
MỞ ĐẦU :
Tác giả ghi chú: Đây là bài viết
nghiêm túc về Tội Tổ Tông của người Ki Tô giáo Việt Nam. Các tài liệu tham khảo
đều được trích dẫn ghi lại ở cuối bài để cho độc giả tiện trong việc đối chiếu.
Hy vọng bài viết này
sẽ cung cấp cho độc giả chưa biết gì về Ki tô giáo (chủ yếu là Công giáo La mã
mà người Việt ta thường gọi la Thiên chúa giáo, và Tin lành) một cái nhìn toàn
triệt về Tội tổ tông của người Ki tô giáo Việt Nam. Nó cũng là tài liệu nhằm
giúp cho đồng bào Ki tô giáo Việt Nam, đặc biệt là những người trí thức Ki tô
giáo Việt Nam nhận đâu là Tội tô tông giả hiệu và đâu là Tội tổ tông đích thức
của mình.
Có biết đúng mới có
thể hành xử đúng với truyền thống dựng nước và giữ nước Việt Nam của cha ông từ
hơn 4000 năm tới nay.
Kính mong nhà sách
SÁCH HIẾM phổ biến rộng rãi đến bạn đọc.
Tuy nhiên bài viết
tương đối dài vì tính hoàn chỉnh, cho nên Muc Đông tôi nhờ nhà SACH HIẾM sắp xếp
lại đường dẫn để cho độc giả muốn đọc phần mục La mã hay A, B, C…nào thì click
vào là đọc đươc ngay.
Xin cảm ơn.
Bài này gồm các phần sau đây:
I. VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
(GARDEN OF EDEN)
II.
TỘI TỔ TÔNG THEO GIÁO ĐIỀU CỦA KI TÔ GIÁO LÀ GÌ ?
III. LÝ DO GIÁNG SINH CỦA CHÚA JESUS.
IV.
AI LÀ CHA ĐẺ CỦA THUYẾT "TỘI TỔ TÔNG" TRONG KI- TÔ GIÁO ? VÀ VÌ SAO ?
A.
HÀNH TRẠNG CỦA ÔNG THÁNH PAUL
B.
HÀNH TRẠNG CỦA ÔNG THÁNH AUGUSTINE
V. NHỮNG NGƯỜI CÓ
LÝ TRÍ CÙNG THỜI VỚI AUGUSTINE ĐÁNH GIÁ "TỘI TỔ TÔNG" NHƯ THẾ
NÀO ?
VI. BÀ MARY VÀ ÔNG
JESUS CÓ BỊ TỘI TỔ TÔNG KHÔNG ?
VII. HIỆN NAY NHỮNG
NGƯỜI CÓ LÝ TRÍ ĐÁNH GIÁ TỘI TỔ TÔNG THẾ NÀO ?
A.
ĐÁNH GIÁ CỦA CHÍNH NHỮNG NGƯỜI KI TÔ GIÁO
B.
ĐÁNH GÍA CỦA NHỮNG NGƯỜI PHI KI TÔ GIÁO
VIII.
TỘI TỔ TÔNG ĐÍCH THỰC CỦA NGƯỜI VIỆT NAM THEO KI-TÔ GIÁO LÀ GÌ ?
A.
TỘI ĐỐI VỚI VĂN MINH NHÂN LOẠI.
B.
SỰ TÀN BẠO CỦA THỰC DÂN ÂU CHÂU VÀ VĂN HÓA KINH THÁNH ĐỐI VỚI THỔ DÂN MỸ CHÂU.
1.
CHUYỆN VỀ CORTES
2.
CHUYỆN VỀ FRANCISCO PIZARRO
3.
THỔ DÂN CHÂU MỸ BỊ ÁP ĐẶT VĂN MINH KINH THÁNH
C.
DÂN DA ĐEN CHÂU PHI BỊ BẮT LÀM NÔ LỆ TẠI CHÂU MỸ
D.
TỘI RIÊNG ĐỐI VỚI ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM.
1.
ĐỐI VỚI TỔ TIÊN DÒNG HỌ
2.
ĐỐI VỚI ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
3.
VỤ ĐÒI TÒA KHÂM SỨ CŨ TẠI HÀ NỘI : NGƯỜI KI TÔ GIÁO VIỆT NAM ĐANG TÍCH LŨY TỘI
TỔ TÔNG.
IX. NHẬN XÉT KẾT
THÚC
-- --
I. VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
(GARDEN OF EDEN)
Để hiểu về Tôi Tổ
Tông theo giao điều của Ki tô giáo thì cần phải biết qua về Vườn Địa Đàng
(Garden of Eden). Theo giáo điều (dogma) của Ki-Tô giáo gồm Công Giáo La Mã, Tin
Lành, Anh giáo và Chính Thống giáo, ghi lại trong Sáng Thế Ký 1, thì Thiên chúa
Jehovah tức là Chúa cha đã tạo ra vũ trụ này cách đây khoảng 6000 năm trong 7
ngày như sau :
Ngày thứ nhất : tạo ra
Trời, Đất và phân biệt ngày với đêm.
Ngày thứ hai : tạo
ra Vòm trời rất chắc chắn bằng đồng thau, có nhiều cột chống đở
Ngày thứ ba : phân
đất ra khỏi nước và tao ra cây cối. Đất cũng được chống đở bởi các trụ cột rất
vững chác và quả đất đứng yên.
Ngày thứ tư : tạo
ra hai ngọn đèn lớn là Mặt trời và Mặt trăng và các ngọn đèn nhỏ là các vì sao
được treo móc vào Vòm trời đã tạo ra trong ngày thứ hai.
Ngày thứ năm : tạo ra
các loài dưới nước và trên không.
Ngày thứ sáu : tạo ra
các loài trên cạn; lấy bụi đất tạo ông Adam rồi hà hơi vào lỗ mũi để ông Adam
thành người sống. Rồi tạo ra một cái vườn có cây cối cho ông Adam ở. Để ông có
bạn cho đở buồn, Chúa tạo ra các loài vật, chim trời đem tới cho ông đặt tên.
Nhưng ông chê là các bạn ấy "không đạt yêu cầu", cho nên Chúa làm phép cho ông
ngủ mê, rồi lấy một cái xương sườn của ông mà tạo ra bà Eva.
Ngày thứ bảy : nghỉ
và chúa tuyên bố là không tạo ra gì nữa.(1).
Cái vườn chúa tạo ra cho
ông Adam và bà Eva ở gọi là Vườn Địa Đàng (Garden of Eden) vì ở đó ômg Adam và
bà Eva được sống một cuộc đời vô cùng sung sướng do Chúa đã tặng cho hai người
này những món quà siêu phàm là sống vĩnh viễn không chết, không đau khổ, có hiểu
biết cao siêu, và hòa hợp tâm linh với chúa. Chúa nói với hai người :Các ngươi
sẽ tìm thấy vui thích trong Chúa; Các người khỏi phải làm bất cứ chuyện gì ; Các
ngươi sẽ không phải nhóm lửa"; " Các ngươi có thể tư do ăn bất kỳ trái cây nào
trong vườn; chỉ trừ trái cây biết phân biệt cái gì tốt và cái gì xấu thì các
ngươi không được ăn, bởi vì vào cái ngày các ngươi ăn trái cây ấy, các ngươi sẽ
chết".(2)
II.
TỘI TỔ TÔNG THEO GIÁO ĐIỀU CỦA KI TÔ GIÁO LÀ GÌ ?.
Ông Adam và bà Eva đã
sống theo lời Chúa dạy trong vườn Địa Đàng ấy nhiều ngày. Nhưng một hôm, một con
rắn ( về sau sẽ gọi là hiện thân của quỷ Satan) đã xúi dục bà Eva không vâng lời
Chúa bằng cách nói rằng:”Bà sẽ không chết đâu. Vì chúa biết rằng khi bà ăn trái
ấy thì mắt bà sẽ được mở ra, và bà sẽ giống như Chúa là biết cái gì là tốt cái
gì là xấu ". Bà Eva đã nghe theo lời xúi dục của con rắn mà ăn trái cấm ấy, và
xúi ông Adam ăn nữa. Sau khi ăn trái cấm, ông Adam và bà Eva cảm thấy thân hình
trần truồng của mình là đáng hổ thẹn nên đã lấy lá che bộ phận sinh dục.
Vì
ăn trái cấm cho nên hai người này đã phạm cái tội không vâng lời Chúa, ngạo mạn
không xem Chúa là người chăn dắt và tìm cách xác định được như chúa là biết cái
gì là tốt, cái gì là xấu. Tội này là cái tội đầu tiên mà ông Adam và bà Eva phạm
với Chúa, nên được gọi là tội ban đầu hay nguyên tội (original sin).
Vì
vậy, Chúa đã phạt Adam và bà Eva bằng cách lấy lại các món quà siêu phàm mà Chúa
đã ban cho hai người. Hai người bị Chúa đuổi ra khòi vườn Địa Đàng, từ nay ông
Adam phải làm lụng vất vả mới có ăn, bà Eva phải chịu mang nặng đẻ đau mới sinh
được con, hai người sẽ phải chết, và sẽ phải có bản chất thấp kém : trí tuệ bị
đen tối, ý muốn xấu xa, và thiếu khả năng hòa hợp tâm linh với chúa.
Giáo điều của Ki
tô giáo nói rằng vì ông Adam va bà Eva phạm nguyên tội, mà hai người là thủy tổ
của loài người nên tất cả mọi người trên thế gian này vì là con cháu của ông
Adam và ba Eva thì phải chịu mang di truyền cái tội ấy. Vì vậy cái tôi ban đầu
của ông Adam và bà Eva được gọi là “tội tổ tông” (3).
III. LÝ DO GIÁNG TRẦN
CỦA CHÚA JESUS THEO KI TÔ GIÁO
Theo giáo điều Ki tô
giáo thì vì nhân loại trên thế gian này mắc Tội tổ tông mà đau khổ và chết, mà
Thiên Chúa, tức Chúa cha Jehovah “ngự” trên cái Vòm trời mô tả ở phần I thì
thương xót nhân loại, cho nên mới hiện thân xuống trần gian làm con bà Mary và
ông Joseph, có tên là Jesus Christ, tức là Chúa con, để hy sinh chịu chết trên
cây thánh giá, mà chịu tội thay cho nhân loại! Cứu rỗi khỏi “tội tổ tong” tất cả
những người nào tin Chúa qua phép rửa tội (baptism). Đó là lý do Giáng trần của
Chúa Jesus cách đây 2008 năm.
Như thế quả là Chúa nhân
từ, thương yêu loài người hết mực ! Và Ki tô giáo là một tôn giáo đầy bác ái !
Và cũng như thế, nếu
người ta chứng minh được việc Chúa tạo ra vũ trụ trong 7ngày cách đây khoảng
6000 năm là không đúng, chỉ là chuyện hoang đường, hoặc ông Adam và bà Eva không
phải là thủy tổ của loài người, hoăc tôi tổ tông là không có thực, thì lý do
giáng trần của Chúa Jesus để cứu rỗi nhân loại là vô nghĩa, là chuyện hoang
đường và do đó mọi giáo điều của Ki tô giáo đều không có cơ sở! Và đây chính là
lý do đã khiến cho rất nhiều người trí thức phương Tây từ bỏ Ki tô giáo và chính
là nguy cơ tan rã của Ki tô giáo trong xã hội mà sự ngu dốt không thể che mờ sự
thức tỉnh, sự suy nghĩ độc lập của con người có trình độ cở từ trung học trở
lên. Đó là mối lo của của các “bề trên” ở Vatican và ở những Hội thánh, Giáo
phái trong thế kỷ 21 này!
Điều phản bác này đả xảy
ra trong quá khứ và nhất là hiện tại với những bằng chứng hiển nhiên của khoa
hoc. Nhưng chúng ta sẽ bàn đến sự tình hấp dẫn này ở phần sau. Bây giờ chúng ta
hãy xem thử nguồn gốc của tội tổ tông ở đâu. Ai đã “đẻ” ra tội tổ tông và với
mục đích gì?
Nếu sự Giáng sinh” của
chúa Jesus đã là “tào lao” và dù ngài Jesus là con người có thật trong lịch sử,
thì cái ngày 25 tháng 12 là ngày Giáng sinh của ngài cũng là chuyện “tào lao”
luôn, vì cho tới nay không có sử liệu nào chứng minh được rằng ngài Jesus sinh
ra trong đêm 24 tháng 12 vì không ai biết Jesus sinh ra ở đâu, vào ngày giờ nào.
Cái ngày 25 tháng 12 là cái ngày do Giáo hoàng Julius 1 đã chọn làm ngày sinh
của Jesus vào năm 350, chứ không phải là sinh đích thực của Jesus (4). Vì vậy,
chúng ta cứ vui chơi, nghỉ xả hơi dịp 25 tháng 12 , và nên cảm ơn Giáo hoàng đã
Julius 1 đã ban cho chúng ta món quà của Chúa này dù biết rằng ngày 25 tháng 12
là ngày sinh “dõm” chứ không phải ngày sinh thật của ngài Jesus.
IV. AI
LÀ CHA ĐẺ RA THUYẾT TỘI TỔ TÔNG TRONG KI - TÔ GIÁO ? VÀ VÌ SAO ?
Đó là hai
người mà về sau được Giáo hội La Mã phong Thánh là Paul và Augustine. Để biết rõ
vì sao, chúng ta cần biết qua hành trạng của hai ông này.
A. HÀNH
TRẠNG CỦA ÔNG THÁNH PAUL.
Theo các
nhà nghiên cứu về Kinh thánh và giáo điều của Ki Tô giáo, thì trong Cựu Ước (Old
Testament) không thấy nói đến tội tổ tông, mà chính ông Thánh Paul viết về tội
tổ tông trong Tân Ước (New Testament) như sau :
“ Vì sự
không vâng lời của một người mà tất cả mọi người đều bị trở thành người cói tội
: Tội đã vào thế giới qua một người và sự chết vì tội, và do đó sự chết lan
truyền tới tất cả mọi người vì tất cả mọi người đều có tội “ (5).
Trong Cựu
Ước không có nói về tội tổ tông, chỉ có đoạn sau đây là có liên quan đến cái tôi
ban đầu của ông Adam và bà Eva và bị Chúa la mắng và giáng tội:
Chúa đã
nói với con rắn rằng vì ngươi đã làm điều đó nên ngươi bị nguyền rủa giữa tất cả
mọi con vật và giữa tất cả mọi sinh vật hoang dã; ngươi phải chịu đi bằng bụng,
và ngươi phải ăn di hài của người chết suốt đời. Ta sẽ tạo niềm thù hận giữa
ngươi và đàn bà (bà Eva, MĐ) và giữa con cháu ngươi với con cháu của người ấy;
người đàn ông ấy (ông Adam, MĐ) sẽ đập đầu ngươi, và ngươi sẽ tấn công gót chân
ông ta”. Với người đàn bà, Chúa đã nói, Ta sẽ làm cho các cơn đau trong việc
mang thai của ngươi và trong việc sinh con của ngươi tăng lên rất nhiều, và mặc
dù ước vọng của người sẽ dành cho chồng ngươi, hắn sẽ thống trị ngươi”. Và với
người đàn ông, Chúa nói, vì ngươi đã nghe lời vợ ngươi, và đã ăn trái cây mà ta
đã ra lệnh ngươi không được ăn, do đó ngươi bị nguyền rủa, ngươi phải làm lụng
vất vả suốt đời; chông gai sẽ đến với ngươi; và ngươi sẽ phải ăn cây cỏ ngoài
đồng. Phải vất vả mồ hôi ướt mặt ngươi mới có bánh mì để ăn cho đến khi ngươi
trở về với đất vì ngươi được tạo ra từ đất; ngươi là cát bụi, và ngươi sẽ phải
về với cát bụi” (6).
Tại sao căn cứ vào đó mà ông Thanh Paul đã viết ra
tội tổ tông trong Tân Ước như đã trích ra ở trên?
Để có thể biết rõ điều này, chúng ta cần nên biết
qua về hành trạng của ông Thánh Paul này.
Paul sinh ra tại Tarsus, Cilicia trong vùng Asia
Minor (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) với tên là Saul trong một gia đình theo đạo Do
thái, nhưng cha của ông là một người khá nổi tiếng để được là một công dân La
mã. Ông được gởi tới Jerusalem để học, và thường tự hào là một người Do thái
thuộc bộ tộc Benjamin (an Israelite of the tribe of Benjamin).
Với sự cuồng tín của một tín đồ Do thái giáo nhiệt
thành, Saul đã là một người chống Ki tô hung bạo nhất, đã từng chứng kiến sự tử
đạo của Stephen, môn đồ đầu tiền của Jesus bị ném đá cho đến chết vì tội báng bổ
(đạo Do thái, MĐ), và đã tổ chức việc truy lùng những kẻ bị cáo buộc là tán
thành Ki tô giáo (7). Nhưng về sau, Saul bỏ Do thái giáo mà theo Ki tô . Việc
đổi đạo này chính bản thân Saul ít muốn nói tới, nhưng trong Acts có kể lại ba
câu chuyện liên quan tới việc đổi đạo của Saul. Câu chuyện thứ nhất có vẻ rất
hoang đường. Đó là trên đường Saul đi từ Jerusalem đến Damascus với mục đích
truy lùng những người tán thành Ki tô giáo thì bị một tia chớp trên bầu trời làm
Saul ngã từ trên lưng ngưa xuống đất và nghe hình ảnh sống dậy của Jesus quát
rằng : “ Saul, Saul, tại sao ngươi ngược đãi ta vậy ?” (Saul, Saul, why are you
persecuting me ? ) (8). Chuyện hoang đường này có thể được giải thích như sau :
Trên đường đi, gặp lúc bầu trời có mưa giông, có sấm sét, con ngựa mà Saul cởi
và cả Saul đều hoảng sợ, con ngựa lồng lộn làm cho Saul té xuống đất, bị choáng
váng và bị thương. Trong thờ gian nằm tĩnh dưỡng trị vết thương, Saul đã bị một
ai đó và có thể do sự cố ý dàn dựng của người Ki tô giáo đến mớm cho Saul biết
là do cái ác tâm tiêu diệt Ki tô giáo của Saul, nên bị Chúa Jesus Christ hiện
thân lên phạt! và họ thêu dệt rồi đồn đại ra câu chuyện Saul nghe thấy Chúa kêu
la mắng như thế. Đây là một xảo thuật mà những người cầm đầu Ki tô giáo đã dùng
để giữ niềm tin của giáo dân như nhiều màn dàn dựng về sau chúng ta sẽ thấy. Sau
khi tới Damascus thì Saul từ bỏ Do thái giáo của gia đình để đổi qua đạo Ki tô
từ đó đổi tên thành Paul. Với tính chất cực đoan, tất cả năng lực mà trước đây
Paul đã dùng hết mình để khủng bố Ki tô giáo bao nhiêu thì nay Paul lại dùng
năng lực đó hết mình để lo phát triển Ki tô giáo bấy nhiêu. Cho nên Paul cùng
với ông Tháng Peter, và James The Just đã trở thành những người truyền đạo Ki tô
nổi tiếng nhất trong nửa đầu thế kỷ thứ nhất . Trong Tân Ước có ghi lại 14 thư
truyền đạo (epistles) mà được cho là của Paul, và nhờ đó mà ảnh hưởng của Paul
trên tư duy phát triển của Ki tô giáo đã vượt hơn các tác giả khác của Tân Ước.
Lúc mới từ bỏ đạo Do thái để theo đạo Ki tô thì Paul không thể có uy tín trong
giới nhà thờ như 12 Tông đồ của Jesus, vì bản thân Paul chưa hề được gặp Jesus
trươc khi Jesus chết vì bị đóng đinh. Nhưng Paul tự nhận rằng mình tiếp thu Kinh
thánh không phải từ một con người trần mà từ sự mặc khải của Jesus Christ. Vì
vậy Paul đã tin rằng mình đang làm công việc của Chúa và Chúa đang hướng dẫn ý
nghĩ và hành động của mình. Chính vì thế mà Paul cảm thấy tự do đưa ra các ý
tưởng riêng của mình về nhà thờ Ki tô giáo, về đức tin, ngay cả khi những ý
tưởng này không phải được suy trực tiếp ra từ lời dạy của Jesus Christ (9). Đó
là lý do tại sao Paul đã “chế” ra nhiều vấn đề cho đức tin Ki tô giáo mà không
có trong Cựu Ước, trong đó có việc “chế ra tội tổ tông”.Paul muốn phát triển
Ki tô giáo theo một định chế nhà thờ duy nhất với một học thuyết phổ quát. Thời
bấy giờ có nhiều cộng đồng Ki tô giáo khác nhau, thực hiện các nghi thức tôn
giáo của họ theo cách riêng, nhưng Paul quyết định rằng điều đó không nên xảy
ra. Paul cho rằng Nhà thờ là cơ thể huyền bí của Jesus Christ, đã được ban cho
quyền năng thần thánh, và vì vậy phải tồn tại như một thể thống nhất. Paul chủ
trương rằng niềm tin chứ không phải năng lực hay địa vị hay hành động, mới là cơ
sở của cứu rỗi, và chính nhờ niềm tin mà một người Ki tô giáo có thể nhận được
ân sủng của Chúa và trở thành một trong những người chọn lựa của Chúa. Paul cũng
chủ trương rằng việc tin vào sự sống dậy của Jesus Christ và sự sống dậy của tất
cả nhân loại vào Ngày Phán Xét là một đòi hỏi tuyệt đối của niềm tin. Paul cũng
chủ trương khinh thường đàn bà, xem họ là kẻ cám dỗ đàn ông với bà Eva là điển
hình đầu tiên, nhưng đồng thời lại cổ xúy cho tình trạng vô nhiểm (Immaculate
Conception) trinh bạch của bà Mary (10).
Vậy chính cái chủ trương niềm tin tuyệt đối vào sư
cứu rỗi, sự sống dậy , sự phán xét của Chúa vào Ngày Phán Xét, và muốn buộc mọi
người phải theo Ki tô giáo mà Paul đã “chế ra tội tổ tông” để tăng cường nỗi lo
sơ của con người đối với Chúa, đồng thời biết ơn sự cứu rỗi của Chúa mà theo Ki
tô giáo.
Vì sự tích cực trong việc truyền đạo Ki tô mà Paul
bi lính La mã bắt vào năm 58 sau Công nguyên, bi giam, bi ra tòa án ở Ma mã.
Năm 64, Hoang đế La mã Nero buộc tội những người Ki tô giáo đã đốt lữa thiêu hủy
phần lớn thành La mã, cho nên cả Paul và Peter, là những người kiến trúc sư vĩ
đại của nhà thờ Ki tô giáo phải bị giết (11).
Paul đã trở thành người kiến trúc sư vĩ đại của nhà
thờ Ki tô giáo, nhờ tư tưởng của Paul mà nhà thờ được phát triển tốt trong mấy
trăm năm sau khi Paul chết. Nhưng thời bấy giờ, các Hoang đế La mã vẫn còn ngược
đãi Ki tô giáo. Hoàng đế Diocletian, năm 302, nhận thấy Ki tô giáo đã là một cấu
trúc có thế lực nguy hiểm được xây dựng chặt chẻ bên trong đế quốc của mình, nên
quyết định thủ tiêu Ki tô giáo, khiến cho Giáo hoàng, Giám mục, cả những giới
chức của chính quyền theo Ki tôc giáo phải chịu khốn đốn, kể cả cái chết. Nhưng
từ năm 305, khi Docletian thoái vị thì các biện pháp đàn áp lặng lẽ mất dần.
