|
18 tháng 2, 2011 |
LTS: Trong khi các nhà toán học khản cổ giải thích rằng chơi đánh bạc sẽ bị chi phối bởi một xác xuất mà nhiều người thua hơn là thắng, số người đánh bạc vẫn tiếp tục chơi mê mẩn để nướng tiền và thua cuộc thiểu não. Mặc dù đã có bao nhiêu bài viết có tính cách khoa học, đầy thuyết phục tương tự như bài viết sau đây đã được phổ biến. Nhưng dường như lối "đánh cuộc thần linh" vẫn còn sức hấp dẫn như sòng bạc Casino. Nhiều tín hữu sẵn sàng đóng góp cho sòng bạc "truyền đạo" đến 10% tiền lương cho ..."Chúa" vì nhà truyền giáo bảo "thử đi, cho Chúa một, rồi Chúa sẽ cho lại gấp mười!" Nhưng nếu chờ mãi không thấy hiệu quả thì nhà truyền giáo lại khuyến khích thêm: "Đừng nóng lòng, chờ thêm đi, Chúa đang ...thử lòng con!" hoặc "Có thể Chúa giúp con việc khác, không đo được bằng ... tiền!" Đôi khi may mắn mà có người ăn nên làm ra (do sức người) thì lại cho là ... "Chúa đã đền ơn cho ta!" Loại thần linh như thế có phải là thứ mà chúng ta phải kính nể hay phải khinh bỉ, chế nhạo?
Ít ra, sòng bạc Casino còn sòng phẳng hơn: lấy tiền, trả lại bằng tiền ngay tức khắc, hoặc ăn tuốt luốt trước sự ưng thuận của kẻ mê chơi. Còn Thiên Chúa thích nhận tiền và tiếp tục "thử" cho đầy túi tham, trả lại cho ta "những lời hứa hão", những gì không thể chứng minh được. Tiền bạc đó đi về đâu, nếu không phải là để làm mạnh thêm guồng máy gạt gẫm? Những người mê sòng bạc sẽ tán gia bại sản, còn người theo đạo Chúa sẽ bán một dân tộc.
Trong phần tóm lược dưới đây, Giáo sư Trần Chung Ngọc cảnh báo: "Chúng ta
cần nhận thức rõ, hiểm họa của Tin Lành không phải là ở chỗ tín đồ Tin Lành thì
mê tín, và các mục sư Tin Lành thì ngu muội, theo như nhận định của Ingersoll,
mà là ảnh hưởng tác hại khi Tin Lành dùng
mọi thủ đoạn và dựa vào ưu thế về kinh tế, và quân sự nếu có thể được, để áp đặt
sự mê tín và ngu muội trên những cộng đồng yếu kém về kinh tế, vật chất, và từ
đó tạo nên một lực lượng chính trị để làm áp lực hoặc khuynh đảo các chính quyền
địa phương sau bình phong, chiêu bài tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, nhân
quyền. "
Vài Nét Đại Cương - Cốt Tủy Những Niềm Tin Trong Ki Tô Giáo -
Người Việt Nam Và “Ơn Cứu Rỗi" -
Vài Nét Về Hiện Trạng Suy Thoái Của Ki Tô Giáo -
Vài Suy Tư Kết Luận
1. Vài Nét Đại Cương
Cùng với Ca-tô Rô-ma Giáo, Tin Lành đang suy thoái trầm trọng ở phương trời Âu Mỹ, nhưng rất có thể sẽ gây
ít nhiều xáo trộn trong xã hội Việt Nam, nếu Việt Nam để cho Tin Lành tự do đi
gõ cửa từng nhà để truyền đạo láo lếu và xúc phạm dân tộc. Tại sao? Vì thực
chất Tin Lành chỉ là một tổ chức buôn thần bán thánh, nhiều tính chất thế tục
hơn là tôn giáo. Tin Lành mê hoặc những người đầu óc yếu kém, cả tin, bằng “ơn
cứu rỗi”, một cái bánh vẽ trên trời [từ của Mục sư Ernie Bringas =
A-pie-in–the-sky], của một người dân thường Do Thái, Giê-su, mà họ ngụy tạo là
Chúa của nhân loại.. Tin Lành nhồi sọ những người dễ tin này để họ tuyệt đối
tin rằng cuốn Bible [tôi tránh dùng từ Kinh Thánh vì trong đó chẳng có gì là
“thánh” cả], vì là những lời mạc khải của Thiên Chúa, nên không thể sai lầm.
Một học giả, Neale Donald Walsch, đã nhận định trong cuốn The New Revelations,
trang 51: “Những nhà bảo thủ Tin Lành tin rằng con đường tiến tới là con
đường đi giật lùi, giật lùi về đúng những lời nguyên thủy của cuốn Kinh
Thánh – một cuốn sách phải đọc nguyên văn, và áp dụng từng câu từng chữ.”
(Fundamentalists believe that the way forward is the way backward, to the
original and exact words of the Holy Scripture – to be read verbatim, and
applied literally). Trong khi đó thì, ngày nay giới nghiên cứu về cuốn Bible đã
đồng thuận ở điểm: Cuốn Bible này có rất nhiều điều sai lầm về thần học cũng
như về khoa học, không hợp với thời đại, và có tính cách ngu dân. Người ta
đã có thể kiếm ra trên 170000 điều sai lầm trong cuốn Bible. [Abhinyana in
Because I Care, p. 93: Một số học giả nghiên cứu về cuốn Kinh của Ki-Tô
Giáo đã nói rằng trong đó có trên 170000 điều sai lầm.” (It is said now, by
some scholars of the Christian Bible, that there are over 170000 errors in that
book?). Alister McGrath, Giáo sư môn lịch sử thần
học, đại học Oxford, nói về đạo Tin Lành trong cuốn “Ý Tưởng Nguy Hại Của Ki
Tô Giáo: Cuộc Cách Mạng Tin Lành – Lịch Sử Từ Thế Kỷ 16 Đến Thế Kỷ 21” [Christianity's
Dangerous Idea: The Protestant Revolution—A History from the Sixteenth Century
to the Twenty-First]:
“Tại sao đạo Tin
Lành lại nguy hại? Vì đạo đó đặt căn bản trên một ý tưởng nguy hại: rằng cuốn
Bible
là nguồn uy quyền chính cho đạo Ki Tô”
[Why is
Protestantism so dangerous? Because it is based on a dangerous idea: that the
Bible is the main source of authority for the Christian religion.]
Đây chính là vấn nạn của những người Tin Lành, tin vào những điều sai lầm mà
không biết. Và lịch sử đã chứng minh là vì tin tất cả vào cuốn Bible cho nên Ki
Tô Giáo đã gây không biết bao nhiêu là tác hại cho nhân loại.
Họ ngu muội mà không biết
rằng mình ngu muội. Chúng ta sẽ làm sáng tỏ điều này khi bàn về cuốn Kinh của
Ki Tô Giáo [Christian Bible].
Vì
bị mê hoặc và thuần hóa, và vì không có đầu óc để nhận ra những sự lừa dối trong
những thủ đoạn truyền giáo của Tin Lành, nên khi đã vào tròng của Tin Lành rồi
thì đầu óc của người Tin Lành như bị ma ám, luôn luôn bị ám ảnh bởi một ý tưởng,
rằng họ đã nắm trong tay cái mà họ cho là chân lý của cuốn Bible (Bible truth),
nghĩa là, theo như họ đã bị tẩy não, nếu đặt hết lòng tin, trao hết linh hồn cho
một người dân thường Do Thái mà thực chất chẳng là ai cả, theo nhận định của một
số học giả và bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo, nhưng được Ki Tô Giáo tôn lên làm
Chúa để lừa bịp dân ngu, thì họ sẽ được cứu rỗi, không hề biết rằng mình đã bị
lừa bịp bởi một cái bánh vẽ trên trời, vì
Tân Ước đã viết rõ, không có chuyện Chúa Giê-su cứu rỗi những người không phải
là Do Thái. Không lạ gì, chúng ta thấy trong một số nhà thờ Tin
lành ở Nam Hàn, và có thể cũng xẩy ra ở Việt Nam, tín đồ có những cử chỉ, hành
động như điên như cuồng, như đang trong cơn mê mẩn cuồng loạn vì ảnh hưởng của
ma túy. Với một đầu óc đóng khuôn trong sự ám ảnh như vậy, người Tin Lành gạt
bỏ mọi bằng chứng trái ngược với niềm tin về sự cứu rỗi (salvation) của họ. Cho
nên bất cứ nền văn hóa nào mà không chấp nhận cái chân lý hoang đường mà ngày
nay mọi người có đầu óc đã gạt bỏ trong thế giới tân tiến Âu Mỹ thì theo họ, đều
phải phá bỏ và hủy diệt, vì đó là lời dạy của Chúa của họ trong cuốn Bible, và
làm theo lời Chúa dạy thì họ sẽ được lên thiên đường. Vì vậy chúng ta thấy, ở
những nơi kém phát triển và dân trí còn thấp, mà Tin Lành kéo được một số người
không có mấy đầu óc vào trong tròng của Tin Lành thì bọn người Tin Lành này
thường hung hăng xuyên tạc phỉ báng các tôn giáo và các nền văn hóa khác. Hiểm
họa Tin Lành là ở chỗ này, vì như trên đã nói, cuốn Bible có rất nhiều điều sai
lầm về thần học cũng như về khoa học, không hợp với thời đại, và có tính cách
ngu dân. Vì bản chất thực sự ngu muội và đặc biệt cuồng tín, các tín đồ Tin
Lành thường làm càn bất kể lý lẽ và có những hành động vô cương vô pháp, vô tổ
quốc. Sở dĩ họ có thể làm như vậy là vì họ lợi dụng tinh thần bao dung của
những xã hội phi Tin Lành, đặc biệt là những xã hội Phật Giáo. Ngoài ra họ dựa
thế của các cường quốc mà đa số theo Ki Tô Giáo như Mỹ, Anh, Úc v..v… dưới bình
phong tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, tự do truyền đạo mà các giáo hội Ki Tô
chủ trương một cách trịch thượng, độc đoán, bất kể đến các nền văn hóa khác
nhau, và quan niệm về tự do tôn giáo hay tự do tín ngưỡng rất khác nhau trong
các quốc gia trên thế giới.
Chúng ta biết rằng cuốn Bible gồm có hai phần: Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước chủ
trương độc thần, con người chỉ được thờ Thần của Do Thái, Jehovah, cho nên phải
tiêu diệt, phá hủy mọi dấu tích của các tôn giáo thờ thần khác, không khoan
nhượng đối với những người thờ thần khác. Bởi vậy, ngày nay mà chủ trương này
vẫn được Ki Tô Giáo nói chung thi hành, bất cứ ở nơi nào có thể, những vụ phá
Chùa ở Nam Hàn hay Việt Nam đã chứng tỏ như vậy. Hơn 80% Cựu Ước là những
chuyện giết người hàng loạt tàn bạo, loạn luân, vô đạo đức v..v… Còn Tân Ước
nói về Huyền Thoại Cứu Rỗi của Giê-su, một huyền thoại mà Linh mục James
Kavanaugh cũng như Giám mục John Shelby Spong đòi phải dẹp bỏ, vì kết quả nghiên
cứu của các học giả Tây phương trong vòng 200 năm nay đã chứng tỏ rằng Giê-su
chỉ là một thường dân Do Thái sống với ảo tưởng mình là con của Gót (God) của Do
Thái.
Với
chủ trương buôn thần bán thánh, Tin Lành truyền đạo dựa vào hai câu nhảm nhí
nhất trong Tân Ước, John 3: 16,18, mà họ cho là Tin Mừng, một loại tin mừng
khiến đầu óc của họ mê mẩn như người nghiện ma túy, không thể dứt bỏ được.
John 3: 16: “Gót quá thương yêu thế
gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không
bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”, và câu tiếp theo, John 3:
18: “Người nào không tin vào Giê-su thì đã bị đầy đọa rồi, vì
người đó không tin vào đứa con duy nhất của Gót”
Đây là
những câu nhảm nhí nhất trong Tân Ước mà người Tin Lành không nhận ra mà trái
lại lại cho đó là Tin Mừng. Tại sao “Tin Mừng Phúc Âm” lại là một câu nhảm nhí
như John 3:16? Tại vì câu
này chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giê-su mà thôi.
Lẽ dĩ nhiên chỉ có những người sinh sau Giê-su mới có thể biết đến Giê-su
và tin Giê-su để không bị luận phạt và có cuộc sống đời đời, lẽ dĩ nhiên sau khi
chết. Như được viết rõ trong Tân Ước, ngay cả bố mẹ Giê-su là Joseph và Maria,
cùng các em trai em gái Giê-su cũng không tin Giê-su là đấng cứu thế, trái lại
còn cho là Giê-su đầu óc bất bình thường (out of his mind), cho nên chắc chắn
là họ đều bị Giê-su luận phạt và đày đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn? Khoa học
đã chứng minh là loài người đã xuất hiện trên trái đất đã nhiều trăm ngàn năm,
nếu không muốn nói là cả triệu năm, hình thành do quá trình tiến hóa, điều mà
chính Giáo hoàng John Paul II của Ca-tô Rô-ma Giáo cũng phải thừa nhận, vậy lịch
sử loài người đâu chỉ bắt đầu từ khi Giê-su sinh ra, chết đi và sống lại, nếu
chúng ta có thể tin vào chuyện hoang đường này. Ngay cả Cựu Ước của Do Thái
cũng viết là Gót của Do Thái đã sáng tạo ra loài người theo hình ảnh của Gót
cách đây khoảng 6000 năm, nghĩa là trước khi Giê-su sinh ra đời khoảng 4000 năm.
Vậy trước khi Giê-su sinh ra đời, ông
bà tổ tiên của Giê-su, kể cả vua David, có ai biết đến Giê-su để mà tin Giê-su
và có được cuộc sống đời đời sau khi chết, và cũng vẫn chưa được cứu rỗi vì
Giê-su chưa hề trở lại trần để cho phần xác của tổ tiên mình nhập với phần hồn
mà Giê-su lấy ra từ một kho chứa linh hồn của Gót.
Trước năm 1533, người Việt Nam không ai nghe và biết đến tên Giê-su, hiển
nhiên không ai có thể tin Giê-su, vậy tất cả dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm
trước năm 1533 cũng bị luận phạt hay sao? Những người Việt Nam tân tòng Tin
Lành có nghĩ đến các điều hoàn toàn vô nghĩa như trên hay không, vì trong số
những người không biết đến và không tin Giê-su có cả những tiền bối hay tổ tiên
xa của họ, có khi lại chính là cha mẹ, anh em thân thuộc của họ?
Điều lạ là
ngày nay mà các tín đồ vẫn còn tin theo cái tín lý quái gở cực kỳ vô lý đó với
một tâm cảnh vô cùng ích kỷ, chỉ nghĩ đến đời sống đời đời sau khi chết của
riêng mình, mà không hề nghĩ đến bản chất ác độc, phi lý, phản khoa học, hoang
đường, bất khả áp dụng, của sự luận phạt mà Tân Ước đưa ra để hù dọa những người
không tin Giê-su. Không những chỉ ích kỷ mà họ còn để lộ một tinh thần yếu kém,
sợ sệt thần linh trong thời đại tiến bộ của khoa học kỹ thuật ngày nay mà quan
niệm thần linh khi xưa đã không còn chỗ đứng. Nhưng như trên đã nói, họ bị lừa
bịp để tin vào Giê-su hi vọng có thể có cuộc sống đời đời trên một thiên đường
giả tưởng, trong khi Tân Ước đã viết rõ, không có chuyện Chúa Giê-su cứu rỗi
những người không phải là Do Thái. Trong thời đại mà các lý thuyết thần học
của Ki Tô Giáo đã không còn ý nghĩa, tại sao họ vẫn còn có thể tin vào một
“Thần” của người Do Thái mà bản chất cũng không khác gì những “Thần” trong dân
gian trên khắp thế giới, được người Do Thái tạo dựng lên với hi vọng đáp ứng
được những khao khát, ước muốn của mình. Do đó, tin Giê-su thì có được cuộc
sống đời đời, lẽ dĩ nhiên sau khi chết, chỉ là một thủ đoạn mê hoặc, bịp bợm
phi lý rất trắng trợn, như vậy mà không mấy người nhìn ra.
