|
15-Nov-2012 |
Như tên cuốn sách đã viết rõ, cuốn Nationalist In The Vietnam Wars:
Memoirs Of A Victim Turned Soldier, là một cuốn Hồi Ký, nghĩa là
theo định nghĩa, nội dung là kể lại cuộc đời của tác giả, những kinh
nghiệm bản thân của tác giả, và những điều tác giả trực tiếp biết.
Chính tác giả cũng khẳng định như vậy: “Những hồi ức này hầu hết
căn cứ trên các sự kiện và biến cố mà tôi kinh nghiệm khi tôi là
một đứa trẻ và là một người trẻ tuổi đã in sâu vào ký ức, tuy rằng tôi
không định nhớ đến chúng” (These memoirs are based mostly on facts
and events I experienced as a child and as a young man that are imprinted
on on my memory, although I did not not try to remember). Tác giả không
định nhớ nhưng đọc qua cuốn sách, chúng ta thấy tác giả đã nhớ rất nhiều,
và nhớ với những chi tiết chi li với một trí nhớ tuyệt luân thừa hưởng
di truyền từ Bà Nội. Tác giả viết: “Bà nội tôi có một trí nhớ toàn
hảo…Bà có thể đọc thuộc lòng 3254 câu của Truyện Kiều.. Tôi thừa hưởng
trí nhớ tốt đó, nó giúp tôi trong trường học và đặc biệt là khi viết
lại những ký ức này” (My grandma had a perfect memory…She could
recite by heart 3254 lines of Truyện Kiều…I inherited her good memory,
which helped me in school and especially in writing these memoirs.)
Ngoài ra, tác giả viết về nội dung của cuốn sách như sau: “Đây
không phải là một tác phẩm nghiên cứu hàn lâm, cho nên không có những
tài liệu tham khảo dài. Tôi chỉ sưu tập lại những kinh nghiệm từ
ký ức về sự xung đột giữa những người thân-Cộng và những người chống-Cộng
để viết lại những ký ức này với cố gắng hết sức để viết một cách
lương thiện và không thiên vị.”
(This is not an academic study, so there are no lengthy references.
I only compiled my experience from my memory concerning the conflict between
the pro-communists and the anti-communists to write these memoirs with
my best effort at honesty and impartially.)
Và tác giả nêu rõ mục đích của tác giả viết cuốn sách trên: “Tôi
có bổn phận phải góp phần nhỏ nhoi của tôi trong việc bảo vệ danh dự
những người trong quân đội của chúng ta và những đồng bào quốc gia của
tôi.” (I have an obligation to contribute my little part to the
protection of the honor of our military service men and my fellow nationalists.)
Trước khi đi vào phần nội dung cuốn sách, chúng ta cũng nên biết
qua thân thế tác giả, điều này giúp chúng ta hiểu về tác giả hơn:
Tác giả sinh năm 1937 ở tỉnh Vĩnh Yên, nhưng quê nhà (home village)
là một làng ở cách thành phố Nam Định 10 cây số (6 miles), tác giả
không nói đó là làng nào. Thân phụ tác giả là một người hoạt động cho
Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1954, tác giả cùng mẹ và hai em gái di cư
vào Nam. Năm 1955, 18 tuổi, đang học Trung học, tác giả cũng không nói
học trường nào, lớp mấy, tác giả bỏ học, theo học trường sĩ quan hiện
dịch Đà Lạt. Sau khi tốt nghiệp vào năm 1956, tác giả đã phục vụ trong
nhiều đơn vị: sư đoàn 22, Bộ chiêu hồi, Nha chiến tranh tâm lý. Sau 1975,
tác giả bị đi cải tạo gần 7 năm, và 1990 được sang định cư ở Mỹ.
Cuốn sách được Indiana University Press in ấn, phát
hành ngày 17-1-2012 và giới thiệu. Cho tới nay tôi thấy mới
có hai ông Tướng Mỹ viết một đoạn ngắn giới thiệu, Trung Tướng hồi
hưu David T. Zabecki: “một cuốn sách rất trung thực, sự chính
trực của tác giả hiện ra ở mỗi trang” [a very honest book, the
author's integrity comes through on every page.], và Thiếu Tướng
hồi hưu Lawson W. Magruder III: “Cuốn sách này là cuốn cần phải
đọc đối với những ai muốn có một hình ảnh đầy đủ và toàn thể sự thật
về cuộc chiến bi thảm đã làm bận tâm thế giới trong hơn hai thập
niên” [This book is a must read for those who want the complete
picture and whole truth about a tragic war that consumed the world
for over two decades.] Ngoài ra cũng có hai lời giới thiệu ngắn
trên tờ “Army” của Lục Quân Mỹ và trên tờ “Choice."
Về phía Việt Nam thì tôi cũng mới chỉ thấy có hai bài giới thiệu cuốn
sách trên của hai tác giả Công giáo Việt Nam: Luật sư Đoàn Thanh Liêm
ở Đàn Chim Việt, và nhà văn Mặc Giao ở Diễn Đàn Người Dân Việt.
Đoàn Thanh Liêm viết:
Tác giả trực tiếp viết bằng tiếng Anh và cuốn sách còn được nhà
xuất bản của một Đại học danh tiếng là Indiana University Press đứng
ra nhận ấn hành - thì đây rõ rệt là một công trình không phải bất kỳ
người viết nào cũng đạt tới được. Mà còn hơn thế nữa, cuốn sách lại
được nhiều giới thức giả người Việt [mới chỉ có 2, trong đó
Đoàn Thanh Liêm là 1, Mặc Giao là 2. TCN] cũng như Mỹ nhiệt liệt
khen ngợi và giới thiệu - thì đó cũng là một biểu lộ để chúng ta
có thể tin tưởng được giá trị của cuốn sách dài đến gần 600 trang với
khổ chữ nhỏ cỡ 11… Trong suốt cuốn sách, ông Luận đã trình
bày hết sức trung thực về những điều tai nghe mắt thấy và những
nhận định của riêng cá nhân mình – với lập trường kiên định của một
người quốc gia chân chính mà là nạn nhân trực tiếp của chính sách
độc tài hiểm ác và gian trá của đảng cộng sản ở Việt nam.
Với cuốn sách đặc sắc này, tác giả Nguyễn Công Luận đã trở
thành một nhân vật nổi trội, một thứ “somebody” trong cộng đồng người
Việt ở hải ngoại, chứ không còn là thứ “nobody” như ông đã khiêm
tốn viết nơi trang đầu của cuốn sách.
Còn Mặc Giao thì viết:
Mục đích của tác giả khi viết cuốn hồi ký này là để dư luận, nhất
là dư luận Hoa Kỳ, được nghe một tiếng nói khác, một sự thật khác về
chiến tranh Việt Nam, sau bao nhiêu năm bị đầu độc bằng những thiên
kiến chính trị. Liệu tác giả có làm được việc này không? Chưa thể biết.
Nhưng phải nhìn nhận những ưu điểm của cuốn sách: được
viết thành thật bằng cả tâm hồn, những chi tiết về sự việc và những
suy nghĩ phát xuất từ một người đã trực tiếp tham gia, sách được
chính ông viết bằng Anh ngữ, được một trường đại học Hoa Kỳ phát
hành. Những ưu điểm đó có thể giúp thực hiện phần nào điều tác giả
mong ước. Bằng chứng, theo tin từ nhà xuất bản, giới đại học Mỹ bắt
đầu quan tâm tới cuốn sách và số bán gia tăng đáng kể trong thời
gian gần đây.
Sự chân thành và lương thiện trong cách kể và cách suy nghĩ
của tác giả đã được hai tướng lãnh Hoa Kỳ xác nhận.
Tôi không mấy quan tâm đến những lời giới thiệu của mấy ông Tướng
Mỹ vì tôi nghĩ họ không biết gì mấy về cuộc chiến ở Việt Nam, họ đến Việt
Nam chỉ để phục vụ cho những mục đích chính trị của nước Mỹ với một sự
hiểu biết về Việt Nam rất giới hạn, cho nên những nhận định của họ về
cuốn sách của Nguyễn Công Luận không có mấy giá trị hàn lâm. Còn về hai
thức giả người Việt thì tôi lại càng không quan tâm, vì những gì họ giới
thiệu về cuốn sách là lẽ tất nhiên và thật là dễ hiểu.
Bản chất của một cuốn hồi ký là những chi tiết về cá nhân của các
tác giả viết hồi ký kinh qua những biến cố lịch sử hay xã hội, những
nhận định về thời cuộc, về chính trị v…v…, những điều mà chúng ta có thể kiểm
chứng và có ý kiến. Còn những chi tiết về đời tư của tác giả mà nếu
không rõ ràng thì rất khó kiểm chứng, trừ những điều có thể kiểm chứng được
như sinh quán ở đâu, học trường nào, tốt nghiệp bao giờ, có hồ sơ lưu
trữ chứng nhận hay không, hay giữ chức vụ gì trong quân đội cũng như
trong dân sự. Trong cuốn Hồi Ký của tác giả dày 600 chúng ta không thấy một
tài liệu lịch sử nào ngoài một số ghi chú (Notes) của tác giả. Tác
giả đã khéo léo chặn trước là “Đây không phải là một tác phẩm nghiên cứu
hàn lâm, cho nên không có những tài liệu tham khảo dài.” Do đó đọc
tác giả chúng ta khó có hi vọng đánh giá sự chính xác của những biến
cố lịch sử khoan kể đến những điều tác giả viết về chính tác giả.
Sau đây là một nhận định tổng quát về cuốn hồi ký này.
☜ Nhận Định Tổng Quát Về Cuốn Sách Của Nguyễn Công Luận.
Trong phần phê bình một số điều trong cuốn
sách của Nguyễn Công Luận, tôi có thể chứng minh là cuốn sách viết
không lấy gì là trung thực hay chính trực, và đọc cuốn sách đó chúng ta không
thể có được một hình ảnh chân thật và đầy đủ về cuộc chiến ở Việt Nam,
như hai vị Tướng Mỹ đã nhận định. Đọc cuốn Người Quốc Gia Trong Chiến
Tranh Việt Nam: Hồi Ký Của Một Nạn Nhân Trở Thánh Chiến Binh, chúng
ta thấy rõ là phần lớn nội dung cuốn sách không phải là những kinh
nghiệm bản thân của tác giả, vì có nhiều điều tác
giả không thể nào biết, vì xẩy ra trước khi tác giả sinh ra đời, hoặc tác giả không đích
thân chứng kiến. Đọc cuốn sách trên chúng ta có thể thấy rõ, trí nhớ của
tác giả nhiều chỗ có vấn đề, tác giả không mấy lương thiện và đầy thiên
kiến, dựa theo cảm tính cá nhân và những tài liệu một chiều khi trình
bày các biến cố lịch sử mà hầu hết những biến cố này tác giả không trực
tiếp biết. Phần lớn những biến cố này là tác giả đọc ở đâu đó trong những tài
liệu của phe Quốc gia rồi diễn đạt theo ý riêng.