Tuy nhiên giới lãnh đạo nhà thờ đã hiểu ra rằng khi
không có quyền lực chính trị thì họ sẽ dễ bị nguy hiểm trước lòng ham muốn thất
thường của các Hoàng đế, cho nên họ nghĩ đến việc cấu kết với chính quyền để có
thế lực chính trị. Cơ may đã đến với họ. Nguyên Diocletian đã chia đế quốc La mã
làm hai phần : miền đông và miền tây, mỗi phần ông bổ nhiệm một người đứng đầu
để cai trị, trong đó Ki tô giáo đã củng cố được thế lực và niềm tin ở miền đông.
Năm 312, Constantine đánh thắng Maxentius tại Milvian Bridge trên sông Tiber,
và trở thành người kế vị Diocletian, làm Hoàng đế miền tây. Mẹ của Constantine
đã là người theo Ki tô giáo, nên Constantine không sợ những cái lạ lùng của Ki
tô giáo như Diocletian. Constantine hiểu rằng nhà thờ Ki tôc giáo, với mạng lưới
các Giám mục, và các con chiên tận tụy có thể là một đồng minh hùng mạnh cho
cương vị Hoàng đế của mình, trong khi đó thì giới nhà thờ cũng đang tìm cơ hội
liên minh với vị Hoàng đế nào ủng hộ nhà thờ. Cho nên sau khi chính thức kế vị
Diocletian thì Constantine theo Ki tô giáo. Nhưng Eusebius, một người bạn của
Constantine, và là người viết tiểu sử của Constantine có lẽ đã giúp Constantine
và nhà thờ để che đậy âm mưu cấu kết với nhau bằng cách “thánh hóa” việc theo Ki
tô giáo của Constantine mà ghi rằng Constantine đã thấy một thánh giá sáng trên
bầu trời mang dòng chữ :”NHỜ DẤU HIỆU NÀY, NGƯƠI SẼ CHIẾN THẮNG” ( BY THIS SIGN
THOU SHALL CONQUER), và ngay tức khắc, Constantine thề không thờ Chúa nào khác
Thiên Chúa của Ki tô giáo (12).
Sự dàn dựng này là âm mưu câu kết giữa phe Nhà tờ
Ki tô với ngoại bang là nhà độc tài Constantine để hai bên cùng có lợi. Sau đó
Constantine đã dùng nhà thờ Ki tô giáo giúp ông ta để thu tóm và sử dụng quyền
lực chính trị. Nhà thờ đã giúp Constantine trong việc chống lại đối thủ của ông
là Licinius đang làm Hoàng đế miền đông của đế quốc La mã, và ông ta đã dùng các
Giám mục và các cộng đồng giáo dân như là một mạng lưới tình báo, báo cáo cho
ông về các biến cố chính trị và các xu hướng ngấm ngầm trong tất cả các thành
phố của đế quốc (13). Nhờ đó, năm 324, Constantine, đang là Hoàng đế của miền
tây, đã đánh bại Licinius, Hoàng đế của miền đông trong trận đánh tại
Chrysopolis để trở thành Hoàng đế duy nhất cai trị toàn thể đế quốc La mã. Đáp
lại, Constantine giúp Ki tô giáo bằng cách cố gắng, như Paul đã làm trước đây,
là hợp nhất đức tin Ki tô giáo vào một thể chế duy nhất và cho Ki tô giáo dễ
dàng phat triển trong toàn đế quốc La mã. Ông đã làm cho những người dân bình
thường có cảm tình với Ki tô giáo bắng cách lấy ngày phụng sự Chúa của Ki tô
giáo (Christian Sabbath) làm ngày nghỉ của toàn dân (tức ngày Chủ nhật hiện nay)
và kết hợp các lễ hội của người ngoại đạo vào trong lịch Ki tô giáo. Tội đóng
đinh trên hình chữ thập, các cuộc tranh tài giữa các đấu sĩ và các và sự cúng
thần linh bằng sinh vật đều bị cấm trên toàn đế quốc (14). Như thế dựa trên nền
thần học của Paul, nhà thờ Ki tô giáo cấu kết với Hoàng đế Constantine vì quyền
lợi của hai bên, mà Ki tô giáo được phát triển ra khắp Ai cập, xa về phía nam
tới cả Ethiopia, tới bờ đông Biển đen, khắp vùng Asia Minor, Syria, Phoenici.
Palestine vá vào Arabia; về miền tây thì có các cộng đòng Ki tô giáo ở trong mỗi
tỉnh của đế quốc La mã, bao gồm các xứ Gaul, Ibertia va Britannia xa xôi. trong
thế kỷ thứ tư sau Công nguyên. Hoàng đế La mã Constantine đã cố gắng dùng quyền
lực thống nhất các hệ phái, khai sinh ra cái tên Roman Catholic năm 325, và
giúp cho Giáo hội phát triển đổi lại việc Giáo hội giúp Constantine củng cố
quyền thống trị trên toàn đế quốc La mã.
Nhưng sau khi Constantine chết vào năm 337 thì sự
bất đồng phát triển chung quanh vấn đề bản chất của ông Jesus và bà Mary. Phải
chăng Jesus là hoàn toàn thánh thiện, hay một phần thánh, một phấn phàm, trong
trường hợp nào hai phần riêng biệt này hòa hợp với nhau trong con người của
Jesus, hay chúng đã luôn luôn cùng tồn tại trong người ông? Có thể nào bà Mary,
một người phàm, lại sinh ra một vị thánh, và nếu như vậy, thì phải chăng bà Mary
có nhiều phần thánh hơn phàm ? Những điểm tranh cải này đã liên kết chặt chẽ một
cách chết người với quan điểm chính trị của nhà thờ, vì mỗi nhóm đã tìm cách để
được cho là có tính chính thống duy nhất đuôc chấp nhận. Sau cùng thì các Giám
mục và đám con chiên của họ trong nhiều nhà thờ thuộc miền đông, nơi mà Ki tô
giáo vẫn tập trung, thì thích tách rời ra hơn là từ bỏ tầm nhìn riêng của họ về
đức tin (15). Vì vậy các Cộng đồng Ephesus năm 412 và Chalcedon năm 451 được xem
như các cơ hội cho các Giám mục xác lập luật lệ riêng cho mình hơn là tìm cơ sở
chung (16).
Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của Augustine đã
cứu vãn được sự phát triển của nhà thờ La mã (Latin church ) và khiến cho Ki tô
giáo trở thành một thế lưc hoành hành khắp Âu châu trên một nghìn năm, gây nên
nhiều tội lỗi cho các dân tộc các vùng Trung đông, Phi châu, Mỹ châu và Á châu,
di lụy cho tới hiện nay, mà ngày 12 tháng 3 năm 2000, tại thánh đường Phê rô ở
Vatican, Giáo hoàng John Paul II cùng với 5 Hồng y và 2 Tổng giám mục đã phải
công khai thú tội với thế giới loài người.
B. HÀNH TRẠNG CỦA ÔNG THÁNH AUGUSTINE.
Augustine sinh ra
năm 354 trong một gia đình Ki tô giáo (Christian family) tại thành phố Tagaste
(bây giờ là Souk Ahras) ở phía bắc châu Phi. Ông đến Carthage để học về Văn học
La tinh. Augustine đã sống một cuộc đời phóng đãng tại Carthage. Ông đã sống với
một tì thiếp (concubine) trong khoảng mười lăm năm, có một con trai với người
này.Vào năm 30 tuổi ông đồng ý cho mẹ ông, bà Monica, một người Ki tô giáo tân
tụy, thu xếp để cưới cho ông một cô gái trẻ để ông bỏ người tì thiếp kia đi;
nhưng trong khi chờ cho người con gái ấy đến tuổi được làm đám cưới sau hai năm
nữa, thì ông lại vội vàng dan díu với người đàn bà khác (17). Nhưng rồi cũng
không cưới cô gái ấy và cuối cùng lấy một người tớ gái làm tình nhân lâu dài
!18).
Ban đầu Augustine có ý
định học để làm một luật sư phục vụ cho đế quốc La Mã, nhưng sau bỏ ý định nghề
nghiệp và bỏ cả đức tin của gia đình vì tình cờ gặp được các nhóm người Ki tô
giáo có ý chống lại phe chính thống. Trong khi phe nhà thờ La Mã chính quy thì
chủ trương rằng Kinh thánh là nguồn trí tuệ đúng đắn và niềm tin vào lời của
Kinh thánh là một luật không lay chuyển được thì các học giả La Mã trẻ lại cho
điều đó là vô lý. Với họ thì Cựu Ước chứa đầy những câu chuyện kỳ quặc và những
chuyên dân gian cổ tầm thường mà lại được dịch ra thành một lối văn xuôi La tinh
tồi tệ. Họ được giáo dục trên các tác phẩm tuyệt vời của Cicero và Virgil, cho
nên dù họ có yêu thích Ki tô giáo, họ vẫn cảm thấy hoang mang, thậm chí chống
đối lại bởi cả hình thức văn phong lẫn nội dung của Cựu Ước. Cho nên Augustine
và một số những người La Mã có học khác đã bị lôi cuốn theo hệ phái Manicheism,
một hệ phái cố gắng thống nhất mọi tôn giáo của thế giớ bấy giờ. Hệ phái này tin
rằng chúa Jesus là một vị thầy vĩ đại, không cần sự trợ giúp nào từ những nhà
tiên tri Hebrew nào cả. Niềm tin chính yếu của họ là thế giới được tạo ra bởi
hai phần riêng biệt, một phần tốt và một xấu và cả hai phần này hòa lẫn vào nhau
trong mọi sự vật, kể cả con người. Nhưng con người có thể sống với phần tốt cả
trong tâm hồn lẫn trí óc và để cho phần xấu gồm ý nghĩ xấu, hành động xấu và các
ham muốn nhục dục nằm yên. Lý lẽ này hấp dẫn mãnh liệt đối với Augustine, người
mặc dầu đã phạm tội lõi (do cuộc sống phóng đãng) , nhưng vẫn muốn giữ lại phần
tốt trong người khỏi phải bị lu mờ.
Sau một thời gian dạy
Triết học tai Carthage, Augustine tới Rome và sau tới Milan, tại đây ông được bổ
nhiệm là Giáo sư về Tu từ học (professor of rhetoric) năm 384. Chính tại Milan,
Augustine đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi quan điểm về Ki tô giáo của Giám mục Công
giáo La mã Ambrose vừa là nhà chính trị hàng đầu các nhà thờ miền tây. Vì ảnh
hưởng này mà Augustine từ bỏ quan điểm mà ông đã có từ trước đến nay là “Chúa
phải là một con người hiện diện thật sự bằng thân xác” (19), để chấp nhận quan
điểm “ Chúa hoàn toàn vượt ra ngoài tầm hiểu biết của nhân loại” (20) và ông đã
viết “ Con đã ý thức rằng con đã ở quá xa Ngài” (21). Do đó Augustine lại từ bỏ
phái Manicheism để theo Công giáo Ma mã vào năm 386 ( như thế Augustine đã hai
lần đổi đạo : từ Christianity của gia đình qua Manicheism, rồi qua Roman
Catholic). Sau 5 năm đổi đạo này, Augustine được bổ nhệm làm Giám mục tại hải
cảng Hippo (nay là Annaba, ở Algeria) trên bờ biển bắc Phi châu, và chết tại đó
năm 430.
Như ở đoạn cuối về hành
trạng của ông Thánh Paul nói trên cho biết, sau thời huy hoàng của nhà thờ La mã
do sự giúp sức bằng quyền lực của Hoàng đế Constantine theo chủ trương thần học
của Thánh Paul, nay Ki tô giáo đang suy thoái, phân hóa giữa các Giám mục khi
Augustine chịu phép rửa tội bởi Giám mục Ambrose năm 387.
Trong bối cảnh đó, với
vai trò Giám mục tại Hippo, Augustine đã thấy quyền lực của nhà thờ La mã đang
bị phân tán, không có quyền lực trung ương thì hướng phát triển cho Ki tô giáo
phương Tây cả ở bên trong lẫn bên ngoài nhà thờ đều không chắc chắn và không thể
thực hiện được. Vì vậy Augustine thấy cần phải viết, và ông xem các tác phẩm của
mình không phải như một loại vận dụng lý thuyết, mà là một sự chiến đấu tuyệt
vọng cho linh hồn của Ki tô giáo trong một thế giới đang phân tán. Ông thấy rằng
nhiệm vụ trung tâm của một học giả Ki tô giáo là đương đầu với câu hỏi : “Cái ác
đến từ đâu ? Nếu Chúa đã vừa là thiện vừa có tất cả quyền năng thì cái ác đã đến
thế giới như thế nào? (22). Augustine tin rằng có một thực thể trừu tượng gọi là
“cái ác”, đối lập với cái thực thể trừu tượng gọi là “cái thiện” trong thế giới
này, và Augustine cần phải giải quyết vấn đề nguồn gốc của “cái ác” ấy.
Trước đây, khi còn
theo phái Manicheism, thì Augustine đã thấy được từ phái này một câu trả lời, đó
là Chúa ác cùng tồn tại với Chúa thiện. Nhưng Augustne cảm thấy bị khó chịu bởi
cái thuyết định mệnh được soi sáng (enlightened fatalism) của họ, bởi vì ông ta
tin rằng cái ác cần phải bị chống lại, chứ không chỉ né tránh (23). Nhưng nay từ
bỏ phái Manicheism, Augustine lại bị đối mặt với cái kỳ quái của Cựu Ước. Cho
nên Augustine phải tìm cách trả lời câu hỏi :”Lam thế nào mà lịch sử dân gian
của dân Do thái, với ông chúa Hebrew đầy hận thù của họ, lại có thể được hấp thụ
vào trong phẩm chất thánh thiện lý tưởng thuần tinh thần theo Platon, và vào
trong chúa Jesus Christ đầy khoan dung được? (24). Để trả lời câu hỏi này,
Augustine chủ trương một sự áp đặt hung bạo của các luật lệ khắc nghiệt là cần
thiết để buộc dân Do thái đi theo con đường đúng như ông nghĩ, vì ông cho rằng
con người vốn là ác và bướng bỉnh; nếu bỏ đi mọi rào cản tạo ra bởi luật lệ thì
khả năng thô lỗ, làm hại của con người, sự thôi thúc thỏa mãn dục vọng của họ sẽ
hoành hành hết cỡ (25). Đó là biện pháp đối phó với cái ác, nhưng cái ác bẩm
sinh nơi con người thì do đâu mà có ? Augustine lại tìm thấy câu trả lời trong
“Tội Tổ Tông” cái thuyết mà ông Thánh Paul đã “chế ra” từ hơn ba trăm năm trước
mà đã được phổ biến chung giữa những người Ki tô giáo với những niềm tin khác
nhau vào thời kỳ cuối của đế quốc La mã (26).
Vẫn còn một khó khăn
thách thức Augustine phải tìm câu trả lời : Đó là, nếu thế giới này đầy tội lỗi,
và mỗi con người đã bị nhiểm vết nhơ bởi tội ác thì một người theo Ki tô giáo
phải sống như thế nào ? Đề tìm câu trả lời, Augustine đã dựa vào niềm tin của
những người theo trường phái Plato, đó là tin vào một Chúa ở xa mà nhân loại là
một phần hầu như không thích hợp của sự sáng tạo của Chúa. Do đó câu trả lời của
Augustine khiến người ta sợ hải đến rùng mình trong chủ nghĩa bi quan của nó :
vai trò của một người Ki tô giáo chân chính là sợ Chúa, Chịu khổ và chờ đợi sự
phán xét của Chúa (27).
Như thế ba vấn đề :
cần áp đặt hung bạo kỷ luật nghiêm khắc đối với dân Do thái; Tội tổ tông do Paul
chế ra; và người Ki tô giáo phải sống trong nỗi sơ Chúa, chịu khổ, và chờ đợi sự
phán xét của Chúa là chất liệu, là nỗi ám ảnh đã thôi thúc Augustine miệt mài
viết và giảng đạo với tất cả khả năng về triết học, tu từ học, nghệ thuật thuyết
phục và nói trước công chúng mà Augustine đã học theo dư định nghề nghiệp thời
trẻ, cốt sao cho nhà thờ La mã được phát triển rộng khắp, bền vững, lâu dài.
Để đạt được mục đích
này, ngoài việc giới chức nhà thờ tạo ra quyền lực, Augustine đã nâng Tôi tổ
tông do Paul “chế ra” lên thành một học thuyết, đem phổ biến rộng khắp cho người
Ki tô giáo để họ thấy mình đã có tội với Chúa, phải sợ Chúa, và xin Chúa cứu
rỗi, nghĩa là phải theo Ki tô giáo . Augustine trở thành nhà thần học đầu tiên
giảng dạy rằng con người được sinh ra trên thế giới trong một trạng thái tội lỗi
(28). Ông dạy rằng vết nhơ của tội ban đầu của Adam đã được thừa kế bởi tất cả
mọi người vào lúc sinh ra, và không có cách gì con người làm trong cuộc đời để
có thể gọt rửa được vết nhơ này (29) ; tình trạng tội lỗi này có trong tất cả
mọi người từ lúc thụ thai. Theo học thuyết này, tất cả mọi người đều là người có
tôi khi sinh ra và đều là người có tội khi chết đi; tất cả mọi người “bị mất đạo
đức” vĩnh viễn, và cần phải có sự cứu rỗi linh hồn của Chúa. Cách duy nhất mà
con người có thể được xem là chính đáng trong con mắt của Chúa và được hòa giải
với Chúa là bằng cách khiêm nhường cầu xin sư tha thứ, tin rằng con trai Jesus
Christ của Chúa, qua cái chết và tội bị đóng đinh trên thánh giá, đã nhận về
phần mình cái sự trừng phạt phải có cho tội lỗi và sự xâm phạm của chúng ta, và
phụ thuộc vào ân sủng của Chúa để hoàn thiện đức tin nơi Chúa bằng cách gia tăng
tình yêu đối với Chúa để làm tròn sự phục tùng Chúa. Hình phạt tối hậu cho tội
tổ tông đã là sự trục xuất ra khỏi sự có mặt của Chúa và chịu chết cả thể xác
lẫn linh hồn; mục đích và ân huệ tối hậu của sự hòa giải là khôi phục lại mối
quan hệ ban đầu mà con người đã có với Chúa; điều đó bao gồm đời sống vĩnh
cữu.(30).
Với học thuyết Tội tổ
tông này, Augustine đã xây dựng nên một nền thần học mà theo đó thì mọi chuyện
xảy ra trên cõi đời này đều là do Chúa muốn như thế ! (31). Chúa đã ra lệnh cho
mọi tư tưởng và hành động của con người (32); mọi hành động của con người đều
được Chúa xác định trước, ý muốn tự do của con người là ảo tưởng (33). Đã chủ
trương mọi hành động của con người đều do Chúa chỉ định trước như thế, nhưng
Augustine lại tự mâu thuẩn bằng cách khuyên người Ki tô giáo nên chọn hành động
để sống cuôc đời tốt đẹp vì lý do cho riêng họ (chứ không phải vì tha nhân, MĐ),
bởi vì nhờ tự giải phóng mình khỏi sự nô lệ của các dục vọng ác độc, thì họ có
thể hiểu và hưởng thụ được cái tầm nhìn rộng lớn và tình yêu của Chúa (34).
Nhưng để tránh cái mâu thuẩn với chủ thuyết của mình, Agustine, lai nhấn manh
với họ rằng dù họ có sống tốt mấy đi nữa thì việc đó cũng không có ảnh hưởng gì
đến sự phán xét cuối cùng của Chúa, bởi vì số phận của họ đã được quyết định sẵn
rồi! (35).
Như thế, thật ra
Augustine vẫn luôn trung thành với hoc thuyết là Chúa từ chối khả năng cải thiện
của con người hay là từ chối sự cứu rỗi linh hồn nhờ những hành động tốt (36),
cho nên Augustine khuyên người Ki tô sống tốt đẹp vì không phải đó là đạo lý
sống làm người như truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam ta, cũng không phải
vì lợi ích riêng gì cho bản thân người đó, mà vì để thấy Chúa là tốt, có lòng
yêu thương và góp thêm vào sự vinh quang của Chúa mà thôi! (37).
Chính cái tư tưởng
thần học này đã dạy cho ngườu Ki giáo rằng họ đi làm từ thiện như các bà soeur
đi chăm sóc bệnh nhân trong các bệnh viện, đi ứu trợ thiên tai bão lụt, đi cấp
phát lương thực cho những người nghèo đói, v.v… thì không phải vì sự đau khổ của
người bệnh, người bị tai nạn, người nghèo đói,…, nghĩa là không phải những người
ấy cần sự giúp đở mà vì để thấy Chúa là tốt và để vinh danh Chúa mà thôi! Và để
khuyến dụ người ta theo Ki tô giáo, để mở rộng nước Chúa. Như thế cũng có nghĩa
là nếu không có lợi trong việc truyền đạo, trong việc mở rộng ảnh hưởng của Ki
tô giáo thì người cần nhận sự giúp đở sẽ không được nhận. Điều này hẵn là những
người Việt một thời ở trong các tại tị nạn, chờ đợi được đi định cư tại các nước
đã thấy rõ. Cũng chính vì vậy mà trong hành động từ thiện của những người được
khoa trương trên khắp thế giới như là những vĩ nhân như Mẹ Teresa đã làm ở Ấn độ
mà người Ki tô giáo lấy làm hãnh diện thì người ta đã tìm thấy những động cơ đen
tối, tội lỗi, và những biện pháp gây đau khổ cho những người được giúp đở, và
chính Mẹ Teresa bị cáo buộc là đã làm hại hơn là làm tốt cho người nghèo và
người bệnh tại Calcutta (38).
Tóm lại với sự “khuếch
đại” khái niệm tội tổ tông của Paul trong Tân Ước lên thành một hoc thuyết mà
những ai có chút lý trí đều dễ dàng bác bỏ (như sẽ được tóm lược trong phần tiếp
theo ngay sau đây). Nhưng học thuyết này chứa những cái như : con người sinh ra
là đã mang tôi từ lúc thụ thai, cho nên Chúa mới sai con trai là Jesus Christ
giáng trần chịu chết trên cây thánh giá để chuộc tôi cho những ai tin Chúa, mọi
tư tưởng, hành vi của con người đều do Chúa xác định trước, con người chỉ phải
sợ Chúa, chịu khổ, phải phục tùng Chúa để làm rạng danh Chúa, và chờ đợi sự phán
xét của Chúa,…, lại là những công cụ hữu hiệu để nô lệ hóa con người nhẹ dạ,
thiếu tỉnh thức, khiến ho trở thành những con chiên ngoan ngoãn sẵn sàng làm mọi
mệnh lệnh của các cha bề trên, là công cụ hữu hiệu để các Giáo hoàng trở thành
những con người có uy quyền ghê gớm trên cả vua chúa một thời. Cho nên giới nhà
thờ Ki tô giáo đã lợi dụng nền thần học của Augustine để phát triển Ki tô giáo,
gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi với nhân loại trong thời gian trên một nghìn
năm sau khi Augustine qua đời ( những tội này mới đích thực là “Tội tổ tông” của
những người theo Chúa!, MĐ).
