Tuyển Tập Độc Thần Giáo
Charlie Nguyễn
http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_TTDTG/daoquan5.php
2007
Việt Nam Cần Thưc Hiện Những Biện Pháp Mạnh
Để Đối Phó Với Quốc Nạn Công Giáo – Tin Lành
(Để riêng tặng hai
người đã gợi ý cho tôi viết bài này: TG., Úc châu và HNL., Thụy
sĩ)
Tại các nước Tây
phương hiện nay,
những công trình
nghiên cứu về Kitô
giáo (gồm chung cả
Công giáo lẫn Tin
lành) có thể đã lên
tới hàng chục ngàn
tác phẩm. Đây chính
là những sản phẩm
tim óc của những
người trí thức Tây
phương thuộc đủ mọi
ngành kiến thức và
đặc biệt là của
những tu sĩ cao cấp
tỉnh ngộ. Những công
trình nghiên cứu của
họ đã phơi bày thực
chất xấu xa tội lỗi
của Kitô giáo nói
chung và đặc biệt là
của Giáo hội Công
giáo mà cơ quan lãnh
đạo tối cao của nó
là Tòa thánh
Vatican. Nhờ đó,
ngày 12.3.2000,
Vatican đã phải làm
lễ long trọng thú
tội trước nhân loại
và cũng nhờ đó mọi
người đã nhận ra
rằng: Công giáo La
mã không phải là một
tôn giáo chân chính
mà thực chất chỉ là
một thứ đế quốc trá
hình.
Đạo Công
giáo La mã (Roman
catholic) như ta
thấy hiện nay hoàn
toàn khác hẳn với
đạo Kitô nguyên thủy
(The Early
Christianity). Tôi
đã trình bày vấn đề
này trong Chương I
sách “Thực Chất Đạo
Công giáo và Các Đạo
Chúa”, GĐ xuất bản
Xuân 2003, dưới tiểu
đề “Thập Giá và Lưỡi
Gươm của Đại Đế
Constantine”. Thật
vậy, đạo Công giáo
La mã chẳng phải do
Jesus lập ra như
nhiều người lầm
tưởng. Chính hoàng
đế La mã Constantine
với chủ tâm biến
Kitô giáo thành công
cụ xâm lược và thống
nhất toàn đế quốc
nên y đã đích thân
đạo diễn lập nên các
công đồng (Councils)
để từ đó đẻ ra các
tín điều, giáo lý và
định chế căn bản cho
giáo hội Công giáo.
Tất cả các bản chính
của các sách Thánh
kinh Tân ước của
Kitô giáo Nguyên
thủy đều bị sửa đổi
theo ý của
Constantine và các
di tích thật của
Jesus ở Jerusalem
đều bị phá hủy. Công
giáo La mã đã được
xây dựng trên nền
tảng của những mưu
mô bịp bợm và ngụy
tạo để phục vụ cho
những tham vọng đen
tối của chủ nghĩa đế
quốc.
Bề ngoài,
các tín đồ Công giáo
– Tin lành đều suy
tôn Jesus lên làm
Thiên Chúa toàn
năng, nhưng bọn lãnh
đạo tối cao của các
tín đồ đáng thương
đó thật sự chỉ coi
Jesus như một hình
nộm. Nói đúng hơn,
Jesus chỉ là một tấm
bình phong do bọn đế
quốc dựng lên để
chúng núp phía sau
lợi dụng trong mưu
đồ thâu đoạt quyền
lực và của cải vật
chất. Trong các thế
kỷ từ 4 đến 7, đế
quốc La mã Byzantine
đã xử dụng Jesus và
cây thập giá của ông
ta làm lá cờ xâm
lược Âu châu và Bắc
Phi. Trong những thế
kỷ kế tiếp, các bạo
chúa Công giáo như
Clovis, Charlemagne
đã dùng bạo lực để
ép buộc các nước Âu
châu phải theo đạo.
Bất cứ ai bất tuân
lệnh đều bị tàn sát
dã man. Chính vì thế
mà nhiều nước Âu
châu đã trở thành
những nước toàn tòng
Công giáo. Tuy
nhiên, bắt đầu từ
cuối thế kỷ 18 với
sự xuất hiện của
Phong trào Soi sáng
(Enlightenment
Movement) các nước
Tây phương bắt đầu
tỉnh ngộ và đạo Công
giáo cũng bắt đầu đi
vào con đường suy
thoái. Tới nay, sự
suy thoái của Công
giáo tại các nước
Tây phương đã trở
nên hết sức trầm
trọng đến nỗi
Vatican đã phải tìm
đất sống tại Á châu
với ảo vọng sẽ cải
đạo cho khối người
khổng lồ của lục địa
này là 3.5 tỷ người!
Với bản
chất đế quốc bất
biến, Vatican không
bao giờ từ bỏ tham
vọng xâm lược văn
hóa và chính trị
nước ta.Vatican luôn
luôn tỏ thái độ xấc
xược ngạo mạn và bọn
Việt gian làm nhiệm
vụ gián điệp cho
Vatican vẫn đã và
đang ra sức phá hoại
nền văn hóa Việt
Nam. Bảy triệu tín
đồ Công giáo hầu hết
vẫn giữ nguyên bản
chất phản quốc cố
hữu và họ chỉ chờ có
cơ hội sẽ vùng dậy
để thực hiện khẩu
hiệu “Phục hồi tinh
thần Ngô Đình Diệm”!
Bảy triệu
tín đồ Công giáo tại
quốc nội là đạo quân
thứ năm bản địa dưới
sự lãnh đạo của Hội
đồng Giám mục Việt
Nam. Hội đồng này do
Vatican tuyển chọn
và phong chức nên.
Hội đồng Giám mục
Việt Nam hiện nay
gồm toàn những cán
bộ tuyệt đối trung
thành với Vatican.
Họ sẵn sàng phản bội
tổ quốc Việt Nam vì
tổ quốc thật của họ
là “nước Chúa
Vatican”!.
