Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_03.php
|
bản in |
¿ trở ra mục lục
| 29 tháng 3, 2009
PHẦN II
CHỦ TRƯƠNG THỐNG TRỊ TOÀN CẦU
VÀ NÔ LỆ HÓA
NHÂN LOẠI CỦA VATICAN
Phần này nói về chủ trương thống trị tòan cầu
và nô lê hóa nhân loại của Vatican cùng những sách lược và kế họach
của thế lực này để Vatican để đạt được tham vọng bất chính trên đây.
Phần này gồm có:
Chương 3: Chủ trương thống trị toàn cầu và nô
lệ hóa nhân loại của Vatican (25)
Chương 4: Những nỗ lực thuyết phục Pháp cấu kết
với Vatican đánh chiếm Việt Nam (32)
Chương 5: Vatican nỗ lực thuyết phục Pháp cấu
kết với Vatican đánh chiếm Việt Nam (38)
Chương 6: Những động lực hay lý do khiến cho
người Việt Nam theo đạo Ca-tô (43)
Chương 7: Tín đồ Ca-tô bản địa được Vatican
rèn luyện như thế nào? (74)
Chương 8: Hậu quả của chính sách đào tạo
người của Vatican (85)
Chương 9: Tội ác của giáo dân người Việt đối
với tổ quốc và dân tộc Việt Nam. (100)
Chương 10: Sự khác nhau giữa giáo dân Âu Châu
và giáo dân người Việt (128)
◎◎◎
CHƯƠNG 3
Chủ trương thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân loại của nhà thờ.
Các nhà sử học chuyên nghiên cứu về Giáo Hội La
Mã đều khẳng đinh rằng Vatican có chủ trương thống trị toàn cầu và
nô lệ hóa nhân loại. Chủ trương này được thể hiện qua (1)
lời tuyên bố của Giáo Hoàng Leo I (440-461) tuyên bố vào năm 451 rằng “Quyền
hành của giáo hoàng phải bao trùm lên tất cả quyền hành của các nhà
cầm quyền thế tục”, (2) bản tuyên cáo "Dictatus papae" được ban
hành trong thời Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) [sẽ được nói rõ
nơi Chương 12 ở sau], và (3) hàng loạt các thánh lệnh hay sắc chỉ
được ban hành trong thế kỷ 15. Các thánh lệnh hay sắc chỉ này được
nhà viết sử Vũ Ngự Chiêu dưới bút hiệu là Nguyên Vũ ghi lại với tựa
đề là “Các Thánh Lệnh Phân Chia Thế Giới” trong cuốn Ngàn Năm Soi
Mặt (Houston, TX: Văn Hóa, 2002) nơi các trang 389-393. Dưới đây là
nguyên văn những đoạn nói về phần chính yếu của các thánh lệnh này:
► Các Thánh Lệnh Phân Chia Thế Giới
"Các giáo hoàng đầu tiên của thời Phục Hưng
[Renaissance] còn dùng thần quyền để phân chia những vùng đất "mọi
rợ" mà Portugal và Espania bắt đầu đi xâm chiếm ở duyên hải Tây Phi
Châu (1416) hay "lục địa đã mất" Mỹ Châu (thập niên 1480-1490):
"Đó là các Thánh lệnh (bulls): Dudum and nos
(1436) và Rex Regum (1443) của Eugene IV (1431-1439, 1439-1447
[antipope Felix V (1439-1447)]; Divino amore communiti (1452) và
Romanus Pontifex (8/1/1454) của Nicholas V (1447-1455), Inter Catera
(1456) của Callistus III (1455-1458), Aeterni Regis (1481) của
Sixtus IV (1471-1484); và nhất là những giáo lệnh (Papal bulls) của
Alexander VI (1492-1503) trong hai năm 1493-1494, như Inter Caetera
ngày 3-4/5/1493, và Dudun sequidem ngày 26/9/1493. (Inter Caetera
ngày 4/5/1493 in trong Corpus của Luật Tòa Thánh Ki-tô, tức Catholic
canon law); Luis N. Rivera, Aviolent Evangelism: The Political and
Religious Conquest of the Americas [Chính sách truyền đạo bằng bạo
lực: Cuộc chinh phục chính trị và tôn giáo châu Mỹ] (Louisville,
Kentucky: Wesminster/ John Knox Press, 1992), tr.24-5, 28-9; H.