Vì vậy, chúng ta không
lấy gì làm lạ về việc Augustine được phong Thánh và được Giáo hoàng Boniface
VIII thừa nhận như là một Tổ Sư Của Nhà Thờ (Doctor of the Church ) năm 1298,
cùng một lượt với Ambrose, Jerome, Giáo hoàng Gregory I, là 4 người đầu tiên
trong số 33 người được chức danh này trong lịch sử phát triễn của Ki tô
giáo.(39). Riêng những người Công giáo La mã còn xem Augustine như là thần hộ
mang của những người làm bia rượu, làm in ấn, những nhà thần học, của con mắt
bệnh hoạn, và của một số thành phố và khu giáo dân (40)
V.
NHỮNG NGƯỜI CÓ LÝ TRÍ CÙNG THỜI VỚI AUGUSTINE ĐÁNH GIÁ TỘI TỔ TÔNG NHƯ THẾ NAO
?.
Không phải đợi tới ngày nay, với những bằng chứng hiển nhiên của khoa học, một
học sinh Trung học cũng dễ dàng bác bỏ được Tội tổ tông theo giáo điều Ki tô
giáo, mà ngay thời Augustine đã có những nhà thần học bác bỏ thuyết Tội tổ tông.
Trong số đó, có thể kể đến Pelagius, một nhà thần học từ British Isles đến sống
tại Rome vào đầu thế kỷ thứ 5. Quan điểm của ông là bản chất của con người là có
khả năng cải thiện và thậm chí được hoàn hảo thông qua việc gắn bó với đức tin
Ki tô giáo, và phấn đấu cho được hoàn hảo là bắt buộc đối với người Ki tô giáo
chân chính….Khi các tập sách Confessions của Augustine được lưu hành sau năm
412, thì Pelagius tuyên bố chống lại ý tưởng Tội tổ tông. Ông không thể chấp
nhận rằng việc cải thiện của con người lai bị vô hiệu hóa bởi một cái gì từ quá
khứ xa xưa và rằng bởi cái hành động phạm tội đầu tiên của Adam mà nhân loại đều
bị lên án là những kẻ có tội mãi mãi (41). Ông Julian, một người theo Pelagius,
đã viết cho Augustine rằng :” Ông hỏi tôi tại sao tôi đã không đồng tình với ý
tưởng rằng có một cái tội mà là một phần của bản chất con người ? Tôi trả lời :
đó là điều không chắc có thật, đó là điều không đúng; đó là điều bất công và
không ngoan đạo; điều đó khiến cho dường như Quỷ ác tối thượng là kẻ tạo ra con
người. Điều đó vi phạm và hủy hoại sự tự do của ý chí… bằng cách nói rằng con
người là rất kém khả năng có đạo đức, rằng ở ngay trong tử cung của người mẹ,
con người đã nhiễm đầy những tội lỗi xa xưa (42). Đối với những người Ki tô giáo
có lý trí cùng thời với Augustine như Pelagius và Julian, thì cái ý tưởng rằng
cái tội của Adam và Eva đã làm nhơ nhuốc không thể tẩy xóa được tất cả nhân loại
là vừa vô nghĩa vừa nguy hiểm (43).
Không những Tội tổ tông mà nhiều quan điểm thần học của Augustine cũng đã bị
nhiều người cùng thời với Augustine không đồng tình. Một thí dụ điển hình là khi
Augustine cho ra đời tác phẩm được cho là nổi tiếng nhất của ông, quyển City of
God (Thành phố của Chúa), trong đó Augustine mô tả làm thế nào nhân loại bị chia
làm hai: những người phải ở tại Babylon, là Thành phố của Ác quỷ (City of Evil)
và những người được ở tại Jerusalem, là Thành phố của Chúa (City of God).
Babylon sẽ bị hủy diệt vào Ngày Phán Xét (Day of Judgement) và Jerusalem sẽ
được bảo toàn. Vấn đề là những ai là người được Chúa chọn (the Elect) cho vào
Jerudsalem để được cứu rỗi ? Thế là có một hệ phái của Ki tô giáo gồm những
người được gọi là Donatists tự cho là chính họ là những người được Chúa chon! vì
họ là thuần đạo đức và tuân thủ nghiêm túc những điều luật của đức tin Ki tô
giáo. Tuyên bố của họ khiến cho Augustine nổi giận. Augustine tin rằng chỉ một
mình Chúa có thể quyết định ai sẽ được cứu và chính Chúa, vị Chúa ở rất xa, có
quyền năng vô hạn, sẽ không bị ảnh hưởng bởi cái đạo đức tự đánh giá của bất kỳ
một nhóm hay một cá nhân đặc biệt nào. Ai đưa ra giả thuyết khác chính là dị
giáo.(44). Và như để bác bỏ hẵn ý kiến của những người Donatists, Augustine cho
ra tác phẩm On the Predestination of the Saints (Về Thuyết Tiền Định của các
Thánh), trong đó ông giải thích rằng Chúa đã gởi những người nào đó vào thế giới
để làm công việc vĩ đại. Chính những ông thánh này mới được vào ở trong Thành
phố của Chúa (City of God) vào Ngày Phán xét, trong khi tất cả những người khác
sẽ phải bị hủy diệt trong Thành phố của Ác quỷ (City of Evil).
VI.
BÀ MARY VÀ ÔNG JESUS CÓ BỊ TỘI TÔNG KHÔNG ?
Thuyết Tội tổ tông của Augustine cũng liên quan trực tiếp đến các
tranh cải về sau giữa nhưng người theo Ki tô giáo , đó là Chúa Jesus và bà Mary
có chịu Tội tổ tông không ? Trong Tân Ước có 4 câu chưyện về cuộc đời của Jesus
(gọi là Gospel) do 4 tác giả khác nhau viết, trong đó Gospel của Mark và Gospel
của John thì bắt đầu từ khi Jesus chịu phép thánh (baptism) do John the Baptist
thực hiện, chỉ trong hai Gospel của Matthew và của Luke thì bắt đầu từ sư sinh
ra của Jesus, và nói rõ là Jesus được thụ thai mà không có người cha là con
người (45). Gospels của Matthew và Luke đã nói rằng bà Mary, mẹ của Jesus là một
trinh nữ, và Jesus được thụ thai theo cách thánh….Các gospels ấy, truyền thống
về sau và học thuyết hiện nay trình bày sự ra đời của Jesus là một phép lạ,
không liên quan tới người cha tự nhiên, không có sự giao hợp, không có tinh
trùng đàn ông, mà do Chúa thánh thần tạo ra (46). Căn cứ vào đó, Ki tô giáo nói
Jesus không có tôi tổ tông vì không có người cha sinh học, mà cha là Chúa, hiện
thân qua Chúa thánh thần (the Holy Spirit). Trong khi đó thì Chính thống giáo
(Catholic Orthodox) lại nói bà Mary được thụ thai bình thường với cha là Joachim
và mẹ là Anna/Anne là những con người bình thường cho nên bà cũng chịu Tội tổ
tông. Cho nên dù không có cha sinh học thì Jesus cũng phải chịu ít ra là một nửa
Tội tổ tông do bà Mary truyền cho. Nhưng để biện giải Jesus không có Tôi tổ
tông, các nhà thần học Ki tô giáo mới “chế ra” rằng Tội tổ tông do người cha
tuyền cho con khi giao hợp, mà Jesus được thụ thai không do sư giao hợp của
người cha sinh học nên Jesus không có tội Tô tông!. Để tăng cường tính thuyết
phục, phái nhà thờ Công giáo La mã (Roman CatholicChurch) lại chủ trương bà Mary
cũng không có tội tổ tông vì Chúa đã để riêng bà khỏi cái tội ấy ngay khi bà
được thụ thai trong lòng mẹ (47). Nhưng không phải hệ phái nào trong Ki tô giáo
cũng đồng quan điểm này. Cho nên mặc dầu Giáo hoàng Sixtus IV công bố rằng ngày
8 tháng 12 là ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm (The Immaculate Conception), nhưug ông
không xác định đó là một giáo đều, để cho giới nhà thờ La mã tự do tin hay không
tin mà không kết tội di giáo (48). Nhưng nhiều giáo phái trong Cơ đốc giáo vẫn
chống lại thuyết Đức Mẹ Vô Nhiễm, quyết liệt nhất là hệ phái Tin Lành, cho nên
để dứt khoát lập trường củng cố niềm tin của giáo dân theo nhà thờ La mã, Giáo
hoàng Pius IX đã xác định Đức Mẹ Vô Nhiễm là một giáo điều vào ngày 8 tháng 12
năm 1854 . Ông nhấn mạnh rằng sự không nhiễm tội của bà Mary không phải do công
hạnh của chính bà mà đúng ra là do công hạnh con trai Jesus của bà , trong định
nghĩa sau đây :
“Chúng ta công bố, phát biểu và xác định rằng học thuyết cho rằng Đức
Mẹ Đồng Trinh Mary (Blessed Virgin Mary), tại lúc đầu tiên được thụ thai, do
một quyền ưu tiên và ân sủng đặc biệt của Chúa Toàn Năng (Omnipotent God), do
công hạnh của Jesus Christ, vị Cứu thế của nhân loại , đã được giữ tinh khiết
khỏi tất cả mọi vết nhơ của Tội tổ tông, đã được mặc khải bởi Chúa, và vì vậy
nên được tin tưởng vững chắc và không thay đổi bởi tất cả mọi người ngoan đạo”
(49).
Ngay từ buổi ban đầu của
Nhà Thờ, nền thần học Ki tô giáo đã chủ trương rằng Jesus Christ là người
Trung gian duy nhất giữa Chúa và Con người theo thuyết Ba ngôi: Chúa Cha
(God), Chúa Con (Jesus Christ), và Chúa thánh thần (Holy Spirit). Nhưng về
sau, nhà thần học Ludwig Ott lại cho rằng không có gì cản trở những người
khác theo một cách nào đó được gọi là làm trung gian giữa Chúa và con người,
trong chừng mực mà họ nhờ dọn mình hay phục vụ, đóng góp vào công việc kết
nối con ngưới với Chúa (50). Do đó bà Mary, mẹ của Jesus Christ, đã được Nhà
Thờ cho là Vô Nhiễm, được cho trở thành Trung gian giữa Con người và Jesus.
Và như thế từ ba ngôi thành bốn ngôi , và cũng từ đó mà trong nhiều nhà thờ
Công giáo La mã có thêm chỗ thờ dành riêng cho bà Mary, và giáo dân cần cầu
xin gì thì không câu xin trực tiếp lên Jesus hay Chúa mà câu xin lên bà Mary
để bà tâu xin lại với Chúa.
Tuy nhiên vẫn chưa cho là
đủ buộc tín đồ tin hoc thuyết Đức Mẹ Vô Nhiễm, và để củng cố niềm tin cho
họ, bằng cách cho họ thấy sự linh thiêng của Đức Mẹ Vô Nhiễm, Tòa thánh
Vatican đã nhiều lần loan tin Đức Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia. Chẳng hạn
năm 1858, nhà thờ La mã đã loan tin rộng rãi là Đức Mẹ Vô Nhiễm hiện ra ở
Lourdes tại nước Pháp bằng cách cho chỉ cho cô gái 14 tuổi tên là
Bernadette Soubrious thấy mà thôi!(51). Họ cũng đã từng loan tin Đức Mẹ Vô
Nhiễm hiện ra La Vang, Quảng Trị nước ta,v.v…Tất nhiên phái Tin Lành bác bỏ
sự đồng trinh của bà Mary, và họ không tin có sự xuất hiện của Đức Mẹ Vô
Nhiễm. Dù vậy, trong thời hiện đại, Tòa thánh Vatican cũng vẫn tìm mọi cách
để buộc tín đồ Thiên chúa giáo La mã tin vào sư linh thiêng của Đức Mẹ Đồng
Trinh, bằng cách phong danh hiệu Mẹ Của Nhà Thờ cho bà Mary trong Cộng Đồng
Vatican năm 1964 bởi Giáo hoàng Paul VI ,và lại được xác nhận lại năm 1977
bởi Giáo hoàng John Paul II (52).
Tòa thánh Vatican
muốn cho giáo dân biết rằng cái tên Đức Mẹ Đồng Trinh không những chỉ cốt là
niềm tin sự trinh bạch của bà Mary mà còn là niềm tin vào sự tiếp tục vai
trò của bà trong nhà thờ và trong đời sống của tất cả những người Ki tô
giáo, cho nên trong Hiến Chương Giáo Điều của Nhà Thờ được Cộng Đồng Vatican
Hai thông qua ngày 21 thang11 năm 1964, thì bà Mary cũng đã được phong các
danh hiệu Advocate, Auxiliatrix, Adjustrix, và Mediatrix. Bà Mary thường
được gọi là Đức Bà của Chúng Ta (Our Lady) (53)
Tuy nhiên các nhà nghiên
cứu gần đây, trong nhiều tư liệu đã chứng minh rằng các bằng chứng về sự
hiện ra của Đức Mẹ Đồng Trinh ở các nơi trên thế giới chẳng hạn như ở
Lourdes tại nước Pháp năm 1854 chỉ là màn lừa bịp được dàn dựng trong âm mưu
cấu kết giữa Tòa thánh Vatican với chính quyền nước Pháp thời đó mà đại diện
là Hoang đế Napoleon đệ tam để hai bên cùng có lợi (54). Ki tô giáo, đặc
biệt là Công giáo La mã hiện nay dưới quyền điều khiển của Tòa thánh Vatican
đã tích lũy kinh nghiệm cả gần hai nghìn năm trong việc cấu kết với chính
quyền để củng cố thế lực cho cả hai bên, mà việc họ ngụy tạo ra các hiện
tượng rồi gán cho là do Chúa làm để lừa bịp con chiên và các kẻ u mê, gây
tác động tâm lý là một trong những thủ thuật vẫn được các “bề trên” cho thực
hiện. Trong lịch sử, có lẽ hai vụ lừa bịp được cho là thành công nhất là vụ
ông Saul trên đường từ Jerusalem tới Madacus để truy lùng những kẻ hổ trợ Ki
tô giáo bị Chúa phạt khiến ngã ngựa và thấy trên bầu trời cây thánh giá mang
dòng chữ “ Why are you persecuting me?” để cho Saul bỏ đao Do thái mà theo
đạo Ki tô. Vụ thứ hai là các Giám muc ở miền đông đế quốc La mã đã âm mưu
cấu kết với Hoàng đế Constantine ở miền Tây đế quốc La mã phao tin rằng vào
năm 312 sau khi Constantine đánh bại được Maxentius để làm Hoàng đế miền
tây, thì chính Constantine thấy một cây Thánh giá sáng lên trên bâu trời có
ghi hang chữ NHỜ DẤU HIỆU NÀY, NGƯƠI CHIẾN THẮNG (BY THIS SIGN, THOU
CONQUER) . Đây là đòn chiến tranh tâm lý trong âm mưu cấu kết giữa các Gám
mục miền đông với Hoàng đế Constantine ở miền tây, để tạo ra tinh thần lạc
quan hăng hái cho quân của Constantine và tinh thần bi quan chủ bại của quân
và dân dưới quyền của Hoàng đế Licinius ở miền đông với sự nội ứng phản quốc
của các Giám mục và giáo dân miền đông. Nhờ đó mà Constantine theo Ki tô
giáo, và được các Giám mục ở miền đông giúp sức, để đến năm 324 thì đánh
bại được Licinius đang làm Hoàng đế miền đông, để Constantine trở thành
Hoàng đế duy nhất trên toàn đế quốc La mã, và Constantine đã giúp cho Ki tô
giáo phát triển mạnh trong cả đế quốc La mã. Nếu quả Chúa đã quyền năng tạo
dấu hiệu giúp phe theo Chúa chiến thắng như thế, thì tại sao trong 7 trận
Thánh chiến mà Giáo hoàng huy động cả quân các nước Tây âu tay cầm Thánh giá
tay câm gươm đi đánh quân Hồi giáo để dành Thánh địa cho Chúa trong 200 năm
thời Trung cổ mà rốt cuộc các đoàn quân của Chúa đã bị quân Hồi giáo đánh
bại hoàn toàn ?
Cho nên các sự việc
trên có thể nói là những kinh nghiệm của Ki tô giáo trong việc ngụy tạo các
sự kiện rồi phao lên là do Chúa làm, và sự cấu kết với ngoại bang để bán
nước cho ngoại bang cốt để có lợi cho Ki tô giáo. Vì vậy, các vụ Đức Mẹ Đồng
Trinh hiện ra ở Lourdes tại Pháp, rồi ở La Vang tại Quảng Trị nước ta, và
gần đây nhất là các vụ tượng Đức Mẹ chảy máu, khóc tai Viêt Nam, tại cộng
đồng người Việt ở Úc ,…, chính là các “bề trên” đã theo truyền thống của Ki
tô giáo mà ngụy tạo ra! Thiên hạ ở phương Tây ngày nay không mấy ai tin, chỉ
tội nghiệp cho giáo dân Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài cả tin
một cách…”u mê” để bị mấy “bề trên” lợi dụng làm theo ý đồ riêng của họ như
việc chống đối nhà nước Việt Nam. Trong khi các “bề trên” không tin gì cả,
vì chính họ bày ra các trò bịp này!. Ngay cái việc xưng tội hàng tuần của
con chiên với các cha cố để được cha thay mặt Chúa mà tha tội thì ngày nay
người phương Tây cũng không mấy ai tin, đặc biệt là mấy cha cố lợi dụng các
cơ hội ấy để lạm dụng tình dục con chiên như đã bị kiện ra tòa từ những năm
đầu của thế kỷ 21 này tại Mỹ. Trong cuộc điều tra của The Center for Applied
Reseach on the Apostolate at Georgetown Unicersity mà kết quả được Tim
Padgett viết thành bài báo The Unrepentant (Cảm Thấy Không Có Tội) trên tờ
tuần báo Times số ra ngày 8 tháng 10 năm 2007 trang 67-68 cho biết trong số
những người Công giáo Mỹ hiện chỉ còn 2% (hai phần trăm) đi xưng tội bình
thường, 14% chỉ đi mỗi năm một lần, và 42% chưa bao giờ đi xưng tội. Vì sao
họ không tin ? Bài báo cho biết lý do sụt giảm là từ các sự nghi ngờ về
những lời giảng dạy của nhà thờ tới sự không tán đồng việc xử lý của nhà thờ
về vụ bê bối lạm dụng tình dục của nhà thờ (Reasons for the decline in those
observing the sacrament range from doubts about church teachings to
disapproval of the handling of the church’s sexual abuse scandal) và người
giáo dân nhận thấy rằng các Giám mục- nhiều trong số họ bị buộc phạm tội
tình dục với nhiều tu sĩ- đã trốn khỏi một cách ngạo mạn cùng cái việc xưng
tội mà họ đòi hỏi đám con chiên của họ phải làm (Catholics felt that the
bishops-many of them accused of enabling pedophile priests- were arrogantly
evading the same kind of penance they demand from their flocks). Ai cũng
biết rằng một kẻ gây tội mà ra đầu thú với chính quyền thì chính quyền đở
mất công sức và tiền bạc điều tra bắt kẻ phạm tôi và hạn chế tối đa việc
tiếp tục phạm tôi của đồng bọn, và bản thân người đầu thú biết phục thiện,
cho nên tòa án sẽ giảm một phần tội cho kẻ đầu thú, nhưng kẻ ấy vẫn là người
có tôi, không một ai, một ông Chúa nào có quyền tha tội, huống hồ một ông
Linh mục, nhiều khi tội lỗi đầy mình, mà lại thay Chúa tha tội cho người ấy,
quả là một chuyện tào lao!
Nhưng riêng con chiên
Việt Nam thi hầu như răm rắp đi xưng tội thường xuyên. Cũng như vậy, việc
kết hôn thì con chiên Việt Nam buộc người hôn phối phải theo đạo Ki tô của
mình , và gia đình cũng như bản thân người ấy rất hãnh diện với cha cố, với
giao hữu của họ là đã mở rộng được nước Chúa đến một kẻ ngoại đạo! bất chấp
sự đau khổ có thể có đối với bản thân của kẻ “phải theo đạo vợ hay đạo
chồng” ấy. Còn việc bà Mary là trinh nữ và là Đức Mẹ Vô Nhiễm thì con chiên
Thiên chúa giáo Việt Nam từ người ít học đến có học đều tin ráo trọi với cái
bàn thờ Đức Mẹ bên trong mọi nhà thờ của giáo dân Việt Nam, trong khi ở Âu
Mỹ thì không mấy ai tin!
VII. NGÀY NAY THUYẾT TỔ TÔNG
CỦA KI TÔ GIÁO BỊ PHÊ PHÁN NHƯ THẾ NÀO ?
A. ĐÁNH GIÁ CỦA CHÍNH NHỮNG NGƯỜI
KI TÔ
GIÁO
Do các tiến
bộ của khoa học và người trí thức phương tây ngay này không dễ bị buộc phải tin
theo những điều trái với kiến thức phổ thông cho nên chính những người theo Ki
tô giáo tiến bộ đã nhận thấy Tội tổ tông theo giáo điều bấy lâu nay là không ổn.
Từ đó tập thể những người trí thức Ki tô giáo phân ra thành mấy loại : lọai bác
bỏ Tội tô tông nhưng vẫn còn tin Chúa, loại vẫn tin Tôi tổ tông một cách mù
quáng, loại không tin Tội tổ tông nhưng vẫn giảng cho tín đồ tin về Tội tổ tông,
loại bác bỏ Tôi tổ tông và nhiều giáo điều khác của Cơ đốc giáo hay bỏ luôn Ki
tô giáo.
Nhóm bác bỏ Tôi Tổ Tông nhưng vẫn còn tin Chúa.
Có thể nói đại diện cho nhóm này là A.T. Overstreet đã viết sách The
Gospel Truth : Are Men Born Sinners? Năm 1995 (55) (https://www.gospeltruth.net/menbornsinniers/mbsindex.htm).
Trong phần mở đầu với nhan đề : Sư Ngu Dốt Bảo Vệ và Kéo Dài Mãi Học Thuyết Tội
Tổ Tông (Ignorance Protects And Perpetuates The Doctrine Of Original Sin). A. T.
Overstreet đã thú nhận rằng đã một thời chính ông đã giảng ở mọi nơi rằng con
người sinh ra đã là kẻ có tội và bị chết bởi vì họ đã được thụ thai và sinh ra
trong tội lỗi. Vì sao tôi giảng như thế? Tại vì đó chính là những gì những tôi
đã nghe những người giảng trước đã giảng như thế. Thời đó tôi đã ngu dốt về
chính cái học thuyết mà tôi đang giảng và tôi ít biết về lời của Chúa (56)
Trong chương 6 với tiêu đề : Tại Sao Hoc Thuyết Sai Lầm Ấy Lai Kéo Dài
Lâu Đến Thế (How A False Doctrine Could Persist So Long), A.T. Overstreet đã nêu
ra 10 điều mà người Ki Tô giáo do ngu ngốc mà không biết từ cái lúc mà Augustine
hoán chỉnh thuyết Tôi Tổ Tông trong thế kỷ thứ 5 cho đến nay.
Mười điều ngu đó
là (57).