Tại miền
Nam Việt Nam dưới
thời Nguyễn văn
Thiệu, Công giáo chỉ
chiếm khoảng 7% dân
số nhưng tại quốc
hội của miền Nam
thời đó Công giáo đã
chiếm tới 2/3 tổng
số các dân biểu nghị
sĩ! Điều đó cho thấy
khối lượng 7 triệu
giáo dân là một lực
lượng chính trị quan
trọng không thể xem
thường. Khi có biến
động, lực lượng
chính trị này rất dễ
dàng biến thành lực
lượng quân sự như đã
từng xảy ra tại Bùi
Chu, Phát Diệm dưới
sự lãnh đạo của Giám
mục Phạm ngọc Chi và
Giám mục Lê hữu Từ,
hoặc tại Kiến Hòa,
Vĩnh Long dưới sự
lãnh đạo của đại tá
Le Roy trong những
năm 1949-1954.
Một khi có
biến động xảy ra,
lực lượng Công giáo
tiềm ẩn trong nước
sẽ được sự hỗ trợ
mạnh mẽ của trên
200.000 người Việt
Công giáo tại hải
ngoại để tạo nên thế
“nội công ngoại
kích” ngoạn mục, ấy
là chưa kể đến sự
trợ lực của các
“đồng minh quốc tế”
!
Bên cạnh
hiểm họa Công giáo
còn có một hiểm họa
khác không kém phần
nghiêm trọng, đó là
hiểm họa Tin lành.
Mặc dầu Tin lành
không phải là một
giáo hội thuần nhất
như Công giáo (hiện
nay trên thế giới có
khoảng 300 giáo phái
Tin lành khác nhau)
nhưng có một số giáo
phái Tin lành hiện
nay đã phát triển
thành những tổ chức
tôn giáo rất lớn với
số tín đồ đông đảo
lên tới hàng chục
triệu người. Các
giáo phái này có tổ
chức qui mô và có
tài sản khổng lồ do
sự đóng góp của các
tín đồ từ 2 đến 10%
tổng số lợi tức hàng
năm. Đáng kể nhất là
giáo phái Tin lành
Baptist, giáo phái
Cơ đốc Phục lâm và
nhân chứng Jehovah.
Trong thập
niên 1980, giáo phái
Baptist đã có 3000
nhân viên hoạt động
truyền giáo trong 94
quốc gia. Tổ chức
Tin lành “Thanh niên
Truyền giáo Quốc tế”
(International Youth
for a Mission) có
12.500 nhân viên
truyền giáo hoạt
động tại 130 quốc
gia. Tham vọng xâm
lược văn hóa chính
trị của các giáo
phái Tin lành qua
con đường truyền
giáo rất hung hãn
không kém gì tham
vọng của Vatican. Từ
thập niên 1980, tổ
chức Tin lành của
mục sư Pat Robertson
đã đưa ra một khẩu
hiệu hết sức kiêu
ngạo là “Chương
trình Thay đổi Thế
giới” (Program to
change the World).
Họ chủ trương dùng
các phương tiện
truyền thanh và
truyền hình để giảng
đạo bằng nhiều thứ
tiếng, ưu tiên hàng
đầu nhắm vào Trung
quốc và Nhật bản.
Năm 1991,
sau khi nước Nga mở
cửa tự do và công bố
chính sách tự do tôn
giáo, một tổ chức
Tin lành tại tiểu
bang Texas đã dùng
một chiếc tàu lớn để
chở 232 tấn Kinh
thánh Tin lành bằng
Nga ngữ để xâm nhập
nước Nga. (Tất cả số
liệu này đều được
rút ra từ tác phẩm
“Salvation for Sale”
của Gerard Thomas
Straub, Prometheus
Book xuất bản năm
1996).
Công giáo
và Tin lành hoạt
động riêng biệt và
có những mục tiêu
riêng nhưng cả hai
đều là những hiểm
họa cho sinh mệnh
của dân tộc. Tất cả
đều đưa đến một hậu
quả là làm phân tán
đại khối dân tộc,
phá nát truyền thống
văn hóa nhân bản lâu
đời của tộc Việt và
nhất là làm suy yếu
tiềm lực quốc gia
trong mọi nỗ lực
dựng nước và giữ
nước.
Mọi người
Việt Nam yêu nước,
dù đang sống tại
quốc nội hay tại hải
ngoại và dù cho xu
hướng chính trị khác
biệt nhau ra sao,
cũng cần phải cảnh
giác trước thứ vũ
khí văn hóa hiểm độc
của chủ nghĩa đế
quốc đội lốt tôn
giáo (Công giáo, Tin
lành).
Dân tộc
Việt Nam đã từng
đánh thắng nhiều tên
xâm lược lớn mạnh
hơn mình gấp nhiều
lần về mặt quân sự,
nhưng dân tộc ta đã
“thất trận” khi địch
xâm lược nước ta
bằng thứ vũ khí văn
hóa đội lốt tôn
giáo! Chúng ta đã
thất bại chủ yếu do
những đoàn quân thứ
năm hùng hậu làm nội
ứng cho địch. Cũng
chính đạo quân thứ
năm này đã là con
bài chủ lực trong
chính sách “chia để
trị” để kéo dài sự
thống trị của chúng.
Từ đầu năm
2001 đến nay, những
biến động xảy ra do
người Thượng Tin
lành ở Pleiku và ở
miền thượng du Việt
Bắc đã thực sự là
những hồi chuông báo
động về mối hiểm họa
Tin lành. Kinh
nghiệm Trung quốc
cho thấy Công giáo
phát triển rất chậm
so với Tin lành: Sau
nhiều thế kỷ truyền
đạo tới năm 1982 số
tín đồ Công giáo
Trung quốc chỉ có 3
triệu người trên 900
triệu dân. Trong khi
đó, Tin lành mới xâm
nhập vào Trung quốc
từ đầu thế kỷ 20,
nhưng đến năm 1982
số tín đồ Tin lành
là 7 triệu người,
tức gấp hơn hai lần
tín đồ Công giáo!