Một
điều đáng nói là những tân tòng Tin Lành ở Việt Nam thì cực kỳ cuồng tín và ngu
muội, giống y như những tín đồ Tin Lành ở Nam Hàn. Và
khi đầu óc bị bấn loạn bởi ảo tưởng mình là dân Chúa thì họ có thể làm tất cả
những điều phi lý trí và cuồng điên. Chúng ta
hãy lấy một trường hợp điển hình.
Một
chuyện khôi hài nhất thế kỷ đã xảy ra ở Việt Nam: Mục Sư Tin Lành Trần Long
thuộc Liên Đoàn Truyền Giáo Phúc Âm Việt Nam, lấy tư cách của một “môn đồ của
Chúa Jesus” để gửi một “Thông Điệp Phước Lành” cho “Nhà Cầm
Quyền Việt Nam”, để kêu gọi nhà cầm quyền hãy từ bỏ nền văn hóa dân tộc
để theo nền văn hóa Tin Lành, cũng là nền “văn hóa thiên đàng”. Trần Long
viết: Phục hồi bản sắc văn hóa của dân tộc là để văn hóa Tin Lành tuôn
chảy trong lòng dân tộc- vì đây là văn hóa của dân tộc Việt Nam cũng là văn hóa
toàn thế giới. Chúng ta có thấy kẻ nào ngu dốt, cuồng tín hơn mục sư
Trần Long không? Những điều Trần Long viết trên phản ánh một đầu óc bấn loạn
như bị ảnh hưởng của một loại ma túy nào đó, vì thực chất văn hóa Tin Lành, nếu
có, là loại văn hóa hạ đẳng, và văn hóa thiên đàng là văn hóa của lông rùa, sừng
thỏ.
Ấy thế mà vẫn có nhiều người tin vào những cái câu John 3:16 nhảm nhí này và đi
theo đạo Ki-Tô nói chung, Tin Lành nói riêng, một cách ngu si vô trí. Không
những thế, họ còn phỉ báng nền văn hóa và những tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, như trong “tuyên ngôn phục linh” gần đây ở Mỹ Đình. Đây không phải
là chuyện tự do tôn giáo hay tự do tín ngưỡng.
Đây là hành động khiêu khích cả
một dân tộc mà tuyệt đại đa số không theo cái đạo quái gở đó.
Điều khó hiểu đối với tôi là tại sao chính quyền và dân chúng lại rất thụ động
trước những lời hỗn xược vô cương vô pháp của một đám người cuồng tín, một đám
người bị tẩy não, coi những điều mê tín hoang đường trong Ki Tô Giáo mà Tây
phương đang dần dần phế thải như những viên ngọc quý.
Phản ứng của các quốc gia khác đối với việc cải đạo:
●
Một mục sư ở Singapore nói láo về Phật Giáo đã bị
chính quyền Singapore khiển trách và cảnh cáo. Sau đây là bản tin về vụ này:
Singapore – Ngày 8-2, Bộ An ninh Quốc nội Singapore (ISD) đã triệu tập mục sư
Rony Tan, người sáng lập Hội Truyền bá Phúc âm Hải đăng (Lighthouse Evangelism),
để cảnh cáo những bình luận mang tính bôi nhọ và công kích của ông ta về Phật
giáo và Đạo giáo trong các cuộc giao lưu giữa ông và các thành viên của hội
thánh.
Bộ
Nội vụ Singapore khẳng định những bình luận của mục sư Rony Tan là “hoàn toàn
không thích hợp và không thể chấp nhận” vì đã hạ thấp và xúc phạm tín đồ Phật
giáo và Đạo giáo, đồng thời có thể làm nảy sinh sự căng thẳng cũng như xung đột
giữa cộng đồng Phật giáo và Đạo giáo với cộng đồng Ki-tô giáo.
Bộ
An ninh Quốc nội Singapore cảnh cáo mục sư Rony Tan rằng, trong việc truyền bá
Phúc âm, hay trong việc dụ dỗ những người nhẹ dạ cả tin, thiếu trình độ văn hóa
và nghèo khó cải đạo sang tín ngưỡng của mình, ông không được bôi nhọ, hạ thấp
tôn giáo khác, và phải ý thức tính nhạy cảm khi đề cập tới tôn giáo khác.
Vào
lúc 21:30 ngày 8-2, trong chương trình tin tức của đài truyền hình Channel 5,
mục sư Rony Tan đã tự nhận khuyết điểm và xin lỗi công khai tất cả mọi người.
Mục sư Rony Tan cũng bày tỏ sự ăn năn, thống hối sâu sắc. Ông nói ông đã hiểu
được rằng, những ngụy biện và bình luận của ông về giáo lý căn bản của Phật giáo
và Đạo giáo là hoàn toàn sai trái và mang tính công kích. Ông đã vô tình làm tổn
thương các tín đồ Phật giáo và Đạo giáo.
Mục
sư Rony Tan cũng hứa sẽ không bao giờ dám tái phạm thêm một lần nữa và khẳng
định rằng, ông sẽ khuyến cáo các thành viên trong hội của ông luôn luôn tôn kính
Phật giáo và các tôn giáo khác nhằm xây dựng một đất nước Singapore hòa hợp.
(theo CNA/Straits Times/Temasek Review)
●
Một tin trên Internet
cho biết, Bà Thủ Tướng Julia
Gillard nói với bọn Hồi Giáo quá khích tại Úc như sau:
Những người Ki Tô Giáo, dựa trên
những nguyên lý của Ki Tô Giáo, đã lập nên quốc gia này, và điều này đã được
ghi trong sử sách rõ ràng. Nếu Gót làm phật ý các người, vậy thì tôi đề nghị
các người hãy chọn một nơi khác trên thế giới là cư gia mới của các người, vì
Gót là một phần trong nền văn hóa của chúng tôi. Chúng tôi sẽ chấp nhận những
niềm tin của các người, và sẽ không hỏi tại sao. Chúng tôi chỉ yêu cầu các
người chấp nhận những niềm tin của chúng tôi, và sống trong sự hòa hợp và hưởng
sự hòa bình với chúng tôi.
Nếu các người không cảm thấy
hạnh phúc sống ở đây thì hãy đi nơi khác mà sống. Chúng tôi không cưỡng bách
các người đến đây. Các người xin chúng tôi để đến đây.
[Christian men and women, on
Christian principles, founded this nation, and this is clearly documented. If
God offends you, then I suggest you consider another part of the world as your
new home, because God is part of our culture.'
'We will accept your beliefs, and
will not question why. All we ask is that you accept ours, and live in harmony
and peaceful enjoyment with us.'
'If
you aren't happy here then LEAVE. We didn't force you to come here. You asked
to be here].
Chúng ta nên hiểu là bà Thủ Tướng Úc nói như trên
không phải là kỳ thị tôn giáo mà vì những người Hồi Giáo sống nhờ trên đất Úc
làm càn, đưa ra những đòi hỏi rất phi lý, dựa trên những niềm tin và luật lệ
trong Hồi giáo, hoàn toàn trái ngược với truyền thống văn hóa và tôn giáo của Úc
mà chính quyền Úc không bao giờ chấp nhận.
Trước những lời hỗn xược về văn hóa và tôn giáo truyền thống của Việt Nam của
bọn Tin Lành trong cái gọi là “tuyên ngôn phục linh”, tinh thần dân tộc của Việt
Nam hiện nay ở đâu. Chẳng lẽ chính quyền và người dân cứ để cho bọn người hạ
căn này làm loạn mãi hay sao. Tại sao chúng ta không thể bắt bọn Tin Lành ngu
si vô trí đó phải xin lỗi dân tộc, hay lôi chúng ra đánh đòn hay vả vào miệng để
cho chúng không còn nói bậy? Điều này chẳng có gì là quá đáng, không phải là
bạo hành tôn giáo, mà chỉ là trừng phạt, xét đến những hành động cuồng si, vô tổ
quốc, phi dân tộc chúng làm. Tại sao chúng ta không thể nói với bọn Tin Lành
là:
Việt Nam chúng tôi có nguồn gốc Con Rồng
Cháu Tiên và các tôn giáo đều sống trong tinh thần Tam giáo đồng nguyên, sống
hòa hợp với nhau và không xâm phạm nhau. Nếu các người phật ý với nguồn gốc dân
tộc của chúng tôi và không muốn sống trong tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên thì
chúng tôi đề nghị các người kiếm một nơi khác trên thế giới mà sinh sống. Chúng
tôi chấp nhận những niềm tin của các người, chúng tôi chỉ yêu cầu các người cũng
phải chấp nhận những niềm tin của chúng tôi. Nếu các người không cảm thấy thoải
mái ở đây thì hãy rời khỏi đây. Chúng tôi không giữ các người ở đây và chúng
tôi hoan nghênh sự ra đi của các người. Nếu các người còn tiếp tục làm càn,
ăn nói bừa bãi thì chúng tôi bắt buộc phải có biện pháp đối xử xứng đáng với
những hoạt động phi tôn giáo, thiếu văn minh của các người.
●
Trong tập "Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam" của tác giả Nguyễn Mạnh Quang, sự chống đối việc truyền đạo Chúa ở khắp các nơi trên thế giới được liệt kê ở 3 bài:
- Các Nước Ý Nga, Tiệp Khắc, và Ba Lan Chống Vatican.
- Các Nước Hoa Kỳ, Mễ Tây Cơ, Cuba và Nicaragua Chống Vatican
- Các Nước Nhật Bản, Trung Hoa, và Nhiều Nước Khác Đối Phó Với Vatican
2. Cốt Tủy Những Niềm Tin Trong Ki Tô Giáo
Một câu hỏi được đặt ra là, với những điều mê tín hoang đường đã không còn mấy
giá trị trong thế giới tân tiến Tây phương, bằng chứng là Ki Tô Giáo nói chung
đang suy thoái thê thảm ở phương trời Âu Mỹ mà tại sao Ca-tô cũng như Tin Lành
lại vẫn muốn mang những đồ đang dần dần bị phế thải ở Âu Mỹ truyền bá trong một
số địa phương ở Á Châu và Nam Mỹ. Chúng ta đã có câu trả lời từ lâu, vì đó chỉ
là những tổ chức thế tục, buôn thần bán thánh, khai thác đầu óc yếu kém của một
số người trong những xã hội tương đối kém phát triển, dân trí tương đối còn
thấp.
Cuối thế kỷ 19, Robert G. Ingersoll đã đưa ra một nhận định về đạo Tin Lành:
Tại sao
đạo Tin Lành vẫn tồn tại? Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ là quần chúng
thì mê tín [superstitious] và các mục sư thì ngu muội (stupid).
[Protestantism
dies hard. What does that prove? It proves that the people are superstitious
and the preachers stupid.]
Và năm 2003, S.T. Joshi viết
trong cuốn “Những Người Bảo Vệ Gót: Họ Tin Những Gì Và Tại Sao Họ Sai Lầm”
[God’s Defenders: What They Believe and Why They Are Wrong”, Prometheus
Books, New York, 2003, p.14]:
Câu hỏi chính đã trở thành không phải tại sao tôn
giáo [Joshi viết về Ki Tô Giáo]
không chết đi mà tại sao nó tiếp tục tồn tại trước hàng núi bằng chứng trái
ngược (với những gì Ki Tô Giáo rao giảng). Đối với tôi, câu trả lời có
thể tóm gọn trong một câu: Quần chúng thì ngu muội.
[The dominant question thus becomes not why
religion [i.e. Christianity] has not died away but why it continues to persist
in the face of monumental evidence to the contrary. To my mind, the answer can
be summed up in one straightforward sentence: People are stupid.]
Mục
sư Ernie Bringas, Master of Divinity degree at United Theological Seminary in
Dayton, Ohio, viết trong cuốn “Going By The Book, Past and Present Tragedies
of Biblical Authority”, trang 142:
Nhiều nhà
truyền giáo
[Tin Lành] trên TV chỉ có một chút học vấn hay không có học vấn nào về tôn
giáo của mình và, thảm thay, ảnh hưởng của họ rất rộng – rộng chỉ vì sự rao
giảng cũ kỹ [thuộc thế kỷ 17] về tôn giáo của họ phục vụ cho trạng thái tâm lý
cũng cũ kỹ (không có kiến thức mới) của quần chúng. Thực tế là, người mù dẫn
giắt người mù.
[Many TV
evangelists have little or no formal education and, tragically, their influence
is extensive – extensive only because their astrolabe preaching caters to the
astrolabe mentality of the masses. In effect, the blind is leading the blind.]
Thống Đốc Jesse Ventura của Bang
Minnesota nhận định:
“KiTô giáo là một sự giả dối trống rỗng và là một cặp
nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh trong số đông”
(Christianity is a sham and a crutch for weak-minded people who need strength in
numbers).
Nữ học giả Ca-Tô Joane H. Meehl, sau khi đã nhìn thấy rõ chủ đích và những việc
làm của Giáo hội Ca-Tô từ thế kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốn
"Người Tín Đồ Ca-Tô Tỉnh Ngộ" (The Recovering Catholic, Prometheus Book,
1995, trang 288):
"Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong đám
người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng giáo dục
(mở mang dân trí. TCN) và đời sống kinh tế thoải
mái."
(Catholicism thrives and grows among the
poor and ignorant. It is overcome by education and economic well-being).
văn sĩ S. T. Joshi
Ở đây chúng ta cần phải giải thích từ “ngu muội” (stupid) mà các tác giả
trên dùng. S. T. Joshi giải thích, Ibid., trg. 13,14:
Khi tôi nói rằng tôn giáo (Ki Tô Giáo) lan rộng
như vậy vì quần chúng ngu muội, tôi quả quyết là họ thiếu những thông tin cần
thiết để có thể đánh giá đúng những điều mà tôn giáo tự cho là sự thật. Một sự
đánh giá như vậy đòi hỏi là phải có một kiến thức ít nhất là bề ngoài của vật lý
học, sinh học, hóa học, địa chất học, sử học (đặc biệt là lịch sử tôn giáo), tâm
lý học, nhân chủng học, và triết học (hoặc, nói một cách tổng quát hơn, có khả
năng lý luận hợp lý hay nhận ra được những lý luận dối trá)
Tôi cũng nói thêm là, ngay cả khi quần chúng
có được những thông tin cụ thể (trong khoa học và triết học) cần thiết để đánh
giá đúng những điều tự nhận của tôn giáo về sự thật, họ cũng không thể sử dụng
chúng được; đơn giản là đầu óc họ không thể tiêu hóa nổi những thông tin như
vậy.
Điều rõ ràng trong trường hợp của nhiều người
được cho là thông minh, là đầu óc và cảm xúc của họ đã bị tê liệt từ nhỏ bởi một
số tín lý trong tôn giáo cho nên trên thực tế đã làm cho sự phân tích hợp lý
không có ảnh hưởng vào những quan niệm về thần thánh của họ được.