Vander Linden, "Alexander VI and the Demarcation of the Maritime and
Colonial Domains of Spain and Portugal, 1493-1494" [Alexander VI và
sự phân chia lãnh hải và thuộc địa giữa Espania và Pooc-tiu-gơn,
1493-1494];" American Historical Review [AHR], Vol. XXII, No. 1
(Oct. 1916), pp. 1-20; John Fiske, The Discovery of America, 2
vols (Boston: Houghton, Mifflin & Co., 1892) I:324-6, 454-68; Phụ
bản B, II:580-93.
[Bartolemi?] La Casas trong cuốn Historia de
las Indias, nói đến việc năm 1442, sau khi Antonio Goncalves mang
vàng và nô lệ từ Rio del Oro (Phi Châu) về Portugal, triều đình
Portugal của Henry the Navigator xin Giáo Hoàng "Martin V" ban cho
một thánh lệnh độc quyền chiếm hữu đất đai và nô lệ, và sau đó các
Giáo Hoàng Eugene IV, Nicholas V, Calixto IV đều tái xác nhận
(I:85). Thực ra, Las Casa đã lầm lẫn đôi chút, vì Martin (1417-1431)
đã chết trước đó 11 năm, và người ban thánh lệnh buôn nô lệ chính là
Eugene IV. (Fiske 1892, I:325nl). Nhiều tác giả đã sao lại lỗi kỹ
thuật của Las Casas.
Thánh lệnh ngày 8/1/1854, ban cho Vua
Portugal tất cả những lãnh thổ khám phá ra "trong vùng đại dương tới
những vùng phía Nam và Đông" mà các vua theo đạo Ki-tô chưa hề tìm
thấy hay sở hữu. (Alguns Documents do Archivo Nacional da Torre do
Tombo [Lisbon: 1892] tr. 15-6; dẫn trong Linden 1916, tr.12).
Thánh lệnh ngày 21/6/1481 của Sixtus IV lập
lại những lệnh kể trên, và phê chuẩn hòa ước Alcacovas năm 1479 giữa
Espania và Portugal (linden 1916, tr. 12n28).
Thánh lệnh của các giáo hoàng ban cho vua
Ki-tô người Portuguese những "quyền" tại các vùng đất chiếm đóng
được ở Africa: (1) chủ quyền lãnh thổ tại các vùng mới được khám phá
ra hoặc chiếm đóng; (2) quyền được giáo hội ban phép lành; (3) quyền
được thu thuế [tithes] tại những vùng đất mới; (4) quyền được
truyền giảng đạo Ki-tô; và (5) quyền bắt thổ dân làm nô lệ. (Morales
Padron 1979, 16; dẫn trong Rivera 1992:28).
Ngoại trừ điều khoản bắt thổ dân làm nô lệ
trong các thánh lệnh trên, nội dung của bốn thánh lệnh mà Alexander
VI ban phát (grant and donation in perpetuity) cho Espania cũng
tương tự. (Leturia 1959:I:153-204, dẫn trong Rivera 1992:29).