Hướng về tổ
quốc Việt Nam, giới
trí thức hải ngoại
nặng tình dân tộc
không khỏi lo ngại
trước tình hình hiện
nay: Dường như người
Việt trong nước chưa
đánh giá đúng mức
mối hiểm họa Công
giáo – Tin lành. Có
thể còn nhiều người
vẫn lầm tưởng Công
giáo – Tin lành đồng
nghĩa với “văn minh
Tây phương”. Thực sự
Công giáo là thủ
phạm đã tiêu diệt
nền văn minh khoa
học của Hy lạp trong
thế kỷ 5, đàn áp các
phong trào tư tưởng
tiến bộ tại Âu châu
trong nhiều thế kỷ
khiến cho nền văn
minh chung của nhân
loại đã bị thụt lùi
tới hơn một ngàn
năm! Công giáo không
phải chỉ là kẻ thù
của dân tộc Việt Nam
mà còn là kẻ thù
chung của cả loài
người chúng ta.
Tổng số
người Việt ở hải
ngoại hiện nay
khoảng trên hai
triệu người. Số
người Việt Công giáo
chỉ có khoảng
200.000 người nhưng
là sở hữu chủ của
phần lớn các cơ sở
báo chí và truyền
thanh truyền hình.
Người Việt Công giáo
hải ngoại luôn luôn
lớn tiếng kết tội
những người “Cộng
sản vô thần” vi phạm
đủ thứ nhân quyền và
đặc biệt là đàn áp
tôn giáo. Nhưng
trong thực tế chính
họ là những người về
thăm Việt Nam nhiều
nhất và mang tiền về
xây nhà thờ, nhà xứ
nhiều nhất. Hiện nay
có nhiều người về
thăm quê hương đã
phải sửng sốt ngạc
nhiên thấy những
thánh đường và nhà
xứ nguy nga lộng lẫy
được xây cất sau
1975!
Nếu chính quyền
Việt Nam đàn áp tôn
giáo, tại sao Công
giáo có thể tổ chức
“Lễ hội La vang” qui
tụ trên một trăm
ngàn tín đồ trong
năm 1999? và tại sao
các giám mục và linh
mục được phép xuất
ngoại nườm nượp như
đi chợ?
Phải chăng chính
quyền Việt Nam đã
quá tin tưởng vào sự
phản tỉnh dân tộc
của 7 triệu tín đồ
Công giáo nên đã quá
lơ là cảnh giác và
quá buông lỏng dễ
dãi với họ?
Trên trang
nhà Giao Điểm
(giaodiem.com và
giaodiem.net) tháng
3-2003 có đăng bài
viết tựa đề: “Việt
Nam phải cẩn thận về
một tập đoàn cực kỳ
hiếu chiến”, hai tác
giả của bài viết này
là Đào duy Toàn và
Hồng Hà Lý trọng Võ
đã khẩn thiết lên
tiếng kêu gọi chính
quyền Việt Nam cần
đặc biệt quan tâm
đến vấn đề cấp bách
là phải diệt trừ
tham nhũng để không
cho đạo quân thứ năm
của địch xâm nhập
các cơ cấu chính
quyền để lũng đoạn.
Hai tác giả bày tỏ
nỗi niềm tha thiết
của mình đối với mối
lo chung của cả dân
tộc: “Đây là lời
cảnh báo chí tình
của những người Việt
xa quê!”.
Trong tháng
2/2003, trang nhà
Giao Điểm có đăng
bài tham luận rất
giá trị mang tựa đề:
“Đối trị với sách
lược của Vatican”
của Nhật Nam và Phạm
phú Bổn. Hai tác giả
nhấn mạnh đến tính
chất đế quốc bất
biến của Vatican là
luôn luôn xâm lăng
văn hóa chính trị
trên toàn cầu và
Việt Nam là kẻ thù
lịch sử của Vatican.
Theo hai tác giả
thì Giáo hội Công
giáo có bốn thuộc
tính:
1. Luôn luôn
khống chế thế quyền
để phát triển giáo
quyền.
2. Tu sĩ cũng như
giáo dân Công giáo
luôn luôn tìm cách
“mở mang nước Chúa”
dù phạm tội ác.
3. Trong hiện
tại, Công giáo VN có
thể lợi dụng các
cánh tay nối dài của
Tây phương (như Kinh
tế thị trường, thông
tin đại chúng) để
khuynh loát chính
quyền nhằm tạo lợi
thế.
4. Giáo hội Công
giáo VN là đạo quân
thứ năm (của
Vatican) có tính
chất chuyên nghiệp,
bản địa. Đây là một
lực lượng chính trị
quần chúng có tổ
chức chặt chẽ và có
lãnh đạo quy mô.
Trong trường hợp có
biến động, lực lượng
tiềm ẩn này sẽ nối
kết chặt chẽ với
Công giáo VN hải
ngoại thành một thế
“nội công ngoại
kích” nguy hiểm.
Để kết thúc bài
tham luận trên, hai
tác giả đưa ra một
số biện pháp để đối
trị với sách lược
của Vatican, tôi đặc
biệt quan tâm và
nhiệt liệt tán thành
hai biện pháp sau
đây:
Thứ nhất: Trong
đoản kỳ, chúng ta
chấp nhận sự hiện
diện của Giáo hội
Công giáo VN như một
thành phần dân tộc.
Nhưng chúng ta cần
phải ý thức dứt
khoát rằng: Bảy
triệu tín đồ Công
giáo VN là một loại
ung thư cực kỳ nguy
hiểm trên cơ thể
quốc gia, do đó cần
phải tìm cách cô lập
chặt chẽ để giới hạn
tối đa sức bành
trướng của nó và hạn
chế tối đa sức công
phá để kéo dài cuộc
sống của nó.
Thứ hai: Cần có
một chính sách thích
đáng đối với Công
giáo VN đặt trên cơ
sở giáo dục nhằm
giúp họ phản tỉnh để
sớm trở về với dân
tộc. Đồng thời cần
phải giới hạn tối đa
mọi liên hệ giữa họ
với Vatican để dần
dần đi tới sự hình
thành giáo hội Công
giáo VN tự trị.
Hai điều
nói trên rất xác
đáng nhưng đã được
nêu lên như những
nguyên tắc tổng quát
có tính cách chỉ
đạo. Tôi viết bài
viết này với mục
đích đề xuất một số
đề nghị cụ thể và
chi tiết để góp ý
với các giới chức có
trách nhiệm về tôn
giáo ở Việt Nam
trong vấn đề khó
khăn hiện nay là vừa
phải đối phó với
sách luợc của
Vatican, vừa phải
đối phó với những cụ
biến loạn do những
người Tin lành gây
ra.