Thí dụ tác giả
viết về năm 1850, giáo dân bị giết vì không chịu bước qua thánh giá, viết
về Xô Viết Nghệ Tĩnh và cuộc khởi nghĩa Yên Bái vào năm 1930, về cuộc
Cải Cách Ruộng Đất trong thời gian tác giả đã di cư vào Nam, về trận Ấp
Bắc khi tác giả đang ở Sư Đoàn 22 trên Kontum, và còn nhiều nữa v…v… Tác
giả viết về rất nhiều vấn đề, phần lớn là lạc đề đối với
tựa và mục
đích của cuốn sách, để tỏ ra mình hiểu biết nhiều nhưng chỉ viết phớt
qua, thí dụ như về sự tổ chức trong làng với những vai trò “tiên chỉ”,
“lý trưởng”, “hội đồng làng”, “mõ làng” v..v.., những điều không liên
hệ gì đến tựa của cuốn Hồi Ký. Còn về cuộc chiến Quốc-Cộng thì hầu hết
chỉ là những cảm tính cá nhân dựa theo những tài liệu tuyên truyền của
miền Nam vì tác giả đã phục vụ trong Nha Chiến Tranh Tâm
Lý cũng như Bộ
Chiêu Hồi. Cho nên, đây chỉ là một cuốn sách viết tạp nhạp về Việt Nam,
hầm bà lằng đủ thứ ngoài những cảm tính cá nhân có nhiều thiên kiến đượm
màu sắc chống Cộng với mục đích cố gắng biện hộ cho cái gọi là “chính
nghĩa Quốc Gia”.
Do đó, sau khi đọc xong cuốn sách thì, từ “somebody” của Đoàn Thanh
Liêm, tác giả đã trở lại là “nobody” như tác giả tự nhận, ít ra là đối
với tôi. Và bây giờ chúng ta hãy bắt đầu.
Cuốn sách xuất bản từ đầu năm 2012. Giữa tháng 11-2012, tôi vào website
của đại học Indiana xem có bao nhiêu người đã điểm cuốn sách này, thuộc
giới nào. Đánh vào chỗ “Customer Reviews” trong: http://www.iupress.indiana.edu/product_info.php?%20%20products_id=778163
thì thấy hiện ra mấy chữ sau “Hiện nay không có bài điểm sách nào”
[There are currently no reviews.] Tìm thêm trên Internet cũng không thấy
có thêm “người điểm sách” (reviewers) nào khác.
Nguyễn Công Luận đúng là một thứ “somebody”, theo Đoàn Thanh Liêm,
vì trong cuốn sách tác giả “nói quá” về mình hơi nhiều, danh
từ hiện đại gọi là “nổ”, tuy rằng nhiều chỗ tác giả tỏ ra mình rất khiêm nhường,
cho mình là “nobody”, hay là chẳng làm được gì đáng kể cho quốc gia, cho
quân đội. Bởi vậy nên Đoàn Thanh Liêm mới không tin tác giả là “nobody”
mà phải là “nhân vật nổi trội, một thứ “somebody” trong cộng đồng người
Việt ở hải ngoại”[sic]. Muốn biết tác giả đã trở thành một nhân vật
nổi trội như thế nào, chúng ta phải đọc cuốn sách của ông ta mới có
thể trả lời được câu hỏi này.
- ☜ Đọc "Hồi Ký Của Một Nạn Nhân Trở Thành Chiến Binh" của Nguyễn Công Luận
Tên cuốn sách là Hồi Ký Của Một Nạn Nhân Trở Thành Chiến Binh, nhưng
đọc Nguyễn Công Luận tôi vẫn không nắm được tác giả là “nạn nhân” của ai, đã
chịu những “khổ nạn” như thế nào, và ai hay cái gì đã
gây ra khổ nạn cho tác giả. Tôi chỉ có thể nghĩ đến ba trường hợp mà
tác giả là nạn nhân, nghĩa là khổ nạn của chính tác giả. Một là trường
hợp thân phụ của tác giả, VNQDĐ, bị Việt Minh bắt rồi chết ở trong
tù năm 1950, khi đó tác giả mới 13 tuổi, do đó có ảnh hưởng đến tinh thần
của tác giả. Năm 15 tuổi, tác giả học ở Nam Định, thành phố đã ở dưới
quyền Pháp từ năm 1947, theo tác giả, nhưng cho tới năm 1952 tác giả
vẫn thường về thăm bà nội và cậu ở quê nhà, khi đó nằm trong quyền kiểm soát
của Việt Minh, và các du kích quân Việt Minh vẫn thân thiện với tác
giả (I
was still able to come back to visit my grandma and uncle.., and the
Việt Minh guerillas were still friendly to me.) Vậy tác giả không
phải là nạn nhân của Việt Minh, hay là nạn nhân trực tiếp của chính
sách độc tài hiểm ác và gian trá của đảng cộng sản ở Việt nam như
Đoàn Thanh Liêm viết để tố Cộng thêm cho tác giả, vì năm 1954 tác giả
đã cùng gia đình thoải mái di cư vào Nam. Trường hợp thứ hai là, khi
tác giả 14 tuổi, bị lính Pháp da đen đánh đập tàn nhẫn rồi nhắm bắn
bằng tiểu liên nhưng bắn trượt, theo lời kể lại của tác giả. Chúng
ta sẽ đọc chi tiết về vụ này trong một đoạn sau. Trường hợp thứ ba
là nạn nhân của thời cuộc cũng như tất cả người dân hai miền trong cuộc
chiến. Lẽ dĩ nhiên tôi không thể phê bình chi tiết một cuốn sách dày
600 trang mà phần lớn không thuộc nội dung của một cuốn Hồi Ký, cho nên
tôi chỉ điểm qua một số biến cố lịch sử tác giả viết trong đó, và tôi
nghĩ như vậy cũng đủ để đọc giả đánh giá giá trị cuốn sách. Trước hết
là vài điều về cá nhân tác giả, tuy không cần thiết nhưng trong trường
hợp về cuốn Hồi Ký đặc biệt này, chúng có thể giúp chúng ta biết rõ hơn
về con người của tác giả.
☜ 1. Về Cá Nhân Tác giả:
Trong Chương I, Một Buổi Sáng Kinh Khủng (A Morning of Horror),
tác giả kể chuyện tác giả ở trong làng vào mùa hè năm 1951, không nói
rõ làng nào, tác giả, lúc đó mới có 14 tuổi, bị một tên lính da đen đánh
đập tàn nhẫn:
Nó bắt đầu đánh tôi mạnh, đấm vào ngực vào mặt tôi, và đá vào sườn
vào bụng tôi. Khi nó ngưng, tôi mở mắt ra và hi vọng mong manh là mọi
chuyện đã qua. Tôi đã lầm. Nó lấy khẩu tiểu liên mà nó treo trên một
cây nhỏ gần đấy khi đánh tôi, và trước khi tôi biết cái gì sẽ xẩy ra,
nó đá mạnh vào ngực tôi. Tôi mất thăng bằng và ngã xuống đất. Nằm
trên các khuỷu tay, tôi có thể thấy tên lính lên cò khẩu tiểu liên
Pháp Mat-49 của hắn một tay cầm súng chĩa vào tôi. Và nó lóe lửa với
những tiếng điếc tai nhưng quá nhanh tôi nghe không kịp. Tôi vẫn có
thể nhận ra được chỉ có một hay hai viên đạn được bắn ra, rồi ổ đạn
hết đạn.
(He began hitting me hard, punching my chest and my face, and kicking
my ribs and stomach. When he stopped, I openmy eyes and had a faint hope
that it was all over. I was wrong. He picked up the submachine gun that
he hung on a small tre nearby while beating me, and before I knew what
would be happening, he kicked me hard in the chest. I lost balance and
fell over the soft soil. Lying on my elbows, I could see the soldier
cocking his French Mat-49 submachine gun and pointing at me with one hand.
And it flashed with something deafening but so quick that I could hardly
hear it. I was still able to reckon that only one or two rounds were
shot, then the magazine was empty..)
Lẽ dĩ nhiên tên lính này bắn rất dở cho nên dùng tiểu liên mà bắn
một đứa bé 14 tuổi vừa bị đá ngã ngay dưới chân mình mà cũng không trúng,
cho nên ngày nay tác giả mới có cơ hội thuật lại phép lạ xẩy ra cho tác
giả như trên. Năm 1951, tác giả 14 tuổi, và ở một làng quê, nhưng tác
giả, trong trường hợp như vậy, bị giầy đinh đá mạnh vào ngực ngã xuống
đất, nằm trên các khuỷu tay, vẫn có thể ngước đầu lên và tinh mắt
nhận ra súng tiểu liên của tên lính Pháp là Mat-49. Tác giả đã học về
các loại súng khi mới 7 tuổi. Nhưng có một vấn đề khó hiểu là trong cùng
một Chương tác giả viết: “Từ năm 1950, làng tôi đã ở dưới sự kiểm soát
của quân đội Pháp.” (Since 1950, my village had been under French
military control). Vậy tại sao đến mùa hè 1951 lính Pháp vẫn đi càn quét
và đánh đập bắn giết dân làng? Vào thời đó chỉ có những làng Công giáo
đặc biệt mới ở dưới quyền kiểm soát của quân đội Pháp. Chúng ta biết,
ngay những làng ở ngoại thành Hà Nội, tình trạng là “tề ban ngày, Việt
Minh ban đêm”. Đặc biệt chỉ có Bùi Chu, Phát Diệm được Pháp cấp vũ khí
cho để thành những khu “tự trị” (sic) với nhiệm vụ săn lùng tiêu diệt
kháng chiến cho Pháp và cho Chúa.
Chúng ta hãy đọc một đoạn tiếp theo sau khi tác giả bị đánh đập tàn nhẫn:
“Đi qua một bức tường trắng dưới ánh nắng chói chang, tôi nhìn
bóng tôi (trên tường) và tôi có thể nhìn thấy mặt tôi đã xưng
vù lên như thế nào. Nó chắc phải là biến dạng nhiều”
(Passing by a white brick wall under the bright sunshine, I looked
at my silhouette and I could see how my face was swollen. It must have
been badly deformed.)