Theo Manzano (1948, 8-28), thánh lệnh trong
hai ngày 3-4/5/1493 như sau: Thánh lệnh thứ nhất (Inter caetera ngày
3/5/1493) ban phát những vùng đất mới cho Espania; thánh lệnh thứ
hai phân chia vùng quyền hạn (jurisdictions) giữa hai vua Espania và
Portugal để tránh những tranh chấp (Inter caetera ngày 4/5/1493); và
thánh lệnh thứ ba (Dudun siquidem ngày [26]/9/1493), nới rộng vùng
đất ban phát tới Đông Ấn (Oriental Indies), mục tiêu đích thực của
phong trào thám hiểm và khám phá (tức hạn chế Portugal tại những
vùng đã chiếm được trước năm 1492). Do yêu cầu của Ferdinand V va
Isabella, Alexander VI còn ban hành một thánh lệnh khác, Eximiae
devotionis đề ngày 3/5/1493, [chỉ gửi đi vào tháng 7/1493 (Register
879:234)], nhấn mạnh hơn cả hai thánh lệnh Inter caetera ngày
3-4/5/1493 [đã được gửi đi từ tháng 4 (Register 775:42 verso) và
tháng 6/1493 (Register 777:192 verso)] và tổng hợp nội dung của hai
thánh lệnh trên.
Khi vua John của Portugal chống lại bốn
thánh lệnh trên, thương thuyết giữa hai nước bắt đầu từ ngày
18/8/1493. Ngày 7/6/1494, Espania và Portugal ký Hiệp Ước
Tordesillas, sửa lại đường phân chia thế giới. Espania đồng ý nhượng
cho Portugal xứ Brazil; tức đường ranh giới thế giới dời về hướng
Tây thêm 10 kinh độ (từ khoảng 36'30 Tây tới 46'30 Tây, [tương đương
với 270 hải lý, cách bờ Tây Quần Đảo Cape Verde khoảng 370 hải lý].
Giáo Hoàng Julius (1503-1513) chấp thuận hiệp ước này bằng thánh
lệnh Es Quae năm 1506.
Bốn thánh lệnh của Giáo Hoàng Alexander VI -
Inter Caetera (3-4/5/1493), Eximaiae devotionis (3/5/1493), và
Dudun Siguidem (26/9/1493) - được in lại trong nhiều tác phẩm
Espania, như Marin Fernandez de Navarete, Colección de los viages y
descubrimientos que hicieron por mar los espanoles, desde fines del
s. XV. 2 tập (Buenos Aires: Editorial Guarania, 1945), 2:34-49,
467-468) và Casas 1965 (2:1277-1290). Bản dịch tiếng Mỹ có thể tìm
thấy trong Fiske, 1892, Appendix B; và Frances G. Davenport,
European Treaties Bearing on the History of the United States and
Its Dependencies to 1648, 4 vols. (Washington: Carnegie Institution,
1917) (I:64-70, 84-100, 107-111).
Mặc dù vài tư liệu đã bị gọi sai lầm là
"bulls" (Thánh lệnh hay Thánh luật), như Manuel Gimenez Fernandez
(1944, xiii) nhận định, chúng tôi dùng chữ "Thánh lệnh" như thường
dùng (thay vì sắc chỉ, vì thuật ngữ này không sát nghĩa).
Có 3 khuynh hướng diễn giải về vai trò của
Giáo Hoàng: (a) Giáo Hoàng là người trọng tài trong các cuộc tranh
chấp Espania-Portugal; (b) Giáo Hoàng là chánh án tối cao giải quyết
sự tranh chấp giữa Espania và Portugal; (c) Giáo Hoàng chẳng có
quyền lực gì, chỉ chấp nhận một thực tế (Linden 1916: 2-3)..
