Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
bản rời || Mục Lục | 10 tháng 4, 2010
LTS: "Mô hình cơ bản của tính hung hãn và độc quyền Ca-tô" được Avro Manhattan diễn tả: "Trong trường hợp Việt Nam vào hai thế kỷ trước, các nhóm Ca-tô đan bện chặt chẽ đóng chốt giữa môi trường Phật giáo phi-Kitô vây quanh. Một khi đã thiết lập vững vàng họ liền lên mặt với hàng xóm Phật giáo của họ như là những phe phái độc lập kinh tế và chính trị". Đó là bức tranh Puzzle (gồm nhiều con hình lẻ) đã được Vatican ráp cho thành hình (nhưng chưa thành) ở các nước Á Châu trong nhiều thế kỷ qua. Qua nhận xét đó người
ta sẽ cảm thấy thú vị nhìn lại và so sánh các vụ tập trung giáo dân được gọi là "hiệp thông cầu
nguyện" để đòi đất ở khắp nơi như Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Tòa,... như những
con hình lẻ mà Vatican đang đặt xuống một vài góc trong bức tranh toàn cảnh nói trên. (SH)
Chương 17
Lịch Sử Ban Đầu Của Quyền Lực Ca-tô tại Xiêm (Thái Lan) và Trung Quốc
Những Tiền Lệ Đặc Trưng Của Sự Áp Bức
► Công ty Đông Ấn của Pháp và các nhà truyền giáo ► Việc cải đạo theo Ca-tô của một vị vua Xiêm ► Sự kỳ thị của Ca-tô đối với Phật giáo đồ ► Những hành động ghê rợn của một băng đảng Mafia Ca-tô ở Xiêm ► Ca-tô và người Pháp bị trục xuất và xử tử ► Cố gắng của Vatican để kiểm soát xứ Xiêm kết thúc ► Xiêm cấm tất cả người Ca-tô suốt một thế kỷ rưỡi ► Bà Hoàng hậu Trung Quốc đã theo đạo Ca-tô ► Hoàng hậu Helena gửi một phái đoàn đến thăm Giáo hoàng ► Bà Hoàng hậu và các cố đạo dòng Tên mưu làm cho Trung Quốc thành Ca-tô ► Cuộc nổi dậy của các đại quan ► Sự kết thúc của một giấc mơ về một Trung Quốc Ca-tô.
Cố gắng thiết lập đạo Ca-tô áp bức tại Việt Nam thông qua Tổng
thống Diệm, chỉ là một trong những nỗ lực mới nhất theo cái khuôn
mẫu mà nó đã theo đuổi nhiều lần trên lục địa châu Á. Trong quá khứ,
cái khuôn mẫu ấy đã được thay đổi nhưng nhất quán. Trong trường hợp
Việt Nam vào hai thế kỷ trước, các nhóm Ca-tô đan bện chặt chẽ đóng
chốt giữa môi trường Phật giáo phi-Kitô vây quanh. Một khi đã thiết
lập vững vàng họ liền lên mặt với hàng xóm Phật giáo của họ như là
những phe phái độc lập kinh tế và chính trị.
Chuyện trâng tráo của họ không chỉ là sự tự tin tôn giáo lì lợm, mà còn là sự
áp đặt quyền lực Ca-tô lên trên đồng bào Phật giáo của họ. Sự áp đặt như thế đã
dẫn đến việc trừng trị bằng luật pháp, nếu chống lại thì đàn áp, rồi theo thời
gian đưa đến việc sử dụng bạo lực.
Trong trường hợp của Tổng thống Diệm và phe nhóm Ca-tô của ông ta trước hết
họ tự củng cố và thiết lập thẩm quyền của họ qua luật pháp dần dần kỳ thị đa số
Phật giáo đồ. Tiếp theo là việc sử dụng khủng bố không hạn chế sau khi dân chúng
Phật giáo từ chối qui phục. Phương cách của Diệm không chỉ là một thí dụ kỳ dị
của tính hung hãn của Ca-tô đương đại trong một xã hội phần lớn phi-Kitô. Nó đã
được lặp lại trên lục địa châu Á trong suốt ba trăm năm.