Tác giả quả là có biệt tài, quay mặt nhìn vào cái bóng của mình trên
tường mà có thể nhận ra được bao nhiêu chi tiết trên mặt như xưng vù và
biến dạng.-->Hơn nữa tác giả còn có khả năng nghe và ngửi một cách phi
thường trong đoạn sau đây:
“Thường thường chúng tôi có thể biết là chúng (những lính Tây
đi càn quét) đến gần như thế nào bằng tiếng giầy đinh của chúng (trên
đường đất làng) và mùi thuốc lá chúng hút, có thể nhận ra được từ
xa gần 2 cây số (a mile or more away)”
(Often we could tell how near they were by the sound of their heavy
boots and the smell of the tobacco they smoked, which could be detected
from a mile or more away.)
Đó là vài lời rất "trung thực" và "chính trực" của tác giả Nguyễn Công
Luận.
Bây giờ chúng ta hãy bước sang Chương II: Những Năm Niên Thiếu
và Giáo Dục Của Tôi (My Early Years and Education). Chúng ta hãy
đọc một đoạn phim về bom Mỹ thả xuống Việt Nam, trong thời kỳ Nhật chiếm
đóng, vào khoảng 1944, khi đó tác giả 7 tuổi và đang học trong
trường làng:
Một buổi trưa trong khi bọn trẻ nam nữ chúng tôi đang chơi ở sân
trường rộng, một máy bay đột nhiên nhô ra trên giàn tre cao ở vài trăm
mét phía bên kia sông. Nó bay nhanh và quá thấp cho nên chúng tôi có
thể nhìn thấy tên phi công. Chúng tôi kêu khóc, và những thầy giáo
hét lên bảo chúng tôi đừng chạy. Chúng tôi đã được dạy là đứng yên
khi máy bay tới để cho phi công không thấy chúng tôi. Vài giây sau,
một máy bay khác bay theo, nổ súng ầm ĩ và làm cho chúng tôi sợ hơn
khi máy bay trước tới. Chúng tôi không dám cử động ngay cả một phút
sau khi hai máy bay đã biến mất ở chân trời. Thầy giáo chúng tôi nói
máy bay đầu là một máy bay bỏ bom của Mỹ và máy bay đuổi theo là của
Nhật.
(One noon while we boys and girls were playing in the large schooyard,
a plane suddenly popped out over the tall bamboo grove on the other side
of the river several hundred yards away. It roared in fast and so low
that we could see the pilot. We all cried, and the teachers shouted to
stop us from running. We had been taught to stand still when a plene
came so that the pilot would not notice us. A few second later, another
plane followed. Its gun barked noisily and frightened us much more than
the first. We dared not mov, even a minute after both had disappeared
in the horizon. Our teacher said the first was an American bomber and
the chasing plane was Japanese.)
Nếu máy bay bay thấp trên đầu ngọn tre và phi công thấy một đám trẻ
con 7, 8 tuổi đang chạy tán loạn thì phi công đó sẽ làm gì? Bỏ bom
hay bắn. Hay bay qua rồi bay trở lại để bỏ bom hay bắn đám trẻ. Có
vẻ như tác giả cho rằng đã 68 năm qua rồi chắc chẳng còn ai ở ngoài Bắc
hồi đó để biết thế nào là bom Mỹ. Vào năm đó, 1944, ai cũng biết là,
máy bay Mỹ bỏ bom bao giờ cũng bay tít trên cao và đôi khi có súng sao
xạ của Nhật bắn lên. Chưa ai từng thấy máy bay bỏ
bom bay sát ngọn cây và cũng chưa từng thấy máy bay Nhật đuổi theo máy bay bỏ bom. Có đuổi
theo thì đuổi theo máy bay chiến đấu chứ không có
chuyện đuổi theo máy bay bỏ bom ở tít trên cao. Điện Biên Phủ trên không là do SAM bắn lên
chứ không phải Mig đuổi theo B 52. Có lẽ ký ức của
tác giả có vấn đề như
chúng ta có thể nhận thấy trong nhiều đoạn sau của cuốn sách.
Tựa của Chương II là: Những Năm Niên Thiếu và Giáo Dục Của Tôi nhưng
tôi không thấy trong đó tác giả nói về giáo dục của tác giả là như thế
nào. Chỉ có vài nét là học lớp 1 (khi 6 tuổi), lớp 2 (khi 7 tuổi), rồi
lớp 4, và trung học nhưng tác giả không cho biết là học trường nào, học
đến lớp mấy và giáo dục nhà trường ra sao. Có vài chi tiết về giáo dục
của tác giả thời niên thiếu, nhưng không phải là giáo dục thông thường
trong các trường học mà là giáo dục đặc biệt của gia đình. Chúng ta hãy
đọc vài đoạn tác giả “nổ” về giáo dục tự học và giáo
dục gia đình.
Năm 6 tuổi, tác giả đang học lớp 1": “Từ 6 tuổi, tôi
thường được phép nghe nhiều cuộc thảo luận [về chiến tranh và chính
trị] của cha tôi với các bạn của ông. Cho nên tôi đã biết về
chiến tranh và chính trị…“ (From the age of six, I was often
permitted to listen to many of his conversations with his friends.
Therefore, I knew about war and politics in a childish way much sooner
than I should have)
Năm 7 tuổi, tác giả đang học lớp 2: “Tôi có thể đọc vài
phần trong những tờ nhật báo và tuần báo mà cha tôi mang về nhà. Hàng
ngày tôi đọc về chiến tranh ở Trung Quốc và Âu Châu, học hỏi về các
loại súng, máy bay chiến đấu, hàng không mẫu hạm, tàu khu trục, tuần
dương hạm, tàu ngầm, và các hỏa tiễn V-1 và V-2 trước khi tôi được dạy
về khoa học, toán, lịch sử và địa lý” (At age 7, I could
read some parts of newspapers and magazines that my father brought home.
Every day I read about the war in China and Europe, learning about guns,
warplanes, aircraft carriers, destroyers, cruisers, submarines, and
V-1 and V-2 rockets before I was taught science, math, history and geography.)
Khi đó tác giả sống trong một làng nhỏ ở ngoài Bắc. Không hiểu thân
phụ tác giả làm ở đâu mà trong thời đó, 1944, có thể mang những loại báo
đó về nhà. Tác giả không cho biết những tờ báo tác giả đọc vào năm 1944
khi tác giả lên 7 tuổi là những tờ nào, xuất bản ở đâu, tên là gì, có
thể vì những chi tiết này không quan trọng nên tác giả thấy không cần
thiết phải nói rõ, ai muốn tin thì tin, không tin thì thôi.
Năm 1946, 9 tuổi: Cha tôi thường mang một khẩu súng lục
cỡ .25. Ông dạy tôi phải giữ gìn cái vật nhỏ nhoi trông giống như một
đồ chơi của con nít nhưng có thể giết người. Tôi yêu thích khẩu súng
đó. Ông chỉ cho tôi biết tháo khẩu súng, lau chùi và sử dụng nó như
thế nào.
(My father often carried a .25 caliber pistol. He taught me how to
take care of the little thing that looked like a toy but could kill.
I loved it. He showed me how to disassemble, clean and use it.)
Tôi quả thật lấy làm tội nghiệp cho một nền giáo dục gia đình như
vậy đối với một đứa trẻ 7, 8 tuổi. Hàng ngày không kiểm soát xem con
mình đọc những gì, có thích hợp với tuổi của nó không. Không
những thế còn dạy nó sử dụng đồ giết người. Chắc tác giả phải lấy làm hãnh diện
về nền giáo dục gia đình như vậy cho nên khi tác giả đã trưởng thành và có
gia đình, tác giả cũng lại áp dụng nó với con mình:
Trong thời chiến, vì tôi phải giữ khẩu súng lục trong nhà, tôi
cũng huấn luyện hai đứa con trai và hai đứa con gái tôi, từ 5 đến 12
tuổi, theo cùng một cách. [nghĩa là dạy chúng biết tháo súng, chùi
súng, lắp súng và sử dụng súng] Tôi để cho chúng bắn vào những vật
như những viên gạch hay quả dừa để cho chúng thấy súng nguy hiểm như
thế nào.
(During wartime, as I had to keep my pistol at home, I trained my two
sons and my two daughters ages five to twelve the same way. I allowed
them to shoot at objects like bricks or coconut to se how dangerous a
gun could be.)
Có một chuyện tác giả kể khiến tôi phân vân không ít. Theo tác giả
thì thân phụ tác giả là VNQDĐ, tất nhiên là yêu nước chống Pháp. Nhưng
trong khi thân phụ tác giả sống ở trong làng dưới quyền kiểm soát của
Việt Minh thì một sĩ quan Pháp ở Nam Định lại nhờ một người bạn của
thân phụ tác giả mang một thư liên lạc với thân phụ tác giả, hứa cho thân phụ
tác giả một chức vụ cao ở Nam Định. Nếu thân phụ tác giả chấp nhận
thì Pháp sẽ mở cuộc hành quân nhỏ về làng để mang, dưới hình thức bắt (capture),
cả gia đình tác giả về thành (if my father accepted the proposal,
a small-scale operation would be conducted on our village area to bring my
whole family to the city). Như vậy thì thân phụ tác giả
phải là người thế nào đối với Pháp, nên Pháp mới đưa ra một đề nghị đặc biệt với một cá nhân
như vậy. Tác giả viết, nhưng thân phụ tác giả đã từ chối và viết thư trả lời
cho viên chỉ huy Pháp là “không thể nhận lời vì Pháp chỉ muốn tái
lập chế độ thuộc địa ở Việt Nam”. Đúng là một người yêu nước!
Cuộc đời niên thiếu của tác giả có nhiều chuyện
phi thường. Thí dụ,
một đêm trời tối, tác giả bò qua hàng rào giây thép gai của một doanh
trại lính Ma-rốc để dán truyền đơn bằng tiếng Ma-rốc, kêu gọi lính Ma-rốc
hãy đối xử nhân đạo với nông dân Việt Nam (The leaflet called on Maroccan
soldiers to treat the Vietnamese peasants with humanity). Tác giả thuê
một anh cai người Ma-rốc, bạn của tác giả, viết truyền đơn bằng tiếng
Ma-rốc rồi tác giả in bằng một nhà in nhỏ trong làng. (A Moroccan
corporal friend of ours wrote the text in his language, and we printed
it with help from a small printing house). Trong khi dán truyền đơn tác
giả đánh rơi mất tấm thẻ học sinh. Đêm sau, tác giả lại bò vào doanh
trại trên và kiếm lại được tấm thẻ học sinh. (I found it and sneaked
out without being dicovered). Có lẽ Ian Fleming cũng không thể nào viết
về James Bond hay hơn vậy. Anh lính Lê Dương Ma-rốc này còn dạy tiếng
Anh (English) cho tác giả.