Manuel Gimenez Fernandez (1944), người
nghiên cứu về các thư từ của Giáo Hoàng - trong cách diễn tả khá
khác thường so với các sử gia Ki-tô Vatican người Espania - cho rằng
có một cuộc trao đổi (simoniacal exchange) giữa Alexander VI và
Fernando [Ferdinand] V, để có được những cuộc hôn nhân đầy lợi lộc
cho các con ông ta (his sacriligious sons), đặc biệt là gã vô lại
(the bastard) Juan de Borgia. Quận công xứ Gandia (lấy Maria
Enriquez, em họ Ferdinand V). Tác giả nhận định: "Như vậy Inter
Caetera ngày 3/5 chỉ là bước đầu của liên hệ gia đình giữa các vua
xứ Aragon (Tây Ban Nha) và đứa con hoang của Alejandro Borgia
(Alexander VI) [Thus the Inter Caetera on May 3 is, then, but the
first stage of the kinship between the monarchs of Aragon and the
favorite sacriligious son of Alejandro Borgia] (Gimenez Fernandez
1944, 86-87)."
Sau Alexander VI, Kitô giáo được triều đình
Espania và các quốc vương Kitô khác sử dụng như ý thức hệ nòng cốt
của chính sách thực dân, tức tiếp nối tinh thần "thập tự quân" mới:
Di chúc của Nữ Hoàng Isabel (1504), Luật Burgos (1512), yêu sách
[Requerimiento] (1513), Tân Luật [Leyes Nuevas],cuộc tranh luận
Valladolid (1550-1551), các sắc lệnh về những xứ và thành phố mới
khám phá trong thời Felipe II (1573), và cuối cùng là Bộ Luật về thổ
dân [Compilation of the Laws of the Indies] năm 1680 dưới thời
Carlos II.
Thánh lệnh của Alexander VI trở thành căn
bản "pháp lý" của những cuộc chinh phục Mỹ và Á Châu trong thế kỷ
XVI-XVII. Năm 1530, chẳng hạn, vua Joao III viết cho Đại Sứ Pháp:
"Tất cả những chuyến du hành thám hiểm trên
biển và trên đất liền đều có cơ sở pháp lý [tức quyền sở hữu], căn
cứ vào các thánh lệnh mà các Thánh Cha đã ban phát từ xưa... dựa
trên những pháp lý vững chắc, và vì thế [những vùng đất khám phá
được] là tài sản hợp pháp của Ta và ngôi vua vương quốc [Espania],
[chúng] đang yên ổn nằm trong quyền sở hữu của Ta; không ai có thể
xâm phạm chúng trong lẽ phải và công lý." [Zavala (1971, 348)].
Một số quốc gia Âu Châu không tán thành và
không nhìn nhận những thánh lệnh này. Năm 1540, Vua Francis I
(1497-1547) của nước Pháp mỉa mai: "Ta sẽ rất hân hoan nếu thấy
trong lời chứng của Adam có câu lọai Ta ra khỏi một phần chia chác
của thế giới." (Leturia 1959, I:280). Jean Francois Marmontel, một
nhà bách khoa tự điển Pháp, cáo buộc thánh lệnh của Alexander VI là
"tội ác lớn nhất trong số các tội ác của nhà Borgia." (Hoffner 1957,
268).
Nữ Hoàng Elizabeth I của Bri-tên cũng không
dấu lòng bất mãn, nhấn mạnh rằng "Ta không thể tin rằng dân bản xứ
là sở hữu hợp pháp của Espania do thánh lệnh của một giáo hoàng ở
Rome, mà Ta không nhìn nhận quyền hạn về vấn đề này, và lại càng
không tin ông ta có thể ràng buộc được các vua không thuần phục ông
ta." (Zorraqufn Becu 1975, 587)”
[1]
Một trong những thánh lệnh (cũng gọi là sắc
chỉ) này là Sắc Chỉ Romanus Pontifex được ban hành vào ngày
8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455). Nội dung của
sắc chỉ được Linh-muc Trần Tam Tỉnh ghi lại trong cuốn Thập Giá và
Lưỡi Gươm như sau:
"...., quyền lợi của Bồ Đào Nha đã được
phân định rõ ràng trong sắc chỉ "Romanus Pontifex" do Đức (Giáo
Hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454.
Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa Thánh, Đức Giáo Hoàng
ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm lăng,
chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân
Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác
của Giáo Hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả
các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng;
toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt
tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn."
Khi ban quyền cho người Bồ Đào Nha được
chiếm mọi thứ lợi lộc kể trên, Giáo Hoàng đồng thời cũng muốn mở
mang nước Chúa sang các miền xa xôi. Và để nhà vua Bồ Đào Nha yên
tâm hơn, Giáo Hoàng ra lệnh cấm không một ai khác được phép đặt
chân tới các vùng đất ấy nếu không có phép của nhà vua, dành cho nhà
vua độc quyền buôn bán và ra vạ tuyệt thông tức khắc cho bất kỳ ai
dám hành động ngược lại."[2]
Tất cả những sắc chỉ hay thánh lệnh được ban
hành trong thế kỷ 15 đều có nội dung tương tự như nội dung Sắc Chỉ
Romanus Pontifex. Nội dung của các sắc chỉ này được Tiến-sĩ
Cao Huy Thuần tóm lược bằng mấy đoạn văn trong cuốn Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Tại Việt Nam (1857-1914) như sau:
Vì lý do đó, Giáo Hội Thiên Chúa công nhận rành mạch chính nguyên tắc của việc xâm chiếm thuộc địa. Xâm chiếm thuộc địa là một “công trình giáo dục về kinh tế, xã hội, chính trị”, là “thực hiện chức năng đem lại văn minh do luật thiên nhiên ban cho các quốc gia tự do và có ý thức trách nhiệm”. Hồng Y Verdier nói rõ: xâm chiếm thuộc địa nằm trong chương trình của Thượng Đế, như một hành động bác ái tập thể mà trong một thời điểm nào đó, một dân tộc thượng đẳng phải làm đối với các giống dân xấu số như một bổn phận phát sinh từ chính văn hóa thượng đẳng của dân tộc đó.” Nói một cách khác, các nhà đạo đức Thiên Chúa giáo tìm cách biện minh cho một quyền thuộc địa bị chỉ trích toàn bộ.”[3]
Vấn đề này được
Tiến-sĩ sử gia Vũ Ngự Chiêu ghi lại trong "Ngàn Năm Soi Mặt" với nguyên văn như sau:
“[Bartoleme] Las Casas trong cuốn
Historia de las Indias, nói đến việc năm 1442, sau khi Antonio
Goncalves mang vàng và nô lệ từ Rio del Oro (Phi châu) về Portugal,
triều đình Portugal và Hoàng Tử Henry the Navigator xin Giáo Hoàng
“Martin V” ban cho một thánh lệnh độc quyền chiếm hữu đất đai và nô
lệ, và sau đó các Giáo Hoàng Eugene IV (1431-1447) Nicholas V
(1447-1455) Calixto III (1455-1458) đều tái xác nhận (I:185). Thực
ra, Las Casas bị lầm lẫn đôi chút, vì Martin V (1417-1431) đã chết
trước đó 11 năm và chính Eugene IV (1431-1447) ban thánh lệnh buôn
nô lệ (Fi ke 1892, I:325n1). Nhiều tác giả đã sao lại lỗi kỹ
thuật của Las casa.
Thánh Lệnh 8/1/1454, ban cho vua
Portuguese tất cả những lãnh thổ khám phá ra “trong vùng đại dương
tới những vùng phía Nam và Đông” mà các vua theo đạo Ki-tô chưa hề
tìm thấy hay sở hữu. Alguns Documentos do Archivo Nacional da Toorre
do Tombo [Lisbon: 1892] tr. 15-6, dẫn trong Linden 1916, tr. 12).”[4]
Sau đó, Bồ Đào Nha lại thành công trong
vỉệc tìm ra hải lộ đi từ Tây Âu đến Á Châu bằng cách đi theo ven
biển Tây Phi vòng qua Mũi Hảo Vọng ngược lên phía Bắc theo ven biển
Đông Phi, băng qua eo biển Mozambique, rồi tới biển Á Rập đển Ấn Độ,
Mã Lai và Quần Đảo Hồ Tiêu (Nam Dương). Vì những thành công này,
Giáo Hội lại ban hành thêm một loạt thánh lệnh tiếp theo để xác nhận
những đặc quyền ăn cướp của Bồ Đào Nha ở tất cả nơi nào mà đế quốc
này có thể đem quân đến chinh phục với điều kiện là phải "mở
mang nước Chúa", nghĩa là phải cho Giáo Hội ăn có.