Quan điểm của tôi là chính sách nhồi sọ trẻ
thơ này là một trong những tội ác lớn nhất đối với nhân loại – và nó đã được
áp dụng qua nhiều thiên niên kỷ và ngày nay vẫn còn tiếp tục được áp dụng.
[When I declare that religion is so widespread
because people in the mass are stupid, I assert that they lack the information
needed to make a well-informed evaluation of the truth-claims of religion. Such
an evaluation requires at least a surface knowledge of physics, biology,
chemistry, geology, history (particularly the history of religion), psychology,
anthropology, and philosophy (or, more generally, the ability to fashion
reasoned arguments or to detect fallacious arguments)…
I will go further and state that even if the
mass of people had the concrete information (in science and philosophy) required
for an assessment of the truth-claims of religion, they would be unable to
process it; their brains simply cannot digest this kind of information.
What has clearly happened in the case of many
otherwise intelligent people, is that childhood crippling of their brains and
emotions in favor of some dogmatic religion has for all practical purposes made
their theistic views impervious to logical analysis.
My own view is that this infantile
brainwashing is one of the great crimes against humanity – and it has been
practiced for countess millenia (well before the advent of organized religion)
and continues to be practiced to this day.]
S. T. Joshi nhận định quả là
vô cùng chính xác. Người Ki Tô Giáo nhồi sọ con cái của mình từ khi còn nhỏ vì
cho rằng những niềm tin tôn giáo của mình là đúng, là tốt đẹp, nên muốn truyền
lại cho con cháu. Nhưng họ không biết rằng như thế là họ làm hại đầu óc trong
trắng của những trẻ thơ, bởi vì những điều họ tin không phải là tin vào sự thật
mà tin vào những lời giả dối lừa bịp của người khác.. Đó là một tội ác đối với
nhân loại. Những người “ngu muội” không phải là những người không đủ khả năng
trí óc mà là những người ngu si theo nghĩa không biết rõ sự thật về chính tôn
giáo của mình và mê muội vì vẫn còn tin vào những điều hoang đường của thời bán
khai, đã lỗi thời và không còn giá trị trong bộ kiến thức của nhân loại ngày
nay. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy một số trí thức Ki Tô Giáo Việt
Nam vẫn còn mê sảng viết lên những điều mê muội của thế kỷ 17 và luôn luôn viện
dẫn cuốn Bible như là một nguồn tài liệu không thể sai lầm dù rằng ngày nay thế
giới có đầy đủ thông tin và bằng chứng chứng tỏ những điều Ki Tô Giáo rao giảng
là hoàn toàn sai lầm. Chúng ta hãy đi vào từng điểm một về những niềm tin trong
Ki Tô Giáo trước kiến thức thời đại về những điểm đó để chứng minh nhận định của
S. T. Joshi ở trên.
a. Về Cuốn Bible.
Người Ki Tô Giáo nói chung,
nhất là Tin Lành, đều tin vào sự không thể sai lầm của cuốn Bible vì họ được
nhồi sọ đó là lời mạc khải của Gót. Nhưng cuốn Bible là cuốn sách như thế nào?
Thực tế là, cuốn Bible có phải là do Gót mạc khải hay không thì trong cuốn
Bible, những chuyện loạn luân vẫn là loạn luân, độc ác vẫn là độc ác, giết
người vẫn là giết người, phi lý phản khoa học vẫn là phi lý và phản khoa học
v..v...
Thật vậy, tất cả những chuyện thuộc các loại sau đây chiếm phần lớn cuốn Cựu Ước:
bạo hành giết người (Violence & Murder), giết người hàng
loạt (Mass Killing), loạn luân (Incest), ăn thịt
người (Human Cannibalism), độc ác đối với trẻ con (Child
cruelty), tục tĩu quá mức (Scatology), trần truồng
(Nakedness), đĩ điếm (Harlotry), hiếp dâm (Rape),
thù hận tôn giáo và chủng tộc (Religious & Ethnic Hatred), nô
lệ (Slavery), say rượu (Drunkeness) v..v.. [Xin đọc cuốn
Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong cuốn Bible (All The Obscenities In The
Bible) của Gene Kamar], chưa kể là những lời “mạc khải” của Gót về vũ
trụ, nhân sinh, đã chứng tỏ là hoàn toàn sai lầm trước những sự kiện khoa học
bất khả phủ bác ngày nay. Cuốn Tân ước còn tệ hơn nữa, bịa ra chuyện cứu rỗi
với luận phạt tuy rằng trong Cựu Ước không có chỗ nào đến một cuộc sống đời đời
ở trên thiên đường sau khi chết, hay tới một hỏa ngục để đầy đọa những người
không tin. Trong Cựu Ước chỉ nói đến một “sheol”, nơi mà mọi người, tốt hay
xấu, đều phải tới đó sau khi chết (There was Sheol, where everybody, good or bad
went after they died.) Khi huyền thoại về sự sống lại của Giê-su được phát
triển trong Tân Ước, thì “sheol” trở thành hỏa ngục để đầy đọa những người không
được cứu, nghĩa là những người không tin. Ki Tô Giáo xây dựng trên đầu óc yếu
kém của con người, sự sợ hãi: sợ hãi về cái chết, và sợ hãi phải đầy đọa dưới
hỏa ngục.
Người Ki Tô Giáo tiếp tục tin vào giá
trị của cuốn Bible bất kể là ngày nay
đã có những tác phẩm nghiên cứu về mọi khía cạnh trong cuốn Bible.
Điển hình là những cuốn sau đây mà nếu có đọc thì đầu óc của những tín đồ Ki Tô
Giáo cũng không thể tiêu hóa nổi, như S.T. Joshi đã nhận định ở trên. Lẽ dĩ
nhiên những điều trích dẫn từ cuốn Bible
trong những tác phẩm nghiên cứu này, các tín đồ Ki Tô Giáo không bao giờ được
nghe giảng trong nhà thờ:
- “Cuốn
Thánh Kinh Thuộc Loại Dâm Ô: Một Nghiên Cứu Bất Kính Về Tình Dục Trong cuốn
Bible” [The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scripture, AA
Press, Austin, Texas, 1989] của Ben Edward Akerley: cuốn sách dày hơn 400 trang,
liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn luân trong Thánh Kinh.
- “Tất
Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong cuốn Bible” [All The Obscenities in the Bible,
Kas-mark Pub., MN, 1995] của Kasmar Gene: cuốn sách dày hơn 500 trang, liệt kê
tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người, loạn luân v..v.. (Human
sacrifice, murder and violence, hatred, sex, incest, child cruelty etc..) trong
cuốn Bible.
- “Sách
Chỉ Nam Về cuốn Bible” [The Bible Handbook, AA Press, Ausrin, Texas, 1986]
của W. P. Ball, G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith ...: Liệt kê những
mâu thuẫn (contradictions), vô nghĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v..v..
trong cuốn Bible.
- “Sách
Hướng Dẫn Đọc Thánh Kinh Của Người Thấy Lại Chúa Nhưng Hoài Nghi” [The Born
Again Skeptic’s Guide To The Bible, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin,
1979] của Bà Ruth Hurmence Green: Bình luận những chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị
phái nữ trong cuốn Bible.
- “Một
Trăm Điều Mâu Thuẫn Trong Thánh Kinh” [One Hundred Contradictions in the
Bible, The Truth Seeker Company, New York, 1922] của Marshall J. Gauvin:
Liệt kê 100 điều mâu thuẫn trong cuốn Bible.
- “Lột
mặt nạ cuốn Bible” [The Bible Unmasked, The Frethought Press Association,
New York, 1941] của Joseph Lewis: đưa ra những sai lầm trong cuốn Bible.
- “Thẩm
Vấn Ki Tô Giáo” [Christianity Cross-Examined, Arbitrator Press, New York,
1941] của William Floyd: Phân tích từng quyển một trong cuốn Bible.
-
“Ki Tô Giáo Và Loạn Luân” [Christianity and Incest,
Fortress Press, MN, 1992] của Annie Imbens & Ineke Jonker: Viết về Ki Tô Giáo
và vấn đề loạn luân, những sự kiện về loạn luân và kỳ thị phái nữ bắt nguồn từ
cuốn Bible.
Với nội dung của cuốn Bible
như trên, không lạ gì ở Hồng Kông đã có phong trào đòi Ủy Ban Đạo Đức Hồng Kông
phải xếp lại cuốn Bible của
Ki Tô Giáo vào loại sách tục tĩu, khiêu dâm, tàn bạo, loạn luân, và cuốn Bible
phải bọc kỹ và bên ngoài phải khuyến cáo độc giả về nội dung, và không được bán
cho trẻ em dưới 18 tuổi. [http://news.yahoo.com:
More than 800 Hong Kong residents have called on authorities to reclassify
the Bible as "indecent" due to its sexual and violent content.. The complaints
said the holy book "made one tremble" given its sexual and violent content,
including rape and incest. If the Bible is similarly classified as "indecent"
by authorities, only those over 18 could buy the holy book and it would need to
be sealed in a wrapper with a statutory warning notice.]
Xin nhớ rằng, những cuốn sách khảo cứu về cuốn Bible như trên đã được phổ biến rộng rãi trên đất Mỹ, và Tin Lành ở Mỹ, qua vài
thập niên, tụt xuống từ hơn 70% dân số còn dưới 50% dân số, dù có nhiều quyền
thế trong chính trị và tôn giáo, cũng không có cách nào dẹp bỏ những cuốn sách
trên, hay đối thoại để phản bác, vì tất cả đều là sự thật.
b.
Sáng
Tạo Hay Big Bang?
Tín đồ Ki Tô Giáo được dạy để tin rằng một vị Thần của Do Thái mà thế giới Âu Mỹ
gọi là Gót (God) đã “sáng tạo” (sic) ra vũ trụ và muôn loài trong đó chỉ bằng
vài lời phán trong vòng sáu ngày và cách đây khoảng 6000 năm. Đó là những gì
sách Sáng Thế Ký viết. Nhưng khoa học ngày nay đã chứng minh rằng vũ trụ này
hình thành từ một vụ nổ lớn của một dị điểm. Danh từ quen thuộc gọi vụ nổ này là
Big Bang.
Big Bang là hiện tượng nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng
đặc, vô cùng nóng, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và đã xảy ra cách đây khoảng
13.7 tỷ năm chứ không phải là chỉ có từ 6000-10000 năm do sự “sáng tạo” (sic)
của Gót như được viết trong Kinh Thánh, được coi như những lời không thể sai lầm
của Gót. Sau Big Bang khoảng 8 tỷ năm mới có mặt trời và sau đó, cách đây
khoảng 4.5 tỷ năm mới có trái đất là một hành tinh quay xung quanh mặt trời, rồi
sau đó mới có mặt trăng là một vệ tinh của trái đất.
Nhưng Thánh Kinh lại
viết Gót tạo ra trái đất trước rồi sau mới đến trăng, sao. Mặt khác, khởi đầu
trái đất chỉ là một khối nhão rất nóng (hot molten blog) trong khi Gót của Ki Tô
Giáo lại tạo ra trái đất bao phủ bởi nước. Trước những kết quả khoa học bất khả
phủ bác, Giáo hoàng tiền nhiệm, John Paul II, cũng như Giáo hoàng đương nhiệm,
Benedict XVI đều phải công nhận thuyết Big Bang nhưng vớt vát lại uy tín của Gót
bằng những điều mê sảng đối với thế giới.
Từ năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời
một số chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội
thảo, các chuyên gia được giáo hoàng John Paul II tiếp kiến. Ông ta nói với các
khoa học gia là “cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ lớn
(big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do
đó là tác phẩm của Thượng đế.” (Stephen Hawking, A Brief History of Time,
p. 116: He told us that it was all right to study the evolution of the universe
after the big bang, but we should not inquire into the big bang itself because
that was the moment of Creation and therefore the work of God).
Còn
Giáo hoàng Benedict XVI thì nói rằng đàng sau Big Bang là bộ óc của Gót,
hàm ý chính Gót đã tạo ra Big Bang chứ không phải là khoa học.. [God
was responsible for the Big Bang, not science, says Pope Benedict.]
Cả hai đều mê sảng vì cả hai đều chẳng biết Gót là cái gì, và cả hai đều chẳng
hiểu Big Bang là cái gì. Vốn liếng thần học của họ, dù cao và hoang đường đến
đâu, cũng không cho phép họ hiểu được những lý thuyết về Big Bang với những
phương trình toán học phức tạp nhất.
c.
Sáng Tạo Hay Tiến Hóa?
Tín đồ Ki Tô Giáo được dạy
để tin rằng một vị Thần của Do Thái mà thế giới Âu Mỹ gọi là Gót (God) đã “sáng
tạo” (sic) ra con người theo hình ảnh của Gót, như Giáo hoàng Benedict XVI mới
dạy lại tín đồ trong “Sứ Điệp Hòa Bình” gần đây. Nhưng khoa học lại chứng minh
được rằng chính thuyết Tiến Hóa của Darwin đã tạo ra loài người chứ không phải
là Gót. Và nay thuyết Tiến Hóa đã trở thành một sự kiện mà các nhà thần học Ki
Tô Giáo đã phải cúi đầu trước sự kiện này. Ở đây tôi sẽ không đưa ra những nhận
định về thuyết Tiến Hóa của các khoa học gia mà sẽ chỉ trình bày những thú nhận
của một số giới chức cao cấp trong Ki Tô Giáo.
i) Năm 1996, giáo hoàng John Paul II đã đặt thẩm quyền giảng dạy của
Giáo hội Ca-tô Rô-ma đàng sau quan điểm đoan chắc là “thân xác con người có
thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một
quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến
việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. (Pope
John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly
behind the view that “the human body may not have been the immediate creation of
God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope said that
“fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than
just a hypothesis”).
ii) Linh mục dòng Tên Teillard de Chardin trong The Phenomenon of Man:
Tiến Hóa là một thuyết,
một hệ thống, hay một giả thuyết? Nó còn nhiều hơn nữa: nó là một điều kiện
tổng quát mà mọi thuyết, mọi giả thuyết, mọi hệ thống phải cúi đầu trước nó
và phải phù hợp với nó nếu chúng muốn được nghĩ tới và coi là đúng.. Tiến Hóa
là một ánh sáng soi sáng mọi sự kiện, một đường cong mà mọi đường thẳng phải
theo nó.
(Is evolution a
theory, a system or a hypothesis? It is much more: it is a general condition to
which all theories, all hypotheses, all systems must bow and which they must
satisfy henceforth if they are to be thinkable and true. Evolution is a light
illuminating all facts, a curve that all lines must follow...)
iii) Mục sư Ernie
Bringas trong cuốn: Going By The Book: Past and Present Tragedies of
Biblical Authority:
Thuyết Tiến Hóa là
một trong những cấu trúc tuyệt vời và thành công nhất của tư tưởng con người.
Mọi ngành khoa học đều tiếp tục ủng hộ và kiểm chứng quan niệm về sự tiến hóa.
Thuyết Tiến Hóa , giống như Thuyết Tương Đối, không còn là một "thuyết" theo
nghĩa thông thường nữa, mà là một nguyên lý khoa học đặt căn bản trên rất
nhiều bằng chứng không còn phải bàn cãi nữa.
(The theory of evolution is
among the most elegant and fruitful structures of human thought... All
scientific disciplines continue to support and verify the concept of evolution.