1. Không biết rằng thuyết Tội tổ tông là một học thuyết liên quan tới tiến
trình lịch sử. Nó đã trở thành một học thuyết của NhàThờ Công Giáo vào thế kỷ
thứ 5 sau Tây lịch.
2. Không biết rằng nó đã biến hóa thành một học thuyết và nó đã có nguồn gốc
từ một triết thuyết tà đạo.
3. Không biết rằng nó thật sự chỉ là một lý thuyết, và hơn nữa, không phải có
một mà có nhiều lý thuyết mâu thuẩn với Tội tổ tông.
4. Không biết rằng có một sự bất đồng trầm trọng giữa những nhà thần học ủng
hộ những lý thuyết khác nhau về Tội tổ tông, và rằng tất cả họ đều có thể chứng
minh được lý thuyết của người khác là sai.
5. Không biết rằng mặc dầu học thuyết Tôi tổ tông đã bị áp đặt lên nhà thờ
bời Augustine, phần nhiều lòng tin để chấp nhận (Tôi tổ tông, MĐ) phải trãi qua
những chiều hướng thay đổi theo quan điểm chính trị và quyền lực của nhà thờ.
Không phải chỉ có học thuyết Tôi tổ tông, mà nhiều học thuyết khác của nhà thờ
đã dao động tới lui trong việc chấp nhận hay bác bỏ tùy theo những thay đổi đột
ngột của quan điểm chính trị, quyền lực, và ảnh hưởng của nhà nước và nhà thờ.
6. Hầu hết những người Ki tô giáo không biết rằng Pelagius và Celestus đã
tình cờ trở thành nguồn hổ trợ lớn lao cho Augustine trong việc áp đặt học
thuyết Tội tổ tông của ông ta lên nhà thờ. Thật vậy, không có vai trò của họ,
thì có lẽ tôi tổ tông không bao giờ có chỗ đứng trong nhà thờ. Pelagius và
Celestus đã chống lại quan điểm của Augustine về tội tổ tông, về sự không có khả
năng tự nhiên,và về một ý chí bắt buộc phải có. Nhưng trong việc phủ nhận tội tổ
tông, họ đã dạy rằng trẻ con là vô tội, điều này có nghĩa là không cần thiết
phải có lễ rữa tội cho trẻ con. Lúc bấy giờ, giới nhà thờ có định kiến mạnh mẽ
trong việc rửa tội cho trẻ con, cho nên cái hàm ý sinh ra trong việc phủ nhận
tội tổ tông (rằng không cần việc rửa tội cho trẻ con) đã làm cho họ căm phẩn,
dấy lên ra sự chống đối những lời giảng dạy của Pelagius và Celestus và khiến
cho học thuyết của Augustine về tội tổ tông, sự không có khả năng tự nhiên, một
ý chí cần phải có, và ân sủng (của Chúa) không cưỡng lại được trở nên dễ chấp
nhận hơn nhiều .Mặc dầu quan điểm của Celestus về việc không cần sự rửa tội cho
trẻ con đã dựa trên kinh thánh, tuy nhiên, cái định kiến mạnh mẽ của giới nhà
thờ về sự rửa tội cho trẻ con đã khiến cho cuộc tranh luận bùng phát dữ dội. Và
cái điểm này, trong đó Celestus và Pelagius đều đúng, đã thu hút sự chú ý trong
cuộc tranh luận hơn nhiều so với nhiều điểm khác trong đó Celestus và Pelagius
đã dùng các quan điểm trái kinh thánh một cách dứt khoát. Vì vậy, thuyết Tôi tổ
tông của Augustine đã trở thành một giáo điều của Nhà Thờ Công Giáo không phải
vì sự đúng đắn hay những xứng đáng của nó, mà bởi vì chủ thuyết của Pelagius đã
từ chối việc rửa tội cho trẻ con và đã sai lầm nghiêm trọng trong việc phủ nhận
sự cần thiết của một ân sủng đặc biệt cả Chúa nếu con người phải được cứu và vớt
khỏi tội lỗi. Pelagius và Celestus chủ trương những quan điểm về tội lỗi và khả
năng của con người để vâng phục Chúa mà không cần ân sủng gì cả trái với thánh
kinh một cách lố bịch đến nỗi khiến cho Augustine thật sự dễ dàng chỉ ra rằng
những quan điểm của họ là sai. Như thế, sự chống đối việc rửa tội cho trẻ con
của Celestus và Pelagius và sự phủ nhận của họ về việc cần phải có một ân sủng
đặc biệt của Chúa nếu con người phải được cứu và vớt khỏi tội lỗi, đã thu hút
trọn tất cả sự chú ý của tâm trí giới nhà thờ và đã tách sự chú ý của họ khỏi
những cái vô lý của thuyết tội tổ tông như Augudtine đã dạy.
7. Hầu hết những người Ki tô giáo không biết chính xác những điều mà
Augustine đã dạy như là thuyết tội tổ tông, cũng như những gì mà Cocceius,
Placeus, và Arminius đã dạy như là thuyết tội tổ tông của họ . Nếu họ được nói
cho biết một cách chính xác những gì Augustine đã dạy, họ ắt đã hoảng sợ và từ
chối không tin tội tổ tong.
8. Hầu hết những người Ki tô giáo không biết rằng thuyết tội tổ tông là một
học thuyết trái thánh kinh một cách hiển nhiên. Học thuyết này trực tiếp chống
lại rất nhiều văn bản của Thánh kinh và cả về tinh thần lẫn ngôn từ của tất cả
những học thuyết cơ bản của Thánh kinh.
9. Hầu hết người Ki tô giáo không biết rằng không thể nào một người sinh ra
đã là một người có tội về cả thể xác lẫn đaọ đức.
10. Và cuối cùng, hầu hết những người Ki tô giáo đã thừa nhận rằng họ không
biết về những lời dạy gây hoảng sợ và những hệ lụy phát sinh từ thuyết tội tổ
tông. Chẳng hạn, những lời dạy rằng Chúa tạo ra những kẻ có tội, rằng trẻ con mà
chết thì sẽ xuống địa ngục, và cái hàm ý logic là nếu tất cả mọi người sinh ra
đều là kẻ có tội, thì chính bản thân Jesus đã sinh ra là một kẻ có tội.
Nhưng tại sao những người Ki tô giáo lại ngu dốt như vậy ? A. T.
Overstreet cho biết là có nhiều nguyên nhân và ông đã liệt kê ra 5 (năm) nguyên
nhân sau đây : (58)
1. Thứ nhất : Tinh thần
của người mới theo Ki tô giáo là dễ tiếp thu.Người ấy không có tinh thần tranh
luận về những vấn đề mà họ có thể không hiểu. Những người mới theo Ki tô giáo tự
nhiên khuynh hướng chấp nhận mọi điều được giảng dạy như sự thật của sách Phúc
âm bởi vì họ có một tinh thần dễ bị ảnh hưởng và dễ dạy bảo. Họ có thể không
hiểu cái học thuyết mới này, và họ có thể thắc mắc về tính đúng đán của nó; tuy
nhiên, cái tinh thần dễ dạy bảo và dễ tiếp thu của họ đã ngăn cản không cho họ
phản đối và biên luận về nó Họ không có khả năng thắc mắc hay phủ nhận quyền
lực. Cái tinh thần dễ uốn nắn và dễ dạy bảo của họ làm cho họ chấp nhận cả đến
một học thuyết mâu thuẩn với những niềm tin vững chắc của họ về tính đúng đắn.
2. Thứ hai : Học thuyết
tội tổ tông được làm cho người mới theo Ki tô giáo tin bởi vì các văn từ dẫn
chứng được lấy từ Thánh kinh. Người ấy không biết rằng những văn từ dẫn chứng
này được lấy ra khỏi ngữ cảnh hay đã bị giải thích sai lầm. Thêm vào đó là tình
yêu Chúa và lòng tin cậy vào lời Chúa của người ấy, cho nên khi các văn từ dẫn
chứng lấy từ Kinh thánh được đưa ra để củng cố thuyết tội tổ tông, thì đối với
người ấy mọi thắc mắc đều được giải quyết bởi nếu Thánh kinh dạy điều cái gì thì
nó phải là như thế.
3. Thứ ba : Một khi người ta đã khẳng định vào một niềm tin thì hầu như không
thể thay đổi niềm tin ấy. Ai lại đã không kinh nghiệm hay nhận thấy những người
Ki tô giáo, một khi đã được dạy để tin một đường lối nào đó, thì thấy họ bị
định kiến manh mẽ như thế nào đối với quan điểm mà họ đã được dạy lần đầu.? Một
minh chứng cho điều này là lòng sốt sắng mù quáng theo đó những người Ki tô giáo
theo các giáo phái khác nhau sẽ tranh luận về các sự khác nhau của một học
thuyết. Một người Baptist thì hầu như không để tai nghe vô tư về học thuyết
Pentecostal. Một người Pentecostal thì hầu như cũng không để tai nghe vô tư về
học thuyết của người Baptist. Thay đổi những niềm tin của một người mà trước đó
đã bị nhồi sọ về học thuyết thì hầu như là không thể được. Người ấy có thể bị
sai lầm, nhưng người ấy bị thành kiến chống lại mọi ly lẽ mà họ nghe. Cái thành
kiện này chống lại bất kỳ lời dạy nào mà mâu thuẩn với những gì chúng ta đã được
dạy, bảo vệ và duy trì mãi mọi sai lầm mà chúng ta mắc phải.
4. Thứ tư : Chính cái việc thuyết tội tổ tông được người Ki tô giáo tin hầu
như ở khắp nơi và nó đã được tin trong thời gian khá lâu, có ảnh hưởng mạnh mẽ
duy trì mãi nó. Sự gắn bó khắp mọi nơi với sai lầm đã dựng lên một rào cản hầu
như không thể xuyên qua được để chống lại ánh sáng và chân lý khi hai thứ này
được hiến tặng. Hơn nữa, sự gắn bó khắp mọi nơi với sai lầm đưa ra một sự kiềm
chế hầu như không thể cưỡng lại được cho người đáng phải đào ngũ và phải đứng
đơn độc một mình chống lại đám đông để nói vì chân lý. Có một cảm giác an toàn
và bảo đảm khi ở trong đám đông. Không một ai thích đứng đơn độc một mình. Chính
vì điều đó mà, ngay cả trong nhà thờ, sự gắn bó khắp mọi nơi với sai lầm đã có
cái khuynh hướng không cưỡng lại được để duy trì mãi chính bản thân sự gắn kết
khắp mọi nơi với sai lầm. Thêm vào đó là sự ngu dốt kiên cố và sự mê tín dị đoan
mà chân lý phải phơi bày ra trước khi chúng có thể được tiếp thu và chấp nhận
như là chân lý.
5. Thứ năm : Một nhà truyền giáo tồi tệ giúp duy trì lâu dài sự ngu dốt và
sai lầm trong những người Ki tô giáo. Những nhà truyền giáo thì chắc chắn đáng
bị khiển trách hơn là những người bình thường vì ngu dốt, mê tín dị đoan, và
những niềm tin đầy thành kiến, bởi vì nghề nghiệp của họ là giảng đạo va giảng
dạy chân lý cho kẻ khác. Nhưng thường có một sự tự cao tự đại trong những người
truyền đạo mà không có trong những người bình thường. Bởi vì, họ là những người
truyền đạo, họ cảm thấy họ không cần phải được giảng dạy, và họ chống lại mạnh
mẽ hơn người bình thường bất ký một ý tưởng nào cho rằng họ có lẽ là sai lầm.
Một tinh thần Ki tô giáo chân chính, và một tinh thần mà ắt là phù hợp với trách
nhiệm của họ để giảng đạo về chân lý dường như sẽ khiến cho họ lắng nghe những
lý lẽ và tìm ra sư thật của vấn đề cho đến khi họ có thể biết chắc hoặc là chân
lý hoặc là sai lầm của giáo điều về tội tổ tông. Nhưng, đáng buồn thay, thường
thường lại có ý tưởng thành kiến và lòng tự mãn đến nỗi những người truyền giáo
không chịu tìm ra sư thật, và họ tiếp tục duy trì mãi cái học tuyết sai lầm
trong nhà thờ của Jesus Christ.
Trong phần bình luận này, A.T. Overstreet cũng cho biết là lấy làm tiếc cho
các ông Martin Luther và Calvin….những ông tổ đã lập ra đạo Tin Lành, sau
Augustine cả ngàn năm, đã chỉ ra nhiều cái sai lầm nhảm nhí của nhà thờ Ki tô
theo Vatican, nhưng cả hai vẫn tin vào học thuyết nhảm nhí Tôi Tổ Tông, cũng như
tin vào kinh thánh nói mặt trời quay quanh quả đất trong 24 giờ, và cả hai lên
án gắt gao Coperncus bởi vì bản thân họ cũng là những kẻ ngu dốt ! Martin Luther
thì gọi nhà bác học Copernicus là “một nhà chiêm tinh ngạo mạn” và là “một kẻ
điên rồ muốn làm đảo ngược toàn bộ nền khia học thiên văn”. Còn Calvin chửi mắng
đe dọa :” Ai dám cả gan đặt thẩm quyền của Copernicus lên trên quyền lưc của
Thánh Linh (Holy Spirit) ?”. Không phải Kinh thánh nói rằng Joshua đã ra lệnh
cho mặt trời chứ không ra lệnh cho quả đất đứng yên sao ? Rằng mặt trời chạy từ
đầu này tới đầu kia của bầu trời sao? (59)
Như thế, chính những người Ki Tô giáo ngày nay chứ không riêng những
người phi Ki tô giáo đã chỉ ra rằng những ông tổ của thần học Ki tô giáo như
Augustine, Martine Luther, Calvin, …, những vị thánh của Ki tô giáo đều là
những kẻ ngu ngốc! bày đặt ra những tín điều phản khoa học mê tín dị đoan và
buộc giáo dân tin là chân lý của Chúa!
Nhưng những người Ki tô giáo Việt Nam ngày nay thì sao ? Tất nhiên,
những đồng bào Ki tô giáo Việt Nam mà không có điều kiện học hành nhiều thì
không biết và ngu dốt như ông A. T. Overstreet đã chỉ ra là lẽ đương nhiên, và
không đáng trách, nhưng còn các giám mục, linh muc, mục sư Việt Nam hay gốc Việt
Nam, và nhất là những người Ki tô giáo Việt Nam hay gốc Việt Nam tự xem mình là
trí thức, đã và đang dùng lời nói hay bài viết trên các nhà giảng hay các phương
tiện truyền thông đại chúng như báo, đài phát thanh, truyền hình trong và ngoài
nước, nhất là tại các cộng đồng người Việt tại hải ngoại thì sao ? Bộ tất cả họ
đều ngu dốt hết như nhà trí thức Ki tô giáo A.T. Overstreet đã chỉ ra sao? Điều
này thì phải để cho các vị ấy trả lời!
Riêng Mục Đông tôi thì nghĩ như thế này : trong họ quả có một số ngu
ngốc thật vì họ đã bị nhồi sọ từ nhỏ như ông A.T. Overstreet đã chỉ ra. Nhưng
chắc chắn có rất nhiều vị không “ngu ngốc” chút nào, vì dù sao họ cũng đã ngồi
ngâm cứu sách vở nhiều năm trong những nơi tôn nghiêm như các tại Trung tâm thần
học hay Đại học Ki tô giáo, họ biết hết cả những ngụy tạo, các điều vô lý do các
bề trên “chế ra” trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại của Ki tô giáo, chính bản
thân họ cũng dưới hình thức này hay hình thức khác góp phần vào việc ngụy tạo và
chế ra ấy, cho nên họ không tin có Chúa, có phép mầu gì cả ! Nhưng chính họ lại
dùng hết mọi khả năng và phương tiện truyền thông để khiến cho đám đông ngu dốt
tin theo Chúa, tin theo đủ thứ phép mầu…để làm theo lệnh của bề trên của họ hoặc
từ Vatican hoặc từ các Hội thánh nào đó, bất chấp sự thật, bất chấp quyền lợi
của tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Với những vị này, không thể dùng từ ngu dốt như
ông A. T. Overstreet được! Vậy các vị này hãy tự chọn cho chính mình một số từ
nào đó mà các vị thấy là thích hợp, chứ không thì “cái đám có chút hiểu biết,
dám nói lên sự thật “ mà các vị hay xỉ vã từ thái độ tương đối nhu mì là “ trí
thức không biết ngượng”, cho đến thô lỗ như “bồi bút, gia nô cho Cọng sản, Cộng
nô” thậm chí “các tên trâu ngựa Công sản” v.v., “có ác tâm phá đạo Ki tô”,
v.v…, sẽ “phun ra” một số từ rất khó nghe mà Mục Đồng tôi không cách gì bụm
miệng họ kịp, chẳng hạn như “ lưu manh”, “ không biết nhục”, “đánh đĩ lương
tâm”, “Việt gian tay sai, bán nước cho ngoại bang” v.v… thì hóa ra Mục Đồng tôi
thất thố với các vị !
Sau khi chỉ ra 5 nguyên nhân đưa đến 10 cái ngu dốt của tín đô Ki tô
giáo, ông A.T. trong chương 7 của quyển sách, đã chỉ ra 13 lý do tại sao Thuyết
tội tổ tông là sai lâm ( Thirteen Reasons Why The Doctrine Of Original Sin Is
False) được chính A. T. Overstreet tóm tắt như sau (60).
1. Nó làm cho tội lỗi trở thàmh một nỗi bất hạnh và là một đại họa hơn là tội
ác.
2. Nó làm cho kẻ có tội trở thành đáng thương hại và đáng hưởng lòng từ bi
hơn là bị lên án vì tội lỗi.
3. Nó miễn tội cho kẻ phạm tội.
4. Nó làm cho Chúa phải chịu trách nhiệm về tội lỗi.
5. Nó làm mất danh dự Chúa. Nó làm cho Chúa trở thành bất nhất, hung ác, và
bất công.
6. Nó khiến cho những người truyền đạo giả bộ làm ngơ và bào chữa cho tội
lỗi.
7. Nó gây ra tính tự mãn và một chuẩn mực thấp về tôn giáo cho những người Ki
tô giáo.
8. Nó là một chướng ngại vật cho những người không được cứu rỗi.
9. Nó làm cho Jesus trở thành một người tội lỗi hay nó phải phủ nhận tính
chất con người của Jesus.
10. Nó chống lại Thánh kinh
11. Nó “thêm vào” và “bớt đi khỏi” Thánh kinh. Chúa cảnh cáo chống lại điều
này trong Deut. 4:2 và Rev. 22:18,19.
12. Nó là khôi hài, vô lý, và trái với lý lẽ. Nó trái với các khẳng định cần
thiết và không thể chống lại được của ý thức và lập luận của mọi người, mà đó là
cái mà không một học thuyêt đúng đắn nào của Lời Của Chúa có thể làm được.
Trong phần 4 của quyển sách, từ chương đến chương 12, A.T. Overstreet đã
nêu ra 5 vấn đề không thể giái quyết được từ cái học thuyết sai lầm Tôi Tổ Tông
này (Insurmountable Problems of a False Doctrine) (61).
A.T.Overstreet bác bỏ học thuyết Tôi Tổ Tông, nhưng vẫn con tin Chúa,
và ông cho rằng thánh kinh không hề nói tới Tôi Tổ Tông bằng cách lập luận rằng
các ông thánh như Paul, Augustine, Mrartin Luther, Calvin,…đã hiểu sai thánh
kinh vì họ đã hiểu theo nghĩa đen của văn tự. A.T. Overstreet cho rằng cân phải
hiểu thánh kinh theo nghĩa bóng của câu văn, nhưng ông không đưa ra nghĩa bóng
như thế nào .
Nhóm thứ hai : Vẫn ngoan cố cho Tội Tổ Tông là có thực theo đúng thánh
kinh. Có thể nói đại dện cho nhóm này là nhóm các người của phái Công giáo La mã
(Catholic Church) đã lập ra website
https://www.bringyou.to/apologetics/.
Họ là những người Thiên chúa giáo La mã rất cuồng tín, chống đối kịch liệt phe
Tin Lành và tất cả các Tôn giáo khác vì với họ thì Công giáo La mã là Tôn giáo
duy nhất đúng.
Để chống lại sự phủ nhận của Tôi tổ tông do nhóm thứ nhất chủ trương,
nhóm này đã viết bài Tội Tổ Tông Được Giải Thích và Bao Vệ ( Original Sin
Explained and Defended : A reply to an Assemblies og God pastor) (62) (https://www.bringyou.to/apologetics/num54.htm).
Mở đầu bài viết, tác giả cho biết bài viết là để chống lại sự phủ nhận Tội Tổ
Tông của một nhóm các Mục sư qua các thảo luận trên diễn đàn FidoNet từ thang11
năm 1996 tới tháng giêng năm 1997)
Phải chăng các cha cố của Thiên chúa giáo Việt Nam ở trong nước cũng
như ở nước ngoài từ trước tới nay đều thuộc nhóm mú quáng này?
Nhóm thứ ba : gồm những người Ki tô giáo thức tỉnh, đã một thời họ ngây
thơ tin lời dạy của các cha, nhưng ngày nay họ đã tỉnh ngộ, không những nhận ra
rằng Tội Tổ Tông mà hầu hết các tín điều của Ki tô giáo là sai lầm, buộc họ
trong nô lệ theo ý đồ của các bề trên, khiến Ki tô giáo đã gây ra biết bao tội
ác đối với nhân loại trong suốt quá trình lịch sử từ khi có Ki tô giáo cho đến
ngày nay. Có thể kể ra một vài điển hình như nữ Giáo sư thần học Uta
Ranke-Heinemann tác giả sách Putting Away Childish Things, Harper-Collins, San
Francisco,1995; Linh muc Joseph McCabe tác giả 20 tập trong bộ sách The Black
International; John Cornwell viết sách Beaking Faith: The Pope, The People, and
the Fate of Catholism (2001); Linh muc David Rice viết sách Shattered Vows :
Priests Who Leave (1990). Riêng người Việt Nam thì điển hình là Charlie Nguyễn,
tên thật là Bùi Văn Chấn, một trí thức vốn xuất thân trong gia đình theo Thiên
chúa giáo từ thế kỷ 16, và đã từng là Chủng sinh của trường đào tạo Linh Mục
Thánh gia tại xứ đạo Bùi Chu, tác giả của các sách Công Giao: Huyền Thoại và Tội
Ác, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, Công Giáo: Thực Chất và Các Đạo Chúa, Tuyển Tập
Độc Thần Giáo (https://sachhiem.net); Nguyễn Văn Thọ, bác sĩ, đã
từng theo Thiên chúa giáo mấy chục năm thời nhỏ, tác giả sách Suy Nghĩ Về Thiên
Chúa Giáo (https://sachhiem.net).
Người Việt Nam ngây thơ chưa biết gì về đạo Thiên Chúa, Tin Lành, và
đặc biệt những người ngoan đạo, tín đồ trung thành của đạo Chúa, nên đọc kỹ hai
tác giả này, và các tác giả khác trong sachhiem.net như Trần Chung Ngọc, Nguyễn
Mạnh Quang, Bùi Kha,v.v…để bồi dưỡng kiến thức, mở mang trí tuệ, giúp có tư duy
độc lập, mà hữu ích cho đất nước và dân tộc Việt Nam ta.