Nhờ việc khám phá ra hải lộ này và nhờ được
Giáo Hội ban đặc quyền độc chiếm hải lộ này để làm ăn, Bồ Đào Nha
trở thành một nước giầu có nhất ở Âu Châu vào thời bấy giờ. Sự giầu
có của Bồ Đào Nha khiến cho người dân Âu Châu (mà đa số là Tây và
Nam Âu), nghĩ rằng Ấn Độ và Trung Hoa hẳn là những nơi vô cùng giầu
có, ở đâu cũng có vàng, đầy dẫy những tơ lụa, gấm vóc. Cũng vì thế
mà thời đó có rất nhiều người Âu Châu nỗ lực tìm đường đi tới Á
Châu bằng cả đường bộ (gọi là con đường tơ lụa) và đường thủy hay
đường biển (gọi là con đường hồ tiêu).
Do sự tiếp xúc với dân Đông Phương (Đông và
Nam Á Châu), họ thấy rằng đồ ăn của người Á Châu có những hương vị
thơm phưng phức rất là "khoái khẩu", người phụ nữ Đông Phương có vẻ
đẹp dịu dàng, duyên dáng, dễ thương và có tinh thần thuần phục người
chồng hơn là người phụ nữ Âu Châu. Những thứ này quả thật là vô cũng
hấp dẫn đối với các đấng trượng phu người Âu Châu. Từ đó, ở Âu Châu
nẩy sinh ra phong trào đi đến tận Á Châu để được chứng kiến cảnh
giầu có huy hoàng ở Á Châu, được ăn những miếng ăn ngon của người Á
Châu, nhìn thấy tận mắt những cảnh đẹp và người đẹp của Á Châu, và
đặc biệt nhất là để bốc hốt của cải ở Á Châu giống như Bồ Đào Nha đã
làm.
Cũng nên biết là vào thời kỳ đó, trong khi
Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô vẫn còn khăng khăng tin rằng trái đất
bằng phẳng và là trung tâm của vũ trụ, thì đã có rất nhiều người đều
tin rằng trái đất có hình tròn như trái cầu, tự xoay quanh với một
chu kỳ mõi ngày một vòng và di chuyển chung quanh mặt trời theo một
quỹ đạo hình bầu dục theo một chu kỳ 365 ngày và 6 giờ.
Vì biết rằng
trái đất tròn, cho nên người Âu Châu mới cho rằng có thể dùng hải
lộ từ bờ biển Đại Tây Dương ở Âu Châu đi theo hướng Tây và cứ đi
hoài sẽ đến Á Châu, tức là sẽ đến Trung Hoa và Ấn Độ. Một trong
những người tin như vậy là nhà hàng hải Christopher Columbus
(1451-1506), người Ý Đại Lợi. Columbus đã soạn thảo một dự án gồm ba
chiếc tầu và một số thủy thủ để thực hiện chuyến đi này và đã đệ
trình lên một vài tiểu vương trong các tiểu vương của các tiểu quốc
nằm trên bán đảo Ý Đại Lợi. Nhưng vì nước Ý lúc đó chưa thống nhất,
có nhiều tiểu quốc riêng rẽ và có nhiều tiểu quốc gọi là Papal
States nằm dưới quyền thống trị trực tiếp của Tòa Thánh Vatcian.