Nhưng không phải chỉ có vậy. Chúng ta hãy đọc tác giả “nổ”
về chuyện nhập học trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào năm 1955, khi tác giả 18 tuổi.
Cho tới năm 1955, chính quyền Diệm đã thu hồi hoàn toàn chủ quyền
quốc gia từ Pháp. Vào khi chúng tôi đến học viện (quân sự), hầu hết
các sĩ quan Pháp đã ra đi, ngoại trừ vài người ở lại trong toán huấn
luyện viên, gồm có cả một số sĩ quan Mỹ. Học viện đã được cải cách
theo khuôn mẫu của trường West Point của Mỹ, trong khi giữ lại những
quan niệm của trường Saint Cyr của Pháp và quan niệm về những đường
lối binh bị và truyền thống của Việt Nam.
Trường Liên Quân Đà Lạt được thành lập năm 1948 bởi bộ tư lệnh
Pháp ở Việt Nam. Vào năm 1960 trường trở thành Trường Võ Bị Quốc
Gia.
Vì học trình có tính cách thí nghiệm đòi hỏi nhiều thời gian
hơn bình thường, chúng tôi phải làm việc 8 tiếng một ngày và đôi
khi phải học thêm những lớp học ban đêm. Học trình gồm có những
chiến thuật, vũ khí, đánh xáp lá cà, thể dục và giáo dục tổng quát
(toán, vật lý, sử, địa lý, luật và tiếng Anh)
(By October 1955, the Diệm government had recovered full national sovereignty
from the French.. By the time we arrived at the academy, most of the French
officers had departed, except a few who remained in the joint training
teams, which also included some American officers. The academy had
been reformed to follow the pattern of the US Military Academy at West
Point, while retaining concepts of the French Military Academy at Saint
Cyr and of the Vietnamese Military ways and traditions…
Đà Lạt Inter-Arms Mulitary School was established in 1948 by the French
Command in Vietnam. In 1960 it became the National Military Academy…
Because the experimental curriculum required much more time than usual,
we had to work 8 hours a day and sometimes spend extra hours in night
classes as well. That included combat tactics, weaponry, combat arms,
physical training and general education (math, physics, history, geography,
law and English).
Thứ nhất, ông Diệm thu hồi chủ quyền bằng cách nào? Ông Diệm được
Quốc Trưởng Bảo Đại cho làm Thủ Tướng, mà chính quyền Bảo Đại lại là chính
quyền bù nhìn của Pháp. Rồi ông Diệm phản bội lời thề trung thành với
Bảo Đại, dựng ra trò Trưng Cầu Dân Ý, truất phế Bảo Đại, để lên làm Tổng
Thống, được Mỹ tin cậy và hi vọng chống Cộng cho Mỹ. Không có trận Điện
Biên Phủ thì ông Diệm còn nằm trong mấy nhà Dòng ở ngoại quốc, trong khi
người dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, được Mỹ bưng về làm
Thủ Tướng chính phủ bù nhìn còn dưới quyền Pháp ở miền Nam rồi sau đó
Pháp, tuy chưa muốn bỏ nhưng bị áp lực của Mỹ và tình trạng nội bộ sau
khi thất trận nên Pháp bắt buộc phải nhượng bộ và bỏ Việt Nam chứ ông
Diệm, dựa vào cái gì để mà thu hồi chủ quyền quốc gia. Chuyện thu hồi
này là do Mỹ đưa ông về rồi lấy cái gọi là chủ quyền quốc gia chỉ có trên
hình thức đặt vào tay ông.
Thứ nhì, đọc đoạn trên của tác giả chúng ta có cảm tưởng là tác giả
xuất thân từ một Trường Võ Bị cao cấp mà chương trình học giống như của
trường West Point của Mỹ hay Saint Cyr của Pháp. Nhưng tác giả “nổ”
bậy. Vì năm 1948 không làm gì có trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt mà chỉ
có trường sĩ quan hiện dịch ở Đập Đá, Huế. Khi mới thành lập năm 1948
ở Huế, trường Đập Đá có 2 khóa, thời gian huấn luyện tại trường chỉ kéo
dài 9 tháng. Mấy ông tướng Patton của Việt Nam được Pháp huấn luyện đều
xuất thân từ hai khóa này. Tháng 10-1950 trường dọn về Đà Lạt và bắt đầu
Khóa 3, với tên mới là École Militaire Inter-Armes de Dalat. Trường chánh
thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân sau khi người Pháp rời Việt
Nam năm 1955, và trở thành Trường Võ Bị Quốc Gia từ tháng 4 năm 1963 (Sắc
Lệnh 325-QP, 10-4-1963), không phải là từ năm 1960 như tác giả viết. Năm
1957 thời gian huấn luyện tăng lên thành 12 tháng rồi đến năm 1961 là
2 năm. Sau đó tăng lên 4 năm nhưng có khóa phải cho ra trường sớm vì
nhu cầu chiến sự.
Năm 1955, khi tác giả nhập học Khóa 12, tác giả đang học Trung Học,
trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt không đòi phải có Tú Tài, nhận cả những
người đang học Đệ Tam hay Đệ Nhị, nghĩa là chưa có Tú Tài I. Từ đầu thập
niên 1960, Trường mới được tổ chức phỏng theo West Point hay Saint Cyr
như tác giả viết, nhưng không phải là vào niên khóa 1955-1956. Trình độ
West Point hay Saint Cyr là trình độ đại học, chương trình học 4 năm.
Nhưng năm 1962, trước tình hình chiến sự Trường phải rút ngắn chương trình
học thành 2 năm và cho sinh viên ra trường sớm. Sau năm 1965, Mỹ đổ quân
vào Việt Nam, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhẹ gánh nặng chiến đấu, nhường
cho Mỹ đánh thay, nên bắt đầu từ năm 1966 Trường lấy lại chương trình
4 năm, từ Khóa 22 cho đến khi miền Nam sụp đổ. Năm 1955, trong Trường
Võ Bị chưa có Văn Hóa Vụ, vậy ai dạy “toán, vật lý, sử, địa lý, luật
và tiếng Anh” cho tác giả? Giữa thập niên 1960, vào những năm
1965-66, Văn Hóa Vụ còn thiếu giáo sư các ngành chuyên môn.Tác giả “nổ”
để tự đề cao đánh bóng mình nhưng nổ không đúng chỗ. Vì tác giả không
thể ngờ được là có Trần Chung Ngọc, nguyên Trưởng Khoa Khoa Học (Vật
Lý và Hóa Học) Văn Hóa Vụ từ 1962 đến 1965, dưới thời Đại Tá Trần Ngọc
Huyến, rồi ông Tướng xịt muỗi nói tục và phách lối nhất hành tinh là Trần
Tử Oai, rồi Đại Tá Trần Văn Trung, và cuối cùng là Tướng Nguyễn Văn Kiểm, đang
điểm sách của tác giả. Tác giả khẳng định là viết lại ký ức với cố
gắng hết sức để viết một cách lương thiện…, nhưng sự lương thiện của
tác giả để ở đâukhi tác giả phịa ra những chuyện không hề có về chương
trình học ở trường Võ Bị Liên Quân ngang với West Point hay Saint Cyr
vào những năm 1955-56 để tự đánh bóng mình. Có lẽ tác giả cho rằng chẳng
có ai biết gì về mấy trường quân sự ở Việt Nam cho nên tác giả tha hồ
viết.Lẽ dĩ nhiên cũng có người tin như Đoàn Thanh Liêm hay Mặc Giao, vì
đối với hai đại phê bình gia này thì tác phẩm của Nguyễn Công Luận rất
đặc sắc, phải phổ biến cho mọi người cùng đọc để mà học hỏi biết sự thật.
☜ 2. Về Vài Biến Cố Lịch Sử Theo Tác Giả.
Bây giờ chúng ta hãy sang vài điều thuộc các lãnh vực khác để qua đó
chúng ta có thể biết rõ hơn về trí nhớ và kiến
thức thực sự của tác
giả là như thế nào.
Vào tháng 5, 1946, (tác giả 9 tuổi) mẹ tôi và tôi ở Hà Nội
thăm vài người bạn của gia đình. Sáng sớm, không báo trước, cán bộ
Việt Minh đi từng nhà bảo mọi người treo cờ. Chỉ đến buổi chiều họ
mới giải thích đó là ngày sinh của Hồ Chí Minh. Qua mấy ngày sau, phe
đối lập phanh phui ra rằng đó không phải là ngày sinh của Hồ và lệnh
treo cờ là để đón Đô Đốc Georges Thierry d’Argenlieu, một đại diện của
Pháp, chính thức đến viếng thăm Hà Nội.
Ngày nay, không có bằng chứng cụ thể nào chứng tỏ là ngày 19
tháng 5, 1880, là ngày sinh của ông ta. [và tác giả đưa ra
vài tài liệu về ngày sinh khác nhau của ông Hồ]
[On May, 1946, my mother and I were in Hà Nội visiting some family
friends. In the early morning without previous notice, Việt Minh cadres
went from home to home telling people to display flags in front of their
houses. Only later in the afternoon did they explain that it was Hồ Chí
Minh’s birthday. Over the next few days, the opposition revealed that
it was not Hồ’s birthday and that the flag display was ordered only to
welcome Admiral Georges Thierry d’Argenlieu, a French representative,
on his official visit to Hà Nội.