The theory of evolution, like the theory of relativity, is no longer a "theory"
in the popular sense, but a scientific principle based on considerable,
indisputable evidence.)
iv) Giám mục John Shelby Spong trong cuốn Why
Christianity Must Change or Die:
Thuyết Tiến Hóa làm cho
Adam và Eve trở nên may nhất là những nhân vật theo truyền thuyết. Thuyết
Tiến Hóa không dễ gì cho tổ chức tôn giáo chấp nhận, và ngày nay vẫn còn những
tiếng nói cất lên từ những miền hẻo lánh của thế giới để chống đối thuyết này.
Những tiếng nói này sẽ không bao giờ thành công. Nhân loại rõ ràng là tiến
hóa theo một quá trình trải dài từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm. Không làm gì có hai
cha mẹ đầu tiên (nghĩa là Adam và Eve. TCN), và do đó cái hành động bất
tuân lúc đầu của hai bậc cha mẹ đầu tiên không thể nào có ảnh hưởng đến toàn thể
nhân loại. Do đó cái huyền thoại về tội tổ tông đã bị một đòn khai tử, và
câu chuyện vững chắc về sự cứu rỗi do những người bảo vệ Ki-tô giáo dựng lên qua
nhiều thời đại đã bắt đầu chao đảo.
(The theory of evolution made
Adam and Eve legendary at best. Evolution was not easy for the religious
establishment to accept, and still voices are raised today in remote
areas of the world to resit it. Those voices will never succeed. Human life
clearly evolved over a four-and-a-half-to-five-billion-year process. There were
no first parents, and so the primeval act of disobedience on the part of first
parents could not possibly have affected the whole human race. The myth was
thus dealt a blow, and the monolithic story of salvation built by Christian
apologists over the age began to totter.)
Chúng ta thấy, ngày
nay, hầu hết các khoa học gia và giới trí thức có hiểu biết, ngay cả các bậc
lãnh đạo cao cấp trong các giáo hội Ki-tô, đều đồng thuận ở điểm: Thuyết Tiến
Hóa đã trở thành một sự kiện (fact). Những tiếng chống đối thuyết Tiến Hóa
cất lên từ những ốc đảo si ngây, ngu muội, điển hình là của một số Tin Lành tân
tòng, đã trở thành lạc lõng trong thế giới loài người.
d. Thiên Đường ??
Người Tin Lành được dạy là cứ hoàn toàn đầu phục Chúa, tin Chúa thì sẽ được cứu
rỗi trong khi họ chẳng hiểu cứu rỗi là cái quái gì, tại sao con người lại cần
phải được cứu rỗi.. Họ bị mê hoặc bởi một cái bánh vẽ trên trời: cuộc sống đời
đời với Chúa của họ ở trên thiên đường, một cái nhà ở trên trời. Họ được dạy là
Chúa của họ sau khi bị đóng đinh chết trên cây thập giá đã sống lại và bay lên
trời, ngồi bên tay phải của cha ông ta ở trong một ngôi nhà trên trời (thiên
đường). Nhưng chẳng có ai biết ngôi nhà đó ở đâu. Kính thiên văn hiện đại tân
kỳ nhất ngày nay cũng không thể kiếm đâu ra cái nhà hoang đó (hoang đường). Và
cũng chẳng có ai từ cái nhà đó trở về để nói cho con người biết là cái nhà đó nó
như thế nào và mặt mũi của hai cha con Giê-su ra sao.
Do đó, tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học,
và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo
Hoàng John Paul II đã bắt buộc phải tuyên bố: "thiên đường không phải là một
nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây”
(Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds). Vậy rõ
ràng thiên đường chỉ có trong những đầu óc thiếu oxy như đầu óc của mục sư Trần
Long mà thôi.
e.
Hỏa Ngục ??.
Những tín đồ Tin Lành, vốn thuộc loại đầu óc yếu kém, nên rất dễ rơi vào tròng
của Tin Lành. Tin Lành một mặt dụ họ một cái bánh vẽ trên thiên đường, một mặt
đe dọa họ là nếu không tin Chúa của họ thì sẽ bị đầy đọa xuống hỏa ngục để cho
ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt. Chúng ta đã biết, Ki Tô Giáo xây dựng trên sự sợ
hãi của những đầu óc yếu kém. Ngày nay mà họ vẫn đưa ra những hình ảnh khủng
khiếp dưới hỏa ngục để reo rắc sự sợ hãi trong những bộ óc non nớt trong những
lớp học ở nhà thờ. Những người lớn theo Tin Lành là vì có đầu óc của họ không
khác gì của trẻ con. Họ rất dễ tin những điều người khác khuyến dụ vì không đủ
khả năng để nhận ra sự thật. Hỏa ngục chẳng qua chỉ là một thủ đoạn hù dọa
những người đầu óc yếu kém và chưa trưởng thành như trên. Nhưng trước sự tiến
bộ trí thức của nhân loại ngày nay, Giáo hoàng John Paul II của Ca-tô Rô-ma Giáo
không có cách nào khác là tỏ ra Ca-tô Giáo cũng cập nhật hóa sự tiến bộ trí thức
của nhân loại. Ngài phán: “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ
bên ngoài bởi Gót, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà
con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally
by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people
adopt in this life). Ngài lấy tư tưởng này từ thuyết Nghiệp Báo của Phật Giáo
nhưng làm như đó là sự sáng tạo trí thức của Ngài. Nhưng như vậy là Giáo
Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của các giáo hội Ki-Tô:
“người nào tin Chúa thì sẽ được Chúa cho lên thiên đường sống cuộc sống đời đời
bên ngài, kẻ nào không tin sẽ bị Chúa phán xét đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục ở
trong lòng đất”, điều mê hoặc tín đồ mà Giáo hoàng viết trong cuốn “Bước
Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” để trả lời câu hỏi: “Tại sao nhân loại cần được
cứu rỗi ?”. Cho nên người Tin Lành nên biết đến câu bác bỏ sự hiện
hữu của hỏa ngục của Giáo hoàng và bỏ đi sự sợ hãi về một hỏa ngục hoang đường
do Tin Lành dựng ra để thuần hóa họ.
Chúng ta cần
nhận ra ý nghĩa của vài sự kiện ở trên. Chấp nhận thuyết Big Bang là nguồn gốc
vũ trụ, chấp nhận thuyết tiến hóa là nguồn gốc loài người, chấp nhận con người
không phải là do Gót tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến
hóa dần dần và lâu dài, chấp nhận không làm gì có thiên đường trên các tầng mây,
chấp nhận không là gì có hỏa ngục dưới lòng đất, Giáo hoàng đã phá tan huyền
thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Gót tạo dựng từ đất sét, và kéo
theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó,
vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa
dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục
đích khai thác lòng mê tín của một số người đầu óc yếu kém, huyễn hoặc và khuyến
dụ họ tin vào những điều không thực.
Tuy nhiên, chúng ta không thể hi
vọng là mọi tín đồ Ki-Tô nói chung, Ca-Tô nói riêng, đều biết đến một sự thực
không thể chối cãi, đó là, toàn bộ nền thần học Ki-Tô Giáo với những quan niệm
về Thiên Chúa, thuyết Sáng Tạo, huyền thoại Adam và Eve, thiên đường và hỏa
ngục, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su v..v.., cũng như nhãn hiệu
“hội thánh” mà các giáo hội Ki-Tô tự nhận, hay những vai trò thần thánh tự tạo
cho giáo hoàng, linh mục v..v.. nay đã không còn chỗ đứng trước sự tiến bộ trí
thức của nhân loại. Đầu óc của họ đã bị tê liệt và những cảm xúc của họ đã bị
đóng khuôn trong đức tin, một đức tin không cần biết không cần hiểu, cho nên họ
không thể tiêu hóa được một sự thật như trên.
4.
Người Việt Nam Và
“Ơn Cứu Rỗi”
Từ những tài liệu trong phần trên, hiển nhiên những người theo Tin Lành là vì bị
lừa dối để ham hố một sự cứu rỗi của Chúa để có một cuộc sống đời đời trên một
thiên đường giả tưởng của Ki Tô Giáo. Họ bị lừa dối và mê hoặc mà không biết,
vả chăng, nếu họ không phải là người Do Thái thì không làm gì có chuyện Chúa
Giê-su cứu rỗi họ, giả thử Giê-su có được quyền năng thần thánh mà Ki Tô
Giáo ban cho để thực hiện cái gọi là “cứu rỗi”, một cái bánh vẽ mà ngay cả những
bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo đã bác bỏ.. Thật vậy:
Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong đã cho rằng vai trò Chúa Cứu
Thế của Chúa Giê-su cần phải dẹp bỏ, xin đọc bài “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế:
Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ” http://sachhiem.net/TCNtg/TCN37.php
. Giám mục Spong viết một bài dài trong đó có một câu sau đây:
“Không có bất cứ một hình ảnh nào dùng để giải thích
về nhân vật Giê-su đáng được tồn tại. Hình ảnh hiển nhiên nhất để loại bỏ trong
đầu óc tôi có lẽ cũng là cái hình ảnh cổ xưa nhất về mọi diễn giải về Giê-su. Đó
là cái hình ảnh của Giê-su như là “đấng thần linh cứu thế”
(the divine rescuer).”.
Và Linh mục James Kavanaugh cho rằng “ơn cứu rỗi” chỉ là một huyền
thoại , xin đọc bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi”:
http://sachhiem.net/TCNtg/TCN36.php . Linh
mục Kavanaugh viết:
“Nhưng đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh
của Giê-su chẳng có ý nghĩa gì mấy, trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị
tẩy não từ khi mới sinh ra đời (But to modern man, it makes far less
sense unless he has been suitably frightened and brainwashed from birth). Đối
với tôi (Linh mục James Kavanaugh), đó là một huyền thoại “cứu rỗi” của
thời bán khai, miêu tả một người cha giận dữ, chỉ nguôi được cơn giận bằng cái
chết đầy máu me của chính con mình. Đó là một chuyện độc ác không thể tưởng
tượng được của thời bán khai (It is a primitive tale of unbelievable
cruelty).
Tôi chấp nhận sự kiện là Giê-su đã chết, và ngay cả
đã bị đóng đinh trên thập giá. Nhưng tôi không thể chấp nhận cái huyền thoại là
cái chết của ông ta là để chuộc tội cho tôi. Huyền thoại “cứu rỗi”
(The salvation Myth) trong Tân ước chỉ là một cách
diễn giải. Đó là một huyền thoại của thời bán khai, bản chất của nó giống như
những huyền thoại của các dân tộc bán khai ở khắp nơi, nhưng nó hoang đường và
độc ác hơn hầu hết các huyền thoại khác. (But it is more unbelievable
and more cruel than most myths).”
Như
vậy, “ơn cứu rỗi của Chúa Giê-su” chẳng qua chỉ là một cái bánh vẽ trên trời
(A pie-in-the-sky = từ của Mục sư Ernie Bringas) mà Ki Tô Giáo vẫn còn dùng làm
mồi để nhử những đầu óc ngu muội. Nhưng vấn đề chính đối với các tín đồ Ki Tô
Giáo Việt Nam, Ca-tô cũng như Tin Lành, là ngay cả cái bánh vẽ trên trời, alias
“cứu rỗi”, nếu có, thì họ cũng không bao giờ có thể ăn được. Lý do rất đơn
giản. Tân ước viết rất rõ: Giê-su không
bao giờ có ý định cứu những người không phải là Do Thái. Chứng minh?
Trước hết, đọc Tân Ước chúng ta thấy rõ là cả 4 Phúc Âm: Matthew 16:
27-28, 24:34; Mark 9:1, 13:30; Luke 21:27, 32; và John 14:3, đều viết rõ là
Giê-su tin rằng Ngày Tận Thế đã sắp tới, và ông ta sẽ trở lại ngay khi một số
tông đồ của ông còn sống. Do đó ông ta không có ý định thành lập bất cứ một
giáo hội nào như các giáo hội Ki-tô ngày nay. Vì tin như vậy cho nên khi
Giê-su bảo 12 tông đồ đi rao giảng đạo của ông ta thì ông ta dặn: Matthew 10:
5-6, “Không được đi đến nơi nào có dân Gentiles, và không được vào
thành phố nào của dân Samaritan, mà chỉ đi đến những con dân Do Thái bị lạc”
(nghĩa là chỉ đi rao truyền đạo Chúa trong dân Do Thái mà thôi) và câu tiếp theo
trong Tân Ước, Matthew 10:7 : “Trong khi đi hãy rao truyền tin Nước
Trời đã gần đến rồi”, và Matthew 10: 23: “Ta bảo đảm với các
ngươi, các ngươi chưa đi hết các thành phố của Do Thái thì Con của Người
(nghĩa là Ta: Giê-su) đã đến rồi”. Tân Ước còn viết rõ: Giê-Su sẽ chỉ cứu dân Do Thái ra
khỏi tội lỗi (Matthew
1: 21: for He will save His people from their sins) và sẽ ngự trị trên
dân Do Thái đời đời mà thôi (Luke 1: 33: And He will
reign over the house of Jacob for ever).
Một đoạn khác còn nói rõ hơn nữa:
Matthew 15:24:
“Ta được phái xuống trần chỉ để cứu đàn chiên Do Thái bị lạc mà thôi”
Ngoài ra, đọc Tân Ước, chúng ta cũng còn thấy là Giê-su rất ghét những người
không phải là Do Thái (Matthew 15: 21-28) và còn gọi một người phụ nữ
phi-Do Thái là “chó”. Và Thánh Paul khẳng định, theo lời mạc khải của Thiên
Chúa: Hebrew 13: 8: “Giê-su Ki Tô luôn luôn như vậy, ngày hôm qua,
ngày hôm nay và cho tới mãi mãi.” (Jesus Christ is the same yesterday,
today, and forever). Điều này có nghĩa là nhiệm vụ xuống trần, chủ trương chỉ
cứu chuộc người Do Thái mà thôi v.. v.., và thái độ bộc lộ ghét người phi-Do
Thái của Giê-su, không bao giờ thay đổi.
Hơn nữa, sách khải huyền, Khải Huyền 7, còn khẳng định là đến ngày tận
thế chỉ có 144000 thuộc 12 bộ lạc Do Thái là được Chúa cho lên thiên đường mà
thôi, và đó là những người có dấu ấn của Thiên Chúa đóng trên trán. Kinh Thánh
viết rõ “Nhiều người được kêu gọi nhưng chỉ có ít người được chọn”
và Chúa cũng đã phán, Matthew 7: 21-23:
“Không phải người nào gọi Ta là
Chúa cũng được vào nước trời... Trong ngày phán xét sẽ có nhiều người kêu nài:
“Thưa Chúa, chúng tôi đã giới thiệu Chúa cho nhiều người, đã dùng danh Chúa để
đuổi quỷ và làm nhiều phép lạ [như một linh mục mít ở Úc làm cho
tượng bà Mary chảy dầu]. Nhưng ta sẽ đáp: “Ta không hề biết các ngươi! Hãy
cút đi cho khuất mắt ta, vì các ngươi chỉ làm việc gian ác” [Có
vẻ như các nhà truyền giáo hăng say đi truyền đạo cũng như các tín đồ Ki-tô cố
gắng dụ người khác vào đạo chưa bao giờ đọc đến câu này]
Vậy thì những sắc dân phi – Do Thái, trong đó có Việt Nam, mong cái gì ở
Giê-su? Tôi không hiểu các trí thức Việt Nam, không phải là người Do Thái, theo
Ca-Tô Rô-ma Giáo cũng như Tin Lành, có biết đến những điều này hay không. Quý vị
có bao giờ được nghe những đoạn này giảng trong nhà thờ hay không? Cho nên tôi
thật thương hại những người không phải là dân Do Thái mà cứ sống trong ảo vọng,
mơ tưởng rằng sẽ được Giê-Su cứu rỗi và cho mình một cuộc sống đời đời trên
Thiên Đường trước nhan thánh Chúa, một luận điệu bịp bợm của Giáo hội với câu
ngụy tạo trong Tân Ước, John 3: 16, mà tôi đã phân tích và vạch ra những
điều mê hoặc trong đó.