Các tiểu quốc này vừa nhỏ, vừa nghèo, không đủ khả năng tài trợ cho
dự án của ông.
Thất vọng, nhà hàng hải Columbus đành phải mang dự án
của ông đến Tây Ban Nha trình lên triều đình Tây Ban Nha và được
Hoàng Đế Ferdinand V (1452-1516) cùng Hoàng Hậu I sabella I
(1451-1504) đồng ý tài trợ cho ông ba chiếc tầu Santa Maria, Nina và
Pinta với một thủy đoàn khoảng 90 người (40 người trong chiếc tầu
chỉ huy Santa Maria, 25 người cho chiếc Nina và 25 người cho chiếc
Pinta).
Khởi hành từ Tây Ban Nha vào ngày Thứ Sáu 3
tháng 8 năm 1492, ba chiếc tầu này cắm cờ Tây Ban Nha (nằm dưới
quyền bảo trợ của Tây Ban Nha) ngày đêm vừa chèo, vừa trương buồm
cứ theo hướng tây thẳng tiến. Mãi tới ngày Thứ Sáu 12 tháng 10 năm
đó, đoàn tầu này mới đến Mỹ Châu và đổ bộ lên đảo San Salvador (một
trong những hòn đảo nằm ở phía Bắc hòn đảo Cuba và Đông Nam bán đảo
Florida).
Mục đích của đoàn tầu này là đi đến Ấn Độ ở
Á Châu. Cũng vì thế mà khi mới tới hòn đảo San Salvador họ tưởng lầm
rằng họ đã đến đất Ấn Độ, cho nên họ mới gọi vùng này là West Indies
(Tây Ấn) và gọi thổ dân ở đây là "Indians" (người Ấn Độ).
Thấy rằng Tây Ban Nha đã tìm ra một vùng đất
mới còn ngờ là đất Ấn Độ và cũng tin rằng vùng đất mới này cũng giầu
có, có nhiều vàng bạc, châu báu, miếng ngon của lạ như ở Ân Độ và
Trung Hoa, Giáo Hội La Mã lại tìm cách "nhẩy vào ăn có"
bằng cách ban hành một Thánh Lệnh vào tháng 5 năm 1493 với chủ đích
là ban cho Tây Ban Nha những đặc quyền y hệt như những đặc quyền mà
Giáo Hội đã ban cho Bồ Đào Nha ghi trong Thánh Lênh Romanus Pontifex
được công bố vào ngày 8 tháng 1 năm 1454 trong thời Giáo Hoàng
Nicholas V (1447-1454). Việc này gây nên sự tranh chấp giữa Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha về "cái quyền đem quân chiếm đất, giết người,
đoạt của, hãm hiếp đàn bà con gái và mở mang nước Chúa ở ngoài lục
địa Âu Châu".
Nội vụ được đưa lên Tòa Thánh La Mã phân xử. Việc
này được Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) giải quyết bằng cách
chia đôi địa cầu để ban cho hai quốc gia này, mỗi quốc gia được
quyền chiếm một nửa. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi
lạ này như sau:
"Năm 1492, Christophe Colombo khám phá ra
những vùng đất mới mà ông nghĩ là Ấn Độ. Một nửa thế kỷ trước đó,
thương thuyền Bồ Đào Nha cũng đã chạy dọc theo bờ biển phía Tây Châu
Phi. Ít năm sau, năm 1497, Vasco de Gama, người Bồ Đào Nha, đã phát
hiện đúng con đường sang Ấn Độ.