Today, there is no concrete evidence to prove that May 19, 1880, was
his birthday…]
Tôi có cảm tưởng như tác giả đọc chuyện treo cờ này của Hoàng Văn
Chí: “I still remember that morning of May 19, when the
local Viet Minh cadre came to tell every home in our Ha Noi neigborhood
to display the yellow-star-on-red banner, without giving any reason. Only
in the afternoon did he return to tell us that "it is Uncle Ho's
birthday…As to me, I feel sure of one thing: May 19 is not Ho Chi Minh's
true birthday." nhưng lại không biết rõ là treo cờ để đón tiếp
ai nên viết đại ra là để đón d’Argenlieu. Vì sự thật là treo cờ không
phải để đón tiếp tên cựu linh mục hiếu chiến thực dân d’Argenlieu, đến
Việt Nam để toan tính cắm lại lá cờ tam tài trên đó. Cờ treo là để
đón tiếp đặc sứ Pháp Jean Sainteny (French special envoy), người đến
Hà Nội để tiếp tục thương thuyết về chuyện thi hành Thỏa Hiệp 6 tháng
3, 1946, nhưng thất bại vì ông Hồ cương quyết giữ vững lập trường “3 Kỳ
là một” trong khi Pháp muốn tách rời thuộc địa Nam Kỳ của Pháp ra khỏi
sự thống nhất đất nước. Nếu tác giả viết lại theo trí nhớ thì trí nhớ
của tác giả có vấn đề.
Tôi không hiểu ngày sinh của ông Hồ thì có gì là quan
trọng mà tác
giả phải thắc mắc trong một cuốn Hồi Ký. Phải chăng đó là một bằng cớ
“chống Cộng” có giá trị như trong DVD của Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ. Chúa
Giê-su của gần hai tỷ người Ki Tô Giáo mà cũng chẳng ai biết ngày sinh
là ngày nào, năm nào. Mới đầu các tín đồ ăn mừng Lễ Giáng Sinh vào ngày
5 tháng 1, sau đó Ki Tô Giáo quyết định vào ngày Đông Chí mà thời đó cho
là ngày 25 tháng 12 (sai mất mấy ngày), và ngày nay người ta vẫn ào ào
ăn mừng Lễ Giáng Sinh vào ngày 25 tháng 12 mà có ai thắc mắc gì đâu. Chỉ
có những người đọc lịch sử Ki Tô Giáo mới thắc mắc là đáng lẽ ngày 25
tháng 12 phải là ngày mặc niệm không biết bao nhiêu vong hồn trẻ sơ sinh
bị giết chỉ vì Chúa đã sinh ra đời, và hàng triệu vong hồn vô tội chết
oan bởi Ki Tô Giáo để vinh danh Chúa như lịch sử đã ghi rõ, thay vì ăn
mừng. Cũng như người dân Da Đỏ trên đất Mỹ coi ngày lễ Tạ Ơn là ngày
diệt chủng của dân tộc họ, chứ đâu có thể tạ ơn ông Gót của Ki tô Giáo,
nguồn gốc gây ra bao khổ nạn cho dân tộc họ.. [Xin đọc bài http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN26.php
về ngày Lễ Tạ Ơn] Vậy tại sao mấy người chống Cộng cứ thắc mắc về ngày
sinh, ngày chết của ông Hồ?
Trong những cuốn sách thuộc loại Tố Cộng ở hải ngoại, chúng ta thấy
nội dung không thể thiếu những đề mục như “Tiêu diệt
đảng phái”; “Cải cách ruộng đất”; “Tù Cải Tạo” và những “tệ
đoan xã hội” sau 1975 v…v…
và vô số những điều tiêu cực về CSVN và về ông Hồ. Trong cuốn Hồi Ký
của tác giả cũng có đầy đủ những mục này. Sau đây là vài sự cố tác giả
viết.
☜ Thỏa Hiệp ngày 6 tháng 3 năm 1946
Thỏa Hiệp 6/3/46 cho Pháp trở lại thay thế quân Tàu của Tưởng Giới Thạch giải giáp quân Nhật ở một số tỉnh. Đây là bước đi
chính trị rất khôn ngoan với tầm nhìn xa của ông Hồ nhưng bị chống
đối vì lòng yêu nước bài Pháp đang sôi sục và không biết rõ về Hiệp
định 6/3. Muốn hiểu bước đi chính trị này của ông Hồ, hãy đọc Nguyễn
Mạnh Quang trong bài Đánh
Lận Danh Nhân: http://sachhiem.net/NMQ/PCD/NMQ038.php,
mới đăng trên sachhiem.net, về thực trạng những người VNQDĐ đi theo
đoàn quân Tàu Ô vào Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Công Luận viết nhiều về sự thanh toán lẫn nhau giữa
Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) nhưng qua đoạn sau đây, chúng
ta thấy sự thù hận giữa hai bên đã có từ lâu. Nên nhớ, thân phụ tác giả
là đảng viên VNQDĐ và tác giả đã biết nhiều và cũng đã hoạt động cho đảng
này:
Nếu quân Tàu ở lại, những người quốc gia (VNQDĐ) sẽ dẹp
tan Việt Minh ngay [nghĩa là VNQDĐ sẽ dựa vào Tàu để diệt Việt Minh].
Nếu Pháp trở lại, Hồ chỉ còn phải chiến đấu với một kẻ thù, trong khi
người quốc gia khó có thể sống còn bởi những cuộc tấn công của Pháp
và Việt Minh.
[If the Chinese stayed, the nationalists (VNQDĐ) would soon bring an
end to the Việt Minh. If the French returned, Hồ would have to fight
just one enemy, whereas the nationalists could hardly survive attacks
from both the French and the Việt Minh.]
Và đây là vấn đề chính, không phải chỉ là từ một phía như chúng ta
thường được nghe về Việt Minh đối với VNQDĐ. Còn phe nào giết nhiều hơn
đó lại là chuyện khác. Mạnh được, yếu thua là chuyện thường tình trong
thế gian.
☜ Tác giả viết về Cải Cách Ruộng Đất như sau:
Từ những cuộc phỏng vấn không chính thức, tôi khám phá ra nhiều
sự kiện không được nói đến về đời sống ở ngoài Bắc. Một sự kiện
là về Chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, chính sách diệt chủng lớn nhất
trong lịch sử Việt Nam.
Trong cuốn sách Từ Thực Dân Đến Cộng Sản năm 1968 (ấn bản
đầu tiên là vào năm 1964), Tiến sĩ Hoàng Văn Chí khẳng định là
biện pháp “Sửa Sai” là một phần cốt yếu của cuộc Cải Cách Ruộng Đất
đã được kế hoạch kỹ và là một trò bịp để làm yên sự giận dữ của
người dân và làm dịu đi những hậu quả của sự giết hại những đảng
viên trung thành nhưng cứng đầu. Từ những cuộc nói chuyện với những
người chiêu hồi Bắc Việt, tôi kiếm thấy những bằng chứng cụ thể về
thủ đoạn lừa dối có thể chứng minh quan điểm của Tiến Sĩ Chí.
(From informal interviews, I discovered many untold facts about life
in North Việt Nam. One was about the Land Reform Campaign, the largest
genocide in the history of Việt Nam…
In his 1968 book From Colonialism to Communism, Dr. Hoàng Văn Chí asserted
that “Rectification of Errors” was an integral part of the well-planned
Land Reform and a bluff to pacify the angry people and calm down the consequences
of the killing of faithful but stubborn party veterans. From casual talks
with the ethnic North Vietnamese defectors, I found concrete evidence
of the trick that could prove Dr. Chí’s opinion.)
Viết như vậy, và chỉ viết có vậy, tác giả cho rằng trong
lịch sử Việt Nam đã có nhiều cuộc diệt chủng, và Cải Cách Ruộng Đất là cuộc diệt chủng
lớn nhất. Được lính Lê Dương Ma-rốc dạy cho tiếng Anh nên Lê Công Luận
dùng từ “genocide “ [genos= (race) +cide = act of killing], nghĩa là chủ
tâm diệt một dân tộc hay một chủng tộc, để mô tả cuộc Cải Cách Ruộng Đất.
Chống Cộng như vậy thì chỉ tỏ cái vừa ngu vừa dốt của mình. Hiểu biết
về Cải Cách Ruộng Đất của tác giả là từ những lời tác giả viết vu vơ như
“từ những cuộc phỏng vấn không chính thức” [chẳng biết là phỏng
vấn những ai] và “những cuộc nói chuyện với người Bắc Việt về đầu thú”
cho nên tác giả đã kiếm ra những “bằng chứng cụ thể” để cho rằng quan
niệm của Hoàng Văn Chí là đúng sự thật. Xảo thuật của tác giả viết trong
cuốn sách là luôn luôn viết một cách không rõ ràng và
không ai có thể kiểm chứng, những điều khẳng định vô trách nhiệm mà ai muốn viết lên cũng
được, ngay cả về những biến cố quan trọng trong lịch sử cũng không có
tài liệu dẫn chứng. Điều này chúng ta thường thấy trong những bài viết
của một số trí thức Công giáo như Nguyễn Gia Kiểng, Phạm Cao Dương, Lữ
Giang hay Chu Tất Tiến v..v…
☜ Nhưng Hoàng Văn Chí là ai?
☜ Theo những tài liệu của Noam
Chomsky và Edward S. Herman cũng như của Gareth Porter và Edwin E. Moise thì Hoàng
Văn Chí vốn là một địa chủ ở ngoài Bắc, sau đó làm cho Bộ Thông Tin
của Chính Quyền miền Nam, rồi làm việc cho CIA và làm thông dịch viên
cho Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ. Gareth Porter đã vạch ra nhiều
sự gian trá của Hoàng Văn Chí trong mục đích chống Cộng. Thí dụ, thứ
nhất, con số người bị giết trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất Hoàng Văn
Chí đưa ra là 100000 (1 trăm ngàn) và có thể nhiều hơn nữa. Nhưng đọc
nhiều tài liệu khác nhau chúng ta thấy có nhiều con số khác nhau, và
thường thấp hơn nhiều. Của Gareth Porter: từ 800 đến 2500; của
Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng
5000 và chắc chắn trong khoảng từ 3000 đến 15000; của Trương Như Tảng,
David Chanoff và Đoàn Văn Toại trong cuốn “A Viet Cong Memoir”:
nhiều ngàn (thousands); của Bùi Tín trong Mặt Thật: “lên tới
mười mấy ngàn”; của Vũ
Thư Hiên: từ 4000 đến 5000 (4 đến 5 ngàn). Chúng ta không thể
biết chính xác con số bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng
xét đến số làng mạc, ruộng đất ở ngoài Bắc, số địa chủ thực sự, số
nông dân nghèo khổ phải thuê đất [một số của Nhà Chung] để cầy cấy,
và không phải tất cả các địa chủ đều bị giết v..v.. thì con số của
Hoàng Văn Chí đoán mò là không thể tin được. Tại sao? Vì Hoàng Văn
Chí đã
thú nhận là con số nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất chỉ là đoán
mò sau khi bị Gareth
Porter công khai vạch ra những sự giả mạo trong tài liệu của Chí. Sự
thú nhận này là sau khi Porter đã phổ biến cho công chúng con số ngụy
tạo của Chí [Chi eventually conceded that his number of victims
of the land reforms to be merely a “guess” (The Washington Post, 13
September, 1972). This admission came after Porter had made Chi’s
falsification public.]