Người Việt Nam hiển nhiên không phải là người Do Thái, câu này nghe có vẻ ngớ
ngẩn nhưng thực ra lại rất quan trọng, vì vấn đề chính tôi muốn đặt ra cho đồng
bào Việt Nam của tôi là: Người Việt Nam có hi vọng được Giê-su cứu chuộc hay
cứu rỗi không? Câu trả lời là một chữ “KHÔNG” quyết định. Đây không phải là
tôi nói mà là khẳng định của Giê-su trong Tân Ước, qua vài dẫn chứng ở trên.
Đọc Thánh Kinh, Cựu Ước cũng như Tân ước, chúng ta thấy tất cả những chuyện
trong đó đều viết về dân tộc Do Thái, các tên Do Thái, và một vài vùng đất trong
miền Trung Đông. Do nền thần học Ki Tô Giáo ngụy tạo, nên các tín đồ Ki Tô Giáo
tin rằng Giê-su là Chúa Cứu Thế có thể ban phát ơn “cứu rỗi” cho những người nào
tin ông ta. Nhưng vì không đọc Tân ước, chỉ nghe những lời giảng lừa dối của
các Linh mục, mục sư nên những người phi – Do Thái trong đó có người Việt Nam
vẫn tin là mình có thể được cứu rỗi, trong khi
thực chất “cứu rỗi” chỉ là một cái bánh Ki Tô Giáo vẽ trên trời.
Vì thiếu hiểu biết, vì chỉ nghe và tin theo những lời rao giảng dối trá của giới
linh mục, mục sư, quý vị rơi vào vòng mê tín mà không biết. Đúng như định nghĩa
về mê tín như sau:
www.godonthe.net/dictionary/s.html: Nền tảng của mê tín là thiếu hiểu
biết, kiến trúc thượng tầng là đức tin và cái mái vòm của nó là một niềm hi
vọng hão huyền. Mê tín là con đẻ của sự thiếu hiểu biết.[ The
foundation of superstition is ignorance, the superstructure is faith and the
dome is a vain hope. Superstition is the child of ignorance.] Đức Phật cũng đã
dạy: Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là thiếu hiểu biết.
Qua phần trình bày ở trên chúng ta có thể tóm tắt những nét chính về Ki Tô Giáo
nói chung, Tin Lành nói riêng:
1)
Cuốn Bible của Ki Tô Giáo là loại sách
tục tĩu, khiêu dâm, tàn bạo, loạn luân, và cuốn Bible phải bọc kỹ và bên ngoài
phải khuyến cáo độc giả về nội dung, và không được bán cho trẻ em dưới 18 tuổi.
[Ủy Ban Đạo Đức Hồng Kông]
2)
Vatican đã công
nhận Big Bang là nguồn gốc vũ trụ. [GH John Paul II]
3)
Vatican đã công
nhận Tiến Hóa là nguồn gốc loài người. [GH John Paul II]
4)
Vatican đã thú
nhận là không làm gì có thiên đường trên các tầng mây [GH John Paul II]
5)
Vatican đã thú
nhận là không làm gì có hỏa ngục dưới lòng đất [GH John Paul II]
6)
Vai trò “Chúa
Cứu Thế” cũng như cái gọi là “cứu rỗi” chỉ là những huyền thoại cần phải dẹp bỏ.
[Linh mục James Kavanaugh; Giám mục John Shelby Spong]
7)
Dù tin vào
huyền thoại “cứu rỗi” thì người Việt Nam và những người không phải là Do Thái
cũng không bao giờ được Chúa cứu rỗi.
[Tân Ước.]
8)
Ca-tô Rô-ma Giáo
còn tồn tại vì quần chúng thì ngu muội và các linh mục thì xảo quyệt. Tin Lành
còn tồn tại vì quần chúng thì mê tín và các mục sư thì ngu muội. [Robert G.
Ingersoll]
9)
Kết luận: toàn
bộ nền thần học Ki-Tô Giáo với những quan niệm về Thiên Chúa, thuyết Sáng Tạo,
huyền thoại Adam và Eve, thiên đường và hỏa ngục, vai trò “chuộc tội” và “cứu
rỗi” của Giê-su v..v.. đều là những luận điệu mê hoặc của những tổ chức buôn
thần bán thánh của Ki Tô Giáo ở Tây phương.
4. Vài Nét Về Hiện
Trạng Suy Thoái Của Ki Tô Giáo
Đối diện với những sự thật trên, Ki Tô Giáo nói chung đang suy thoái trầm trọng
ờ phương trời Âu Mỹ. Xin đọc:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN99.php , chi tiết về thực trạng suy
thoái của Ki Tô Giáo. Ở đây tôi chỉ nhắc lại vài thông tin chính về hiện trạng
suy thoái của Ki Tô Giáo ở Âu Mỹ.
- Julian Pettifer & Richard
Bradley trong cuốn “Missionaries”: Âu châu, trong nhiều thế kỷ là cái nôi của
chương trình truyền giáo Ki tô đi khắp nơi, nay chính nó lại trở thành nơi cần
phải được truyền giáo. Một só người nói rằng đây là một lục địa “hậu-Ki-tô”.
(Europe, for centuries the craddle of Christian Mission, had itself become a
mission field… Some say it is a “post-Christian” continent.)
- John Cornwell trong cuốn
Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Ca Tô Giáo
(Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism): Trong
một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu châu tuyên bố rằng các
dân tộc trong toàn lục địa Âu châu đã quyết định sống “như là thiên chúa không
hề hiện hữu. (At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared
that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did
not exist.)
- Giáo hoàng Benedict XVI:
“Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo] có vẻ đang chết dần vì
các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến Thiên Chúa nữa.
Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và rầu rĩ hơn GH tiền nhiệm là John Paul
II, người đã than phiền về sự suy thoái của đức tin trong các quốc gia phát
triển và nói rằng điều này giải thích sự vật lộn của Giáo Hội Ca Tô đối với vấn
đề số người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong những năm gần đây.”
(ROME (Reuters, July 27, 2005) - Mainstream churches in the West appear to be
dying as societies that are increasingly secular see less need for God, Pope
Benedict said in comments published on Wednesday.
His outlook was even glummer than that of his predecessor John Paul, who
lamented the decline of faith in the developed world and said it explained the
Catholic Church's struggle with falling attendance in the West in recent years.)
-
Giáo hoàng Benedict XVI: “Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế
giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới mà con người càng ngày
càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa.
Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết dần.”
Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát triển, Giáo
dân đi dự lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên không
phải chỉ có đạo Ca-Tô Rô-ma bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng
nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không thấy có giải pháp nào mau chóng
và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả.
(It is different in the Western world, a world which is tired of its own
culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence for a
need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the Italian
Alps.
"The so-called traditional churches look like they are dying," he said,
according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.
Participation at Sunday Mass in some developed countries was as low as 5
percent, a recent Vatican report said.
"The Catholic Church is not doing as badly as the big Protestant Churches but
naturally it shares the problem of this moment in historỵ" "There’s no system
for a rapid change.”)
-
Giáo hoàng Benedict XVI: ““Bất hạnh thay, chúng ta phải ghi nhận là Âu Châu
có vẻ như đang tuột xuống một con đường có thể đưa Âu Châu đến sự giã từ lịch
sử”. [Ki Tô Giáo vẫn cho rằng lịch sử Âu Châu là lịch sử Ki Tô Giáo]
Âu Châu có vẻ như sẽ mất đức tin trong tương lai, và gọi những
người Âu Châu chỉ muốn có ít con là theo “chủ nghĩa cá nhân nguy hiểm”
[trong khi cả thế giới đang lo nạn nhân mãn và cổ súy hạn chế sinh đẻ] Giáo
hoàng nói:
(Time, April 9, 2007: “One must unfortunately note that Europe seems to
be going down a road which could lead it to take its leave from history” Pope
Benedict XVI, warning that Europe appears to be losing faith in its future,
calling some Europeans’ desire to have fewer children “dangerous
individualism”.)
-
christianpost.com: By Michelle Wu: Như nhiều người biết, Ki Tô
Giáo đang suy thoái ở Âu Châu đến độ mà người ta mô tả Âu Châu như là một nơi
“ít biết đến Phúc Âm nhất” trên thế giới, khi chúng ta nhìn vào toàn thể dân Âu
Châu. Dưới 4% toàn thể dân Âu Châu biết đến Phúc Âm, và trên hầu hết các quốc
gia ở Âu Châu tỷ lệ này xuống dưới 1%.
[(As many know, Christianity is declining in Europe to the extent that it has
been described as the “least evangelized spot on earth” when looking at all of
Europe’s population.
Less
than four percent of the total population in Europe is evangelical and in most
European countries the percentage falls to less than one percent.]
-
Chicago Tribune
ngày 19 tháng 6, 2006,
Tom Hundley trong bài “Đức Tin Phai Nhạt: Sự Suy Thoái Của Ki Tô Giáo ở Âu
Châu” (Fading Faith: The Decline of Christianity in Europe) trong đó có
những đoạn như sau:
Ở Pháp và ở hầu hết các quốc gia khác ở Âu Châu, Ki Tô Giáo có vẻ như đang
“rơi xuống tự do” không phương cứu vãn
[Christianity appears to be in a free fall: Tác giả dùng từ trong khoa học:
“free fall”, có nghĩa là rơi xuống tự do, càng ngày càng nhanh mà không có gì
ngăn cản lại]. Tuy 88% dân Pháp nhận mình là tín đồ Công Giáo, chỉ có 5% đi
lễ nhà thờ ngày chủ nhật, 60% nói rằng họ “không bao giờ” (never) hoặc
“hầu như không bao giờ” (practically never) đi lễ nhà thờ [Đối với
người Ca-Tô Việt Nam, họ bị dọa là không đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật là một
trọng tội, phải đày hỏa ngục, các “bề trên” dạy vậy, nên giáo dân Bùi Chu, Phát
Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm vẫn nườm nượp kéo nhau đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, và cả
ngày thường, chứng tỏ trình độ tôn giáo của giáo dân Việt Nam vượt trội hẳn
trình độ giáo dân Âu Châu và Mỹ Châu về mê tín, niềm hãnh diện của giáo hội
Ca-Tô Việt Nam trong sự tiếp tục tuân theo những giáo lý thuộc loại nhốt đầu óc
tín đồ vào những ngục tù tâm linh, những giáo lý mà Âu Châu và Mỹ Châu đang dần
dần phế thải]. Không còn phải bàn cãi gì nữa, Ca-Tô Giáo đang đối diện với
một cơn khủng khoảng nghiêm trọng… Một lễ ngày chủ nhật điển hình trên khắp nước
Pháp là hình ảnh của một linh mục già nua trước một đám phụ nữ cũng già nua.
Odon Vallet, giáo sư tôn giáo ở đại học Sorbonne nói: “Lễ Mi-sa thật là chán
(Mass is boring), lễ tiết chẳng có gì hay (the ceremony isn’t beautiful),
nhạc cũng tệ (music is bad), bài giảng không có gì hấp dẫn (the
sermon is uninteresting).
-
New York Times ngày 8 tháng 4, trong bài “Hãy
giữ đức tin” (Keeping The Faith) trên tờ, 2007, chúng ta có thể đọc
được vài đoạn như sau:
Phong cảnh giáo hội ở Âu Châu – không chỉ là Giáo hội Ca Tô mà hầu như mọi
hình thức tổ chức của Ki Tô Giáo – đang thay đổi nhanh như chớp.
Có những ông giám mục Âu Châu cảm thấy rằng họ không còn có thể nói về một Âu
Châu Ki Tô Giáo mà không cảm thấy mình đang mạ lỵ sự thông minh của quần chúng.
("The landscape of the church in Europe — and not just the Catholic Church but
nearly all forms of organized Christianity – is changing at a lightning pace.
There are European bishops who feel you can’t talk about a Christian Europe
anymore without insulting people’s intelligence.”)
-
www.time.com/Europe; June 8, 2003: Bài “O
Father Where Art Thou?”
[Cha (Thiên Chúa) Ơi ! Bây Giờ Ông Ở Đâu?]
Thượng đế chưa chết, nhưng ngày nay ở Âu Châu, ông ta không còn ở những chỗ
[mà người ta đặt ông ta
lên] như xưa. Vậy thì vẫn cần phải hỏi: Thượng đế - và đức tin Ki-Tô – đã đi
đâu rồi?
Hiển nhiên là những cơ sở Ki Tô đã ở trong tình trạng suy thoái từ lâu,
nhưng điểm đồng thuận ngày nay là sự suy thoái đã càng ngày càng nhanh. Một
viên chức cao cấp của Vatican thú nhận: “Đời sống trong các giáo xứ coi như là
đã chết”. Có những thời, giáo hội Ca-Tô lại là chính kẻ thù tệ hại nhất của
mình - ủng hộ chế độ bạo tàn Franco ở Tây Ban Nha
(cho tới nay vẫn chưa xin lỗi về
việc này) và bao che những xì-căng-đan về loạn dâm ở Ái Nhĩ Lan trong những
năm gần đây. Nhưng ngay cả trước khi những phanh phui này xẩy ra, giáo hội là
một thế lực đàn áp, tự cho quyền phán xét và nhấn quá mạnh vào một Thiên Chúa đế
mà bắt con người phải sợ hãi, giám mục Willie Walsh ở Killaloe nói như vậy.
(God’s still not dead, but these days in Europe, He's not always in the same old
places. So it's worth asking: Where has God — and Christian faith — gone?
The institutions of Christianity, of course, have long been in decline, but the
consensus is that the pace has been quickening. "Parish life is essentially
dead," admits a senior Vatican official. At times, the church has been its own
worst enemy — backing Franco's brutal regime in Spain (something it still hasn't
apologized for) and stonewalling the Irish pedophilia scandals of recent years.
But even before these revelations, the church "was an oppressive force," says
Willie Walsh, the Bishop of Killaloe. "It was judgmental and placed too much
emphasis on a God who was very much to be feared." )
-
Jeff Chu, Ibid.,: Ki Tô Giáo đang trở thành tín ngưỡng của thiểu số ở Âu
Châu, vì số người đi nhà thờ sút giảm, số giáo sĩ già nua, và những xì-căng đan
và giáo lý khắc nghiệt đã làm cho con người xa lánh.
(Christianity is becoming a minority faith in Europe, as church attendance
falls, the clergy ages, and scandals and harsh doctrine drive people away.)
-
Jobst Schone, giám mục Tin Lành, Đức, Ibid.,: Những giáo hội Ki-Tô luôn luôn
trải qua những thời kỳ với ảnh hưởng lúc nhiều lúc ít . Nay chúng ta đang đi
xuống. Ki Tô Giáo sẽ trở thành thiểu số. Không người nào nên nhắm mắt trước sự
kiện này.
(Churches have always gone through periods when their influence is greater and
periods when it was less. Now we are down. Christianity will be a minority.