Những biện
pháp tôi đề xuất chủ
yếu nhằm thực hiện
sự cô lập chặt chẽ
để giới hạn tối đa
sức bành trướng của
Công giáo và Tin
lành, chú trọng công
tác giáo dục qua
sách báo để giúp họ
phản tỉnh và sau hết
là tạo mọi điều kiện
để sớm hoàn thành
một giáo hội Công
giáo tự trị của
người Việt Nam. Đó
là một giáo hội Công
giáo độc lập, tự
quản và hoàn toàn
tách rời khỏi sự
thống trị độc đoán
của bọn lưu manh
quốc tế đội lốt thày
tu ở Vatican.
Trước khi
đi vào vấn đề chính
yếu này, chúng ta
hãy dành một ít thời
gian để duyệt qua
bài học kinh nghiệm
của Trung quốc trong
việc đối phó với
sách lược của
Vatican trong hơn
nửa thế kỷ qua.
Những bài học quí
giá của Trung quốc
chắc chắn sẽ đem lại
cho chúng ta nhiều
điều bổ ích.
Những kinh nghiệm
quí giá của Trung
quốc từ 1949 đến
nay:
Giáo sư sử
học Michael Mi
Chengfeng, thuộc
trường Đại học Nhân
dân Bắc kinh, đã
viết một bài đặc
biệt về “Quan hệ
ngoại giao Trung
quốc – Vatican”. Bài
viết bằng Anh ngữ
đựơc đăng trên tờ
Tripod tháng
10-1996, được dịch
sang Pháp ngữ đăng
trên tạp chí Giáo
hội tại Á châu
(Église de l’Asie).
Bản dịch Việt ngữ
được đăng trên
Nguyệt san “Công
giáo và Dân tộc”
(không rõ số báo và
ngày tháng phát
hành).
Tác giả
điểm qua vài nét
chính của lịch sử
giáo hội Công giáo
tại Trung quốc: Đạo
Công giáo đã có mặt
rất sớm tại Mông cổ
từ cuối thế kỷ 13.
Tại lục địa Trung
quốc, công cuộc
truyền giáo thực thụ
được xác định là năm
1583 khi linh mục
dòng Tên người Ý
Matteo Ricci đặt
chân lên đất nước
này. Matteo Ricci tự
ý đổi tên thành Mã
Lợi Đậu, ăn mặc theo
kiểu Trung quốc,
giảng đạo bằng ngôn
ngữ địa phương và
viết nhiều sách bằng
chữ Hán. Ricci sống
liên tục tại Trung
quốc đề giảng đạo
trong 27 năm, gây
được nhiều ảnh hưởng
lớn tại triều đình
Trung quốc và trong
giới nho sĩ. Khi qua
đời vào năm 1610,
Ricci đã được triều
đình Trung quốc làm
lễ quốc táng.
Đầu thế kỷ
18, tức cuối đời nhà
Minh, Trung quốc có
1 triệu tín đồ Công
giáo. Luo Wenzao là
người Hoa đầu tiên
được Vatican phong
chức giám mục cai
quản giáo phận Nam
Kinh.
Năm 1949,
Chủ nghĩa Cộng sản
chiến thắng và nắm
quyền cai trị toàn
lục địa Trung hoa.
Vào thời điểm đó
giáo hội Công giáo
Trung quốc có 3
triệu tín đồ, chiếm
tỷ lệ 0.58% dân số
toàn quốc. Tuy tỉ số
giáo dân rất nhỏ
nhoi nhưng giáo hội
Công giáo Trung quốc
là sở hữu chủ của
nhiều trường đại học
và học viện và bệnh
viện rải rác khắp
nơi trong nước.
Ngày 30.11.1949,
giáo hội Công giáo
Trung quốc tuyên bố
cắt đứt quan hệ với
Vatican để biến
thành Giáo hội Tự
trị với khẩu hiệu
“Tam Tự”:
1. Tự chủ về lãnh
đạo (hoàn toàn độc
lập với Vatican)
2. Tự chủ về quản
trị tài chánh
3. Tự chủ về nhân
sự và họat động
(không cần thừa sai
và các tu sĩ nam nữ
ngoại quốc).
Ngày 4-9-1951,
chính phủ Trung quốc
trục xuất khâm sứ
Tòa thánh Antonio
Riberi, chính thức
chấm dứt mọi quan hệ
ngoại giao với
Vatican.
Năm 1955,
chính phủ Trung quốc
trục xuất tất cả
các tu sĩ ngoại quốc
(bao gồm 1/3 tổng số
nữ tu, ½ tổng số
linh mục và 4/5 tổng
số giám mục). Trong
biến cố này chúng ta
cần đặc biệt lưu ý
đến Hội đồng Giám
mục Trung quốc. Hội
đồng này được
Vatican thiết lập
ngày 11-4-1946 gồm
có 3/4 giám mục là
người ngoại quốc và
chỉ có 1/5 là người
Trung quốc mà thôi.
Việc trục xuất các
giám mục ngoại quốc
năm 1955 trong thực
tế chính là sự giải
tán Hội đồng Giám
mục Trung quốc do
Vatican lập nên. Kể
từ 1955 đến 1958,
chính phủ Trung quốc
tuyển chọn và phong
chức cho 13 giám mục
mới không cần sự ưng
thuận của Vatican.
Đến năm 1962, tổng
số giám mục được tấn
phong lên tới 42
người. Năm 1980,
chính phủ Trung quốc
chính thức lập ra
hai tổ chức cho giáo
hội Công giáo:
1. Hội đồng Giám
mục Trung quốc
chuyên lo việc đạo
2. Ủy ban Hành
chánh Công giáo
Trung quốc đảm trách
việc liên lạc giữa
giáo hội Công giáo
với chính quyền.
Năm 1982,
Hiến pháp mới của
Trung quốc có điều
khoản: “Trung quốc
chống lại sự thống
trị của bên ngoài
đối với các giáo hội
trong nước”.