Thứ nhì, trong bài “The Myth of the Bloodbath: North Vietnam’s Land
reform Reconsidered” (Bulletin of Concerned Asian Scholars, September
1973, pp. 2-15), Gareth Porter đã vạch ra vài đoạn Hoàng
Văn Chí dịch bậy bài thú nhận có sai lầm trong việc thi hành cải cách ruộng đất của
Tướng Võ Nguyên Giáp với mục đích giúp quan thầy Mỹ và miền Nam tuyên
truyền xuyên tạc, thí dụ :
- “Chúng ta không chú trọng đề phòng lệch lạc” đáng lẽ phải
dịch là “We did not pay attention to precautions against deviation”
thì Hoàng Văn Chí dịch là “Chúng ta phạm phải quá nhiều lệch
lạc”
(We made too many deviations);
- “Xử trí oan những người ngay” thay
vì dịch là “the unjust disciplining of innocent people” thì Chí dịch
là “hành quyết quá nhiều người lương thiện” (executed too many
honest people);
- “không nhấn mạnh sự cần thiết phải thận trọng để tránh…”
[did not emphasize the necessity for caution and for avoiding] thì
Chí bỏ đi không dịch (omitted);
- “dùng những biện pháp trấn áp quá đáng”
[used excessive repressive measures] thì Chí dịch là - “xử dụng đến
khủng bố” (resorted to terror);
- “thậm chí dùng phương pháp truy bức”
[even coercive measures were used] thì Chí dịch là “tệ hơn nữa, tra
tấn” (worse still, torture) v..v..
và còn thêm thắt vào những đoạn
không có trong bản văn như “nhìn thấy kẻ thù khắp nơi” (seeing
enemies everywhere) mà Gareth Porter không tìm thấy trong bản gốc (not
in original).
Noam Chomsky và Edward S. Herman còn vạch ra rằng, trong những cuộc
phỏng vấn vào năm 1955, Hoàng Văn Chí không hề nói gì đến cuộc cải cách
ruộng đất và con số những nạn nhân. Chỉ trong vài năm sau, sau khi
Mỹ và Saigon biết đến những vấn đề trong cuộc cải cách ruộng đất từ những
cuộc thảo luận trên báo chí ở Hà Nội mà Moise cho là “thẳng thắn
kỳ lạ trong sự thảo luận những sai lầm và thất bại” (sometimes extraordinarily
candid in discussing errors and failures”, Chí mới “nhớ lại” những
điều viết trong tài liệu của mình.
Noam Chomsky và Edward S. Herman viết trong cuốn The Political
Economy of Human Rights, Vol. I, South End Press, Boston, 1979,
trang 342:
“Nguồn thông tin căn bản về những con số giết chóc lớn trong
cuộc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt là từ những người của CIA hoặc Bộ Thông
Tin Tuyên Truyền Saigon. Theo một người Việt Công giáo nay sống ở Pháp,
Trung Tá Nguyễn Văn Châu, Chỉ Huy Cơ Quan Chiến Tranh Tâm Lý Trung Ương của
quân đội Saigon từ 1956 đến 1962, số nạn nhân bị “tắm
máu” trong cuộc cải cách ruộng đất là “100% dựng
lên” bởi cơ quan tình báo Saigon. Theo
Trung Tá Châu, một chiến dịch có hệ thống dùng các tài liệu ngụy tạo để bôi
nhọ đối phương được thi hành vào giữa thập niên 1950 để biện
minh cho sự kiện là Diệm từ chối không thương thuyết với Hanoi trong việc sửa soạn tổ chức cuộc
bầu cử để thống nhất đất nước quy định vào năm 1956.”
(The basic sources for the larger estimates of killings in the North
Vietnamese land reform were persons affiliated with the CIA or the Saigon
Propaganda Ministry. According to a Vietnamese Catholic now living
in France, Colonel Nguyen Van Chau, head of the Central Psychological
War Service for the Saigon Army from 1956 to 1962, the “bloodbath” figures
for the land reform were “100% fabricated” by the intelligence services
of Saigon. According to Colonel Chau, a systematic campaign of
vilification by the use of forged documents was carried out during the
mid-1950s to justify Diem’s refusal to negotiate with Hanoi in preparation
for the unheld unifying elections originally scheduled for 1956)
☜ Giáo sư sử học James P. Harrison cũng viết trong cuốn The Endless
War: Vietnam Struggle For Independence, Columbia University Press,
1989, trang 149:
“Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu kỹ về sau đã ước tính là
con số những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc là vào
khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù, theo một tác giả, hoặc có thể lên
tới 15000 theo một tác giả khác, và do đó hầu hết những con số tuyên truyền
của Saigon về vấn đề này là những con số phóng đại nếu không phải là hoàn toàn
dựng đứng.”
(Careful later studies, however, have estimated that the true figures
for those executed in the noerthern land reform may have been more like
1500 plus 1500 jailed according to one, or possibly up to 15000 killed
according to another, and therefore that most of Saigon’s propaganda on
the subject was exaggerated if not a “total fabrication”.)
Đưa ra những tài liệu phản biện như trên không có nghĩa là tôi
biện hộ cho chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất của Việt Minh mà chỉ là đối với tôi, những
tài liệu ngụy tạo để chống Cộng như trên có thể thích hợp trong thời chiến, nhưng
nay viết lại lịch sử thì phải viết cho đúng với sự thật, bất kể sự thật đó
là như thế nào. Mặt khác, nếu số người bị giết trong cuộc Cải Cách Ruộng
Đất như trên mà gọi là “genocide” thì số 300000 (3 trăm
ngàn) người chết oan trong chiến dịch tố Cộng của Ngô Đình Diệm thì gọi
là gì?
Trên đây là một số trong những hình ảnh
trong chính sách Tố Cộng tàn nhẫn của chính quyền miền Nam.
Những người chống Cộng thường chỉ viết có một chiều, không bao giờ quay lại
để suy tư về những hành động trong cuộc chiến của phía Quốc gia và Mỹ. Vì
đầu óc của dọ chỉ nghĩ có một chiều, và không đếm xỉa gì đến sự thật lịch sử,
nên họ viết ít thì sai ít, viết nhiều thì sai nhiều, càng viết càng sai. Sau đây là vài thí dụ.
☜ Đạo luật 10-59 của Ngô Đình Diệm
Để sửa soạn biện hộ cho đạo luật 10-59 của Ngô Đình Diệm, Nguyễn Công
Luận viết:
Những người Cộng sản không ngưng những hoạt động du kích sau Hiệp
Định Geneva được ký kết vào năm 1954. Chúng không lộ liễu, chỉ có những
cuộc tấn công khủng bố ở các vùng xa.
(The communists did not stop all guerrilla activities after the Geneva
Accords were signed in 1954. They only kept it at low profile by conducting
terrorist attacks in remote areas.)
Thứ nhất, những người kháng chiến ở lại miền Nam không phải đều là
Cộng sản. Khi đó những người kháng chiến chống Pháp thường không biết
Cộng sản là gì. Thứ nhì, tài liệu Ngũ Giác Đài cho biết, những người
ở lại miền Nam được lệnh chỉ tranh đấu chính trị cho cuộc Tổng Tuyển
Cử vào năm 1956 mà họ hi vọng sẽ đoạt được thắng lợi. Nhưng khi Ngô Đình
Diệm mở chiến dịch “Tố Cộng, diệt Cộng”, giết người bừa bãi ở miền Nam,
cộng với việc Diệm từ chối không thi hành Tổng Tuyển Cử, cho nên từ đó
mới có cuộc nổi giậy của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Sau đây chúng ta hãy đọc tác giả viết về đạo luật 10-59:
Đảng Cộng sản dựa trên chiến dịch khủng bố của họ như là công cụ
chính để lật đổ ở miền Nam… Đó là tại sao chế độ Diệm ban hành đạo
luật 10-59. Đối với những người bị kết tội ám sát, bắt cóc, và phá
hoại để lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, đạo luật này cần có những
hình phạt nặng hơn là những hình phạt trong những trường hợp phạm tội
ác bình thường. Luật 10/59 không cho phép kháng
cáo. Đạo luật chắc
phải là một đòn nặng cho những người Cộng sản. Từ Hà Nội đến Bắc Kinh
và Mạc Tư Khoa, ở Nam Việt Nam và trong nhiều quốc gia khác, Cộng sản
Việt Nam ồn ào kết tội chính phủ Việt Nam dùng đạo luật đó như là một
dụng cụ để “tàn sát những người yêu nước” và “lê máy chém khắp Nam Việt
Nam để hành quyết hàng ngàn người vô tội. Theo như tôi biết, những
chức quyền Việt Nam Cộng Hòa chỉ áp dụng luật này để xử tử có một tá
quân phiến loạn Cộng sản trước năm 1975.
[The Communists Party relied on its terrorist campaign as the primary
tool of subversion in the South… This was why the Diệm regime enacted
Law 10/59. For those convicted of assassination, abduction, and sabotage
in order to subvert the RVN government, this law would require aggravated
sentences more severe than in the regular criminal cases. Law 10/59 did
not allow for appeal.The law must have been a hard blow to the communists.
From Hà Nội to Beijing and Moscow, in South Vietnam and in other countries,
Vietnamese Communist loudly accused the South Vietnamese government of
using the law as a tool “to massacre patriots” and “drag the guillotine
all over South Việt Nam to execute thousand innocent people. “ As far
as I know, the RVN authorities only executed a dozen communists rebels
under the law before 1975.]
Bằng cách nào mà những vụ khủng bố, phá hoại, bắt cóc
lẻ tẻ có thể lật đổ được một chính quyền? Tác giả thử giải thích cho đọc giả nghe
xem có xuôi tai không. Việt Cộng thi hành chính sách khủng bố nhằm
hai mục đích: thứ nhất, gây bất an cho chính quyền VNCH ở hậu phương đồng
thời chứng tỏ sự có mặt của họ; thứ hai, để kéo dân sống dưới ách cường
hào ác bá về phía họ. Chúng ta biết, Việt Cộng sống còn là nhờ dân.
Nguyễn Công Luận phục vụ trong ngành Chiến Tranh Tâm Lý mà không biết
được những điều sơ đẳng này, nên viết nhảm là chiến dịch khủng bố nhằm
lật đổ chính quyền miền Nam.