B. VỚI NGƯỜI KHÔNG THEO KI TÔ GIÁO :
Với những người không theo Ki tô giáo thì dĩ nhiên họ không tin có cái
Tội gọi là Tội Tổ Tông, chẳng hề sợ mắc phải cái tội “tào lao” ấy, và chẳng hề
cầu xin Chúa tha tội! Với họ, quá dễ dàng để bác bỏ tội Tổ Tổ Tông theo giáo
điều của Ki tô giáo, và như thế bác bỏ sự giáng trần để cứu rỗi nhân loại của
Chúa Jesus. Một số lý do để bác bỏ cả hoc thuyết Tội tổ tông, cũng như nhiêu
giáo điều của Ki tô giáo mà một học sinh Trung học cũng dễ dàng nêu ra. Chẳng
hạn như:
Việc Chúa tạo dựng ra vũ trụ trong 6 ngày được ghi theo Sáng Thế Ký 1
nói đến ở phần Vườn Địa Đàng là hoàn toàn phản khoa học : Quả đất là trung tâm
của vũ trụ, quả đất đứng yên, mặt trời quay quanh quả đất, cái vòm trời được làm
bằng đồng thau, được chống đở bởi những cây trụ, mặt trời, các vì sao được treo
trên vòm trời ấy, cây cối được Chúa tạo ra trước khi Chúa tạo mặt trời, nghĩa
là cây cối sống phát triển khi chưa có ánh mặt trời ,…, vũ trụ ấy được Chúa tạo
ra cách đây chỉ khoảng sáu nghìn năm,…, nghĩa là loài người chỉ mới có cách đây
khoảng sáu nghìn năm với hai người đầu tiên là ông Adam và bà Eva,…,
Thật ra trong quá khứ đã có nhiều bắng chứng rất thuyết phục thừa sức
bác bỏ thuyết sáng tạo trên đây của Chúa, chẳng hạn sự khám phá ra quả đất quay
quanh mặt trời của nhà bác học Copernicus vào năm 1514,…hay việc hoàn thành
chuyến đi vòng quanh quả địa cầu bằng tàu biển của nhà hang hải Ferdinand
Magellan vào năm 1522, … chứ không cần phải có quá nhiều bằng chứng hiển nhiên
như ngày nay do sự tiến bộ của khoa học đem lại. Theo ước tính của các nhà khoa
học thì con người bắt đâu đứng thẳng trên đôi chân (homo-erectus) tách khỏi loài
vượn thì cách đây khoảng 2 triệu năm, rồi homo-erectus tiến hóa ra con người
khôn ngoan đầu tiên (homo-sapiens) cách đây ít nhất là 150.000 năm. Năm 1987,
các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại Herto nước Ethiopia ở Phi châu một cái sọ người
hóa thạch và sau đó các chuyên gia với tất cả công cụ nghiên cứu hiện đại, dưới
sự chủ trì của Giáo sư Tim White tại Đại học Berkely, đã công bố kết quả nghiên
cứu mà tờ Tuần báo Newsweek số ra ngày 23 tháng 6 năm 2003 đăng nơi trang 14 cho
thấy đó là cái đầu người đàn bà đã bị chôn vùi dưới đất cách đây ít nhất
160.000 năm. Vậy cái chuyện ông Adam và bà Eva là thủy tổ của loài người cách
đây mới khoảng 6000 năm là hoàn toàn sai lầm….Do đó cái Vườn Địa Đàng, lẫn cái
chuyện ăn trái cấm do bị con rắn dụ , để mắc tội phản Chúa và trở thành Tôi tổ
tông của loài người là hoàn toàn sai lâm, bịa đặt. Và như thế cái lý do mà Ki tô
giáo nói Chúa Jesus giáng trần, chịu chết trên cây thánh giá, để chịu tội thay
cho loài người là hoàn toàn không đúng. Có thể nói thuyết tiến hóa (Evolution)
của Darwin là một đòn chí tử cho thuyết Sáng thế (Creation) của Ki tô giáo,
khiến cho lý lẽ thần học cốt lõi của Ki tô giáo bị sụp đổ. Cho nên chúng ta
không lấy gì làm lạ là tại sao Ki tô giáo chống lại thuyết tiến hóa một cách
điên cuồng cho tới tận ngày nay. Trong tờ American Atheist số tháng 9 năm 1979,
trang 30, với tựa đề Ý Nghĩa của Thuyết Tiến Hóa (The Meaning of Evolution),
Richard Bozarth đã viết :” Ki tô giáo phải hoàn toàn tin cậy vào sự sáng tạo đặc
biệc như mô tả trong sách Sáng Thế Ký, và Ki tô giáo phải chiến đấu với tất cả
sức mạnh của mình để chống lại thuyết tiến hóa. Và đây là lý do tại sao.
Trong Romans 5:12, chúng ta đọc rằng “ tôi lỗi đã đi vào thế giới qua một
người, và vì tội lỗi thì phải chết, và do đó sự chết đã truyền qua toàn thể nhân
loại bởi vì mọi người đều đã phạm tội”.
Toàn bộ sự biện minh cho cụộc sống và cái chết của Jesus là dựa trên sự
có mặt của Adam và trái cấm mà ông và bà Eva đã ăn. Không có Tội tổ tông thì ai
cần được cứu rỗi ? Không có sự sa ngã của Adam vào một đời sống có tội triền
miên bị chấm dứt bởi cái chết, thì với Ki tô giáo, có mục đích gì ? Không có gì
cả.
Ngay cả một học sinh trung học cũng biết đủ về thuyết tiến hóa để biết
rằng không có chỗ nào trong thuyết tiến hóa mà sự mô tả nguồn gốc của chúng ta
lại có xuất hiện một Adam hay một Eva hay một Vườn Địa Đàng hay một trái cấm.
Tiến hóa có nghĩa là một sự phát triển từ một dạng nay đến một dạng kế tiếp để
đáp ứng những thách thức luôn đang thay đổi từ một bản chất luôn đang thay đổi.
Không có sự suy đồi từ một tình trạng hoàn thiện siêu phàm có trước ( như ông
Adam có trí tuệ cao siêu, tâm linh hòa nhập với Chúa trước khi ăn trái cấm, rồi
sau khi ăn trái cấm mà bị suy đồi, mất hết các tính siêu phàm ấy, Mục Đồng).
Không có ông Adam, không có Tội tổ tông , thì ông Jesus Christ hóa ra
chỉ là một người với một sứ mạng đến nhầm hành tinh!” (63)
Như thế đấy, Tội tổ tông theo giáo điều Ki tô giáo mà một hoc sinh
trung học, một người có đầu óc bình thường ngày nay đều nhận biết là một sự bịa
đặt nhảm nhí, một sư mê tín dị đoan dành cho những kẻ ngu muội. Nhưng trong sách
Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng (CrossingThe Threshold of Hope, Alfred A. Knopf, New
York, 1994), Giáo hoàng John Paul II, lại tán tụng Tội tổ tông như sau :” Ôi!
Cái tội hồng phúc đã có công đem lại chúng ta đấng cứu thế cao cả biết bao” (Bản
Việt dịch : Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, Thăng Tiến, 1995, tr, 21) . Tại sao vậy
? Có phải chăng, Giáo hoàng John Paul II, cùng tất cả Hồng y, Tổng giám mục,
Giám muc, Linh muc, các Soeur,…, trong đó đặc biệt là hàng giáo phẩm người Việt
Nam đều là u mê ? Không, tôi không tin như thế. Tôi nghĩ rằng tất cả họ đều biết
rõ Tội tổ tông, cũng như nhiều giáo điều khác của Ki tô giáo là không phải chân
lý vì chính họ đã góp phần bịa đặt ra, thậm chí họ cũng không tin có Chúa thưởng
phạt gì cả vì chính họ đã làm biết bao nhiêu điều tội lỗi , chẳng hạn việc lợi
dụng việc xưng tội của con chiên để xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em mà tòa án
Mỹ đã kết tội họ và họ đã phải bồi thường hàng tỉ đô la từ những năm 2001 trở
đi.Thật ra những chuyện xâm phạm tình dục của các cha cố đã xảy ra từ lâu và ở
khắp mọi nơi, nhưng người phụ nữ Mỹ mới có can đảm tố cáo vào đâu thiên niên kỷ
mới này.
Ở Việt Nam ta thì những chuyện xâm phạm này được che đậy khéo léo.
Nếu một số cha nào đó “xơi” mấy bà có chồng mà có con thì con đẻ ra đã có người
cha pháp lý rồi và đứa bé lại giống được cha thì càng tốt vì gia đình của nữ tín
đồ đó đã tận tụy với cha và với Chúa nên được ân sủng của Chúa mà sinh con được
giống như cha! Nếu nữ tín đồ đó là một cô bé chưa chồng mà “ân sủng của cha” lại
bị nhiều người biết thì cả giáo dân của xứ đạo ấy sẽ xúm vào lên án , hành hung
người con gái đáng thương này vì cái tội đã “quyến rủ cha, làm nhục cha, làm ô
danh xứ đạo,…”, như cái cách mà nhà văn Thiên chúa giáo Nguyễn Ngọc Ngạn đã mô
tả trong Xóm Đạo. Còn nếu chỉ một vài người biết chuyện “ân sủng của bề trên”
thì “bề trên” và các người biết này sẽ gọi một con chiên ngoan đạo nào đó tới
“lãnh trách nhiệm làm chồng người con gái và làm cha đứa bé”. Vì danh dự của “bề
trên”, vì “bề trên”nói thì phải nghe, và tất nhiên đi kèm với một ít quyền lợi
nào đó mà “bề trên” ban cho, thế là mọi chuyện đều êm re!
Chính bề trên đã dàn dựng mọi chuyện từ các vụ như sự ngã ngựa của
ông Saul và ông thấy Chúa Jesus hiện ra và nói với ông là :”Tại sao ngươi cứ
ngược đãi ta?”, cho đến vụ Constantine thấy cây thánh giá hiện ra trên bầu trời
với hàng chữ “ Nhờ cái này ngươi sẽ chiến thắng”, cho đến Đức Mẹ Đồng Trinh hiện
ra ở Lourdes năm 1858, hiện ra tại La Vang, Quảng Trị ở Việt Nam, rồi mới gần
đây là các tương Đưc Mẹ khóc ở Việt Nam, chảy máu trong cộng đồng người Việt ở
Úc,…. Như thế bê trên đâu có tin Chúa vì đâu có sợ Chúa phạt khi mạo danh Chúa
để ngụy tạo các câu chuyện cốt để lừa phỉnh đám con chiên vô tội, ngu ngơ và
những trí thức Ki tô đốc giáo dùng các phương tiện truyền thông như các báo,
đài phát thanh truyên hình tư nhân để thổi phồng, kích động đám tín đồ ngây thơ
, cốt để họ tin theo mà làm theo ý đồ đen tối theo chiến lược và chiến thuật của
bề trên. Như thế họ nói về Tội Tổ Tông và các giáo điều mà chính bản thân họ
không tin là cốt để lừa bịp con chiên, giữ con chiên trong ngu dốt, sợ hải, để
mà vâng phục họ, cho họ có địa vị, có quyền, có tiền mà thôi! Chính cái đó là
cái đáng thương cho đám con chiên ngoan đạo, bị chính bề trên lừa bịp, lợi dụng
mà không biết! Tội nhất là đồng bào giáo dân Việt Nam bị các cha cố lừa bịp từ
cái thuở các cố đạo Âu châu tới nước ta vào thế kỷ thứ 16 cho tới nay, khiến
đồng bào giáo dân Việt Nam đã phạm nhiều tội lỗi với chính tổ tiên dòng họ của
mình, với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, và đó mới chính là Tội Tổ Tông
đích thực của người Ki tô giáo Việt Nam mà phần sau đây sẽ nói rõ!
Cũng nên biết rằng nước Mỹ là nơi tự do tư tưởng, tự do phát biểu ý
kiến cho nên có thể có những tư tưởng tiến bộ nhất và những tư tưởng lạc hậu
nhất đồng thời xuất hiện tại Mỹ. Có điều những cái lạc ấy có thể phát xuất từ
niềm tin mù quáng về tôn giáo hay cố ý để phát triển tôn giáo. Điển hình là
trường hợp nữ diển viện điện ảnh, kịch nghệ của Hollywood, Aimee Semple
McPherson từ thập niên 20 tới đầu thập niên 50 của thế kỷ 20 đã dùng khả năng
diễn xuất của mình để tổ chức những buổi truyền đạo Tin Lành tại nhiều nhà thờ,
triệt để cổ xúy chống Vô thần, chống Công sản, và chống cả thuyết Đức Mẹ Đống
Trinh của Công giáo La mã, đã phát động phong trào Thánh chiến quốc gia
(National Crusade) để chống việc dạy thuyết Tiến hóa của Darwin trong nhà trường
và kêu gọi những đồng nghiệp truyền đạo của bà hãy Ki tô hóa toàn bộ nước Mỹ. Bà
là người phụ nữ có công rất lớn với đạo Tin Lành phái chính thống
(Fundamentalism), đã huy động tạo lập các nhà thờ vĩ đại (mega- church) có đủ
chỗ cho rất nhiều người dự lễ. Nhưng trong khi mọi thính giả đang ngồi trong nhà
thờ để chờ nghe bài giảng “Câu Chuyện Của Đời Tôi” (Story of My Life) của bà và
vì lâu quá chưa thấy diễn giả tới thì con trai Rolf McPherson của bà đi tìm mẹ,
mới phát hiện thấy mẹ mình bị hôn mê tại khách sạn và chết lúc 11giờ 15 sáng
ngày 27 tháng 9 năm 1944 vì uống quá nhiều viên thuốc gây nghiện. Đã hơn nữa thế
kỷ trôi qua, người ta vẫn chưa biết lý do tại sao Mc Pherson chết, có nguồn tin
bà bị phe Công giáo La mã ám hại. Trong khi bà rất được những người Tin Lành
ngưỡng mộ, thì công trình nghiên cứu gần đây nhất là quyển sách Jim Morrison’s
Adventures in the Afterlife (1999) lại cho bà là hình ảnh của đạo đức giả và
tình dục, một người đàn bà phức tạp, bị kích thích tình dục đến điên dại (64).
Cái truyền thống chống thuyết Tiến hóa ở Mỹ từ những người không hiểu khoa học
như nữ diễn viên Mc Pherson, cho đến những người biết khoa học nhưng giả ngơ và
chống thuyết Tiến hóa cũng như đòi dạy Thuyết Sáng tạo của Chúa và cả Thánh kinh
trong hoc đường để mở mang nước Chúa thì tới nay vẫn còn. Chẳng hạn Đại học Ki
tô Patrick Henry College ở Virginia đã bị The American Academy for Liberal
Education (AALE) bác đơn xin Công Nhận Giá Trị (Accreditation) vì trường này
buộc thầy dạy phải chấp nhận thế giới quan theo Kinh thánh (to affirm a
Statement of Biblical Worldview) tức là không thỏa điều kiện tư do tư tưởng, tự
do ngôn luận và còn buộc các giáo sư sinh học phải dạy rằng Chúa đã tạo ra thế
giới trong 6 ngày với 24 giờ mỗi ngày, không cho dạy Thuyết tiến hóa tức là hạn
chế nội dung giảng dạy và việc giảng dạy tới mức cấm tiếp thu các kiến thức cơ
bản (65) . Vì vậy đại học này phải viết lại phạm vi giảng dạy mới được AALE cho
phép ở mức tiền công nhận giá trị trong vòng 5 năm vào thang 11 năm 2003. Nhà
thờ biết rằng các Cơ quan quyền lực của Giáo dục Mỹ từ lâu nay vẫn không cho dạy
Kinh thánh trong học đường, cho nên nay họ đang tìm cách xoay với lý do là nếu
không cho dạy Kinh thánh để truyền đạo thì xin dạy như một tác phâm văn minh của
phương Tây! với sự ăn theo béo bở các xuất bản như David Van Biema viết trong tờ
Times số ngày 2 tháng 4 nsăm 2007 trang 40.
VIII. TỘI TỔ TÔNG ĐÍCH THỰC CỦA NGƯỜI KI TÔ GIÁO VIỆT NAM
Như phân tích ở trên, Tội Tổ Tông theo giáo điều của Ki tô giáo chỉ là
cái bịa đặt nhảm nhí, không có thật, nghĩa là người Ki tô giáo cũng như mọi
người trên thế gian này không có cái Tội Tổ Tông như giáo điều Ki gtô giáo chỉ
dạy. Như vậy phải chăng người Cơ đốc giáo Việt Nam không có Tội Tổ Tông ? Xin
thưa rằng có đấy, họ có tội với nhân loại, với dân tộc Viêt Nam mà đoạn sau đây
bàn đến và ta có thể nói đó mới chính là Tội Tổ Tông đích thực của người Ki tô
giáo Việt Nam.
A. TỘI ĐỐI VỚI VĂN MINH
NHÂN LOẠI.
Giáo điều Ki tô giáo dạy con chiên rằng Ki
tô giáo là tôn gáo duy nhất đúng, theo Ki tô giáo là văn minh, ai không theo Ki
tô giáo đều là dân dã man. Thời đế quốc La mã cường thịnh thì họ tự nhận là văn
minh và dân bên ngoài địa phân của đế quốc là dã man (barbarian). Đến khi đế
quốc La mã suy tàn thì người Ki tô giáo tự cho là văn minh và tất cả các dân
không thuộc văn hóa kinh thánh của họ đều là dân dã man. Tư tưởng kiêu căn lố
bịch này đã được các cố đạo truyền cho giáo dân Việt Nam. Cho nên Kinh cầu ông
Thánh Phan xi cô Xavie, Nhựt khóa, trang 782, viết rằng dân các nước Phương đông
là “dân mọi rợ”; Toàn Niên Kinh Nguyện Bùi Chu, trang 325 viết :”Kẻ dữ là kẻ
chẳng có đạo”; ngạo mạn nhất là Kinh Nhựt Khóa của Tổng Giáo Phận Saigòn, trang
130 viết về Phật giáo là “ đang ở nơi tối tăm thờ bụt thần ma quỉ ”(66). Và
chính Giáo hoàng đương nhiệm Bernadict XVI đã phán ra một câu xanh dờn rằng :”
Phật giáo là con đường tâm linh thự thòa dâm “ (Budhism is a sort of auto-erotic
spirituality). Những người Phật giáo đã dùng trí tuệ để chứng minh cho ngài thấy
rằng ngài đã sai lầm với mong mõi là ngài bớt ngu dốt đi . Nhưng ngài vẫn không
tỉnh ngộ, chắc ngài tự cho rằng mình thay mặt Chúa mà phán thì không sai lầm cho
nên vào gần giữa năm 2007, ngài lại phán ra một câu làm xúc phạm Giáo chủ
Muhammad của Hồi giáo. Thế giới Hồi giáo bắt đầu giận dữ, gầm lên đe dọa “nắn
gân “ ngài. Tưởng lần này ngài và những người Ki tô bênh vực ngài đâu có ngán vì
ngài là người duy nhất thay mặt Chúa quyền năng vô song mà ngán ai. Té ra ngài
cũng phải cảm thấy rét nơi gáy, mà đích thân xin lỗi ! Tư cách của ngài là như
thế mà con chiên Ki tô giáo Việt Nam tin chăm bẳm rằng ngài Giáo hoàng là người
duy nhất thay măt Chúa nên không bao giờ sai lầm!
Với cái tinh thần ngạo mạn sai lầm đó, Ki
tô giáo chủ trương cần đem ánh sáng văn minh kinh thánh đến khai phá cho mọi
người ngoại đạo mà họ cho là dã man, để hoặc họ trở thành văn minh (theo đạo
Chúa) hoặc họ sẽ bị tiêu diệt để đạo Chúa được là đạo duy nhất được mọi người
tôn thờ, như học thuyết của ông thánh Augustine chủ trương (67).
Rồi với chiêu bài Chiến Tranh Chính Đáng
(Just War) cũng do ông Augustine đẻ ra, Ki tô giáo đã cấu kết với các thế lực
quân sự của vua chúa, thưc dân phương Tây, đã gây ra cho nhân loại biết bao
nhiêu tội ác.
Có thể liệt kê một số tội chính :
a. Các cuộc Thập tự
chinh (thánh chiến: Holy war): Ki tô giáo cấu kết với các thế lực quân sự của
các vua chúa Âu châu đưa các đoàn quân thánh chiến (Crusades) đến đánh phá giết
hại một cách rất dã man hơn 3 triệu dân Hồi giáo và tiêu hủy các cơ sở văn hóa ở
vùng Trung đông trong 7 trận chiến từ năm 1095 đến năm 1291
b. Tòa án dị giáo do
Giáo hội La mã mở ra để xử tử bằng cách treo cổ hay thiêu sống những người có tư
tưởng hay hành động mà Giáo hội cho là không tốt cho sự bành trướng của Ki tô
giáo, kéo dài trong 6 thế kỷ, và bị chấm dứt sau cuộc cách mạng 1789 tại Pháp ,
đã giết hại khảng 10 triệu người trong Ki tô giáo và 14 triệu người ngoài Ki tô
giáo.
c. Các cuộc tranh
giành quyền lợi của các Giáo hoàng với các vua chúa Ki tô giáo hay giữa các vua
chúa ây với nhau đã giết hại hơn 30 triệu người.
d. Các nhà truyền Ki tô
giáo đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đở về thông tin, sức người, sức của cho các
thế lực thực dân Âu châu đi xâm chiếm các nước ở các châu Á, Phi, và Mỹ làm
thuộc địa , trong đó nước Việt Nam chúng ta đã biến thành thuộc địa cho sự bóc
lột của thực dân Pháp gần một trăm năm, mà liên lụy chiến tranh mãi đến năm 1975
mới chấm dứt, khiến cho dân tộc ta phải chịu biết bao điêu linh thống khổ.
e. Ki tô giáo đã tạo
điều kiện tinh thần cho thực dân da trắng Âu châu bắt dân da đen Phi châu và thổ
dân da đỏ Mỹ châu làm nô nệ, và tiêu diệt nhiều dân tộc và nền văn minh của thổ
dân Mỹ châu.
Bạn đọc Việt Nam ta đã ít nhiều biết các
thông tin về các phần a,b,c, và d trên đây, nhưng có lẽ ít có tư liệu về sự tàn
bạo của thực dân da trắng tại Mỹ châu với sự hổ trợ của văn minh kinh thánh. Vì
vậy, ở đây tôi xin viết ra vài sự kiện tiêu biểu ở Mỹ châu để bạn đọc tham khảo.
B. SỰ TÀN BẠO CỦA THỰC DÂN ÂU CHÂU và VĂN HÓA KINH THÁNH
ĐỐI VỚI CÁC THỔ DÂN CHÂU MỸ
Sự khám phá ra châu Mỹ năm 1492 của Columbus
đã tạo ra một cú sốc rất mạnh cho dân châu Âu, đặc biệt cho giới giáo sĩ Ki tô
giáo, bởi vì đối với họ, cả cái trí tuệ siêu việt của Chúa đã gói gọn trong kinh
thánh, mà than ôi trong kinh thánh không hề chứa một chút hiểu biết gì về Tân
thế giới, đất rộng mênh mông và rất nhiều cư dân đang sinh sống mà chưa hề và
không màn gì đến lời dạy của Chúa Jesus cả!