Tất nhiên trong những thời kỳ ấy, có các vị quốc vương, một tầng lớp quý tộc
lãnh đạo, với các quan lại văn hóa, bộ ba cầm quyền của xã hội mà việc chấp
thuận hoặc từ chối của họ là tối thượng. Tuy vậy, mô hình cơ bản của tính hung
hãn và độc quyền Ca-tô, tựa như điều đã được thực hiện bởi Diệm và anh em của
mình, đã không phải là ngẫu nhiên. Không cần phải đi sâu vào nhiều chi tiết,
chúng tôi sẽ hạn chế để minh họa cho một hoặc hai trường hợp điển hình diễn ra
trong một kết khối dân tộc khu vực đã từng biết đến như là bán đảo Ấn Hoa.
Nỗ lực đầu tiên của Pháp để thống trị Á châu đã diễn ra như ta đã biết, vào
đầu thế kỷ 17 thông qua Công ty Đông Ấn thuộc Pháp. Mục tiêu của công ty là để
kéo khu vực vào quỹ đạo thương mại của Pháp. Điều ít nhìn thấy, mà mục đích
không kém cụ thể, là truyền bá đức tin Ca-tô. Mục tiêu này, mặc dù dường như
được thúc đẩy chủ yếu là do cá nhân người Ca-tô, lại được trực tiếp xúi giục bởi
Vatican mà nó đã từng ủng hộ Công ty Đông Ấn thuộc Pháp Độ ngay từ đầu.
Tuy nhiên việc thành lập tiền đồn đầu tiên tại Ấn Độ, công ty sớm gặp phải sự
kháng cự chưa hề tiên liệu bởi người Anh nên người Pháp đã phải quyết định tìm
đến các lãnh thổ khác và chuyển sự chú ý của mình đến các vương quốc nhỏ của bán
đảo Ấn-Hoa và đặc biệt, đến Xiêm. Các cuộc thăm dò đầu tiên của khu vực mới nhân
danh Công ty Đông Ấn thuộc Pháp đã không thực hiện bởi chính công ty hoặc các
nhà ngoại giao Pháp, mà lại do những nhà truyền giáo Ca-tô. Những việc này đã
được sự cho phép và khuyến khích của Vatican, dưới lớp bọc tôn giáo, để điều tra
các nguồn ngách thương mại, chính trị và chiến lược nhân danh đế quốc Pháp.

Tu sĩ dòng Tên Alexandre de Rhodes đến Đông Dương năm 1610. Một thập kỷ sau đó, ông gửi cho Vatican và cho Pháp một mô tả rất chính xác về tiềm năng thương mại, chính trị và chiến lược. Dòng Tên người Pháp đã nhanh chóng tuyển dụng và gửi tới giúp ông trong công tác đôi của mình là cải đạo Ca-tô và mở rộng thương mại. La-Mã và Ba-Lê đã coi những hoạt động này là những bàn đạp không thể tách rời để dẫn đến việc chiếm đóng cuối cùng bằng quân sự và chính trị các nước này.
Alexandre de Rhodes, một dòng Tên, đã tới Ấn-Trung Quốc về 1610, và chỉ một
thập kỷ sau đó gửi một bản mô tả chính xác các khả năng của An Nam và Bắc Bộ.
Dòng Tên Pháp đã nhanh chóng tuyển dụng người để giúp ông trong công tác hàng
hai của mình để cải đạo các quốc gia này theo Ca-tô và thăm dò các tiềm năng
thương mại. Những nhiệm vụ này, không thể tách rời ra, trong mắt của cả La-Mã và
Ba-Lê, là hai bàn đạp quan trọng nhất dẫn đến sự chiếm đóng bằng chính trị và
quân sự.