“Lê máy chém khắp miền Nam” rõ ràng là tuyên truyền của Bắc Việt
và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để bi thảm hóa vấn đề trước dư luận Quốc
tế chứ không phải là sự thật, và những con số nạn nhân của máy chém VC
đưa ra ở Củ Chi chắc chắn là phóng đại. Tuy nhiên, không như tác giả
Nguyễn Công Luận viết, đạo luật 10-59 không chỉ áp
dụng cho những người bị bắt quả tang vì tội khủng bố hay phá hoại, mà
có thể áp dụng cho bất cứ ai bị nghi là Cộng sản, hay phổ biến tài liệu của Cộng sản. Đạo luật
10-59 có thể nói là tiếp nối chính sách “tố Cộng, diệt Cộng” của Ngô Đình
Diệm. Chính sách “tố Cộng, diệt Cộng” là chính sách của Ngô Đình Diệm
khi còn là Thủ Tướng, được thi hành từ 1954, và kéo dài trong nhiều năm
sau khi Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống.
Hiệp định Geneva cấm trả thù
những người kháng chiến (Article 14 (c)) nhưng Ngô Đình Diệm là người
Công giáo cuồng tín nên nồng nhiệt chống Cộng sản vô thần, truy tìm
và tiêu diệt những người tham gia hoặc có liên quan đến Việt Minh trong
thời kháng chiến, một hình thức chống Cộng cho Chúa và có thể để trả thù
cho người anh cả Ngô Đình Khôi và người cháu Ngô Đình Huân bị Việt Minh
giết. Chiếu theo Điều 7 củaHiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 thì "những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với nguyên tắc ghi trong Hiến pháp" nên chính phủ càng dựa vào đó bắt giam những người tình nghi là Việt Minh hoặc hợp tác với cộng sản và tùy ý xét xử.
Đạo luật 10-59 thiết lập các Tòa Án Quân Sự, cuộc xử các bị can theo
mẫu Kafka trong đó luật sư buộc tội, người biện hộ, và quan tòa chỉ
là một và như nhau. Chỉ có hai bản án: xử tử hoặc khổ sai chung
thân, không có quyền kháng cáo, và án lệnh phải thi hành trong vòng
3 ngày.
Theo tài liệu của http://www.sparknotes.com
(http://www.sparknotes.com/history/american/vietnamwar/section4.rhtml) thì:
“Vào tháng 5, 1959, Diệm ban hành đạo luật 10-59, thiết lập các
Tòa Án Quân Sự để đi săn lùng Cộng sản ở Nam Việt Nam, những người mà
ông ta nhạo báng là Việt Cộng. Những Tòa Án này không đếm xỉa gì
tới công lý, và đạo luật 10-59 đã được áp dụng một cách tàn bạo…
Chế độ Diệm là chế độ phi dân chủ, tham nhũng và cực đoan ngay từ đầu.
(In May 1959, Diem passed Law 10/59 , establishing military tribunals to
search out Communists in South Vietnam, whom he derisively referred to
as Viet Cong. These tribunals were unconcerned with justice, and Law 10/59
was brutal in its application… Diem’s regime was undemocratic, corrupt,
and extreme from the beginning.)
☜ Vụ Chất Độc Da Cam
Có một vấn đề mà tôi cần phải phê bình với chút
ít chi tiết. Tôi
không thể tưởng tượng được là đến năm 2012 mà Nguyễn Công Luận còn lên
tiếng phủ nhận sự tác hại của chất độc Da Cam trên dân tộc Việt Nam.
Ông viết:
Một chương trình đặc biệt về làm rụng lá bắt đầu phun hóa chất
để khai quang các bụi cây dọc hai bên các trục lộ và căn cứ của VC.
Cơ quan tuyên truyền của Cộng sản ở Hà Nội và Bắc Kinh ồn ào phản đối
chương trình, cho là Mỹ và Nam Việt Nam đã dùng chiến tranh hóa học,
phun các chất độc để giết quân Cộng sản, và là cho nhiều ngàn người
vô tội chết. Mới đầu, Cộng sản không nói đó là chất khai quang. Vài
năm sau, phe Cộng sản ồn ào lên tiếng chống cái gọi là Chất Độc Da Cam.
Trong chiến dịch gần đây Hà Nội đưa ra một danh sách các nạn nhân;
hầu hết là các binh sĩ Bắc Việt.
Ở Việt Nam dân chúng tin rằng chất hóa học có chứa một vài chất
độc có thể có ảnh hưởng có hại đến sức khỏe, nhưng không quá nghiêm
trọng. Những phúc trình về sự dùng chất độc Da Cam có vẻ như đã phóng
đại. Không có binh sĩ nào trong những đơn vị mà tôi biết đã tiếp xúc
lâu ngày với chất khai quang đã từng bị ung thư hay bị dị tật về sinh
sản.
(A special program of defoliation began spraying chemicals to clear
brush along highways and on VC bases. Communist propaganda service in
Hà Nội and Beijing loudly protested the program, claiming that the Americans
and South Vietnamese were employing chemical warfare, spraying poisonous
substances to kill communist troops, and causing death to thousands of
innocent people. At first, the communists did not say that it was a defoliation
agent. A few years later, the communist side made loud noises against
the so called Agent Orange. In the recent campaign, Hà Nội released a
list of victims; most of them were North Vietnamese soldiers…
In Việt Nam people believe that the chemical did contain some toxic
ingredients that may cause harmful health effects, but not so severe.
Reports about the use of Agent Orange seem to be exagerated. No soldiers
in units I knew who had been in longtime contact with the defoliant ever
suffered cancer or reproduction defects.)
Ngày nay, vấn nạn Chất Độc Da Cam đã rõ ràng, chỉ cần đánh hai chữ
“Agent Orange” vào mục Search trên Internet là chúng ta có thể biết tất
cả về cái hóa chất độc hại này. Trước đây tôi đã viết bài “ĐẠO ĐỨC
CHÍNH QUYỀN MỸ Trong Vấn Nạn CHẤT ĐỘC MÀU DA CAM Và Sự Vô Sỉ Của Một Số
Người Việt Lưu Vong”, đăng ngày 04 tháng 1, 2010, trên trang nhà:
http://sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh18.php.
Sau đây chỉ là vài trong số khá nhiều tài liệu trong đó. Tôi thấy cần
phải nhắc lại để chúng ta có thể thấy thực chất con
người của Nguyễn Công Luận là như thế nào, khi tác giả viết câu trên.
☜ ---> Trong tờ Chicago Tribune, ngày 8 tháng 12, 2009, có
bài trên trang nhất của Jason Grotto với đầu đề: “Agent Orange: Birth
Defects Plague Vietnam; U.S. Slow To HelpChất Độc Màu Da Cam:
Dị Tật Bẩm Sinh Gây Đau Khổ Cho Việt Nam; Mỹ Chậm Giúp Đỡ” ().
Năm ngoái, chính phủ Mỹ đã bỏ ra $13.7 tỷ đô-la để đền bù cho hơn
một triệu cựu quân nhân dự cuộc chiến ở Việt Nam, nhiều người trong
số này đã bị nhiễm độc bởi chất độc trừ sâu bọ. Thêm nhiều triệu
đô-la nữa đã được dùng để đền bù cho những gia đình cựu quân nhân có
con sinh ra bị dị dạng bẩm sinh. Nhưng các viên chức Mỹ nổi khùng,
không thừa nhận mối liên hệ giữa chất độc khai quang và những bệnh tật
ở Việt Nam [But U.S. officials bristle at acknowledging connections
between the defoliants and illnesses in Vietnam]
☜ --> Tại sao Mỹ lại phủ nhận trách nhiệm? Trong bài NHỮNG TÀN PHÁ CỦA
CHẤT ĐỘC DA CAM [Les Ravages De L’agent Orange, Les Collections de
L’Histoire, pp. 80-81], Giáo sư Pierre Journoud, Trung Tâm Nghiên Cứu
Lịch sử Quốc Phòng Pháp, giải thích:
Đối với Hoa kỳ, có một nguy cơ nghiêm trọng là phải thú nhận đã
thi hành ở Việt Nam, theo nhận định của Đô Đốc Mỹ Elmo R. Zumwalt, chỉ
huy các chiến dịch hải quân, “một cuộc chiến tranh thí nghiệm hóa
học lớn nhất chưa từng có” (la plus grande guerre chimique expérimentale
de tous les temps). Và có bổn phận phải đền bù về phương diện đạo
đức cũng như tài chánh. (Et de devoir en payer le prix moral et
financier).
Giáo sư mở đầu bài viết bằng đoạn sau đây:
Ngay lúc Hoa Kỳ tìm kiếm những vũ khí giết người hàng loạt ở Iraq, một
ấn phẩm đã được công bố, kết toán những độc hại của chất độc da
cam, chất khai quang đã được dùng một cách đại qui mô, trong
khoảng 1962-1971, bởi quân lực Mỹ ở Việt Nam. Khoảng từ 2
đến 5 triệu thường dân có thể đã bị nhiễm độc.
[Au moment où les États-Unis recherchaient des armes de destruction
massive en Iraq était publié un nouveau bilan des dégâts causés par l’agent
Orange, ce défoliant massivement largué, entre 1962 et 1971, par l’armée
américaine au Vietnam. Entre 2 et 5 millions de civils pourraient avoir
été contaminés]
---> Chúng ta hãy đọc thêm một tài liệu trong “The United States, its
abandonment of law and worse” của Christopher King:
Không thỏa mãn với việc dùng các loại bom chùm và bom napalm trên những
thường dân, nhiều chục triệu lít chất độc màu da cam đã được phun trên đất
nước Việt Nam trong cuộc chiến của Mỹ chống dân Việt Nam. Thảm họa trên môi
trường và nhân loại đã giết khoảng 400000 người và gây nên khoảng 500000 vụ
dị tật bẩm sinh. Ảnh hưởng trực tiếp và bền bỉ của chất dioxin vẫn tiếp tục
cho đến ngày nay. Chất dioxin cũng còn làm hư hại đến DNA của con người cho
nên ảnh hưởng của nó sẽ còn kéo dài trong dân chúng Việt Nam mãi mãi. Từ trước
đến nay, chưa từng có một nước nào khác gây nên những điều như vậy cho một
nước khác.