Nobody should close his eyes to that fact.)
- www.albertmohler.com: Thursday, August 18,
2005, “Ki Tô Giáo Lùi Bước Ở Âu Châu – Tiếp Đến Là Mỹ?” [Christianity
Recedes in Europe--Is America Next?], christianpost.com:
Trong ít nhất là nửa thế kỷ, những nhà nghiên cứu đã từng quan sát sự chuyển
hướng to lớn trong những nền văn hóa Tây phương.
Ái Nhĩ Lan, vẫn còn là một trong những nước ít thế tục nhất ở Tây Âu, đã thấy
rằng số người đi lễ nhà thờ giảm ít nhất là 25% trong 30 năm qua. Lẽ dĩ nhiên,
Ái Nhĩ Lan là nước toàn tòng Ca-Tô Giáo, nhưng bài báo ghi: “Không có một người
nào sẽ được phong chức linh mục ở Dublin năm nay”
Về phía Tin Lành, hình ảnh cũng chẳng khá hơn. Thụy Sĩ, Đức, và Hà Lan,
một thời đã là những cái nôi của phong trào Cải Cách Tin Lành, nay trở thành
những thí dụ chính của Âu Châu thế tục.
Theo Trung Tâm Nghiên Cứu về Ki Tô Giáo toàn cầu, Chủng viện thần học
Gordon-Conwell ở Boston, sự suy thoái của ảnh hưởng Ki Tô Giáo thì rõ rệt nhất ở
Pháp, Thụy Điển và Hà Lan, ở những nơi đây số người đi lễ nhà thờ là dưới 10% ở
một số nơi.
Bài báo trên USA Today về sự suy thoái của Ki Tô Giáo ở Âu Châu nêu lên câu
hỏi về tương lai [Ki Tô
Giáo] ở Mỹ. Trong nhiều phương diện khác nhau, có vẻ như Mỹ sẽ theo gót
gương của Âu Châu nhưng chậm hơn nhiều năm. Tuy nhiên nhịp độ thay đổi luân lý
ở Mỹ có thể cho thấy rằng Mỹ sẽ nhanh chóng theo kịp mẫu thế tục của Âu Châu.
(For at least half a century, researchers have been observing massive shifts in
Western cultures.
Ireland, still one of the least secular nations in Western Europe, has seen
church attendance fall by at least 25 percent over the last three decades.
Ireland is predominantly Roman Catholic, of course, but the paper reports, "Not
one priest will be ordained this year in Dublin."
On the Protestant side, the picture is not much better. Switzerland, Germany,
and the Netherlands, once the cradles of the Reformation, are now prime examples
of Europe's secular shape.
According to the Center for the Study on Global Christianity, at the
Gordon-Conwell Theological Seminary in
suburban Boston, the decline in Christian influence "is most evident in France,
Sweden and the Netherlands, where church attendance is less than ten percent in
some areas."
USA Today's cover
story on the decline of Christianity in Western Europe raises the question of
America's future. In many ways, America seems to be following the European
example, though several years behind. Yet the pace of moral transformation in
the United States may indicate that America is fast catching up with the
European model of secularization.)
-
Vài thống kê sau đây về số tín đồ Tin Lành Mỹ cho chúng ta thấy rõ vấn đề suy
thoái của Tin Lành. Theo Richard Vara của tờ Houston Chronicle thì:
Số
tín đồ trong Giáo hội Trưởng Lão từ năm 1960 đã giảm từ 4.1 triệu còn 2.5
triệu; Trong cùng thời gian này số tín đồ trong giáo hội Anh giáo tại Mỹ
[Tân giáo] cũng giảm từ 3.4 triệu còn 2.5 triệu, và giáo hội Giám Lý giảm từ
11 triệu tín đồ còn 8.3 triệu. Vì dân số gia tăng nhanh trong 40 năm qua, tỷ lệ
sút giảm này thực sự lớn hơn là những con số thống kê.
Protestants in Decline
by
Andrew Walsh:
(Richard Vara of the Houston Chronicle provided a useful check list: “The
Presbyterian Church (U.S.A.) has dropped from 4.1 million members in 1960 to 2.5
million. Over the same period, membership in the Episcopal Church decreased from
3.4 million to 2.5 million and United Methodists have seen their numbers drop
from 11 million to 8.3 million.” Because of the rapid growth in the nation’s
population over the last 40 years, the proportional shrinkage of their groups is
even greater than the raw numbers suggest.)
- Theo Trung Tâm Nghiên Cứu Về Quan Niệm Quốc Gia thì số người Tin Lành ở Mỹ
tụt xuống từ 63% còn 52% trong khoảng từ 1993 đến 2002 – một sự suy thoái lớn
lao trong chưa tới một thập niên. Theo thông cáo báo chí của Đại học Chicago,
tỷ lệ những người nhận là Tin Lành “đã suy giảm và rất có thể xuống dưới 50% vào
giữa thập niên này và có thể đã như vậy rồi.”
[According to the NORC [National Opinion Research Center] study, Americans
identifying themselves as "Protestant" fell from 63 percent to 52 percent
between 1993 and 2002--a massive decline in less than one decade. According to
the University of Chicago press release, the percentage of Americans identifying
themselves as Protestant "has been falling and will likely fall below 50 percent
by mid-decade and may be there already."]
5. Vài Suy
Tư Kết Luận:
Sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới là một hiện tượng rõ rệt. Ở Mỹ, tỷ
lệ Tin Lành như vậy kể là còn rất nhiều vì ở Âu Châu các nước theo Tin Lành đã
trở thành thế tục (secular) và ảnh hưởng tôn giáo không còn lại bao nhiêu. Ở Âu
Châu, cảnh nhà thờ được rao bán và trở thành những kho chứa hàng, hộp đêm, chung
cư, khách sạn v..v.. không phải là hiếm. Ngay cả “Foyer Phát Diệm” của Việt Nam
ở Rome, nguyên là nơi để các tu sĩ Việt Nam ở khi sang Rome báo cáo hay nhận
lệnh công tác, thụ huấn nhồi sọ, nay cũng là một khách sạn cho mọi người. Ở Mỹ
cũng vậy, cảnh nhà thờ bán đi rồi biến cải thành Chùa, thành Niệm Phật Đường
v..v.. cũng không phải là không có. Nhiều trường học Ca-Tô phải đóng cửa vì
không đủ học sinh nên không kiếm được lời. Có giáo xứ khai gian phá sản
(bankrupcy) để trốn trả tiền phạt các vụ linh mục loạn dâm.
Sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới đã chứng tỏ rằng những giá trị tinh
thần mà Ki Tô Giáo thường rao giảng nay đã không còn phù hợp với sự hiểu biết về
tôn giáo của nhân loại.
Nhưng ở một vài địa phương ở Phi Châu, Nam Mỹ, và Á Châu, trong những vùng chậm
tiến và nghèo khổ, nếu chỉ kể trên con số, Ki Tô Giáo lại có vẻ phát triển, tuy
rằng những con số đó, so với mức gia tăng của dân số thì thực sự không phải là
một dấu hiệu phát triển. Điều rõ ràng là giá trị tâm linh của Ki Tô Giáo đã
không còn là chủ lực tinh thần của thế giới Âu Mỹ. Do đó, những nhà truyền đạo
Ki Tô Giáo đang nỗ lực xâm lấn ở một số địa phương ở Á Châu hay Nam Mỹ thực chất
chỉ là mang những đồ mà Âu Mỹ đang dần dần phế thải đến đầu độc những người dân
thấp kém ở trong những địa phương này. Điều đáng nói là có một số tín đồ Ca-Tô
cũng như Tin Lành Việt Nam lại khoe khoang là số tín đồ của tôn giáo mình gia
tăng, cũng như một số tân tòng Ca-Tô hay Tin Lành cũng khoe khoang là mình được
vào trong “hội thánh”. Họ thường tuyên truyền: nay có ông tu sĩ Phật giáo này
bỏ Phật theo Chúa, mai có người kia làm chứng lời Chúa v..v.. nhưng tất cả đều
chỉ là những nhân vật vô tên tuổi, không ai biết đến, và phần lớn là thuộc loại
đầu óc ngu muội, hoặc được bịa ra làm chứng láo. Vấn đề là thực chất những điều
này không phải là những điều đáng khoe khoang mà trái lại, đó là một sự biểu
hiện của ô nhục và ngu muội (A badge of shame and ignorance). Tại sao? Vì thử
hỏi, có gì đáng khoe khoang ở cái chuyện đi nhặt những niềm tin thuộc loại
hoang đường mê tín mà Âu Châu và Mỹ Châu đang dần dần phế thải về làm của báu
cho mình. Âu Châu và Mỹ Châu vốn là cái nôi của Ki Tô Giáo, nhưng ngày nay
Ki Tô Giáo ở những phương trời này lại bị phá sản, như
học giả Eliezer Berkovits đã viết về “Sự phá sản đạo đức
của nền văn minh Ki Tô Giáo và sự phá sản Tâm Linh của Ki Tô Giáo”
(The moral bankrupcy of Christian civilization and the spiritual bankrupcy of
Christian religion) trong cuốn “Đạo Do Thái Trong Thời Kỳ Hậu Ki Tô”
(Judaism in the Post-Christian Era). Trong khi nhiều người đã thoát ra để tự
thanh tẩy ký ức và để dứt bỏ sự dính líu của mình vào một tôn giáo có một lịch
sử tàn bạo nhất thế gian, thì có người lại tự đâm đầu vào cái định chế tôn giáo
mà lịch sử tàn bạo đẫm máu của nó không ai có thể chối cãi. Đó có phải là điều
đáng khoe hay là điều đáng thương hại và tội nghiệp?
Nhưng
vì không biết gì về lịch sử của “hội thánh” của họ, cho nên họ không biết thực
chất cái gọi là “hội thánh” của họ. Họ sẽ không khỏi ngỡ ngàng nếu họ biết nước
Pháp, trưởng nữ của Giáo hội Ca-tô Rô-ma, và Mễ Tây Cơ, một nước hầu như toàn
tòng Ca-tô, đã có những biện pháp nào đối với “hội thánh Ca-tô”. Tin Lành sinh
sau đẻ muộn, nhưng bản chất của Tin Lành cũng chẳng khác gì Ca-tô Rô-ma Giáo, vì
thực tế là hai tôn giáo này “đồng sàng nhưng dị mộng”. Sau đây là hai tài liệu
lịch sử:
Chúng ta còn nhớ: trong cuộc Cách Mạng 1789, “Pháp, trưởng nữ của
giáo hội Ca-Tô đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000
Linh Mục, 30000 Nữ Tu [sơ] và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường
Học Ca Tô, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v..
[Xin đọc The Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng
Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã
phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France,
“eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity,
massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished
all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and
libraries...”]
Giáo
sư Nguyễn Mạnh Quang viết:
http://www.sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_19.php:
Dù rằng có tới
89% dân số Mễ Tây Cơ là tín đồ của Giáo Hội La Mã, nhưng vào năm 1857, nhân dân
quốc gia này cũng vẫn theo gương các nước Anh, Pháp, cương quyết vùng lên làm
Cách Mạng chống Vatican, đạp đổ bạo quyền đạo phiệt Ca-tô, rồi soạn thảo hiến
pháp làm căn bản pháp lý cho tân chính quyền với những điều khoản đối phó với
Nhà Thờ Vatican một cách thẳng tay. Nhưng rồi Cách Mạng bị phản bội giống như
Cách Mạng Pháp 1789. Cuối cùng đến năm 1917, nhân dân Mễ Tây Cơ lại một lần nữa
quyết tâm làm cách mạng, tái sử dụng bản hiến Pháp 1857 và bổ túc thêm một số
điều khoản để đối phó thẳng thừng với Vatican một cách cứng rắn hơn. Sự kiện này
được sách Thực Chất Đạo Công Giáo Và Các Đạo Chúa (cùng tác giả) ghi lại như
sau:
“Từ Hiến Pháp 1857
đến Hiến Pháp 1917 của Mexico: Mexico cũng như các quốc gia khác ở Trung và Nam
Mỹ Châu đều có đại đa số dân theo đạo Công Giáo. Dân số Mexico hiện nay lên tới
trên 100 triệu người. Mặc dầu đa số dân là những tín đồ đạo Công Giáo ngoan đạo
nhưng đã hơn một thế kỷ qua chính quyền Mexico đến nay vẫn tuyệt giao với
Vatican.
Năm 1857, quốc hội
và chính phủ Mexico đã đưa ra một bản hiến pháp mang tính chất cách mạng quyết
liệt chống lại Giáo Hội Công Giáo La Mã:
1.- Giải tán tất cả các tu viện nam cũng như nữ.
2.- Các nam tu sĩ bị cấm mặc áo dòng khi xuất hiện ở
nơi công cộng.
3.- Tịch thu toàn bộ tài sản của Giáo Hội Công Giáo.
Tinh thần bản Hiến
Pháp 1857 của Mexico được nhiều nước Châu Mỹ La Tinh noi theo. Năm 1917, Mexico
sửa lại hiến pháp, nhưng các biện pháp đối với Giáo Hội Công Giáo vẫn không thay
đổi.”
[9]
Nói về Cách Mạng Mễ Tây
Cơ 1917, sử gia thân Giáo Hội là Linh-mục Sahnnon M. Collins ghi nhận như sau:
Linh-mục
Sahnnon M. Collins |
“Các cuộc cách mạng
thời hiện đại đã lật đổ các chế độ quân chủ (ngai vàng) và nghiền nát tôn giáo
(bàn thờ). Năm 1917, những cách mạng Cộng Sản Bôn-sê-vích đã lật đổ chế độ Nga
hòang, hoàng đế Nga và cả gia đình ông đều bị sát hại. Mấy tháng trước thảm kịch
này, một cuộc cách mạng bùng nổ ở Mễ Tây Cơ. Cuộc Cách Mạng Mễ Tây Cơ 1917 thi
hành bản hiến pháp xã hội đầu tiên ở trên thế giới và Giáo Hội Mẹ (Giáo Hội La
Mã) bị thiệt hại nặng nề. Chính quyền chiếm giữ nhà thờ và các cơ sở khác của
giáo hội. Trong một cuộc nổi loạn của ác quỷ, những người cách mạng hủy hoại các
chén thánh, những đồ tế lễ và các tác phẩm nghệ thuật về đạo Da-tô. Tu sĩ và
giáo dân Da-tô ngoan đạo bị hành hạ và bị sát hại. Trong tỉnh Tobasco, mọi sự
đều khó khăn. Viên thống đốc xã hội của tỉnh này đặt tên con là Lenin, Satan và
Lucifer. Ông ta phá hủy tất cả nhà thờ, cưỡng bách các tu sĩ phải lập gia đình
và hành hạ các tín đồ Da-tô ngoan đạo.”[10]
Sách “Việt Nam
Với Cuộc Dấy Loạn Hòa Bình của Giáo Chủ John Paul II” ghi lại những điều
khoản trừng phạt Giáo Hội La Mã với nguyên văn như sau:
“Hiến Pháp Mexico
năm 1917 có điều khoản cấm chính quyền đặt quan hệ ngoại giao với Vatican, tu sĩ
Gia-tô không được phép hoạt động chính trị hay mặc áo tu sĩ nơi công cộng, không
được phép mở trường học hay làm chủ bất động sản.”