Các nhà truyền giáo đã rất thành công đến độ vào năm 1659 bán đảo Ấn-Hoa đã
được đánh dấu là một lĩnh vực độc quyền của các hoạt động thương mại và tôn giáo
của Pháp. Sau đó mở rộng các hoạt động đôi của họ vào Pegu, Campuchia, An Nam và
Xiêm. Xiêm, đất nước phát triển cao nhất của bán đảo Ấn-Hoa, sớm trở thành căn
cứ cho các hoạt động tôn giáo, thương mại và chính trị của cả hai Công ty Đông
Ấn và Vatican. Kế hoạch của họ thực đơn giản: mỗi bên sẽ góp phần vào sự chinh
phục Xiêm theo các phương tiện của mình; công ty thì thông qua thương mại, chính
quyền Pháp thì thông qua quân đội của nó, và Vatican thì thông qua sự thâm nhập
tôn giáo của nó.
Khi các cơ sở thương mại và các trạm truyền giáo đã được thành lập vững bền,
chính phủ Pháp liền o ép cho một liên minh thương mại chính thức với Xiêm. Đồng
thời Vatican tập trung vào việc mở rộng ảnh hưởng tâm tinh của nó, không ồ ạt
cải đạo quần chúng mà chỉ tập chú vào việc cải đạo một cá nhân duy nhất: chính
là vua Xiêm. Nếu điều này có thể thực hiện được, thì các tu sĩ Ca-tô sau đó sẽ
cố gắng thuyết phục vị vua Ca-tô mới cho các đội quân đồn trú Pháp đóng ở các
thành phố chính như Mergui và Bangkok lấy cớ rằng điều này là vì lợi ích tốt
nhất của Giáo Hội Ca-tô.
Năm 1685, chính phủ Pháp đã ký kết một liên minh thương mại thuận lợi với
người cai trị của Xiêm. Hai năm sau, vua Xiêm và tầng lớp cầm quyền đã cải theo
đạo Ca-tô. Nhóm Ca-tô đầy quyền lực bắt đầu thống trị không chỉ bộ máy chính
phủ, mà còn sử dụng nó để khống chế xã hội Phật giáo. Hàng loạt những luật lệ kỳ
thị đã được ban hành chống lại các cơ chế Phật giáo và tạo thuận lợi cho thiểu
số Ca-tô.
Các nhà thờ Ca-tô đã được dựng lên khắp mọi nơi trong khi các ngôi chùa lại
bị đóng cửa chỉ cần lấy lý do nhỏ nhất hay thậm chí còn bị phá hủy. Trường học
Ca-tô thay thế dần các trường Phật giáo. Việc phân biệt kỳ thị đối xử đối với đa
số Phật giáo đồ có thể được tìm thấy ở tất cả các cấp. Trong thời gian ngắn nhất
tín đồ Ca-tô đã trở thành công dân thượng đẳng bất cứ nơi nào có được quyền lực,
đặc quyền và sự giàu có.
Thành phần thượng lưu Ca-tô cai trị, giống như trong thời Diệm, biến thành
một loại Mafia tôn giáo chính trị, được nhận rõ qua sự thi hành không hạn chế
quyền lực tuyệt đối mà nó được sử dụng và lạm dụng mà không cần đắn đo suy xét.
Sự đối kháng đã bị đàn áp tàn bạo bằng kẻ ủng hộ chính của Giáo Hội, là người
Pháp luôn sẵn sàng đến giúp nó với chiến thuyền của họ.
Giống như với Diệm, đa số Phật giáo đồ, sau nhiều cuộc biểu tình không hiệu
quả, cuối cùng đã tổ chức sự đối kháng toàn dân. Điều này cũng đã bị nhẫn tâm
đàn áp. Các biện pháp này đã tạo nên lòng chống Ca-tô lan rộng, mà không mấy
chốc tỏa ra khắp nước. Nhà thờ đã bị tấn công hoặc tiêu huỷ. Giáo dân Ca-tô bị
săn đuổi và tức thì cuộc kháng chiến, lạ lùng thay khởi phát từ hoàng cung, nơi
mà ban đầu người Ca-tô đã rất được hoan nghênh, bùng lên ở tất cả các tầng lớp.