Ngày 4 tháng 5 năm 1493, qua sắc chỉ
"Inter caetera" ("giữa những điều khác"), Giáo Hoàng Alexander VI
giao quyền chinh phục các vùng đất kể trên mà các dân Phương Tây
chưa từng biết, cho các triều đình nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Tây Ban Nha có quyền đi chiếm tất cả các đất đai gặp được ở một
trăm dặm kể từ quần đảo Azores, còn Bồ Đào Nha, tất cả các nước nằm
ở mạn Đông đường ranh đó (quần đảo Azores ở mạn giữa cắt đôi Đại Tây
Dương).[5]
Tính ra từ năm 1454 cho đến năm 1493, Tòa
Thánh Vatican ban hành một loạt gần 10 thánh lệnh liên quan đến việc
ban phát các đặc quyền cho hai nước Bồ Đào Nha và Tấy Ban Nha đem
quân đi đánh chiếm đất đai ở ngoài Âu Châu để làm những viện làm đại
gian, đại ác và cực kỳ dã man đúng như tinh thần Sắc Chỉ Romanus
Pontifex như đã nói ở trên với mục đích duy nhất là phục vụ cho tham
vọng đế quốc của Vatican cũng như bản thân đế quốc Tây Ban Nha và Bô
Đào Nha.
Phần trình bày trên đây cho thấy rõ là Giáo
Hội La Mã hay Vatican quyết tâm theo đuổi tham vọng thống trị toàn
cầu đúng như lời sử gia Loraine Boettner đã ghi nhận:
“Mục tiêu của họ (giới tu sĩ Da-tô) không
phải chỉ nhắm vào những đặc quyền đặc lợi để được sống trong huy
hoàng và buông thả với những thú vui nhục dục. Thực ra, trong giới
người này, cũng có những người sống khắc khổ. Nhưng mỗi người
trong họ đều mang căn bệnh khát vọng quyền lực và tự cho mình là
thành phần trong thế lực thống trị toàn cầu. Vì đã mất đi khả
năng của tình yêu, họ tìm đến thú vui trong sự sợ hãi của những
người đồng đạo (đồng bào) và người ta càng hèn hạ sợ hãi họ bao
nhiêu thì họ càng thích thú say mê bấy nhiêu. Đã có người nào đặt ra
vấn đề là phải chăng sự an toàn của giai cấp tu sĩ đòi hỏi phải có
một cái hố ngăn cách không thể nào vượt qua được? Đó là sự cách biệt
giữa một bên là những giáo dân đứng đắn đàng hoàng và một bên là
những người có tâm địa của loài chó sói, những người không có Chúa
mà chỉ có Lòng Tham Lam, không có tôn giáo mà chỉ biết đến Quyền Lực.”
(Christian Heritage, May, 1959.)” Nguyên văn:
“Their objective is
not merely a life of privilege, luxury, an carnal sel-indulgence. In
fact, there are among them, men of rigid ascetic character. But each
every man of them is driven by an insatiable lust for power. Each
sees himself as a factor to be reckoned with in a globe dominating
force. Having lost the capacity for love, they seek the fear fellow
men – the more abjec, the headier. Is it any wonder that hierarchy’s
own security demands an impassable gulf between decent well-meaning
Catholic people and these men with the hearts and spiritual of
wolves, these men with no God but Greed, no religion but Power?”
(Christian Heritage, May, 1959.)”[6]
◎◎◎
Xem tiếp: Kế Hoạch Đánh Chiếm Việt Nam
CHÚ THÍCH
[1] Nguyên Vũ. Ngàn Năm Soi
Mặt (Houston, Texas: Văn Hóa, 2002), trang 389-393.
[2]
Trần Tam Tỉnh, Thập Giá và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất
Bản Trẻ, 1978), trang 14-15.
[3] Cao Huy Thuần, Giáo Sĩ Thùa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam 1857-1914 (TP Hồ Chí Minh: Công Ty TNHH Sách Phương Nam, 2014), tr. 9 .
[4] Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi
Mặt (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr. 389-390.
[5] Trần Tam Tỉnh, Sđd., trang
14.
[6] Loraine Boettner, Roman Catholicism (Phillipsburg, New Jersey: The Presbyterian and Reformed Publishing Company, 1962),
p.64.