[11]
Vấn đề hiện nay khiến chúng ta phải suy nghĩ là, những nỗ lực cải đạo ở Việt Nam
của Ki Tô Giáo, đồng nghĩa với mang những đồ phế thải của Tây phương để đầu độc
người dân Việt Nam, có thể thành công hay không, thành công đến mức nào, và có
thể biến nước Việt Nam thành một nước Ki Tô Giáo không? Tôi không đến nỗi bi
quan như một vài người mà tôi đã đọc trên Internet. Tôi tin tưởng rằng đó chỉ
là một hiện tượng hời hợt ngoài mặt không đáng kể vì những lý do sau đây:
-
Thứ nhất là tà không bao giờ thắng được chánh. Đây là một chân lý ngàn đời.
Trước sau gì tà cũng phải suy vi vì trình độ hiểu biết của con người không dậm
chân tại chỗ. Tôi nói Ki Tô Giáo, đúng như ông cha chúng ta đã nhận định, là
một tà giáo. Bất kể Ki Tô Giáo rao giảng thế nào về đạo của họ thì cái lịch sử
đẫm máu của Ca-tô Rô-ma Giáo và Tin Lành trên thế giới và sự phá sản tâm linh và
đạo đức trong giới linh mục, mục sư, cũng đã nói lên bản chất tà của Ki Tô Giáo
rồi. Bởi vì một tôn giáo chân chính, theo đúng nghĩa của tôn giáo, thì không
bao giờ lại có một lịch sử tàn bạo như vậy, không bao giờ phải giết người để
truyền đạo, không bao giờ phải cưỡng bách con người vào đạo, không bao giờ lợi
dụng những hoàn cảnh khó khăn của con người để mua chuộc họ bằng bả vật chất,
không bao giờ tín đồ của tôn giáo đó lại có tinh thần phi dân tộc và phản quốc.
-
Thứ nhì, trong suốt 80 năm dưới quyền đô hộ của thực dân Pháp, và dưới 9 năm cầm
quyền của Ngô Đình Diệm ở miền Nam, Ca-tô Rô-ma Giáo ở Việt Nam được mọi đặc
quyền đặc lợi kể cả quyền đi cưỡng ép người dân vào đạo mà tỷ lệ tín đồ Ca-tô
trên dân số bao giờ cũng chỉ quanh quẩn ở mức 5-7%. Điều này chứng tỏ Ki Tô
Giáo không tương hợp với tinh thần tôn giáo của Việt Nam. Ca-tô Rô-ma Giáo đã
ăn sâu bám rễ vào Việt Nam mà còn như vậy, huống chi là Tin Lành mà người dân
nay đã rõ đó chỉ là đám người không có đầu óc, mù quáng tin bướng tin càn.
-
Thứ ba, những mánh lới cải đạo thiếu văn minh, phi nhân bản của Ki Tô Giáo không
có tác dụng gì mấy trên đại đa số quần chúng, vì người Việt Nam không phải ai
cũng ngu muội để tin vào những điều mê tín hoang đường của Ki Tô Giáo, những
điều đã không còn giá trị trên thế giới văn minh tiến bộ của loài người. Ngoài
ra những mánh lới cải đạo đó còn chứng tỏ sự thiếu tự tin của những người đi
truyền đạo, cho nên họ muốn nâng cao đạo của họ bằng thủ đoạn hạ cấp, bịa đặt,
xuyên tạc, hạ thấp các tôn giáo khác. Chúng ta đã thấy chuyện này xảy ra ở
nhiều nơi trên thế giới kể cả ở Việt Nam.
-
Và thứ tư, tinh thần Phật Giáo đã thấm vào lòng người Việt Nam. Nó tiềm tàng
trong xương tủy hơn 90% người Việt bất kể là họ theo tôn giáo nào không phải là
Ki Tô Giáo. Xin đừng bao giờ tin vào những con số thống kê về các Phật tử Việt
Nam. Bởi vì có rất nhiều người theo đạo Phật nhưng chưa bao giờ quy y và cũng
ít khi đi lễ Chùa. Hãy nhìn vào những cảnh như lễ Tam Hợp ở Việt Nam, số người
đi lễ hội Chùa Hương, số người đi lễ Chùa Bái Đính, số người đón rước Phật Ngọc
Hòa Bình v…v…. Một người bạn về Việt Nam ăn Tết, mới trở lại Mỹ và cho tôi
biết, trong ba ngày Tết muốn đi Chùa Bái Đính mà đi không nổi vì quá đông, phải
mồng bốn mới đi được mà cũng chật vật vì đông người, và điều đặc biệt nhất là
phần lớn những người đi lễ Chùa là giới trẻ hay trung niên. Và nhất là Phật
Giáo Việt Nam sẽ không để yên cho bọn người vô tổ quốc lộng hành, muốn làm gì
thì làm. Các tài liệu về thực chất Ki Tô Giáo sẽ được phổ biến trong quảng đại
quần chúng mà Ki Tô Giáo không có cách nào có thể ngăn chận nổi. Bản chất của
Ki Tô Giáo là không sợ tội lỗi mà chỉ sợ có sự thật. Và sự thật về Ki Tô Giáo
sẽ được phơi bày công khai.
Đó là vài lý do chính mà tôi tin rằng sách lược cải đạo của Ki Tô Giáo ở Việt
Nam không thể thành công. Vài ngàn người ngu muội đi theo Tin Lành trên tổng số
hơn 80 triệu dân không nói lên điều gì. Nhưng không phải vì không đáng lo mà
người Phật tử chỉ biết ngồi “hít vào, thở ra” để mặc cho bọn người truyền giáo
hạ căn lộng hành. Trong thời đại này, chúng ta không có quyền như vậy. Chúng
ta cần phải mở mang dân trí, vạch ra những thủ đoạn lừa dối của những người
truyền đạo. Chúng ta phải phổ biến rộng rãi trong quần chúng thực chất của Ki
Tô Giáo, về lịch sử dã man đẫm máu cũng như những giáo lý mê hoặc hoang đường
của họ. Đây không phải là chuyện chống báng Ki Tô Giáo mà chỉ là chuyện viết về
lịch sử và thực chất Ki Tô Giáo như nó đúng là như vậy, điều mà các bậc thức giả
Tây phương đã làm từ 200 năm nay.
Cho nên, tôi nghĩ những bài nghiên cứu trung thực về Ca-tô Rô-ma Giáo và Tin
Lành thực sự rất cần thiết để mở mang dân trí, để cho người dân biết rõ về các
tôn giáo trên, và do đó hi vọng họ có đủ khả năng để đối phó với những âm mưu và
phương cách truyền đạo bất chính của Ca-tô Rô-ma Giáo và Tin lành đang ở trong
tình trạng đi xuống khắp nơi trên thế giới đa tôn giáo nhưng lại muốn đầu độc
người dân Việt bằng những chuyện thuộc loại mê tín, hoang đường đã lỗi thời..
Tôi ước mong những bậc cao minh ở trong và ngoài nước có lòng với dân tộc, nhất
là các bạn trẻ, hãy tiếp tay cùng chúng tôi trong nhiệm vụ mở mang dân trí này.
Chúng ta hãy làm với tất cả thiện tâm, tuyệt đối không vì thù hận hay vì bất cứ
lý do nào khác ngoài sự lương thiện trí thức trong công cuộc nghiên cứu mọi khía
cạnh của Ki Tô Giáo để phổ biến rộng rãi cùng người dân trong nước cũng như ở
hải ngoại. Rất nhiều trí thức Âu Mỹ đã làm công việc giải hoặc Ki Tô Giáo này
từ nhiều thập niên qua. Người Việt trí thức chúng ta nay dấn thân vào con đường
này kể ra đã là quá muộn, lý do là vì hoàn cảnh đất nước trong hơn một thế kỷ
qua không cho phép. Nhưng nay là lúc chúng ta phải bắt tay ngay vào nhiệm vụ
bảo vệ nền văn hóa và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trước sự xâm lăng
văn hóa của Ki Tô Giáo, một tôn giáo chỉ còn cái vỏ hào quang của quá khứ và
đang dần dần bị phế thải ở phương trời Âu Mỹ.
Tôi cũng hi vọng Nhà Nước Việt Nam hãy nghĩ tới tương lai xa của đất nước, đặt
trọng tâm trên sự bảo tồn, gìn giữ nền văn hóa truyền thống của Việt Nam, và
sáng suốt cho phép phổ biến những tác phẩm nghiên cứu về tôn giáo, mọi tôn giáo,
đặc biệt là Ki Tô Giáo. Thực ra, không có gì phải lo ngại về vấn đề này vì
trình độ người dân Việt Nam ngày nay đã đủ để có thể chấp nhận mọi sự kiện về
tôn giáo. Nước Mỹ hiện nay có khoảng 50% Tin Lành và 20% Ca-tô; Nước Pháp có
khoảng 80% theo Ca-tô Rô-ma Giáo theo truyền thống gia đình nhưng số người đi lễ
nhà thờ ngày chủ nhật chưa tới 5%, khoan nói đến ngày thường; Nước Anh phần lớn
theo Anh Giáo và cái ổ vô thần với những biện pháp giải hoặc Ki Tô Giáo đều phát
xuất tự đây; Nước Đức có 34% là Tin Lành, 34% là Ca-tô Rô-ma Giáo v..v.., nhưng
trong các nước này, có tràn ngập những tác phẩm nghiên cứu về Ki Tô Giáo nói
riêng, về mọi tôn giáo nói chung, được phổ biến rất rộng rãi, và tuyệt đối không
xảy ra vấn đề xung đột giữa các tôn giáo hay các hệ phái Ki Tô khác nhau. Đây
là một tấm gương mở mang dân trí mà Việt Nam cần phải noi theo trong thời đại
mới ngày nay. Nhà Nước chủ trương “đoàn kết, đại đoàn kết” một cách thiếu suy
nghĩ về tôn giáo, nhưng có “thành công, đại thành công” hay không lại là chuyện
khác.
Trong thời đại ngày nay, những tác phẩm nghiên cứu hàn lâm về Ki Tô Giáo cần
phải được phổ biến rộng rãi, không có lý do gì mà phải ngăn chận, che dấu trước
người dân Việt Nam. Tại sao người dân lại không được quyền biết, sợ chia rẽ
trong đại khối dân tộc hay sao? Chẳng lẽ trình độ người dân lại yếu kém đến thế
hay sao? Vì tương lai dân tộc, người dân cần phải biết như là một phần quan
trọng của bộ kiến thức thời đại, đây chính là cái chìa khóa để tạo sự hòa hợp
trong đại khối dân tộc, cùng lúc ngăn chận bọn cuồng tín tôn giáo tiếp tục lừa
dối người dân bằng những luận điệu mê hoặc hoang đường qua những mánh khóe
truyền đạo hạ cấp bất kể liêm sỉ.
Mặt khác, trình độ hiểu
biết của người dân trong thế giới Âu Mỹ đã đến mức, từ các bậc lãnh đạo tôn giáo
như Tổng Giám mục, Giám mục, Linh mục cho tới các tín đồ Ki Tô Giáo có hiểu
biết, không còn tin được những điều mê tín, ngụy tạo trong Ki Tô Giáo, những
điều chỉ hợp với những đầu óc trong thời Trung Cổ, hoặc đầu óc yếu kém mà đa số
thuộc những tầng lớp thấp nhất của xã hội. Họ cũng đã thấy rõ những sai lầm về
thần học và khoa học của Ki Tô Giáo và sự suy sụp đạo đức trong giới chăn chiên,
Ca Tô cũng như Tin Lành. Hơn 70% số tín đồ của Ca Tô Giáo Rô Ma thuộc các nước
trong thế giới thứ ba, điển hình là ở Nam Mỹ, Phi Châu, Phi Luật Tân và một vài
vùng lẻ tẻ ở Á Châu. Đa số những người còn lại trong Ki Tô Giáo nói chung là vì
truyền thống gia đình và xã hội, và đặc biệt là không biết gì về thực chất của
Ki Tô Giáo ngoài những điều được nhồi sọ từ nhỏ ở trong nhà thờ, và ở trong gia
đình, bởi các bậc cha mẹ vốn cũng đã bị nhồi sọ từ nhỏ như họ.
Cho nên, chúng ta không lấy
gì làm lạ khi thấy Ki Tô Giáo phải bành trướng sang các vùng đất mới, những vùng
kém mở mang và dân trí còn thấp kém. Dân chúng nơi đây là miếng mồi ngon cho các
nhà truyền giáo. Chỉ cần một chút giúp đỡ vật chất là có thể lôi kéo người dân
thấp kép vào trong tròng của Ki Tô Giáo, và vì trình độ thấp kém của những người
dân nơi đây cho nên họ rất dễ bị xúi dục, xách động gây rối, hi vọng vào những
hứa hẹn bịp bợm, lừa dối của bọn người truyền giáo mà trình độ hiểu biết của họ
không thể phân biệt đâu là chân thật, đâu là giả dối. Đây là sách lược toàn cầu
của Ki Tô Giáo. Nỗ lực truyền đạo đang tăng gia ở những vùng nghèo khổ ở Ấn Độ,
Thái Lan, Lào, Cambod, Việt Nam, Trung Quốc và gần đây ở A phú Hãn sau khi Mỹ
tấn công A Phú Hãn. Có dấu hiệu các nhà truyền giáo đã tới Iraq.
Một điều rõ rệt là Ki Tô
Giáo không thể truyền đạo thành công trong các cộng đồng thành thị có mức sống
kinh tế cao, hoặc trong khuôn viên các trường Trung Học hay Đại Học. Thống kê ở
Mỹ cũng cho biết, trình độ học thức càng cao thì càng ít tin vào Chúa cũng như
tin vào những điều mê tín trong Ki Tô Giáo. Thành phần ít học nhất chiếm đa số
những tín đồ Ki Tô Giáo. Chúng ta chỉ cần quan sát đám thính giả của những nhà
truyền bá Phúc Âm trên TV [TV evangelist] là thấy rõ điều này. Một số nhà truyền
bá phúc âm trên TV này đã ngồi tù vì đã khai thác sự yếu kém của tín đồ, kiếm
tiền bạc triệu để sống sa đọa trong giàu sang. Nhiều nhà phê bình và trí thức đã
đưa ra nhận định: Ki Tô Giáo thu hút tín đồ không phải là vì triết lý, giáo
lý hay đạo đức của Ki Tô Giáo, mà phần lớn là vì bả vật chất và những hứa hẹn có
tính cách lừa dối của Ki Tô Giáo trước đám người nhẹ dạ, cả tin, hi vọng có thể
ăn một cái bánh vẽ trên trời.
Chúng ta thấy rõ vấn đề cải
đạo ở Việt Nam không phải là truyền đạo hay tự do tín ngưỡng mà là vấn đề xâm
nhập tôn giáo với ý định tiêu diệt các nền văn hóa khác, vấn đề gây rắc rối,
chia rẽ trong các cộng đồng của những nhà truyền giáo Ki Tô bảo thủ, cuồng tín.
Những vấn đề này liên hệ tới chính trị quốc gia và an sinh xã hội. Cũng vì vậy
cho nên nhiều nước đã có những biện pháp ngăn chận sách lược truyền đạo của Ki
Tô Giáo. Ngăn chận sách lược truyền đạo gây rối, gây chia rẽ, mạ lỵ các tôn
giáo khác, phá bỏ tinh thần quốc gia v..v.. của Ki Tô Giáo không phải là vi phạm
tự do tôn giáo hay tự do tín ngưỡng, mà chính là một nhiệm vụ tối quan trọng của
các chính quyền địa phương muốn bảo tồn sự hòa hợp tôn giáo, bảo tồn nền văn hóa
quốc gia.