Các giáo sĩ Ca-tô và các viên chức Pháp cũng như giáo dân bản địa đã bị trục
xuất hoặc bị bắt giữ cho đến khi cuối cùng tất cả các hoạt động Ca-tô chấm dứt.
Không mấy chốc thiểu số Ca-tô trước đó đã hành động như những kẻ xử án, trở
thành người bị xử tội. Việc thương mại của Pháp đã bị ngưng hoàn toàn và công
việc truyền giáo đã bị chấm dứt. Mưu toan của Pháp-Vatican cho việc kiểm soát
chính trị và tôn giáo của Xiêm kết thúc vào năm 1688. Kết quả là một thế kỷ rưỡi
Xiêm thực tế đã trở thành một vùng đất cấm đối với cả hai (Pháp-Vatican).
Hầu như trong cùng thời gian đó Giáo Hội Ca-tô cũng đã cố gắng áp đặt mình
trên một nền văn hóa Phật giáo khác, lớn nhất trên thế giới: Trung Quốc.

Những nhà thiên văn dòng Tên trong triều đình của Hoàng đế Trung Quốc và hai
người Hoa cải đạo với thập giá, Đức Mẹ Madonna, và biểu tượng bánh thánh IHS.
Những nhà truyền giáo dòng Tên đã thành công trong việc cải đạo một hoàng hậu
của Trung Quốc, và qua đó đạt được sự móc nối vào ảnh hưởng chính trị cao. Khi
Vatican bắt đầu mở rộng ảnh hưởng này, sự đối kháng gia tăng và cuối cùng đã tạo
ra cuộc nổi dậy công khai. Một số quốc gia châu Âu đã can dự vào bằng cách làm
áp lực ngoại giao, các biện pháp kinh tế được thực hiện dưới sự đe dọa của các
tàu chiến châu Âu ở ngoài khơi bờ biển của Trung Quốc. Hậu quả là một nước lớn ở
Á đông đã ngăn chặn ảnh hưởng phương Tây và các hoạt động truyền giáo cả hàng
trăm năm.
Đầu vào thế kỷ 17, dòng Tên đã tìm mọi cách để xâm nhập triều đình hoàng gia
và cải đạo được một bà hoàng hậu theo Ca-tô giáo. Chuyện cải đạo này là một cuộc
đảo chánh trọng đại cho Giáo Hội Ca-tô trong chiến lược của mình để áp đặt mình
lên toàn bộ nước Trung Hoa Phật giáo. Kể từ khi Hoàng hậu là trung tâm của triều
đình hoàng gia, nguồn gốc của quyền lực tối cao, bà đã trở thành điểm mấu chốt
để Giáo Hội Ca-tô chuẩn bị thi hành cuộc cải đạo quần chúng.
Tiềm năng có vẻ vô giới hạn. Nữ hoàng Trung Quốc đã trở thành một công cụ dễ
uốn nắn trong tay của dòng Tên, những kẻ đã lèo lái bà để cấy ghép ảnh hưởng
Ca-tô lên các cấp. Lòng mộ đạo của bà đã biến thành một nhiệt tình cá nhân để
phục vụ Giáo Hội Ca-tô tất cả mọi mặt. Bà thậm chí còn đổi tên Hoa của mình
thành Hoàng hậu Helena tựa như Hoàng hậu La-Mã, mẹ của Constantine, người đã cho
Cơ Đốc giáo được tự do tại Đế quốc La-Mã. Đã thế vẫn chưa hài lòng bà còn rửa
tội đứa con trai bà với tên Constantine để ám chỉ vai trò mà cậu bé được dự định
sẽ làm trong tương lai là việc cải đạo nước Trung Hoa Phật giáo theo Giáo hội
Ca-tô.
Lòng mộ đạo của bà đã sớm làm thay đổi triệt để lễ nghi và cung cách của
triều đình để cho đạo Ca-tô dường như thay thế tất cả mọi thứ. Cải đạo theo Giáo
Hội Ca-tô có nghĩa là tiến bộ, đặc quyền, và sự giàu có, chưa kể đến quyền lực
trong chính quyền và ngay cả trong quân đội. Nhóm thiểu số Ca-tô này vây quanh
Hoàng Hậu bắt đầu phát huy ảnh hưởng đến nỗi ban đầu tiên làm người ta phật
lòng, sau đó sợ hãi, và cuối cùng là chống đối bởi những kẻ muốn duy trì nền văn
hóa truyền thống Phật giáo của Trung Quốc.