Trong đầu
thập niên 1980, giáo
hoàng John Paul II
đã nhiều lần lên
tiếng “hòa giải’ với
Trung quốc, tuy
nhiên chính quyền
Trung quốc đã đáp
lại bằng “Văn bản số
3” của Hội đồng Nhà
nước trong tháng
2-1989 với tựa đề
“Chỉ thị của Đảng về
cách thế điều hành
giáo hội Công giáo
trong tình hình mới”
: Người Công giáo
Trung quốc có thể
nhìn nhận giáo hoàng
là thủ lãnh tinh
thần của mình nhưng
tu sĩ và tín đồ Công
giáo Trung quốc
không được phép trực
tiếp liên hệ với
Vatican và giáo hội
Trung quốc vẫn tiếp
tục lựa chọn và tấn
phong các giám mục
của mình. Giáo hội
Trung quốc không thể
bị đặt dưới quyền
cai trị của bất cứ
tổ chức hay cá nhân
nào ở ngoài Trung
quốc. Trung quốc
không chấp nhận việc
người nước ngoài
thao túng chủ quyền
Trung quốc hặoc thực
thi một hình thức
kiểm soát hành chánh
nào trên lãnh thổ
Trung quốc.
Đề nghị một số biện
pháp cụ thể để cứu
nguy dân tộc khỏi
nạn Công giáo – Tin
lành.
Biện pháp một:
Trước hết, chúng ta
cần có một Tu chính
Hiến Pháp xác định
chủ quyền quốc gia
là chủ quyền tối
thượng. Mọi sự thống
trị của bên ngoài
đối với giáo hội
trong nước đều là
những hình thức xâm
phạm chủ quyền tối
thượng của quốc gia.
Giáo hội Công giáo
VN và các tổ chức
“Hội thánh Tin lành”
không thể bị đặt
dưới quyền cai trị
hoặc khống chế bời
một tổ chức hay cá
nhân nào ngoài Việt
Nam.
Tu chính án
hiến pháp sẽ là một
điều khoản luật pháp
tối cao như ngọn lửa
hải đăng hướng dẫn
và điều chỉnh mọi
văn kiện luật pháp
cũng như mọi định
chế của tôn giáo hay
của chính phủ nầu
không phù hợp sẽ đều
phải được điều chỉnh
lại. Tinh thần của
Tu chính án Hiến
pháp nói trên sẽ
được đưa đến hệ quả
trực tiếp là phải
đưa Giáo hội Công
giáo VN ra khỏi sự
thống trị của
Vatican như hiện nay
để tiến tới sự hình
thành một “Giáo hội
Công giáo VN Tự
trị”. Vatican là một
tên đế quốc đầu sỏ
lâu đời nhất và nguy
hiểm nhất. Nó đã
được giới học giả
Tây phương gọi là
“Con Bạch tuộc của
Đức Chúa Trời”
(Octopus Dei). Về
thần quyền nó là thủ
đô tinh thần của gần
một tỉ thần dân là
các tín đồ Công giáo
trên khắp thế giới.
Về thế quyền, nó là
một quốc gia riêng
biệt, có lãnh thổ
riêng, quốc kỳ, quốc
ca riêng. Giáo hoàng
là quốc trưởng đứng
đầu một nội các gồm
có nhiều bộ. Quốc
gia Vatican có quan
hện ngoại giao với
hầu hết các quốc gia
trên thế giới trên
cấp bậc đại sứ.
Chúng ta nên theo
gương Trung quốc cắt
đứt mọi liên hệ
ngoại giao với tên
đế quốc đầu sỏ này.
Cái đầu của con Bạch
tuộc đế quốc ở tại
Rome, nhưng mỗi cái
vòi của nó chính là
giáo hội công giáo
tại mỗi quốc gia.
Giáo hội Công giáo
VN hiện nay rất
trung thành và tuyệt
đối vâng lời
Vatican. Tập thể bảy
triệu tín đồ Công
giáo VN là một cái
vòi lớn của con Bạch
tuộc Công giáo La mã
. Nói cách khác, đó
chính là đạo quân
thứ năm của chủ
nghĩa đế quốc nằm
vùng thường trực
trong lòng dân tộc
VN. Muốn bảo vệ
sinh mạng dân tộc,
chúng ta không có
cách nào khác hơn là
phải cô lập hoàn
toàn tâp thể tín đồ
Công giáo VN với
Vatican. Cần có một
đạo luật xác định:
không một tu sĩ hay
giáo dân nào được
phép liên hệ trực
tiếp với Vatican
(tương tự như Văn
bản số 3 của Hội
đồng Nhà nước Trung
quốc tháng 2-1989).
Về điểm này có một
điều đáng chú ý là
tỉ số giáo dân Trung
quốc chỉ có 0.58% so
với dân số cả nước.
Tại VN, tỉ số giáo
dân Công giáo rất
cao khoảng 7%, tức
tỉ số giáo dân Vn
cao gấp trên 10 lần
tỉ số giáo dân Trung
quốc nhưng luật pháp
Việt Nam hiện nay
gần như thả nổi đối
với Công giáo và Tin
lành. Điều đó chứng
tỏ Việt Nam chưa
đánh giá đúng mức sự
nguy hiểm của con
Bạch tuộc Công giáo
La mã. Hiến pháp và
luật pháp của Trung
quốc đối với Công
giáo trong hơn nửa
thế kỷ qua thật sự
là một tấm gương
sáng đáng cho chúng
ta học hỏi.
Biện pháp hai:
Việc cấp thiết cần
được thực hiện một
cách kiên quyết là
giải tán Hội đồng
Giám mục VN. Hội
đồng này được thành
lập do Sắc chỉ ngày
24-11-1960 của Giáo
hoàng Gioan XXIII.
Ngày 18-12-1960,
HĐGMVN và toàn bộ
các thành viên chính
phủ Việt Nam Cộng
hòa do Ngô đình Diệm
lãnh đạo đã tổ chức
lễ tạ ơn Tòa thánh
tại Vương cung Thánh
đường Sài gòn. Tại
buồi lễ này, Hội
đồng Giám mục và
chính phủ Diệm đã
long trọng làm lễ
“Dâng Tổ quốc Việt
Nam cho Đức Mẹ
Maria”. Trong thực
tế bè lũ Việt gian
vong bản đã dâng tổ
quốc Việt Nam cho đế
quốc Vatican!