Sự nguy hại của sách lược
truyền đạo Ki Tô Giáo không thuộc vấn đề tín ngưỡng thuần túy mà liên hệ nhiều
đến vấn đề chính trị và xung đột tôn giáo. Chúng ta nên biết ở Ấn Độ cũng như ở
Thái Lan, các nhà truyền giáo Ki Tô đã phổ biến những tài liệu mạ lỵ các tôn
giáo khác, và loáng thoáng cũng đã thấy ở Việt Nam. Chúng ta cũng đã biết, Giáo
hội Phật Giáo Thái Lan đã từng có văn thư chính thức phản đối Giáo Hoàng John
Paul II về những hành động bất chính của Ca Tô Giáo để phá ngầm Phật Giáo. Cũng
ở Thái Lan, nhiều mục sư bảo thủ Tin Lành đã thường xuyên phát ra những tài liệu
truyền giáo mô tả Thái Lan là “địa hạt của Satan”; rằng 99% dân Thái bị câu thúc
bởi ma quỷ [vì ở Thái Lan chưa tới 1% theo Ki Tô Giáo]; lên án Phật Giáo là “thờ
hình tượng” và là “một tôn giáo yếm thế một cách vô vọng” và chấp chặt là “không
có sự mạc khải Ki Tô Giáo thì không hiệp thông được với Gót (Julian Pettifer &
Richard Bradley, Missionaries, p. 186: ...evangelical literature that
describes Thailand as “the territory of Satan”; that declares “99 percent of
Thais are in bondage to demons”; that condemns Buddhism as “idolatry” and “a
religion of hopeless escapism”; and which insists that “without Christian
revelation, there is no relationship with God”. This is the everyday language
of certain kind of mission literature, which is deeply offensive to Thai
Buddhists) trong khi Gót của họ trong cuốn Bible chỉ là một nhân vật huyền thoại
Do Thái: “một nhân vật có tính tình khủng khiếp – độc ác, ưa trả thù, đồng
bóng, và bất công” [President Thomas Jefferson describes The God of Moses as
“a being of terrific character – cruel, vindictive, capricious and unjust], hoặc
theo Richard Dawkins “là một nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi
chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ
nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng
và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân
tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ
thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy
cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang
tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích
thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic],
là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường.
[The God
of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in all fiction:
jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a
vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist,
infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal,
sadomasochistic, capriciously malevolent bully.]
Ở
Việt Nam cũng đã thấy xuất hiện vài tác phẩm xuyên tạc giáo lý Phật Giáo hoặc
chê bai nền văn hóa truyền thống của dân tộc.
Những thủ đoạn bất chính
của những nhà truyền giáo Ki Tô và của những tân tòng ngu muội bản địa đã gây
nên nhiều phản ứng ở khắp nơi trên thế giới. Một trong những thủ đoạn này là
dùng tiền bạc vật chất để lôi kéo, nếu không muốn nói là ép (theo đạo có gạo mà
ăn) những người ngoại đạo đang ở trong những hoàn cảnh khó khăn về vật chất phải
theo đạo, lộ liễu đến mức một Ủy Ban Điều Tra Những Hoạt Động của các Giáo Sĩ
Thừa Sai tại Ấn Độ đã phải đưa ra những khuyến cáo sau đây, trong cuốn “Tín
Ngưỡng Của Những Người Khác” (The Faith of Other Men), trang 107, của Giáo
Sư Wilfred Cantwell Smith, một nhà Thần học Ki Tô Giáo nổi tiếng, Giáo sư môn
Tôn Giáo Thế Giới, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Tôn Giáo tại đại học Harvard:
“Nên yêu cầu những nhà truyền giáo mà mục
tiêu chính của họ là cải đạo người khác phải rút lui. Số lượng nhiều các nhà
truyền giáo ngoại quốc chỉ gây ra nhiều rắc rối, phiền phức, không ai mong muốn,
và phải kiểm soát kỹ.
Sự dùng các dịch vụ y tế hay chuyên môn
như là phương tiện trực tiếp để dụ người khác vào đạo phải cấm bởi luật pháp.
Mọi toan tính dùng vũ lực hay lừa gạt
gian dối, hay đe dọa bằng những cách bất chính, hay giúp đỡ tài chính, hay mọi
sự trợ giúp khác, hoặc bởi những phương tiện hay hứa hẹn lừa gạt gian dối, hoặc
bằng sự giúp đõ tinh thần và vật chất, hoặc lợi dụng sự thiếu kinh nghiệm hay
lòng tự tin của bất cứ người nào, hoặc bằng cách khai thác nhu cầu, sự yếu kém
về tâm linh (tinh thần) hay nhẹ dạ của bất cứ người nào, hoặc, đại cương là mọi
toan tính hay nỗ lực (dù thành công hay không), trực tiếp hay gián tiếp
thâm nhập vào ý thức tôn giáo của con người (dù đã trưởng thành hay còn vị thành
niên) thuộc tín ngưỡng khác, với mục đích thay đổi ý thức tôn giáo hay tín
ngưỡng của họ, để cho hợp với lý tưởng và niềm tin của phe đi dụ người ta vào
đạo, phải tuyệt đối cấm.”
(Those missionaries whose primary object is proselytization should be asked to
withdraw. The large influx of foreign missionaries is undesirable and shoud be
checked..
The use of medical or other professional
services as a direct means of making conversions should be prohibited by law..
Any attempt by force or fraud, or threats
of illicit means or grants of financial or other aid, or by fraudulent means or
promises, or by moral and material assistance or by taking advantage of any
person’s inexperience or confidence, or by exploiting any person’s necessity,
spiritual (mental) weakness or thoughtlessness, or, in general any attempt or
effort (whether successful or not), directly or indirectly to penetrate into the
religious conscience of persons (whether of age or underage) of another faith,
for the purpose of consciously altering their religious conscience or faith, so
as to agree with the ideas of convictions of the proselytizing party should be
absolutely prohibited..)
Những đề nghị trên rất
thiết thực và hợp lý, hi vọng Nhà Nước Việt Nam có thể đưa ra quốc hội một đạo
luật ngõ hầu có thể giới hạn sự xâm nhập cũng như kiểm soát chặt chẽ hành vi của
các nhà truyền giáo Ki Tô bất cứ thuộc quốc tịch nào trên đất nước Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề không hẳn là đơn giản. Chính sách của Nhà Nước là một chuyện,
mà sự thực thi chính sách lại là một chuyện khác. Tham nhũng là một yếu tố có
tác dụng vô hiệu hóa chính sách của Nhà Nước. Trong tình trạng ngày nay, có
nhiều dấu hiệu chứng tỏ Nhà Nước đã không ý thức được tầm quan trọng của những
quyết định không hợp lý, thiên vị, của các bộ, sở hoặc địa phương có thể có ảnh
hưởng lâu dài đến nền văn hóa và tương lai dân tộc. Thí dụ, những tên tội đồ của
dân tộc như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Ký, Alexandre de Rhodes v..v.. vẫn tiếp tục
được đặt ngang hàng với các danh nhân lịch sử Việt Nam trong đó có Chủ Tịch Hồ
Chí Minh, trên đường phố, trường học v..v.., và được ca tụng qua sách báo, bất
kể là sự thật về những nhân vật này đã được phơi bày với đầy đủ bằng chứng.
Chính quyền địa phương cũng làm ngơ trước “tuyên ngôn phục linh” láo lếu, hỗn
xược của nhóm Tin Lành.
Tuy vậy tôi vẫn lạc quan vì
có nhiều Tăng Ni Phật tử đã lên tiếng trước vấn nạn cải đạo của Tin Lành và
Ca-tô. Đây là điều rất đáng mừng và tôi hi vọng Phật Giáo Việt Nam chỉ Thiền
chứ không ngủ. Phật Giáo dính liền với dân tộc. Cho nên Phật Giáo phải có
trách nhiệm với dân tộc về vấn nạn cải đạo trên. Phật Giáo Việt Nam, từ trên
xuống dưới, phải áp dụng tinh thần Vô Úy của Phật Giáo trong nhiệm vụ chống lại
những kế hoạch cải đạo hạ cấp của Ki Tô Giáo. Phật Giáo là tôn giáo của trí tuệ,
vậy chúng ta hãy dùng trí tuệ để chuyển hóa sự mê tín và giúp cho người dân ra
khỏi cảnh ngu muội của đức tin mù quáng của Ki Tô Giáo. Chúng ta đừng quên là
trong Phật Giáo có Chân Đế và Tục Đế. Và tuyệt đại đa số chúng ta sống trong
tục đế, phải đối diện với những vấn nạn trong xã hội và phải tìm cách giải quyết
những vấn nạn đó. Quan niệm Phật Giáo nhập thế đã có từ lâu, chúng ta không có
quyền quên lãng, lơi là.
Chúng ta cần nhận thức rõ,
hiểm họa của Tin Lành không phải là ở chỗ tín đồ Tin Lành thì mê tín, và các mục
sư Tin Lành thì ngu muội, theo như nhận định của Ingersoll, mà là ảnh hưởng tác
hại khi Tin Lành dùng mọi thủ đoạn và dựa
vào ưu thế về kinh tế, và quân sự nếu có thể được, để áp đặt sự mê tín và ngu
muội trên những cộng đồng yếu kém về kinh tế, vật chất, và từ đó tạo nên một lực
lượng chính trị để làm áp lực hoặc khuynh đảo các chính quyền địa phương sau
bình phong, chiêu bài tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, nhân quyền.
Mất chỗ
đứng hay ít ra là không thể ép buộc tư tưởng người dân và chính quyền trong
những xã hội văn minh tiến bộ Âu Mỹ, Tin Lành đang tìm cách xuất cảng những đồ
phế thải trong những xã hội văn minh tiến bộ này sang các quốc gia yếu kém về
kinh tế, ra công tuyển mộ những tín đồ không có mấy đầu óc, với hi vọng có thể
đưa người dân trong những nước kém mở mang giật lùi trở về thời đại thần quyền
đứng trên thế quyền ở Âu Châu khi xưa.
Hiểm họa Tin
Lành là một sự kiện rõ như ban ngày, khó ai có thể chối cãi. Người Việt chúng ta
có nên ngăn chận cái hiểm họa này, cái tế bào ung thư này lan rộng trong xã hội
lành mạnh về tâm linh của chúng ta hay không? Tôi nghĩ, con cháu Lạc Hồng
quyết không để cho con cháu của Do Thái Adam và Eve đưa chúng ta trở lại thời
bán khai dưới bất cứ dưới hình thức nào. Và đây chính là trách nhiệm bảo vệ nền
văn hóa Việt Nam của Nhà Nước Việt Nam ngày nay, của các chính quyền Việt Nam
mai sau, của toàn dân phi-Ki-tô trong nước, và của những người Việt Nam yêu nước
trên khắp thế giới.
Mở mang dân trí, cập nhật hóa kiến thức thời đại, đây chính là một nhiệm vụ quan
trọng trong thời đại ngày nay, không chỉ riêng của chính quyền mà là nhiệm vụ
chung của mọi người dân Việt Nam nào còn có lòng với dân tộc, đất nước, còn trân
quý truyền thống văn hóa và tôn giáo của Việt Nam. Tôi hi vọng giới trí thức,
nhất là giới trẻ ngày nay, hãy nhận thức rõ tầm quan trọng của lãnh vực văn hóa
này. Vì lợi ích của mọi người, và vì tương lai của dân tộc và đất nước, chúng
ta hãy cùng nhau tích cực hoạt động trong đường hướng mở mang dân trí, giúp
người dân nhận thức được những sự thật về các tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt
Nam.
Chúng ta hãy thể hiện hạnh từ bi
trong nhiệm vụ này. Từ là “Cho vui” và Bi là “Cứu khổ”. Giúp cho người dân mở
mang đầu óc, cập nhật hóa kiến thức thời đại, nhận rõ chân thực, là mang đến cho
họ một nguồn vui vô tận; giúp cho người dân nhận rõ chân, giả, tỉnh thức, không
bị huyễn hoặc bởi những điều hoang đường, mê tín, cất bỏ lòng sợ hãi thần quyền,
và thoát khỏi một tâm cảnh nô lệ ngoại quyền, đó chính là cứu khổ. Quý độc giả
nào không đồng ý, xin mời lên tiếng.
Trần Chung Ngọc
Ngày Rằm Tháng Giêng
Năm Tân Mão
Những bài về cải đạo
Yêu Chúa "Hết Trí Khôn" (Một Độc Giả)"Sư cô trụ trì" chùa Quan Âm cải đạo theo Chúa: Bóc trần sự thật (Thích Thanh Thắng)43 Phương Pháp Cải Đạo (Minh Kiến) Cải Đạo (SH) Cải đạo bắt đầu từ trẻ con (Nguyễn Trí Cảm)Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! (Trần Chung Ngọc) Cải Đạo, Sách Lược Thực Dân Mới Mà Cũ (Thiên Lôi)Cầu Cứu - Bài Góp Ý (Nguyễn Tiến Đạt)Cầu Cứu - Nỗi Ray Rứt (Ngọc Hân - SH) Hôn Nhân và Tôn Giáo (Nguyễn Hữu Ba) Ki tô giáo: Mánh Khóe Mới Nhất Trong Việc Cải Đạo (J. Goonetilleke/Nguyên Tánh dịch)Kitô giáo: Lịch sử truyền đạo (BurningCrossNet/ Minh Kiến dịch)Lửa "Đốt" Dân Tộc Ta (Hồng Ngọc)Lửa đã cháy ở Mỹ Đình, bao giờ lan đến Quán Sứ? (Minh Thạnh)Mắt xích cải đạo tu sĩ trong tiến trình cải đạo tín đồ Phật giáo (Minh Thạnh)Mối Họa Cải Đạo (Trần Chung Ngọc) Một Cố Gắng Cải Đạo Ly Kỳ (Đào Viên)Một Giám Mục Viết Về Vấn Nạn Cải Đạo Của Ki-Tô Giáo (Trần Chung Ngọc)Ngày Tàn của những kẻ Truyền Đạo Cuồng Tín (Minh Kiến)Những Câu Chuyện Cải Đạo (Võ Ngọc Diệp) Phản Hồi "Vấn Đề Hôn Nhân Khác Tôn Giáo" của Minh Ngọc (Ki-Tô Hữu Lưu Tèo)Quí Hồ Tinh Bất Quí Hồ Đa (Lệ Thọ)THƯ NGỎ: Vận Động Thành Lập Tủ Sách “Chấn Hưng Phật Giáo” Thử Tìm Hiểu Người Ki-Tô Giáo Và Vấn Nạn Cải Đạo (Trần Chung Ngọc)Thử Tìm Hiểu Người Ki-Tô Giáo và Vấn Nạn Cải Đạo (Trần Chung Ngọc) Thực Chất Tin Lành Nam Hàn (Trần Chung Ngọc)Tiền và việc cải đạo tín đồ Phật giáo (Minh Thạnh)Trả Lời Thư Bạn Lưu Tèo (Minh Ngọc)Vài Câu Hỏi Cho Người Đi Truyền Đạo Chúa (Một Độc Giả) Vì Chúng Sinh - Chống Cải Đạo (Nguyễn văn Phụng)Vì Chúng Sinh - Ngăn Ngừa Việc Cải Đạo (Nguyễn Văn Phụng)Đôi Lời Chia Sẻ Về Vấn Đề Hôn Nhân Khác Tôn Giáo (Minh Ngọc)“Lập lờ đánh lận”… ông trời! (Minh Thạnh)