Trong khi giới lãnh đạo Ki tô giáo cũng như
các triết gia Âu châu đang nhức đầu trong việc tìm chưa ra đối sách với dân
ngoại đạo mà ho cho là dã man ở châu Mỹ bởi vì Chúa của họ không hề hay biết gì
về vùng đất xa lạ này, thì các nhà thám hiểm Tây ban nha và Bồ đào nha đã dùng
đường biển đến được Cuba, bờ biển của Brazil, Florida và các đảo vùng Caribbe
vào khoảng năm 1525. Ở các vùng đất xa lạ này, với tài nguyên thiên nhiên phong
phú, với thổ dân chất phác và thuần thiện, một số tay lưu manh da trắng nhờ tàn
ác dã đã mau chóng trở thành giàu có với cuộc sống còn hơn các ông hoang bà chúa
ở Âu châu. Điển hình là Hernan Cortes và Francisco Pizarro.
1. CHUYỆN VỀ CORTES :
Cortes sinh năm 1484, trở thành một người
lính nhà nghề Tây ban nha với mục đích ban đầu là làm lính đánh thuê tại nước Ý.
Năm 22 tuổi, Cortes theo đường biển tới được Cuba.Tại đây, Cortes may mắn tìm
được nhiều vàng, rồi chiếm đất lập ra một nông trại rất lớn và bắt nhiều thổ dân
da đỏ (Indian) gồm cả đàn ông lẫn đàn bà làm nô lệ. Thời bấy giờ, bọn thực dân
da trắng dùng sức mạnh của sự vượt trội về khí giới và sự gian manh, chúng tự
cho chúng có quyền không hạn chế trong việc dùng thổ dân da đỏ làm nô lệ lao
động, nô lệ tình dục, lao động cưỡng bức, hành hạ trong các trò thể thao giải
trí hoặc giết chóc hay để cho chết đói. Nhà văn las Casas đã viết rằng trong 4
tháng ở Cuba, ông đã chứng kiến bọn gian ác Âu châu đã làm cho chết đói 7.000
thổ dân (68).
Vào thời điểm đó thì thổ dân Aztec đã tạo
dựng nên một vương quốc với nền văn hóa rất nhân bản tại Mexico. Họ đã xây dựng
một thành phố mà phần giữa hồ Lake Texcoco gồm những dinh thự, đền đài, đường
sá, vườn tược, chơ búa cho 70.000 dân cư, còn xung quanh bờ hồ là các dãy phố
được nối với các cơ sở trong hồ bởi một hệ thống các cầu treo và quay đựoc. Cư
dân toàn thành phố vào khoảng 250.000 trong khi dân số vùng Mesoamerica khoảng
25 triệu vào năm 1520. Trong các năm 1519-1521, Cortes đã lập một đoàn quân gồm
400 các tên lính Tây ban nha và các thổ dân Tlaxcalan vốn không ưa dân Aztec để
đi đến thành phố hồ Lake Texcoco này. Tới nơi, Cortes thấy thành phố đẹp như mơ.
Cortes được Montezuma, nhà vua của dân Aztecs đón tiếp rất niềm nở với đầy đủ
thực phẩm và chỗ ở bở vì dân tộc Aztecs vốn hiếu khách, có nền văn hóa rất nhân
bản, khác hẵn tính chất chinh phục, đàn áp, độc đoán theo văn hóa thánh kinh của
Cortes. Nhưng với bản chất lưu manh của một tên lính đánh thuê, quen đi tìm của
cải bằng cách cướp bóc, chiếm đoạt của thổ dân, trong khi được đón tiếp trọng
thể thì thình lình Cortes đã bắt vua Montezuma làm con tin và một trung úy trong
đoàn quân của Cortes chỉ huy một cuộc tàn sát những người Aztecs đang cử hành lễ
hội mùa xuân của dân Aztec trong sân một đền thờ. Các giáo sĩ và nhạc công đang
hành lễ đều bị các lưỡi gươm Tây ban nha cắt đứt thành từng mảnh. Quả là một sự
kiện không thể nào tin nỗi đối với người Aztecs với văn hóa mà qui luật về chiến
tranh và những điều cấm về vi phạm thân thể con người phải luôn luôn được tuân
thủ một cách nghiêm ngặt. Với họ, cũng như với nhiều nền văn hóa khác, cuộc xung
đột phải được cử hành nghi thức nghiêm chỉnh và ngay cả sư hy sinh con người
trong tế lễ cũng phải được thực hiện với với sự chính xác và kính trong lớn lao
đối với thân thể con người. Bị cú bất ngờ này, người Aztecs bèn không cung cấp
thức ăn cho đoàn quân của Cortes và họ quay các cầu treo không để con đường
thoát khỏi thành phố trên mặt hồ và đánh lại bọn Cortes. Cortes tháo chạy được
ra khỏi hồ vào ngày 1 tháng 7 năm 1520, nhưng trước đó hắn đã dã man treo cổ vua
Montezuma và các nhà lãnh đao khác của dân Aztec mà hắn đã bắt làm con tin. Tuy
vậy, khoảng ba phần tư lính Tây ban nha đã bị gết trong trận này, nhiều tên
trong chúng bị chết đuối trong hồ do mang theo nhiều vàng chúng đã cướp được
trước đó.
Sáu tháng sau, Cortes quay trở lại với sự
liên minh của 10.000 quân thổ dân Tlaxcalan. Trong thời gian đó, bệnh đậu mùa
theo người Tây ban nha từ Âu châu qua đã lan ra khắp nhiều thành phố, giết chết
rất nhiều người Aztec (trong thế kỷ 16, nhiều chục triệu người thổ dân ở châu Mỹ
đã bị chết do các mầm bệnh từ châu Âu lan qua ). Với sự vượt trội về vũ khí,
Cortes cho quân bao vây thành phố, triệt đường tiếp tế lương thực và bắn phá
suốt 80 ngày, thành phố bị hủy diệt gần hết, buộc lòng nhà vua trẻ tuổi
Cuauhtemoc của Aztec phải điều đình xin hàng. Thế là lính Tây ban nha và
Tlaxcatan tràn vào cướp bóc, đôt phá và tàn sát bừa bãi dân chúng trong việc săn
lùng vàng, chính nhà vua trẻ Cuauhtemoc cũng bị giết chết sau khi bị tra khảo để
tróc nã vàng của triều đình. Thành phố bi tiêu hủy, hơn 100.000 người Aztec đã
bị giết, số còn lại đã phải lặng lẽ rút đi.
Như thế với cái lưu manh của tên lính đánh
thuê, với tính dã man của nền văn hóa kinh thánh mà người Ki tô giáo tự cho là
văn minh nhất, Cortes đã tiêu diệt kinh đô, triều đình của dân tộc Aztec, mở đâu
cho việc tiêu diệt một vương quốc, phong tục, tâp quán, một nền văn hóa của một
dân tộc ở vùng Trung Mỹ, nhân bản hơn, thiện lành hơn văn hóa thánh kinh của
những tên lính đánh thuê Tây ban nha như Cortes thời bấy giờ. Nhưng mĩa mai
thay, Cortes đã được xem như một anh hùng Âu châu trong nhiều thế kỷ (69).
2. CHUYỆN VỀ FRANCISCO PIZARRO:
Mười năm sau việc Cortes tiêu diệt vương
quốc của người Aztec, một người Tây ban nha khác là Francisco Pizarro, sau khi
đã tìm được khá nhiều vàng từ vùng Panama trên bờ Thái bình dương, đã bắt chước
Cortes đi tìm riêng cho mình một vương quốc. Năm 1528, Pizarro đi tàu biển đến
cảng Tumbes của vương quốc Inca rộng lớn ở Nam châu Mỹ, chạy dài từ Seville tới
Moscow. Hắn được vua và dân Inca đón tiếp rất thân thiện, và hắn nhận thấy vương
quốc này rất giàu có, rất văn minh và được điều hành rất hợp lý, hữu hiệu.
Pizarro trở về Panama, rồi Âu châu lo kêu gọi đóng góp tiền bạc và sức người để
xâm chiếm vương quốc Inca. Hắn đã trưng ra cho vua Charles của Tây ban nha một
loạt các đồ kim hoàn và thủ công mỹ nghệ của Inca, và được nhà vua đống ý cho
Pizarro chinh phục và cai trị Peru dưới danh nghĩa vương trièu Tây ban nha.
Thời may đến với Pizarro là vào thời gian
đó, mầm bệnh đậu mùa từ Âu châu theo người Tây ban nha lan qua châu Mỹ, đã làm
chết rất nhiều người thổ dân châu Mỹ, và cái chết của Wayna Capac, Hoàng đế của
Inca vào tháng 5 năm 1528, khiến cho nội chiến xảy ra giữa các con trai của
Wayna Capac, đã tạo cho Pizarro cơ hội chia rẻ rồi xâm chiếm vương quốc này. Năm
1530, Pizarro quay trở lại Peru đem theo 180 quân tùy tùng. Trước đó Pizarro đã
gặp Cortes để học tập kinh nghiệm và theo lời khuyên của Cortes, Pizarro đã bắt
ngay vua Atahuallpa của Inca và dùng súng, ngựa, gươm tàn sát cả đoàn tùy tùng
cua nhà vua một cách dã man khi họ theo nhà vua tiếp đón bọn Pizarro. Bị một đòn
bất ngờ quá khủng khiếp, vua Atahuallpa phải nhượng bộ cho bọn Tây ban nha toàn
quyền đi tới bất cứ nơi nào trong vương quốc, nhưng chúng không thỏa mãn. Những
cơ sở thiêng liêng của dân Inca đầy những đồ trang hoàng bằng vàng, bạc được
khắc chạm một cách phi thường đều bị tháo dở, lấy được bảy tấn vàng và mười ba
tấn bạc, được chở tới căn cứ của Pizarro như là của chuộc tội chết cho vua
Atahuallpa, tại đó các đồ trang hoàng này được nấu chảy để đổ thành thỏi.
Như thế đó, những sáng tạo nghệ thuật và
cốt lõi tinh thần của dân tộc Inca đã bị phá hủy cùng với quyền lực của họ bởi
sự lưu manh và tàn bạo của thực dân da trắng trong thời gian rất ngắn. Sau đó
vua Atahuallpa cũng bị giết khi mà ông không còn hữu ích cho tham vọng của
Pizarro nữa, đồng thời tất cả những người quý tộc và phụ nữ của họ thì thường
xuyên bị làm nhục, bị hảm hiếp, bị hành hạ và bị giết bởi người Tây ban nha. Dân
Inca cũng như dân Aztec đã ngoan cường nổi dậy chống lại người Tây ban nha năm
1537, nhưng cũng như Cortes, Pizarro đã có thời giờ kêu gọi thế lực từ Panama,
với ưu thế về vũ khí, và với âm mưu liên kết với các nhóm thổ dân chống lai dân
Inca, nên cuối cùng Peru phải chịu thua và vương triều Inca bị tiêu diệt vĩnh
viễn cùng với nền văn minh của họ.
Năm 1569 vua Tây ban nha Philip II bổ
nhiệm Francisco de Toledo lam toàn quyền Peru. Năm 1572, Toledo đã bắt và hành
quyết Tupac Imaru, vị Hoàng đế cuối cùng của Inca. Như thế, chỉ đúng 41 năm sau
lần đầu tiên Pizarro đến Peru thì vua cuối cùng của Inca là Tupac Imaru bị giết,
tức là trong thời gian ngắn hơn một đời người, thì cả một thế giới gồm những thổ
dân đã bị quét sạch khỏi trái đất do sự tham tàn, cướp bóc, giết hại của những
tên thực dân Tây ban nha với cái văn minh kinh thánh tự cho là duy nhất đúng của
họ (70).
3. THỔ DÂN CHÂU MỸ BỊ ÁP ĐẶT VĂN MINH
KINH THÁNH
Trong thế kỷ 16, người Tây ban nha đã
chiếm làm thuộc địa Mexico, Panama, Peru,Argentina, các đảo West Indes,
Florida,…Rồi người Tây ban nha ào ạt di cư sang vùng thuộc địa cho nên ngày nay
hầu hêt các nươc vùng Trung và Nam châu Mỹ nói tiếng Tây ban nha, riêng Brasil
thuộc địa của Bô đào nha nên nói tiếng Bồ. Nhưng qua thế kỷ 17, các nước khác ở
Âu châu như Anh, Pháp, Hà lan,… ,qua châu Mỹ tranh danh thuộc địa và dần dần dần
các nước ở châu Mỹ được định hình như ngày nay.
Điều đáng lưu ý ở đây, là không những
chiếm đất, bắt thổ dân làm lao dich như nô lệ mà các nước đế quốc châu Âu còn áp
đặt lên thổ dân nền văn minh kinh thánh. Toàn quyền người Tây ban nha của Peru
đã cấm tất cả mọi nghi thức tôn giáo của thổ dân, và năm 1570 một văn phòng của
Tòa án dị giáo đã được thiết lập tại Lima, và sau đó trên tất cả mọi thuộc địa
của Tây ban nha tại châu Mỹ. Người thổ dân châu Mỹ bị buộc phải tuân theo văn
hóa thánh kinh của thực dân châu Âu khiến cho nền văn hóa của họ đã bị tiêu
diệt. (71)
Biện minh cho sự dã man này, Juan Gines
de Sepulveda, một nhà thần học Tây ban nha, năm 1547 đã viết :” với cái quyền
hoàn toàn chính đáng, người Tây ban nha cai trị đám dân dã man này của Tân thế
giới và các đảo kế cận, những kẻ mà trí khôn, sự thông minh, đức hạnh và những
phẩm chất của văn minh đều thua người Tây ban nha như con nít thua người lớn, và
như đàn bà thua đàn ông. Có sự khác biệt lớn lao giữa hai dân tộc như giữa những
người hung ác, hoang dã và những người có lòng nhân từ nhất, giữa những người vô
độ ghê tởm nhất và những người ôn hòa và điều độ trong hoan lạc, nghĩa là có thể
nói, giữa vượn và người” (72).
C. DÂN DA ĐEN PHI CHÂU BỊ BẮT LÀM NÔ LỆ Ở
MỸ CHÂU
Bên cạnh sự tàn bạo của dân châu Âu đối với
thổ dân châu Mỹ, người da trắng còn món nợ tinh thần đối nhân loại trong việc
biến da đen châu Phi thành nô lệ tại châu Mỹ. Việc bắt đầu từ sự trồng mía của
người di cư Bồ đào nha và Tây ban nha tại các đảo Canary, vùng Azores, Medeira,
Cape Verde, Sao Tome và Principe ở phía tây châu Phi. Họ đã mua các nô lệ tại
các chợ ở bờ biển Phi châu và chở tới làm việc tại các đồn điền trồng mía này từ
đầu thế kỷ 16. Lúc bấy giờ trong các điều kiện lao động nặng nhọc, một người nô
lệ thường chỉ sử dụng được trong vòng 7 năm, cho nên nhu câu về số nô lệ càng
tăng lên với sự mở mang các đồn điền, đăc biệt là bắt đầu vào thập niên 1530 khi
mà phần đông bắc của Brasil trở thành nơi trồng mía chính của thực dân Bồ đào
nha, và việc mua bán nô lệ từ Phi châu qua châu Mỹ trở thành một nguồn lợi béo
bở cho các thương nhân châu Âu. Vào giữa thế kỷ 17, các con buôn Bồ đào nha dùng
thuyền chở nô lệ từ Gulf of Guinea ở bờ biển phía Tây Phi châu tới vùng Caribbe,
bán nô lệ, dùng thuyền chở sản phẩm về châu Âu theo dòng Gulf Sream, rồi từ Âu
châu cho thuyền qua bờ biển phía Tây châu Phi theo dòng Canaries. Lộ trình này
được gọi là tam giác buôn bán nô lệ ô nhục (infamous slave trade triangle) đã
đem lại lợi nhuận khổng lồ cho các con buôn Bồ đào nha. Nhưng ít lâu sau thì
người Hà lan, người Đức , người Anh đã dùng thế mạnh của các đội thương thuyền
của họ vào việc buôn bán nô lệ khi mà nô lệ được dùng trong mọi công việc lao
đông nặng nhọc ngoài đồng cũng như các việc tạp dịch trong nhà cho người da
trắng ở khăp cả châu Mỹ. Mãi tới năm 1808, việc buôn bán nô lệ xuyên qua Đại tây
dương mới bị nước Anh bãi bỏ và Mỹ bắt chước năm 1808. Nhưng điều này lại đưa
đến phong trào buôn bán nô lệ lớn lao nhất qua các vùng bên trong châu Mỹ.
Việc đối xử với nô lệ da đen của người da
trắng thì vô cùng tàn ác. Khi bị bán đi, họ bị tách khỏi các người thân trong
gia đình, cột thành từng xâu, bị nhét đầy trên các phương tiện chuyên chở, bị
xem như súc vật và không biết số phận của ngày mai ra sao. Ở các bang miền nam
nước Mỹ có chế độ nô lệ khà khắc nhất. Có các luật cấm các chủ nô lệ giải phóng
nô lệ hay bảo đảm tự do cho nô lệ. Những hình phạt khủng khiếp và đôi khi rất
tàn bạo là sự sự kiện đã xảy ra trong đời sống của hầu hết người nô lệ da đen,
mà người chủ nô lệ da trắng không hề bị pháp luật trừng phạt .
Năm 1846, Samuel Grdley Howe, một nhà
giáo dục hàng đầu, đã viếng thăm một nhà tù ở New Orleans tại Mỹ, nơi giam giữ
những nô lệ bỏ chạy trốn và những nô lệ đang chờ bị bán. Trong cái sân, ông ta
đã thấy một cô gái da đen, bị cột vào một tấm ván, đang bị quất bằng roi và ông
đã ghi lại : “ mỗi cú quất làm tước đi một mảng da, dính vào phầm mềm của cây
roi, hay rơi rung rinh trên nền lát sân trong khi máu túa ra theo…Đó là bên
trong một nhà tù công cộng và được tổ chức chính quy; hình phạt được công nhận
và cho phép bởi luật pháp. Nhưng bạn nghĩ rằng người bị tổn thương năng nề khốn
khổ đó hẵn đã mắc phải một sai phạm ghê gướm nào chăng… ? Không chút nào cả. Cô
ấy bị người chủ mang đến để bị quất bằng roi bởi người thi hành án công cộng,
mà không cần phiên tòa, quan tòa hay hội thẩm đoàn, chỉ cần sự sẵn sàng đồng ý
hay cái gật đầu của người chủ vì một sự vi phạm thật hay giả nào đó, hay để thỏa
tính ham muốn thất thường hay hiểm độc riêng của anh ta. Và anh ta có thể mang
cô tới ngày này qua ngày khác mà không cần nguyên nhân bị quy kết, và bắt chịu
bao nhiêu cái quất tùy ý anh ta thích…chỉ với điều kiện anh ta trả lệ phí”.(73).
Những tội ác trên đây mới đích thực là tội Tổ
tông của những người theo văn hóa thánh kinh.
D. TỘI RIÊNG ĐỐI VỚI ĐẤT
NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
1. Đối với tổ tiên
giòng họ : Người Ki-tô giáo Việt Nam đã từ bỏ truyền thống nhớ ơn ông bà tổ
tiên mà tiền nhân người Việt Nam của chính họ đã hun đúc nên trong dòng lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Họ đã khinh thường nền văn hóa tâm linh mà
chính cha ông họ đã chắt lọc trong bao đời, họ đã gây nên chia rẻ, gây gỗ với bà
con giòng họ trong vấn đề văn hóa tâm linh này.
2. Đối với đất nước và
dân tộc Việt Nam : Một khi đã theo đạo Ki tô thì người giáo dân được dạy là làm
mọi việc để phụng sự Chúa, để vinh danh Chúa, và sẽ được Chúa cứu rỗi vào ngày
Phán xét. Cho nên người Ki tô giáo Việt Nam không còn coi đất nước và dân tộc
Việt Nam là Tổ quốc thiêng liêng, là dân tộc có liên hệ thiêng liêng với sự tồn
tại của bản thân mình. Trái lại họ xem họ nghĩa vụ hướng về nước Chúa để phục
vụ, họ sẵn sàng nghe theo lệnh bề trên để hành đông, dù hành đông đó có thể phản
lại truyền thống của giòng họ, của Tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Chính vì thế mà
bất cứ một người Việt Nam nào có lý trí đều nhận thấy những điều sau đây :
*. Phần lớn những người Ki tô giáo Việt Nam đã
tiếp tay với thục dân Pháp và các cha cố đạo khiến cho nước Việt Nam bị trở
thành thuộc địa của thực dân Pháp gần một trăm năm, và dân tộc Việt Nam phải
chịu biết bao lầm than cay đắng dưới chế độ thực dân của Pháp. Không có sự giúp
sức của giáo dân Việt Nam mà thực chất như là đạo quân nằm vùng thường được gọi
là đạo quân thứ 5 dưới sự chỉ huy của các cha cố người Âu hay Việt thì thực dân
Pháp không thể nào dễ dàng đánh chiếm được nước ta. Những bằng chứng cụ thể từ
Alexandre de Rodes, Puginier, Tortuyaux,…, Trần Lục, Ngô Đình Khả,… thậm chí đến
những trí thức mà người Ki tô giáo Việt Nam rất sùng bái như Trương Vĩnh Ký,
Nguyễn Trường Tộ đều cho thấy họ có tội với đất nước và dân tộc Việt Nam. Độc
giả có thể đọc tội ác của họ trong nhiều tài liệu như sách Đạo Thiên Chúa Và Chủ
Nghĩa Thực Dân Pháp Tại Việt Nam.. của Giáo sư Tiến sĩ Cao Huy Thuần, Việt Nam
Máu Lữa Quê Hương Tôi của Hoàng Linh Đỗ Mậu, một ông tướng dưới chính quyền miền
Nam Việt Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Các sách và bài viết của Charlie
Nguyễn, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Manh Quang, Trần Chung Ngọc, Bùi Kha,…, trên
website sachhiem.net.
*. Chính sự tiếp tay của giới giáo dân Việt Nam
với thực dân Pháp, với đế quốc Vatican và ngoại bang mà dân tộc Việt Nam phải
chịu hy sinh biết bao xương máu qua hai cuộc kháng chiến 1945-1954 và 1960-1975.
* . Giáo dân VIệt Nam đã theo lệnh của các bề
trên của họ để phá hoại trong âm mưu tiêu diệt văn hóa truyền thống của dân tộc
Việt Nam để thay thế bằng văn hóa kinh thánh của Ki tô giáo. Cụ thể là các vụ
chiếm phá các chùa ở những địa diểm tốt để xây thay vào đó những nhà thờ lớn như
Nhà Thờ Lớn tại Hà nội, nhà thờ La Vang tại Quảng Trị, nhà thờ Tây Linh tại Huế,
các nhà thờ trong vùng Sài gòn v.v….