Nếu như Hoàng Hậu và các cố vấn dòng Tên tự hài lòng trong vòng hạn chế tại
triều đình, các hoạt động tôn giáo của bà, mặc dù khó chịu đối với Phật giáo đồ,
vẫn còn có thể dung thứ được. Nhưng Hoàng hậu và những kẻ bao quanh bà đã thiết
kế một sách lược to lớn: việc cải đạo toàn bộ Trung Quốc theo Giáo hội Ca-tô. Họ
đã gửi một đặc nhiệm đến La-Mã để yêu cầu Đức Giáo Hoàng gửi hàng trăm nhà
truyền giáo đến trợ giúp để đẩy nhanh việc cải đạo Trung Quốc theo Giáo hội
Ca-tô.
Trong khi chờ đợi phản ứng của Giáo hoàng, nhóm thiểu số Ca-tô bắt đầu thực
hiện chuyện cải đạo từ Hoàng hậu đến các quan lại, đến bộ máy cai trị, và cuối
cùng đến hàng triệu nông dân đông đúc của Trung Quốc. Tuy nhiên đề án đã gặp
phải sự chống đối lan tràn ngay từ đầu. Sự thuyết phục để phù hợp với ảnh hưởng
bán chính thức của Giáo Hội Ca-tô đã sớm đòi hỏi những quy định đặc biệt, và sau
đó là pháp luật. Sự chống đối đã được dập tắt lúc đầu bằng biện pháp kỳ thị phân
biệt đối xử, rồi giam cầm và sau cùng với vũ lực.
Bên ngoài vòng triều đình và thiểu số Ca-tô, chiến dịch đã gặp phải sự đối
kháng căm hờn của quần chúng. Lòng căm hờn này đã được nuôi dưỡng bởi chứng cớ
là những kẻ cải sang đạo Ca-tô thụ hưởng các đặc quyền ngang ngược nhất, trong
khi Phật giáo đồ bị hành hạ bởi những luật lệ kỳ thị nhất chưa hề được biết đến
bởi đa số Phật giáo đồ.
Chiến dịch đạt đến độ rắc rối nhất, khi có tin đồn rằng Giáo Hoàng đã đồng ý
gửi thêm hàng trăm nhà truyền giáo để giúp cải đạo cả nước theo Ca-tô giáo. Các
tin tức ấy đã tạo ra tình trạng bất ổn nhiều hơn và các cuộc biểu tình của quần
chúng và các cuộc biểu tình đã bị đàn áp tàn bạo. Sự đối kháng của quần chúng
gia tăng đến độ cuối cùng các quốc gia châu Âu phải can thiệp để dập tắt “cuộc
nổi loạn”, như nó đã được gọi, bằng cách sử dụng các biện pháp ngoại giao và
thương mại thực hiện dưới sự đe dọa qua sự hiện diện của các chiến thuyền châu
Âu ngoài khơi bờ biển Trung Quốc.
Nổ lực của Giáo hội Ca-tô để để cai trị và sau đó cải đạo Trung Quốc thông
qua một thiểu số Ca-tô bản địa đã kết thúc trong thất bại hoàn toàn, nhưng không
phải đã không gây ra tình trạng bất ổn, hỗn loạn, cách mạng nổi dậy, xung đột
quốc gia và quốc tế, trong nỗ lực của mình để áp đặt mình lên một quốc gia Á
châu vĩ đại và bất kham.
xem phiên bản Anh ngữ
Tác giả: Avro Manhattan
Người
Dịch: Trần Thanh
Lưu
Còn nữa: Chương 18 – Lịch sử hiếu chiến của Ca-tô tại Nhật Bản.
Các bài cùng tác giả
Trang Sách Nước Ngoài