Hội đồng Giám mục
hiện nay gồm các
hồng y, tổng giám
mục và giám mục do
Vatican tuyển chọn
kỹ càng. Hội đồng
này là cơ quan lãnh
đạo đầu não của giáo
hội Công giáo VN,
đồng thời cũng là
ban tham mưu tối cao
của đạo quân thứ năm
nằm vùng trong nước,
luôn luôn sẵn sàng
tuân hành mọi chỉ
thị phát ra từ
Vatican.
Muốn vô hiệu hóa
cái vòi xâm lược của
con Bạch tuộc
vatican, việc cần
thiết phải thực hiện
là giải tán Hội đồng
Giám mục VN. Tất cả
các hồng y, tổng
giám mục và giám mục
đều phải bị cưỡng
bách cởi bỏ áo dòng
để trở về cuộc sống
thế tục. Toàn bộ tài
sản và cơ sở của các
giám mục phải được
tịch thu. Tất cả các
hồng y, tổng giám
mục và giám mục hoàn
tục có thể làm lễ
trong phòng riêng
một mình nhưng không
được phép làm lễ cho
giáo dân coi.
Giải tán Hội đồng
Giám mục là bước đầu
tiên phải có trước
khi tiến tới việc
thành lập Giáo hội
Công giáo VN tự trị.
Nói cách khác, Giáo
hội Công giáo Việt
Nam tự trị sẽ trở
nên vô nghĩa khi Hội
đồng Giám mục do
Vatican lập nên vẫn
còn tồn tại và vẫn
tiếp tục lãnh đạo
giáo hội. Giải tán
Hội đồng Giám mục
chính là một hành
động thực tiễn phá
bỏ cái mắt xích
trọng yếu trong
guồng máy xâm lược
của Vatican để bảo
tồn sinh mạng dân
tộc Việt Nam.
Giáo hội Công
giáo VN từ xưa đến
nay chưa bao giờ từ
bỏ truyền thống phản
quốc cố hữu của họ.
Đúng như hai tác giả
Nhật Nam và Hồng Hà
LTV nhận xét trong
các bài tham luận
nói trên : “Bảy
triệu tín đồ Công
giáo là một loại ung
thư cực kỳ nguy hiểm
trên cơ thể quốc
gia, do đó cần phải
tìm cách cô lập chặt
chẽ để giời hạn tối
đa sức bành trướng
của nó”. Đúng vậy,
nếu không có phương
cách ngăn chận sự
bành trướng của căn
bệnh ung thư Công
giáo và Tin lành thì
căn bệnh nguy hiểm
này có thể gây tử
vong cho Tổ quốc
Việt Nam.
Phương cách tốt
nhất để cô lập hóa
giáo hội Công giáo
VN với Vatican gồm
có hai bước:
- Bước thứ nhất
là giải tán Hội đồng
Giám mục hiện nay.
- Bước thứ hai là
mỗi giáo phận Công
giáo sẽ triệu tập
một hội nghị các
linh mục trong giáo
phận để tuyển chọn
một tân giám mục
thay thế giám mục
trước đây do Vatican
bổ nhiệm. Khi các
địa phận đã bầu xong
các tân giám mục,
chúng ta sẽ có một
Hội đồng Giám mục
mới của một Giáo hội
Công giáo VN tự trị.
Việc điều hành giáo
hội của Hội đồng
Giám mục này ra sao
và các sinh hoạt của
giáo hội tự trị như
thế nào v.v....
thiết tưởng về những
vấn đề này chúng ta
có thể học hỏi nhiều
điều cụ thể và hữu
ích từ những bài học
kinh nghiệm quí giá
của Trung quốc.
Đối với Tin lành,
biện pháp cần thiết
để ngăn chận sức
bành trướng của nó
là phải ngăn chận sự
xâm nhập của bọn
truyền giáo. Về điểm
này, chúng ta có thể
áp dụng những biện
pháp của Do thái và
Nam dương :
- Năm 1978, quốc
hội và chính phủ Do
thái đã ban hành đạo
luật “Chống Truyền
giáo”
(Anti-Missionary
Law). Luật này qui
định mọi cuộc truyền
đạo Kitô tại Do thái
là bất hợp pháp.
Người truyền giáo sẽ
bị phạt 5 năm tù và
bị phạt tiền tương
đương 3.200 Mỹ kim.
- Tại Nam dương,
luật pháp buộc mọi
người truyền giáo
nhập cảnh Nam dương
phải khai báo nghề
nghiệp của mình. Nếu
khai nghề nghiệp
truyền giáo thì Sở
Ngoại vụ Nam dương
cho phép họ được lưu
trú tối đa 6 tháng.
Trong trường hợp
không khai báo mà
hành nghề truyền
giáo tại Nam dương
bất hợp pháp, người
vi phạm sẽ bị án tù
hoặc trục xuất.
Biện Pháp ba: Cần
đặt nặng vấn đề giáo
dục để cải hóa 7
triệu tín đồ Công
giáo VN nhằm giúp họ
phản tỉnh trở về với
dân tộc.
Đây là một công
tác có ý nghĩa hết
sức cao cả và đầy
tính nhân đạo vì
công tác này được xử
dụng để thay thế cho
biện pháp tiêu diệt
đẫm máu. Tuy nhiên,
giáo dục để cải hóa
7 triệu tín đồ Công
giáo không phải là
việc đơn giản. Công
tác này đòi hỏi
chính quyền phải
sáng suốt và có
quyết tâm cao, đồng
thời cần có sự cộng
tác của mọi tầng lớp
nhân dân, nhất là
giới trí thức yêu
nước, bằng cách đóng
góp công sức và
những sản phẩm tim
óc của mình vào công
cuộc giáo dục này.
Muốn cho công
cuộc giáo dục đạt
hiệu quả cao, chính
quyền cần ban hành
một số văn bản luật
pháp để loại bỏ
những hiện tượng
tiêu cực còn tồn
đọng:
1. Loại bỏ những
bài kinh nguyện
(prayers) có nội
dung phản quốc như
“Kính dân đất nước
Việt Nam cho Trái
tim Chúa”, “Kinh cầu
cho kẻ ngoại” hoặc
có nội dung nhục mạ
Phật giáo như “Kinh
cầu ông Thánh
Phanxicô” hoặc nhục
mạ 92% dân tộc Việt
Nam
không-Công-giáo-La-mã:
“Kẻ dữ là kẻ chẳng
có đạo” (Kinh Bổn).