*. Tính chất bán nước, hại dân tộc của những người
cuồng tín Ki tô giáo Việt Nam đã được chính Vatican xác nhận trong việc phong
thánh tử đạo năm 1988 cho 117 tên Ki tô giáo Việt gian có công làm tay sai và
bán nước cho thực dân Tây phương và đế quốc La mã mà đã bị nhân dân Việt Nam
giết trong quá trình đánh đuổi quân xâm lược Pháp thời nhà Nguyễn. Giáo hoàng
Gioan Phao Lồ II đã ca tụng những tên Việt gian này trong lễ phong thánh tử đạo
cho chúng như sau:
Các người vinh quang của
Jerusalem
Là nỗi vui mừng của Israel
Và là vinh dự của dân tộc
Việt Nam (74)
Than ôi! Những tên làm tay sai cho đế quốc Vatican,
bán nươc cho ngoại bang, giết hại nhân dân Việt Nam mà là “vinh dự của dân tộc
Việt Nam”! Vì sao? Vì họ đã từ chối Tổ quốc Việt Nam, từ chối giòng giống Việt
Nam, họ chỉ là những tên tay sai phục vụ cho vinh quang của Jerusalem, cho xứ
Israel, nơi đó Chúa của họ đã giáng sinh.
Quả là hết biết, khi chấp nhận những tên làm
tay sai và bán nước cho ngoại bang ấy là thánh để tôn thờ thì rõ ràng người Ki
tô giáo Vệt Nam đã phỉ nhổ vào các vua Hùng, tất cả những anh hùng liệt sĩ đã có
công dựng nước và chống ngoaị xâm giữ nước như Hai Ba Tưng, Ba Triệu, Lý Thường
Kiệt, Các vua nhà Lý, nhà Trần, Lê Lợi, Quang Trung các vua nhà Nguyễn chống
thực dân Pháp, các anh hùng dân tộc chống thực dân và đế quốc từ thời phong trào
Cần vương cho đến ngày nay, nghĩa là họ phỉ nhỗ vào đất nước và dân tộc Việt Nam
từ thời lập quóc cho đến ngày nay.
Tôi lấy làm lạ là với những người Ki tô
giáo thất học thì không nói làm chi, nhưng những người được cho là trí thức
trong cộng đồng Ki tô giáo Việt Nam ở cả trong và ngoài nước mà không thấy nhục
về điều này. Nói cho công bình, vẫn có một số người trí thức ki tô thấy Đức
Thánh Cha đã làm nhục dân tọc Việt Nam cho nên đã lên tiếng chống việc phong
thánh này, trong đó có 4 vị Linh mục Trần Bá Cường, Vương Đình Bích, Phan Khắc
Từ và Huỳng Công Minh. Nhưng những người cấp tiến chủ trương dù là Ki tô giáo
hay gì đi nữa thì trước hết phải là người Việt Nam, phải phục vụ cho quyền lợi
của nước Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, chứ không thể làm tay sai cho ngoại
bang và phục vụ cho Vatican.., thì lại bị bọn không biết nhục , đặc biệt bọn
đang ở nước ngoài xỉ vả. Chẳng hạn, tình cờ gặp tờ báo có tên Hồn Nước từ Mỹ lưu
lạc về Việt Nam, đọc thử thấy tác giả Q Hương, trong bài Giáo Hội Cần Loại Linh
Mục Nào, trang 103 số ra ngày 15 tháng 1 năm 2008, viết :” Nhóm bốn người này
dùng tờ báo có tên “Công Giáo và Dân Tộc” cổ súy cho chủ trương “ Sống Đạo Giữa
Lòng Dân Tộc” qua các bồi bút tay sai, phản đối cuộc phong thánh 117 vị tử đạo ở
Việt Nam dưới triều Nguyễn năm 1988, và câm lặng việc việc phong chân phước Hồng
Y F. X. Nguyễn Văn Thuận hiện nay”.
Không có gì khôi hài bằng những tên suốt
đời làm bồi bút cho ngoại bang, sống vất vưởng nơi xứ người mà buộc tội những
người đứng về phía dân tộc là bồi bút, những kẻ đã mê muội nghe theo bề trên để
phỉ nhổ vào đất nước Việt Nam, vào tất cả những anh hùng liệt sĩ trong 4 nghìn
năm dựng nước và giữ nước, mà lại viết báo tên là Hồn Nước. Phải chăng đây là
nước Chúa với “vinh quang của Jerusalem, nỗi vui mừng của Israel” như lời của
Giáo hoàng Phao Lồ II chứ đâu phải nước Việt Nam ?
Không nhữmg không thấy nhục mà họ còn lấy làm
vinh dự có được 117 thánh tử đạo thì quả là không còn lời nào để có thể diễn tả
hết nỗi nhục của cái gọi là trí thức của họ !. Họ đã và đang ra xúi dục, khích
động sự cuồng tín, mê muội của giáo dân trong cũng như ngoài nước, đặc biệt là
các cộng đồng giáo dân tại Mỹ, Úc,…với các tờ báo và đài phát thanh, truyền hình
địa phương do các thế lực của họ lập ra, để chuyên bóp méo sự thật, gây chia rẻ
khối đại dân tộc, để chống phá sự xây dựng đất nước của dân tộc Việt Nam. Họ
ngụy tạo ra các hiện tượng rồi rêu rao lên là các tượng Đức Mẹ ở Việt Nam khóc,
chảy máu tại Úc v.v…. để đánh lừa sự ngu dốt và ngây thơ của giáo dân để hướng
giáo dân tới chỗ chống đối nhà nước Việt Nam.
3. VỤ ĐÒI TÒA
KHÂM SỨ TẠI HÀ NỘI HIỆN NAY: NGƯỜI KI TÔ GIÁO VIỆT NAM ĐANG TÍCH LŨY TỘI TỔ
TÔNG
Mới đây nhất là vụ ông Giám muc
Ngô Quang Kiệt và nhiều người lãnh đạo giáo dây Việt Nam đã xúi giáo dân đốt nến
cầu nguyện đòi nhà nước Việt Nam cho lại cái Tòa khâm sứ mà thực dân Pháp toa
rập với Vatican cướp đất của Việt Nam để biến thành tài sản của đế quốc Vatican.
Họ đã quên rằng Công bình và bác ái ở đâu mà họ vẫn tự hào là những đức tính của
Ki tô giáo khi họ đứng trên mãnh đất mà vào năm 1884 cố đạo Puginier đã toa rập
với thực dân Pháp cướp phá chùa Bảo Thiên do các Vua nhà Lý xây các dây gần một
nghìn năm để xây Nhà Thờ Lớn Ha nội và Tòa khâm sứ, để cầu nguyện và đòi tòa
khâm sứ Hà nội. Họ có quyền chiếm đoạt tài sản của Việt Nam để làm của riêng cho
mình sao ? Những người Việt Nam khác không có quyền bảo vệ tài sãn của mình sao
? Tòa khâm sứ cũ ở Ha nội là chứng tích tội ác của sự cấu kết giữa thực dân Pháp
và đế quốc Vatican và cũng là chứng tích của tội bán nước của những người Ki tô
giao Việt Nam mà chính quyền Việt Nam đã xóa đi hơn nữa thế kỷ nay khi đánh bị
được thực dân Pháp. Vây đúng ra, những người Ki tô giao Việt Nam hôm nay phải
thấy được cái tội của cha ông họ đối với dân tộc và tổ quốc Việt Nam mà quên đi
cái quá khứ nhục nhã đó mới phải chứ, đằng này họ lại tự mang lai vết ô nhục cũ
lên đầu thì nghĩa là sao ? Chính họ đang tích lũy tội tổ tông đích thực đó!
Những câu hỏi này dành cho các trí thúc Ki
tô giáo Việt Nam trả lời. Họ luôn luôn khích động người Việt chống phá nhà
nước Việt Nam vì theo họ thì nhà nước Việt Nam đã làm cho họ mất hết mọi đặc
quyền, đặc lợi mà trước đây thực dân, đế quốc cấu kết với đế quốc Vatican, các
Hội thánh Tin Lành đã dành riêng cho họ. Họ cho rằng nhà nước Việt Nam đã dùng
chánh sách của Cộng sản để tiêu diệt họ. Họ quên một điều cơ bản là chính cái ý
thức hệ Ki tô giáo của họ đã cấu kết với thực dân và đế quốc đã biến nước Việt
Nam, dân tộc Việt Nam thành nô lệ, khiến cho người Việt Nam đã phải dùng mọi
cách chống quân xâm lược để dành lại độc lập cho tổ quốc từ ngày thực dân Pháp
và đế quốc Vatican đặt chân lên Việt Nam cho năm 1975. Và người Việt Nam đã vận
dụng sách lược của Cộng sản như là một tất yếu của lịch sử mới tống khứ được
thực dân và đế quốc ra khỏi đất nước, khiến cho Đức thánh cha của họ, lúc bấy
giờ là Giáo hoàng Pius XII đã cay cú , đề nghị Mỹ thả 6 quả bom nguyên tử xuống
Việt Nam mà cứu thực và đế quôc và đặc quyền, đặc lợi của dân Chúa. Nhưng chính
quyền Mỹ thời đó đã không làm theo yêu câu dã man, vô luân này của Giáo hoàng.
Những cái đó mới chính là Tội Tổ Tông đích
thực của ngườu Ki tô giáo Viêt Nam.
Chúng ta cũng nên nhìn sâu một chút vè vụ đột
nến câu nguyện nay. Chúng ta nên biết rằng những đông bào Ki tô giáo đang đốt
nến cầu nguyện đó là vô tội, họ không ý thức được việc họ đang làm có hại cho tổ
quốc thế nào đâu, chỉ đơn giản là bề trên của họ ra lệnh thì họ nghe thôi. Nhưng
có phải bề trên của họ bốc đồng mà ra lệnh không? Không phải đâu. Vậy họ dựa
trên cái gì mà làm. Xin thưa rằng đã chuẩn bị từ lâu rồi cho một cuộc chiến
tranh mà họ gọi là thánh chiến tiêu diệt nhà cầm Việt Nam, nay họ nghĩ rằng thời
cơ đã đến, đó là Việt Nam đã mở cửa để hội nhập vào thế giới, đã vào WTO, đã có
chỗ ngồi tương đối cần phải giữ thể diện trong Liên Hiệp Quốc không dám “chơi xã
láng” với họ,v.v…và cũng có thể họ phải làm trong thời gian này vì họ nghĩ rằng
chẳng bao lâu nữaTổng thống Bush, người Công giáo La mã sẽ rời khỏi nhà trắng,
và Đảng Dân Chủ Mỹ lên nắm quyền thì có thể không mặn mà gì với các chiêu bài
của họ nữa. Cho nên họ thử nghiệm bằng cái màn “đốt nến cầu nguyên” để xem “gân
cốt” của nhà nước Việt Nam, của lực lương vũ trang Việt Nam, và cái dũng khí của
dân Việt Nam hiện nay như thế nào!
Kịch bản của họ có thể như sau :
Màn một :
Đốt nến cầu nguyên đòi dành
Tòa khâm sứ cũ tại Hà Nội với các mục đích sau đây:
a. Thử “nắn gân cốt”
của Việt như nói trên để thăm dò cho các màn kế tiếp.
b. Gây tình trạng
thiếu ổn định chính trị, phá rối trật tự ngay trong thủ đô Hà Nội mà Việt Nam
chuẩn bị tổ chức MỘT NGHÌN NĂM THĂNG LONG. Để làm mất mặt Việt Nam trước cộng
đồng quốc tế.
c. Để các nhà đầu tư
nước ngoài sợ mà không dám đầu tư vào Việt Nam theo chiến dịch cố ý làm nghèo
đất nước, cố ý gây khốn khổ cho dân Việt Nam mà họ đã và đang tuyên tuyền trong
các cộng đồng người Việt ở hải ngoại như là KHÔNG GỞI TIỀN VỀ GIÚP BÀ CON THÂN
NHÂN Ở VIỆT NAM, KHÔNG ĐẦU TƯ VÀO VIỆT NAM, KHÔNG DÙNG SẢN PHẨM DO NHÂN DÂN
VIỆT NAM SẢN XUẤT, KHÔNG ĐI VỀ VIÊT NAM ĐÓN TẾT VIỆT NAM, KHÔNG ĐI DU LICH TỚI
VIỆT NAM,…. Nhưng riêng họ thì tìm mọi cách về Việt Nam, đem tiền bạc về Việt
Nam để thực hiện các ý đồ thánh chiến của họ. Và không biết họ có quả thực
“không dùng sản phẩm do nhân dân Việt Nam làm ra hay không!”, tôi không nghĩ như
thế, vì họ thật ra không đủ tiền xài những sản phẩm cao cấp sãn xuất tại Mỹ và
từ chối các sản phẩm từ Việt Nam, Trung quốc,v.v…
d. Biểu dương lực
lượng Ki tô giáo là hùng manh tại ngay thủ đô Việt Nam, cố ý gây rối khiến cho
việc Liên Hiệp Quốc tổ chức Lễ Phật Đãn sắp đến tại Hà Nội gặp khó khăn, không
được như ý. Đây cũng chính là ý đồ của những nhóm chính trị đội lốt Phạt Giáo
Việt Nam ở hải ngoại để vừa phá Việt Nam vừa phá Phật giáo Việt Nam.
Màn hai:
Nếu màn một mà họ thành công, nghĩa là
nhà nước Việt Nam nhương bộ họ, cho họ cái Tòa khâm sứ cũ, cái chứng tích ô nhục
cả họ đối với đất nước và dân tộc Việt Nam, thì ho sẽ thừa thắng xông lên :
· Thắp nến cầu
nguyện khắp các nơi mà họ muốn chiếm đoạt.
· Các nhóm phản
động lợi dụng danh nghĩa các tôn giáo khác sẽ a dua theo biểu tình dành trụ sở
của họ.
· Trong tình hình
lộn xộn đó thì các nhóm, các đảng phái phản động nằm mai phục ở nươc ngoài sẽ
theo về quấy phá, mở các đợt tấn công để mong lật đổ nhà nước Vệt Nam.
Đó là sơ lược về kịch bản mà họ
mong muốn, nhưng thực hiện được hay không là chuyện khác, chuyện của nhà nước
Việt Nam. Chắc chắc rằng nhà nước Việt Nam biết rất rõ những âm mưu của kịch bản
trên ngay từ trong trứng nước. Với một đoàn quân đã chiến thắng trong hai cuộc
chiến 1945-1954 chống liên minh thực dân Pháp, đế quôc và đế quốc Vatican, và
1960-1975 chống liên minh đế quốc Mỹ và đế quốc Vatican, mà họ tự hào là “ Khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” thì có lẽ nào nhà nước Việt
Nam dễ dàng thua cuộc sao? Không phải đâu, các ngài như Ngô Quang Kiệt, cũng như
các nhóm đang ra sức hò la ủng hộ trên các báo , đài, các trang web ở nước
ngoài, chớ có tưởng lầm là Việt Nam đã “hết gân” rồi, “đã bị trói rồi” do các
ràng buộc quốc tế, các vụ hối lộ,…! Không một người yêu nước nào muốn cho dân
chúng khổ cực, muốn cảnh tang thương, người Việt Nam đã mất quá nhiều xương máu
rồi, không nên để phí phạm nữa, nhất là của những người dân vô tôi, chỉ bị cái
vô minh của bề trên và các tay hoạt đầu đang ngối an toàn ở nước ngoài xúi dại,
làm liều. Chắc có lẽ vì vậy cho nên nhà nước Việt Nam, cũng như lực lượng Vũ
trang đang nhẫn chịu, để các ngài bề trên này tự thấy cái sai mà tự giải tán cái
màn quấy phá này, đông thời nhà nước Việt Nam cũng tỏ cho thế giới biết rằng,
chúng tôi để cho họ thái độ cái đã, chúng tôi chưa mắc mưu xử lý vội vàng để các
thế lực thù địch với Việt Nam lu loa lên rằng Việt Nam đán áp tự do tín ngưỡng.
Nhưng nếu họ không tỉnh ra,
họ tưởng rằng nhà nước Việt Nam và lực lương bảo vệ đất nước đã “yêu ộp” rồi, họ
sẽ thắng thế mà làm liều, gây tình trạng lâm nguy cho an ninh quốc gia, làm mất
danh dự của tổ quốc, sĩ nhục bao anh hùng dân tộc chông ngoại xâm, bao máu xương
của dân tộc đã đổ ra để đánh đuổi thực dân đế quốc từ thời Cần vương cho đến
nay, làm mất ý nghĩa những chiến thắng lẫy lừng của trận Điện Biên Phủ, của
chiến dịch xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,…; họ bôi nhọ lên danh dự tố quốc Việt
Nam bằng cách đem thờ 117 tên Việt gian bán nước là thánh của họ giũa thủ đô Hà
Nội, thì không một người yêu nước nào, không một chiến sĩ nào chấp nhận. Khi đó
thì các người bề trên xúi giáo dân biẻu tình phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về
tội đối với Tổ quốc, và không thể oán trách đội quân “Khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nếu điều bất đắc dĩ đó mà xảy ra thì các “bề
trên” như ngài Ngô Quang Phiệt sẽ biết là tiền đồ do các cố đạo và thực dân xây
dựng trên đất nước Việt Nam sẽ đi về đâu.
Vì vậy các ngài bề trên nên suy
nghĩ lại về những tham vong ngông cuồng phản dân hại nước trước khi quá muộn.
IX. NHẬN XÉT KẾT THÚC.
Xét cho cùng, về phương diện nhân quả trong
lịch sử cận và hiện đai Việt Nam thì chính ý thức hệ Ki Tô giáo của họ đã giúp
biến Việt Nam thành nô lệ cho ngoại bang và điều đó đã đưa ý thức hệ Công sản
vào Việt Nam để dành lại độc lập cho tổ quốc, mà nay họ lại la làng rằng người
Việt Nam đã dùng sách lược Cộng sản tiêu diệt họ, và xúi mở Thánh chiến để đánh
bại Công sản Việt Nam.
Người Việt Nam đã dùng sách lược của Cộng
sản để chiến thắng hai trận chiến tranh 1945-1954 với liên minh Pháp-Ki tô giáo
và 1960-1975 với liên minh Mỹ-Ki tô giáo để có được một nước Việt Nam thống nhất
như ngày nay. Thì với bản lĩnh ấy, chính họ mới biết cần phải thay đổi họ như
thế nào cho phù hợp với sự phát triển trong nền độc lập của nước Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, chứ những thế lực tay sai của ngoại bang đã bị họ đánh bại
chạy ra sống ở nước ngoài chỉ có thể đánh giặc mồm, lừa bịp những kẻ u mê, để
kiếm sống qua ngày, chứ đừng hòng mở Thanh chiến đánh tan nhà đương quyền Việt
Nam.
Nói tóm lai, người Ki tô giáo Việt Nam không
có cái gọi là “Tôi tổ tông” như giáo điều Ki tô giáo đã dạy. Họ có tội tổ tông
đích thực như đã phân tích ở trên. Nhưng nếu họ không tỉnh ngộ, mà cứ mù quáng
tuân phục răm rắp lệnh của bề trên mà phỉ nhổ vào đất nước Việt Nam, truyền
thống và văn hóa trong bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam,
để phục vụ cho Vatican, cho các Hội thánh và cho thực dân đế quốc, như họ đang
biểu diễn thắp nến cầu nguyện những ngày qua thì họ không những họ đã có Tôi tổ
tông đích thực như đã nói trên mà chính họ đang tích lũy tội tổ tông đích thực
đó.
Vậy hỡi những đồng bào Việt Nam theo Ki tô
giáo, hãy sáng suốt nhận ra con đường chân chính để biết “Sống trong Lòng Dân
Tộc”.
Mục Đồng.
Tài liệu tham khảo:
1. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ,
https://sachhiem.net, Suy Nghĩ Về Thiên Chúa
2.
https://www.secondexodus.com/html/catholicdefinitions/originalsin.htm.
Original Sin
God had originally given Adam
and Eve the preternatural gifts of immortality, freedom from suffering, superior
knowledge, and inner harmony with Himself. The sabbath recalls Eden. Is 58:14
“You shall take delight in the Lord.” Ex 20:10 “You shall not do any work.” Ex
35:3 “You shall kindle no fire.” Our first parents in Eden lived that life every
day. God had instructed Adam, Gn 2:16 “You may freely eat of every tree of the
garden; but of the tree of the knowledge of good and evil you shall not eat, for
in the day that you eat of it you shall die.”
But Satan tempted Eve to
reject God as her shepherd. Gn 3:5 “You will not die. For God knows that when
you eat of it your eyes will be opened, and you will be like God,ou will be like
God, knowing good and evil.” Adam and Eve committed the deadly sin of pride by
rejecting God as their shepherd and seeking to decide as God does what is good
and what is evil. This was the original sin. As a result, God took back the
preternatural gifts and left Adam and Eve with a fallen nature: darkened
intellect, weakened will, and a lack of inner harmony with Himself.
Since Adam and Eve were the
progenitors of all mankind, we their descendants inherit their fallen nature. We
became Eph 2:3 “children of wrath.”
3. Xem 2. đã dẫn trên.
4. Trần Chung Ngọc, Tản Mạn
Về Ngày 25 Tháng 12,
https://sachhiem.net
5.
www.bringyou.to/apologetics/num54.htm, Original Sin Explained And Defended
( "By one man's
disobedience many [that is, all men] were made sinners":"sin came into the world
through one man and death through sin, and so death spread to all men because
all men sinned..." [Rom 5:12,19]) .
6. Austine Cline, Original Sin in the Bible,
https://atheism.about.com/od/thebible/a/originalsin.htm
“Despite these clear claims on the part of Paul, where are we to find
the basis for them in Genesis? In that text, God pronounces all sorts of
condemnations and curses upon Adam, Eve and the nefarious Serpent - working for
their food, pain in childbirth, being stepped on, etc. Here is the relevant
passage for reference:
The Lord God said to the
serpent, Because you have done this, cursed are you among all animals and among
all wild creatures; upon your belly you shall go, and dust you shall eat all the
days of your life. I will put enmity between you and the woman, and between your
offspring and hers; he will strike your head, and you will strike his heel.” To
the woman he said, I will greatly increase your pangs in childbearing; in pain
you shall bring forth children, yet your desire shall be for your husband, and
he shall rule over you.” And to the man he said, Because you have listened to
the voice of your wife, and have eaten of the tree about which I commanded you,
You shall not eat of it, cursed is the ground because of you; in toil you shall
eat of it all the days of your life; thorns and thistles it shall bring forth
for you; and you shall eat the plants of the field. By the sweat of your face
you shall eat bread until you return to the ground, for out of it you were
taken; you are dust, and to dust you shall return.”
(Genesis 3:14-19)
7. Roger Osborne,
Civilization : A New History of The Western World, Pegasus Books, New York,
2006,p.115 :” One of the most ardent of the oersecutors was a man named Saul,
who witnessed the martyrdom of Stephen, the first disciple to be stoned to death
for blasphemy, and organized the investigation of those accused of Christian
sympathies”.
8.
https://en.wikipedia.org/wiki/Paul_the.Apostle, Paul the Apostle, ….” Paul
himself is very disinclined to talk about the precise character of his
conversion (Galatians 1:11–24) though he uses it as authority for his
independence from the apostles. In Acts there are three accounts of his
conversion experience:
* The first is a
description of the event itself (Acts 9:1–20) in which he is described as
falling to the ground, as a result of a flash of light from the sky, hearing the
words "Saul, Saul why are you persecuting me?"
* The second is Paul's
witness to the event before the crowd in Jerusalem (Acts 22:1–22).
* The third is his
testimony before King Agrippa II (Acts 26:1–24)”.
