

[7] Triết gia Donald Davidson đã khiến nhận thức này phải kinh qua nhiều thử thách trong công trình của ông về “sự diễn dịch căn bản”. Một hậu quả rất hay của mối liên quan giữa niềm tin và ý nghĩa là bất cứ nỗ lực để hiểu một người xử dụng ngôn ngữ nào đều đòi hỏi mình phải giả thiết là y hữu lý một cách căn bản (đây là “nguyên tắc về rộng lượng” [principle of charity] của Davidson)

[8] Tối thiểu là dựa vào cái tỷ lệ “cổ điển” mà chúng ta đang sống. Rằng thế giới quán tính không biểu hiện như thế này giải thích cho việc tại sao không ai có thể cho rằng mình “hiểu biết” được nó trong các ý nghĩa có tính thực tiễn.

[9] Ðọc D. Kahneman và A. Tversky, “On the Reality of Cognitive Illusions, ” Psychologycal Review 103 (1996):582-91; G. Gigenenzer, “On Narrow Norms and vague Heuretics: A Reply to Kahnenman and Tversky, “ibid., 592-96; K. J. Holyoak and P. C. Cheng, “Pragmatic Reasoning with a Point of View, ” Thinking and Reasoning 1 (1995):289-313; J. R. Anderson, “The new Theoretical Framework, ” in The Adaptive Character of Thought (Hillsdale, N. J. Erlbaum, 1990); K. Peng and R. E. Nisbett, “Culture Dialectics and Reasoning about Contradicition, ”American Psychologist 54 (1999): 741-54; K. E. Stanovich and R. F. West, “Individual Differences in Rational Thought, “Journal of Experimental Psychology:General 127 (1998):161.

[10] Ðọc A. R. Mele, “Real Self-Deception”, Behavioral and Brain Sciences 20 (1997):9-102, “Understanding and Explaining Real Self-Deception, ” ibid., 127-36, và Self-Deception Unmasked (Princeton:Princeton Univ. Press, 2001); H. Fingarette, Self-Deception (Berkeley:Univ. of California Press, 2000); J. P. Dupuy, ed., Self-Deception and Paradoxes of Rationality (Stanford:CsLI Publications, 1998); D. Davidson, “Who is Fooled ?” ibid., ;G. Quattrone and A. Tversky, “Self-Deception and the Voter’s Illusion, ” trong The Multiple Self, ed, J. Elster (Cambridge:Cambridge Univ. Press, 1985), 35-37.

Trang Tôn Giáo