2. Chấm dứt tình
trạng thả lỏng hiện
nay để cho các tu sĩ
Công giáo tự do
thuyết giảng ở nhà
thờ. Hiện tượng này
có thể sẽ vô hiệu
hóa mọi kết quả của
công tác giáo dục.
Cần có điều luật
buộc mọi tu sĩ phải
nạp bản thuyết giảng
cho cơ quan hữu
trách trước vài ngày
thuyết giảng và chỉ
được phép nói với
giáo dân những điều
đã được cho phép mà
thôi.
3. Chấm dứt các
lễ hội lớn được tổ
chức trên qui mô
toàn quốc như “Lễ
hội La vang” năm
1998. Các lễ hội này
thực chất chỉ là
những cuộc xuống
đường trá hình để
biểu dương lực lượng
và uy hiếp chính
quyền. Tác dụng tiệu
cực của các lễ hội
này là lòng mê tín
của quần chúng tín
đồ được kích thích
cao độ.
4. Các tu sĩ Công
giáo và các người
truyền giáo Tin lành
phải bị cấm dạy học
hoặc mở trường học.
5. Đóng cửa các
dòng tu nam nữ vì sự
tồn tại của các dòng
tu này là những cản
trở lớn cho sự giáo
dục. Hầu hết các
dòng tu đều có nhiệm
vụ chính yếu là
truyền giáo nhưng
mỗi dòng tu đều có
một tôn chỉ riêng và
phương cách truyền
đạo riêng. Các dòng
tu nam quan trọng là
dòng Tên (Dominician
/ Nhà thờ Ba
Chuông), dòng Chúa
Cứu Thế, dòng Đồng
Công, dòng Phanxicô,
Antôn, Don Bosco,
Phước Sơn... Các
dong nữ tu quan
trọng là dòng Mến
Thánh Giá, dòng
Saint Paul, dòng Tu
Kín....
Toàn bộ công cuộc
giáo dục cần phải
qui hoặch để đạt
được 3 mục tiêu sau
đây:
-
Mục tiêu thứ nhất:
Xét theo bề ngoài
thì 7 triệu đồng bào
Công giáo không khác
gì với những người
Việt Nam bình thường
khác. Nhưng thật sự
7 triệu người Công
giáo hiện đang sống
trong tình trạng hết
sức mọi rợ về tâm
linh. Trước hết, họ
luôn luôn mang tâm
cảm là một bày súc
vật thuộc quyền chăn
dắt tuyệt đối của
các vị chủ chăn ở
Vatican. Người Công
giáo thường hay kết
án chính quyền Việt
Nam vi phạm nhân
quyền, nhưng trong
thực tế chính họ đã
tự rứt bỏ quyền làm
người của họ để xin
được làm một bày súc
vật của ngoại bang.
Trong kinh ‘Dâng cõi
Đông Dương cho Đức
Nữ Đồng Trinh Maria’
có câu: “Vì công
nghiệp Đức Mẹ chuyển
cần, xin cho dân cõi
Đông Dương nhờ có
máu châu báu của con
Đức Mẹ đã đổ ra mà
cứu chuộc, thảy đều
nên một ràn cùng một
kẻ chăn” (kinh Nhựt
khóa trang 172).
Danh từ “một ràn”
trong bài kinh có
nghĩa là một bày súc
vật (cừu non / con
chiên) và danh từ
“một kẻ chăn” chính
là giáo hoàng ở
Rome! Trong các sách
kinh Công giáo không
thiếu gì những lời
kinh tương tự, hậu
quả tai hại là Giáo
hội Công giáo VN đã
tự biến mình thành
một giáo hội súc vật
hèn hạ. Cho nên, mục
tiêu thứ nhất của
công cuộc giáo dục
phải đạt tới là giải
cứu bảy triệu đồng
bào Công giáo thóat
khỏi cái “mặc cảm
súc vật” để từ đó họ
tự khôi phục nhân
phẩm và quyền làm
người của chính họ.
Sự giáo dục tạo cơ
hội cho người Công
giáo trải qua một
quá trình khó khăn
nhất là quá trình
tiến từ súc vật trở
thành người (human
being)!
-
Mục tiêu thứ hai:
Người Công giáo có
một thói tật rất xấu
xa và ngu xuẩn, đó
chính là thói tật
thích “ăn thịt uống
máu Chúa!” Dù chỉ
là ăn thịt uống máu
tưởng tượng một cách
ngớ ngẩn qua cái
nghi lễ quái đản
được gọi là “Phép bí
tích Mình Thánh
Chúa”, nhưng trong
đáy sâu tâm hồn họ
đích thực là một lũ
mọi ăn thịt người
(Cannibals). Dù bề
ngoài, người Công
giáo có thể có dáng
vẻ học thức văn minh
sang trọng, nhưng
xét về bản chất tâm
linh họ vẫn là những
tên mọi ăn thịt
người man rợ thuộc
thời kỳ bán khai của
dòng tiến hóa nhân
loại. Công cuộc giáo
dục phải đạt tới mục
tiêu cải biến bảy
triệu tên “mọi ăn
thịt người” trở
thành bảy triệu
người bình thường.
-
Mục tiêu thứ ba:
Trong sách “Thực
chất đạo Công giáo
và các đạo Chúa” do
GĐ xuất bản Xuân
2003, trong chương 5
phần I, dưới tựa đề
“Vai trò Chính quyền
trong tương quan
Công giáo – Dân tộc”
(50 trang) tôi đã
trình bày cặn kẽ hai
vấn đề:
1. Người Công
giáo không thể cùng
một lúc vừa trung
thành với Vatican
vừa trung thành với
Tổ quốc. Bất cứ một
tín đồ nào trung
thành với Vatican
đều đương nhiên trở
thành kẻ phản quốc.
Đây là một sự thật
hiển nhiên có thể
được kiểm chứng dễ
dàng bằng lịch sử
thế giới và bằng
lịch sử Việt Nam.