(Not content with using explosives and napalm on civilians, millions
of gallons of agent orange were sprayed on Vietnam’s land during America’s
war on the Vietnamese. This environmental and humanitarian disaster killed
about 400,000 persons and caused about 500,000 birth defects. Dioxin is
persistent and its direct effects continue to the present time. Dioxin
also damages human DNA so that its effects will persist in the Vietnamese
population indefinitely. No other country has ever before done such things
to another.)
---> Ngoài ra, trong cuốn “Chemical & Biological Warfare:
America’s Hidden Arsenal”, Anchor Books, New York, 1969, tác giả
Seymour M. Hersh viết trong Chương 6, “Chiến tranh hóa học và sinh
học ở Việt Nam”, như sau:
“Vào cuối năm 1961, một viên chức cao cấp của Bộ Quốc Phòng Mỹ
lần đầu tiên tới Nam Việt Nam. Chương trình khai quang, nhắm vào phá
hủy rừng rậm dùng làm nơi trú ẩn của Việt Cộng, đã bắt đầu từ tháng
10, và viên chức này muốn đích thân đến thị sát kết quả. Sau đó ông
ta thuyết trình cho Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Viên chức trên ghi nhớ: Diệm “lấy ra một bản đồ lớn và bắt
đầu chỉ cho tôi biết là Việt Cộng đã kiểm soát bao nhiêu phần đất
ở miền Nam. Về sau tôi biết rằng đó là mẫu mực thuyết trình của
Diệm cho tất cả các viên chức đến thăm Việt Nam”
Quan điểm của Diệm là dùng thuốc khai quang để cho kẻ thù không
còn nơi trú ẩn thì hay và tốt (well and good), nhưng để có sự
hữu hiệu thực sự thì thuốc khai quang phải được dùng để hủy diệt
hoa mầu ngũ cốc của Việt Cộng” (Diem’s point was that the use
of defoliants to deny the enemy jungle cover was well and good, but
to really effective the chemicals had to be used against the Viet
Cong’s crops).
Viên chức của Ngũ Giác Đài nói: “Đây không phải là điều chúng
tôi muốn, nhưng chúng tôi đã bắt đầu dùng thuốc khai quang để phá
hại mùa màng.”
Vậy Ngô Đình Diệm chính là thủ phạm đã chấp thuận chương
trình dùng chất độc khai quang và hơn nữa còn chủ trương hủy diệt hoa mầu ngũ cốc
của người dân vì Việt Cộng sống lẫn với dân chứ không phải sống riêng
rẽ ở các căn cứ địa. Chương tội ác này của Ngô Đình Diệm cộng với các
tội ác khác sẽ là một vết nhơ không có cách nào có thể xóa bỏ, bất kể
người ta muốn xuyên tạc lịch sử để biện hộ cho Ngô Đình Diệm như thế nào..
Thật là khó hiểu, trong khi có nhiều hội đoàn và cá nhân trên thế giới
đang cố gắng giúp Việt Nam lấy lại phần nào sự công bằng trong vấn
nạn chất độc da cam thì một số người Việt lưu vong
vô sỉ lại cố tình chạy tội cho Mỹ-Diệm bằng những luận điệu ngu đần và sai sự thực như Nguyễn
Công Luận, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận sự thật. Vậy
mà, qua những gì ông ta viết trong cuốn sách, ông ta đã tự cho mình là
người yêu nước yêu dân tộc. Trước đây Hội Khoa Học Kỹ Thuật dỏm của Mai Thanh Truyết cũng
đã đưa ra luận điệu này, và một đọc giả trên Đàn Chim Việt đã phê bình
là ““Chỉ có súc vật mới quay lưng với nổi đau thương, mất mát của
các nạn nhân chất độc màu da cam…”
Tôi không muốn tiếp tục phê bình cuốn Nationalist In The Vietnam
Wars: Memoirs Of A Victim Turned Soldier của Nguyễn Công Luận, tuy
còn có nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Tôi nghĩ phê bình chừng đó kể
cũng đã đủ, có phê bình thêm thì cũng vậy thôi. Nhưng tôi muốn trích
dẫn vài điều tác giả viết trong Chương 26 về Hồi Kết Cục (The
End) với Tựa “Tháng Tư Đen” (Black April), lẽ
dĩ nhiên là đen đối với tác giả và với thiểu số thuộc thế lực đen cùng
một số người vô trí ở hải ngoại.
Chúng ta đã biết, tác giả viết cuốn sách này để “bảo vệ danh dự
những người trong quân đội của chúng ta và những đồng bào quốc gia của
tôi.” Tác giả có thể thành công không khi mà 2/3 cuốn sách là lạc
đề, phần còn lại là tự đề cao đánh bóng cá nhân mình với những chuyện
hoang đường, sai sự thật và những xuyên tạc lịch sử với mục đích chống
Cộng bất kể liêm sỉ.
Chúng ta hãy đọc tác giả viết để bảo vệ danh dự quân đội và những
người quốc gia. Tôi sẽ không phê bình, Xin để cho đọc giả tự mình
suy nghĩ về Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa và danh dự của quân đội
cũng như những người quốc gia như Nguyễn Công Luận.
- Mặc Giao viết: Nói về chính nghĩa của cuộc đấu tranh Quốc-Cộng,
tác giả không dài dòng lý thuyết, nhưng đưa ra những kết quả cụ thể
để chứng minh.
Trong khi phe cộng sản chỉ có thể làm người dân sợ bằng bạo lực,
không ai phục, thì phe Quốc Gia đã tạo được sự tin tưởng và yêu mến.
Quân đội Quốc Gia đi tới đâu là dân đi theo tới đấy.
[Vậy thì làm sao Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sống được, làm sao
có thể tổ chức được cuộc tấn công khắp mọi nơi vào tết Mậu Thân, làm sao
có được đường hầm Củ Chi?]
- Cái đòn “ân huệ nhất” (dịch thoát từ deadliest blow) tới
cho Việt Nam Cộng Hòa là khi Quốc Hội Mỹ không chịu cấp thêm viện trợ
quân sự cho Nam Việt Nam.
Ngày 23 tháng 4, Tổng Thống Gerald Ford tuyên bố là chiến tranh
Việt Nam đã “một cuộc chiến đã tiêu tùng”. Cùng với Quốc Hội không
chịu thông qua một đạo luật cấp thêm viện trợ cho Việt Nam, lời tuyên
bố của Ford đã hủy diệt hi vọng cuối cùng của chúng ta.
(The deadliest blow came when the US Congress refused to allocate more
military aid to South Việt Nam.
On April 23, President Gerald Ford announced that the Việt Nam war
was “a war that is finished”. Along with Congress’s (!) failure to pass
a supplemental aid bill for Việt Nam, Ford’s statement destroyed our last
hope.) [Remember President Thiệu: No Aid, no Fight]
- Quân đội có một triệu binh sĩ với một lực lượng không vận hùng
hậu và những sư đoàn thủy quân lục chiến; Không quân gồm gần 12000
máy bay; Hải quân mạnh mẽ trên vòng bờ biển và sông ngòi; Cảnh sát quốc
gia hơn 150000 người – tất cả đều bị đánh bại một cách quá dễ dàng bởi
kẻ thù yếu kém hơn về lực lượng và những phương tiện chiến tranh tân
tiến nhưng có những đồng minh trung thành.
(The armed forces of a million soldiers with the formidable Airborne
and Marine divisions; the Air force of nealy 12,000 airplanes; the Navy
with strong coastal and river force; the National Police of over 150,000
members – all were defeated so easily by the enemy, which was weaker in
strength and in sophisticated means of war but had faithful allies) [Not
so simple. Remember! Only 55 days]
- Chúng ta có vài Tướng George S. Patton nhưng không
có Tướng George C. Marshall, và chúng ta cần cả hai loại
tướng này và thêm một Napoleon. [We had several “Pattons” but no
“Marshall,” and we need both plus a “Napoleon.”] (TCN: Which Napoleon?
I or III? For the Generals Patton, I rather believe in General Nguyễn
Cao Kỳ’s statement about them than Major Nguyễn Công Luận’s)
☜ Vài Lời Kết
Tôi có thể kết luận như thế nào về cuốn “Nationalist in the Vietnam
Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier” của tác giả Nguyễn Công
Luận? Tôi nghĩ phần phân tích ở trên đã nói lên rõ ràng hơn gì hết.
Đối với tôi, trong lãnh vực học thuật thì giá trị của một cuốn sách
nằm trong các sự kiện chứ không nằm trong cảm tính cá nhân hay những
mánh mưu xuyên tạc lịch sử cho những mục đích riêng tư. Có những
người trong những nhóm người đặc biệt có lẽ không mấy để ý đến những
gì mình viết và hầu như không có mấy ý thức về trách nhiệm của mình
khi tùy tiện viết ra những điều theo cảm tính cá nhân. Họ không quan
tâm đến sự kiện là, trong triều đại thông tin điện tử ngày nay, chúng
ta có thể kiểm lại sự chính xác của hầu hết mọi vấn đề, kể cả các biến
cố lịch sử trên thế giới từ mấy ngàn năm về trước. Tôi hi vọng từ nay
về sau có thể đọc được những tác phẩm có giá trị hơn, về sự trung thực
cũng như sự chính trực trong nội dung, và trình bày các vấn đề lịch
sử như chúng thực là như vậy (as they really are).
Trần Chung Ngọc
Ngày 15-11-2012
Các bài thời sự cùng tác giả
▪
22 Năm Giao Điểm: Trừ Tà - Hiển Chánh và Độ Sinh -
Trần Chung Ngọc
▪
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng -
Trần Chung Ngọc
▪
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Người Máy Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Th -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn về Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản - Một Câu Chữ Của Những Kẻ U Mê -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐĐ Thích Nhật Từ và Các Xóm Đạo Washington D.C. -
Trần Chung Ngọc
▪
Đọc "Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: DÂN CHỦ" -
Trần Chung Ngọc
▪
Avro Manhattan: Cơn Ác Mộng Của Một Quốc Gia -
Trần Chung Ngọc
▪
BA MƯƠI THÁNG TƯ VÀ TÔI TỪ KIẾN THỨC ĐẾN LẬP TRƯỜNG -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao Với Vatican? Bang Giao Như Thế Nào ?? -
Trần Chung Ngọc
▪
Công Nghiệp Cuối Cùng -
Vài Suy Tư Xung Quanh Sự Ra Đi Của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter & Liên Hiệp Quốc Lên Án Mỹ Vi Phạm Quốc Tế Nhân Quyền -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Phịa Thời Sự: Tin Vịt Truyền Thông -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự - Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 ▪
>>>