2. Bất cứ ai có
lòng yêu nước thật
sự và có tinh thần
tự trọng dân tộc đều
không thể chấp nhận
sự cai trị của
Vatican đối với một
thành phần dân tộc
Việt Nam. Lịch sử
Việt Nam đã chứng
minh từ xưa đến nay
cộng đồng Công giáo
VN luôn luôn hành
động nhằm phục vụ
“nước Chúa” Vatican
và hoàn toàn đi
ngược lại quyền lợi
của dân tộc. Có thể
nói, giáo hội Công
giáo VN là một tập
thể Việt gian lớn
nhất trong lịch sử
dân tộc và có truyền
thống phản quốc lâu
đời nhất từ trước
đến nay.
Mục tiêu
thứ ba của công cuộc
giáo dục là phải
nhằm cải tạo tư
tưởng để biến bảy
triệu tên Việt gian
nằm vùng hiện nay
trở thành bảy triệu
công dân lương thiện
trong lòng dân tộc.
Trong hiện
tại, giáo hội Công
giáo VN vẫn thống
thuộc sự lãnh đạo
của Vatican thông
qua Hội đồng Giám
mục do chính bọn
chúng tuyển chọn và
phong chức. Giáo hội
Công giáo VN hiện
nay vẫn giữ nguyên
vẹn các đặc tính cố
hữu là một giáo hội
súc vật, một bộ lạc
của lũ mọi ăn thịt
người và vẫn là bảy
triệu tên Việt gian
chính hiệu nằm vùng
trong đạo quân thứ
năm của chủ nghĩa đế
quốc.
Tôi rất
ngạc nhiên trước sự
liện mới đây nhà
nước VN cho phép
Công giáo tổ chức
“Đại hội những người
Công giáo VN xây
dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Trong khi đó
Tổng Giám mục Mẫn
vẫn ca ngợi nền thần
học dối trá bịp bợm
của Công giáo và vẫn
xác nhận thái độ của
Công giáo VN là
“quên mình trong
vâng phục Vatican”!
Bảy triệu người Công
giáo hiện nay chưa
được giáo dục và
chưa được chuẩn bị
tâm tư đầy đủ để
tham gia công cuộc
“xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”. Tôi đề
nghị chính quyền VN
hãy tạm thời hủy bỏ
“Đại hội những người
Công giáo VN xây
dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Hoàn cảnh
thích hợp nhất để tổ
chức những đại hội
này chỉ có thể có
sau khi Hội đồng
Giám mục VN hiện nay
bị giải tán để hình
thành Giáo hội Công
giáo VN Tự trị.
Biện pháp bốn:
Nhằm mục tiêu hạn
chế tối đa sức bành
trướng của giáo hội
Công giáo hiện nay
và để thúc đẩy nhanh
việc thành lập Giáo
hội Công giáo VN tự
trị, chính quyền cần
sớm ban hành quyết
định tịch thu toàn
bộ tài sản của giáo
hội Công giáo.
Sau khi Hội
đồng Giám mục hiện
hữu đã bị giải tán,
chính quyền sẽ dần
dần trả lại tài sản
cho “Giáo hội Công
giáo VN tự trị”
chiếu theo các nhu
cầu chính đáng của
từng giáo xứ hoặc
tùy theo các sinh
hoạt cần thiết của
giáo hội.
Tuy nhiên,
đối với các tài sản
của giáo hội có
nguồn gốc thủ đắc
bất chính hoặc đã là
cơ sở gây tội ác đối
với dân tộc thì cần
phải được tịch thu
vĩnh viễn, không
hoàn trả. Trong số
các nhà thờ nổi
tiếng như nhà thờ
Lớn Hà nội, nhà thờ
Đức Bà Sài gòn và
nhà thờ La vang đều
là những tài sản ăn
cướp của nhà chùa
Phật giáo từ cuối
thế kỷ 19. Tên Huyện
Sĩ dựa vào thế lực
của Pháp cướp đất
của đồng bào miền
Nam trở thành đại
điền chủ hết sức
giàu có. Tên Việt
gian Công giáo này
đã dùng một phần tài
sản ăn cướp đi xây
nhà thờ Huyện Sĩ. Do
đó, nhà thờ Huyện Sĩ
cần được tịch thu để
biến thành một cơ sở
phục vụ công ích,
chẳng hạn như biến
nhà thờ Huyện Sĩ
thành một viện bảo
tàng triển lãm tội
ác của Công giáo từ
xưa đến nay.
Nhà thờ
Phát Diệm là sào
huyệt của bọn Việt
gian trải qua nhiều
thế hệ: khởi đầu từ
Trần Lục, qua Nguyễn
bá Tòng, Lê hữu Từ
đến Hoàng Quỳnh.
Chính quyền nên tịch
thu nhà thờ Phát
Diệm như một hình
thức trừng phạt bọn
Việt gian này.
Tất cả những điều
trình bày ở trên đây
chỉ là những ý kiến
cá nhân, chắc chắn
không thể tránh khỏi
nhiều thiếu sót do
chủ quan và do sự
hiểu biết hạn hẹp
của người viết. Rất
mong nhận được sự
chỉ giáo của các bậc
thức giả cùng có nỗi
ưu tư về quốc nạn
Công giáo - Tin
lành. Tôi xin chân
thành cảm tạ.
Charlie Nguyễn
Tháng 4.2003
Các chương khác trong sách:
Alexandre De Rhodes và Chữ Quốc Ngữ
Con Đường Cụt của Vatican (Charlie Nguyễn)
Các Hoạt Động Chính Trị của Đạo Quân Thứ 5
Hồ Sơ Tội Ác của Hội Thừa Sai ...
In God We Trust
Màn Kịch Lộ Đức
Một Vấn Đề về Huyền Thoại Giáng Sinh
Nhận Xét về Thư của Phan Dình Diệm
Quan Niệm Ông Trời của Người Việt
Từ Thái Độ Khinh Miệt ...
Việt Nam cần thực hiện ...
Đòi Lại Đất bị Nhà Thờ Chiếm Đoạt
Độc Thần Giáo ...
Trang Charlie Nguyễn