9. . Roger Osborne,
Civilization : A New History of The Western World, Pegasus Books, New York,
2006,p.117 :”Paul,…,never knew Jesus,…But Paul believed, like many who came
after him, thsat he was doing God’ s work, and that God was guiding his thoughts
and deeds. Because of this he felt free to promote his own ideas about the
Christian church and its faith, even when these were not directly dderived from
the teachings of Christ.”
10. Roger Osborne,
Civilization : A New History of The Western World, Pegasus Books, New York,
2006, pp.117-118.
11. . Roger Osborne,
Civilization : A New History of The Western World, Pegasus Books, New York,
2006,pp.115-116.
12. Roger Osborne,
Civilization : A New History of The Western World, Pegasus Books, New York,
2006,p.124 :” His friend and biographer Eusebius described how he saw a vision
of across of light in the heaven bearing the inscription, BY THIS THOU SHALL
CONQUER, and immediately swore to worship no other God. But Constantine’s was a
political as well as a spiritual decision. He understood that the Christian
church, with its network of bishops and dedicated adherents, could be a powerful
ally to the emperor”
13. . Roger Osborne,
Civilization : A New History of The Western World, Pegasus Books, New York,
2006,p.124 :” Constantine used the Christian church to help him gain and use
political power-the Church supported him against hus rival Licinius, and he used
bishops and the Christuan community as an information network, reporting to him
on political events and undercurrents in all the towns of the empire”.
14. . Roger Osborne,
Civilization : A New History of The Western World, Pegasus Books, New York,
2006,p.124:” In return Constantine tried,as Paul had done before,tounite the
Christian faith in a single institution. He made ordinary people symtatheyic to
Christiany by making the Christian Sabbath into holiday and integrasting pagan
festivals into a Christian calendar. Crucifixion, gladiatorial contests and
animal sacrifices were all banned throughout the empire”.
15. Roger Osborne,
Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New York, 2006,
p. 126 :” Was Christ wholly divine, or part divine and part human, in which case
were these separate elements brought together in his person, or did they were
these always co-exist? And was it possible for Mary,as a human, to give birth to
a divine being, and if it was, then was Mary somehow something more than human?
These debating points became fatally tied up with the politics of the Church, as
each group sought to be the single permissible orthodoxy. In the end bishops and
their flocks in many of the eastern churches, where Christianity was still
concentrated, found it preferable to break away rather than give up their own
vision of the faith”
16. Roger Osborne,
Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New York, 2006,
p. 126. :”Councils held at Ephesus in 431 and Chalcedon in 451 were taken as
opportunities for the bishops to lay down the law to each other, rather than
search for common ground “.
17.
https://www.theopedia.com/Augustine_of_Hippo : “he developed a relationship
with a young woman who would be his concubine for over a decade and produce a
son….
…….. Augustine's mother
followed him to Milan and he allowed her to arrange a society marriage, for
which he abandoned his concubine (however he had to wait two years until his
fiance’e came of age; he promptly took up in the meantime with another woman).
18. Roger Osborne,
Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New York,
2006,p. 127. :” Augustine lived a dissolute life in Carthage, eventually taking
a servant girl as his permanent mistress “
19.,20., 21. Roger
Osborne, Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New
York, 2006, pp. 128-129 :” God must be an actual material presence…..God
utterly beyond the comprehension of humanity….I realized I was far away from You
“
22.,23.,24. Roger
Osborne, Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New
York, 2006, pp. 129-130. :” Where does evil come from? If God was both good and
all-powerful, then how did evil cone into the world?.... Augustine felt repelled
by their ‘enlightened fatalism’. He believed that evil must be confronted, not
simply avoided ….. By abanding Manicheism, Augustine was again faced with the
peculiarity of the Old Testament. How could the folk history of the Jewish
people, with its vengeful Hebrew God, be assimilated with a Platonic disembodied
ideal divinity, and a forgiving Christ? “
25., 26. Roger Osborne,
Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New York,
2006,p.130. “Augustine’s answer was that a fierce imposition of strict laws had
been necessary in order to keep the Jewish people on the right path; but humans
were just as wicked and wayward as they had ever been and still needed strict
laws to control them. ‘Take away the barriers created by the laws! Men’s brazen
capacity to do harm, their urge to self-indulgence would rage to the full’ ….
Augustine‘s answer lay in a doctrine that had become common currency among
people of different faiths in the late Roman empire – Original Sin”
27. Roger Osborne,
Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New York, 2006,
p.132. “ For the answer, Augustine turned to the Platonists’ belief in a distant
God, for whom humanity was a neat-to-irrelevant part of His creation. The result
was shuddering in its pessimism: the role og the true Christian was to fear God,
to suffer and to await His judgement “ .
28. 29. 30. Lewis Loflin,
Original Sin, an Overview,
https://www.sullivan-country.com/z/original_sin2.htm “ Saint Augustine
(354-430) was the first theologian to teach that man is born into this world in
a state of sin….. he taught that the taint of Adam's original sin was
inherited by all people at birth, and that nothing a person does in their life
can get rid of this taint….. this state of sin exists in all people from the
moment of their conception. According to this doctrine, all people are born
sinners and die sinners; all people are 'lost' eternally, and are in need of
Divine salvation. The only way people can be justified in God's eyes and
reconciled with God is by humbly asking for forgiveness, believing that His son
Jesus Christ, through his death and crucifixion, took on himself the due
punishment for our sins and trespasses (atonement), and depending upon God's
grace to perfect their faith in God by increasing their love for God, which
fulfills obedience. The ultimate punishment for the original sin was expulsion
from the presence of God and subjection to physical and spiritual death; the
ultimate goal and blessing of reconciliation is the restoration of the original
relationship man had with God; this includes eternal life”.
31., 32., 33., 34., 35.,
36., 37. . Roger Osborne, Civilization : Anew History of The Western World,
Pegasus Boks, New York, 2006,pp. 132-133. ). :” Everything that happened came
about because God willed it….. “it was He who dictated their every thought and
action…..their every action predetermined, their free will an
illusion…..Christians should live good lives for their own sake, because by
freeing themselves from the enslavement of evil desires, they could appreciate
the vision and love of God. …. This, though, would have no effect on God’s final
judgement because, and here was the most pessimistic message of all, their fate
had already been decided….. denying the possibility of human improvement or
salvation through good deeds…. While they may be sinners beyond salvation, they
could be agents of God whose achievements would add to His glory “
38. Roger Osborne,
Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New York, 2006,
p. 15. :”There are individual stories of goodness and salvation in our past but
these are only emphasize the moral bleakness of the world in which they are set.
Indeed, every heroic act engenders the suspicion of ulterior drk motives-a
suspicion that is then confirmed by ardent reseach………… Even the saint-like
Albert Schweitzer ws culpabke for his dismissal od modern medicines, while
Mother Teresa is accised of doing more harm than good to the poor and sick of
Calcutta “
39. Augustine of Hippo,
https://theopedia.com/Augustine_of_Hippo. ) (Latin doctor, teacher, from
Latin docere, to teach) is a title given by a variety of Christian churches to
individuals whom they recognize as having been of particular importance,
particularly regarding their additions to theological or doctrinal matters).
Ambrose, Augustine, Jerome, and Pope Gregory I were the original Doctors of the
Church and were named in 1298
40. Augustine of Hippo,
https://theopedia.com/Augustine_of_Hippo. “...…. Roman Catholics consider him
the patron saint of brewers, printers, theologians, sore eyes, and a number of
cities and dioceses.”.
41. . Roger Osborne,
Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New York, 2006,
p.131. “His view was that human nature was capable of improvement and even
perfection through adherence to the Christian faith, and to strive for
perfection was obligatory for the true Christion…..When Augustine’s Cofessions
was circulated, after 412, Pelagius declared his opposition to the idea of
Original Sin. He could not accept that human improvement was nullified by
something from the distant past and that humans were condemned by Adam’s first
act of sin to be sinners for evermore “
42. . Roger Osborne,
Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New York, 2006,
p.131 “ You ask me why I would not consent to the idea that there is a sin that
is part of human nature? I answer: it is improbable, it is untrue; it is unjust
and impious; it makes it seem as if the Devil were the maker of men. It violates
and destroys the freedom of the will…by saying that men are so incapable of
virtue, that in the very wombs of their mothers they are filled with bygone
sins”
43. Peter Brown, Augustine
of Hippo: A Biography, Faber, London, 1967, p. 387 “To rational Christian like
Pelagius and Julian the idea that the sin of Adam and Eva had indelibly staimed
all humans was both nonsensical and dangerous “
44. Roger Osborne,
Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus Books, New York, 2006,
p.131. “Augustine believed that God alone could decide who would be saved and
He, the remote, omnipotent God, would not be affected by the self-judging
morality of any particular group or individual. It was heresy to suggest
otherwise”.
45.,46. https://en.wikipedia.org/wiki/Virgin_Birth_of_Jesus
“The other two gospels, which are the only ones to give accounts of the infancy
of Jesus (the first two chapters in each) explicitly state that Jesus was
conceived without human father.)”……” The Gospels of Matthew and Luke say that
Mary, the mother of Jesus, was a virgin and that Jesus was divinely conceived.
…… The gospels, later tradition and current doctrine, present Jesus’s birth as
a miracle, involving no natural father, no sexual intercourse nor male seed in
any form. Rather Matthew and Luke attribute conception to the Holy Spirit “
47.
http:/en.wikipedia.org/wiki/Immaculate_Conception. “ Roman Catholic Church
stated that she was conceived “without the stain of Original sin” :in her
mother’s womb, the dogma thus says that, from the first moment of her existence,
she was preserved by God from the lack of sanctifying grace that afflicts
mankind, and that she was instead filled with divine grace “
48.
http:/en.wikipedia.org/wiki/Immaculate_Conception. “The
feast of
the Immaculate Conception, celebrated on
December 8, was established
as a universal feast in 1476 by Pope
Sixtus IV. He did not define
the doctrine as a dogma, thus leaving Roman Catholics freedom to believe in
it or not without being accused of heresy; this freedom was reiterated by
the
Council of Trent. The
existence of the feast was a strong indication of the Church's belief in the
Immaculate Conception, even before its 19th century definition as a dogma.”
49.
http:/en.wikipedia.org/wiki/Blessed _Virgin_Mary “ The Immaculate
Conception was solemnly
defined as a dogma
by
Pope Pius IX in his
constitution
Ineffabilis Deus,
on December 8,
1854………
Pope Pius IX defined
ex cathedra the dogma
of the Immaculate Conception on
8 December
1854. The Pope stressed that
Mary's sinlessness was not due to her own merits, but truly, by the merits
of her son, Jesus.
Dogmatic definition: "We
declare, pronounce and define that the doctrine which holds that the Blessed
Virgin Mary, at the first instant of her conception, by a singular privilege
and grace of the Omnipotent God, in virtue of the merits of Jesus Christ,
the Saviour of mankind, was preserved immaculate from all stain of original
sin, has been revealed by God, and therefore should firmly and constantly be
believed by all the faithful."
50.
http:/en.wikipedia.org/wiki/Blessed _Virgin_Mary “. From the beginning of
the Church, Catholic theology has maintained that Christ is the sole
Mediator between God and Man.[1]
Yet as theologian Ludwig Ott observes, "there is nothing to prevent others
in a certain way (secundum quid) from being called mediators between
God and man, insofar as they, by preparing or serving, cooperate in
uniting men to God".
. 51.
http:/en.wikipedia.org/wiki/Blessed _Virgin_Mary “ In Lourdes a 14-year-old
girl, Bernadette Soubrious, claimed a beautiful lady appeared to her. The
lady identified herself as “the Immaculate Conception” and the faithful
believe her to be the Blessed Virgin Mary” 52. http:/en.wikipedia.org/wiki/Blessed _Virgin_Mary “ The title,
Mother of the Church, was proclaimed by
Pope Paul VI at the
Second Vatican
Council in an address ending the third session of the Council on November
21, 1964. The title was further affirmed at a general audience by
Pope John Paul II on
September 17, 1997”
53.
http:/en.wikipedia.org/wiki/Blessed _Virgin_Mary “ The term carries not
merely belief in the
virginity of Mary but of her
continuing role within the church and in the life of all Christians. In the
Dogmatic Constitution of the
Church (21 November
1964), passed during the
Second Vatican
Council, Mary was also given the title Advocate, Auxiliatrix,
Adjutrix, and Mediatrix. Mary is often referred to colloquially as Our Lady.”
54. Charlie
Nguyễn, Màn Kịch Lộ Đức trong Tuyển Tập Độc Thần Giáo,
https://sachhiem.net
55. A.T.
Overstreet, The Gospel Truth : Are Men Born Sinners? 1995 (https://www.gospeltruth.net/menbornsinniers/mbsindex.htm
56. . A.T.
Overstreet, The Gospel Truth : Are Men Born Sinners? 1995 (https://www.gospeltruth.net/menbornsinniers/mbsindex.htm
. Introduction:....” I must confess that at one time I also preached that
men are born sinners. At that time I had only been saved a short while and
had little knowledge of the Word of God. I testified and preached at street
meetings, in jail services, and in missions and taught that men are sinners
and lost because they were "conceived and born in sin." Why? Because that is
what I had heard other preachers preach. I was ignorant at that time
concerning the very doctrine I was preaching”
57. A.T.
Overstreet, The Gospel Truth : Are Men Born Sinners? 1995 (https://www.gospeltruth.net/menbornsinniers/mbsindex.htm
1. That the doctrine of original sin is a historical doctrine. It became a
doctrine of the Catholic Church in the 5th century A.D.
2. That it has evolved as a doctrine and that it had its roots in a heathen
philosophy.
3. That it is really only a theory, and further, that there is not one, but
several contradicting theories of original sin.
4. That there is grave disagreement among the theologians who support the
different theories of original sin, and that they are all able to prove each
other's theories to be false.
5. That, although the doctrine of original sin was foisted on the church by
Augustine, much of the credit for the acceptance of the doctrine must go to the
changing winds of church politics and power. Not only the doctrine of original
sin, but several other doctrines of the church see-sawed back and forth in their
acceptance or rejection according to the caprices of politics, power, and
influence of the state and church.
6. Most Christians are ignorant of the fact that Pelagius and Celestus were
inadvertently a great help to Augustine in foisting his doctrine of original sin
on the church. In fact, without their role, it may never have taken hold in the
church. Pelagius and Celestus withstood Augustine's views on original sin,
natural inability, and a necessitated will. But in rejecting original sin, they
had to teach that infants are without sin, which meant that there was no need of
infant baptism. Churchmen at that time were strongly prejudiced for infant
baptism, so the implication involved in a denial of original sin (that there was
no need for infant baptism) shocked them, raising opposition to the teachings of
Pelagius and Celestus and making Augustine's doctrine of original sin, natural
inability, a necessitated will, and irresistible grace much more palatable.
Although the position of Celestus on the lack of a need for infant baptism was
Scriptural; nevertheless, the churchmen's strong prejudice for infant baptism
caused the controversy to erupt. And this point in which Celestus and Pelagius
were right drew much more attention in the controversy than several other points
in which Celestus and Pelagius decidedly took unscriptural positions. Therefore,
the Augustinian doctrine of original sin was not made a dogma of the Catholic
Church because of its truth or merits, but because Pelagianism rejected infant
baptism and was in gross error in its denial of the need of a special divine
grace if men are to be saved and delivered from sin. Pelagius and Celestus held
such ridiculously unbiblical views of sin and of man's ability to obey God
without grace that it was actually easy for Augustine to show that their views
were false. Thus the rejection by Celestus and Pelagius of infant baptism, and
their rejection of the need for a special divine grace if men are to be saved
and delivered from sin captured all the attention of the churchmen's minds and
diverted their attention from the absurdities of the original sin doctrine as
taught by Augustine.
7. Most Christians are ignorant of exactly what Augustine taught as the
doctrine of original sin, as well as what Cocceius, Placeus, and Arminius taught
as their doctrines of original sin. If they were told exactly what Augustine
taught, they would be shocked and would refuse to believe it.
8. Most Christians are ignorant of the fact that the doctrine of original sin
is a patently unbiblical doctrine. It directly contradicts scores of Biblical
texts and both the spirit and the letter of all the fundamental doctrines of the
Bible.
9. Most Christians are ignorant of the fact that it is both morally and
physically impossible to be born a sinner.
10. And finally, most Christians would have to admit that they are ignorant
of the shocking teachings and implications that grow out of the doctrine of
original sin. For instance, the teachings that God creates sinners, that infants
who die go to hell, and the logical implication that if all men are born
sinners, then Jesus himself was born a sinner.
58. A.T. Overstreet, The Gospel Truth : Are Men Born Sinners? 1995 (https://www.gospeltruth.net/menbornsinniers/mbsindex.htm
First, the spirit of the new Christian is receptive. He does not have a
spirit of debate about things he may not understand. New Christians naturally
tend to accept everything they are taught as gospel truth because they have a
pliable and teachable spirit. They may not understand this new doctrine, and
they may question its justice; nevertheless, their receptive and teachable
spirit prevents them from objecting and arguing about it. They are not prone to
question or reject authority. Their pliable and teachable spirit makes them
receptive even to a doctrine that contradicts their convictions of justice.
Second, the doctrine of original sin is made believable to the new Christian
because of proof-texts from the Bible. He does not know that these proof-texts
are taken out of context or misinterpreted. He probably has little knowledge of
the Bible and deep trust in those who teach him. Add to this his love of God and
his trust in God's Word, so that when proof-texts from the Bible are given in
support of the doctrine of original sin, the question is settled for him if the
Bible teaches it, then it has to be so.
Third, once confirmed in a belief it is almost impossible to change that
belief. Who has not experienced or observed how Christians, once taught to
believe a certain way, are strongly prejudiced for the view they have first been
taught? An illustration of this is the blind zeal with which Christians of
different denominations will argue over doctrinal differences. A Baptist is not
likely to give a fair hearing to Pentecostal doctrine. Neither is a Pentecostal
likely to give a fair hearing to Baptist doctrine. To change the beliefs of one
who has once been indoctrinated is almost impossible. He may be in error, but he
is prejudiced against every argument that he hears. This prejudice against any
teaching that contradicts what we have already been taught protects and
perpetuates any error that we may hold.
Fourth, the very fact that the doctrine of original sin is almost universally
believed and that it has been believed for so long tends strongly to perpetuate
it. Universal adherence to error throws up an almost impenetrable barrier
against light and truth when they are offered. Moreover, universal adherence to
error presents an almost overwhelming restraint to the person who would defect
and stand alone against the masses to speak for truth. There is a feeling of
safety and assurance in numbers. No one likes to stand alone. It is because of
this that, even in the church, universal adherence to error has had an
overwhelming tendency to perpetuate itself. Add to this the entrenched ignorance
and superstition that truth must expose before it can be received and embraced
as truth.
Fifth, a deficient ministry helps to perpetuate ignorance and error among
Christians. Ministers are certainly more blameworthy than laypeople for
ignorance, superstition, and prejudicial beliefs, because their very calling is
to preach and teach the truth to others. But often there is a conceit among
ministers that does not exist among laypeople. Because they are ministers, they
feel they do not need to be taught, and they resist more firmly than laypeople
any idea that they might be in error. A true Christian spirit, and a spirit that
would be in accord with their responsibility to preach the truth would, it
seems, cause them to hear the arguments and to investigate the question until
they might be sure of either the truth or falseness of the original sin dogma.
But, sadly, there is generally such a prejudiced opinion and such
self-satisfaction that ministers do not investigate, and they continue to
perpetuate a false doctrine in the church of Jesus Christ.
59. A.T. Overstreet, The Gospel Truth : Are Men Born Sinners? 1995 (https://www.gospeltruth.net/menbornsinniers/mbsindex.htm
:”It is regrettable that Martin Luther did not perceive all the errors that
existed in the Catholic Church. For he, along with Calvin, still believed in the
dogma of original sin, and he, as well as Calvin, still believed that the earth
stood still and that the sun went around the earth every 24 hours.
Martin Luther called Copernicus an 'upstart astrologer' and a 'fool who
wishes to reverse the entire science of astronomy.' Calvin thundered: 'Who will
venture to place the authority of Copernicus above that of the Holy Spirit?' Do
not Scriptures say that Joshua commanded the sun and not the earth to stand
still? That the sun runs from one end of the heavens to the other?).
So while Martin Luther and Calvin both rejected many of the errors of the
Catholic Church, they also both still clung to some of its errors. Why? Because
of their ignorance.”
60. A.T. Overstreet, The Gospel Truth : Are Men Born Sinners? 1995 (https://www.gospeltruth.net/menbornsinniers/mbsindex.htm
. The doctrine of original sin is false because:
1. It makes sin a misfortune and a calamity rather than a crime.
2. It makes the sinner deserve pity and compassion rather than blame for his
sins.
3. It excuses the sinner.
4. It makes God responsible for sin.
5. It dishonors God. It makes him arbitrary, cruel, and unjust.
6. It causes ministers to wink at and excuse sin.
7. It begets complacency and a low standard of religion among Christians.
8. It is a stumbling-block to the unsaved.
9. It makes Jesus a sinner or it must deny his humanity.
10. It contradicts the Bible.
11. It "adds to" and "takes from" the Bible. God warns against this in Deut.
4:2 and Rev. 22:18, 19.
12. It begets false doctrines and false interpretations of the Scriptures.
13. It is ridiculous, absurd, and unreasonable. It contradicts the necessary
and irresistible affirmations of every man's consciousness and reason, which is
something that no true doctrine of the Word of God could do.
61. Part Four : Inssurmountable Problems of a False Doctrine
. 8. The Great Problem of Original Sin
. 9. Original Sin Makes God Inconsistent and Imperfect
. 11. Can Christians Live Without Sin?
. 12. God Hates False Doctrine
62. Original Sin Explained and Defended : A reply to an Assemblies of God
Pastor,
https://www.bringyou.to/apologetics/num54.htm
From a FidoNet discussion (Nov 1996 to Jan 1997), an Assemblies of God
pastor (Ron Stringfellow) denied Original Sin in a series of posts. In summary,
he stated:
"Needless to say I do not hold to this thinking in spite of the obvious
dangers from my denominational brethren. Man, however, did not call me to
preach, and it is not man that I shall ultimately answer to for the Gospel I
preach. We hold this thinking to be a gnostic idea and a severe error, and will
endeavor to prove such both by the Scriptures and by reason....this ghastly
doctrine was foisted on a gullible and ignorant church, brought into being
through the teaching of Augustine of Hippo....making it church doctrine and thus
wedding a heathen concept to Christian doctrine....I for one cannot accuse God
of this doctrine and I hold this to be akin to blasphemy."
This is part of a reply I gave to him. I cover the definition of Original
Sin, the major biblical texts, the relevant Church Fathers, and a couple of his
objections to the doctrine. Below are the sections linked in this article:
Definition of Original Sin
Bible on Original Sin
Fathers on Original Sin
Objections to Original Sin
63 (https://www.allabiutcreation.org/original-sin.htm
: “Original Sin” and its relation to evolutionary theory was discussed by an
outspoken evolutionist, Richard Bozarth, in the American Atheist
magazine. The following excerpts come from “The Meaning of Evolution” (September
1979, p. 30):
"Christianity is - must be! -
totally committed to the special creation as described in Genesis, and
Christianity must fight with its full might against the theory of evolution. And
here is why.
In Romans 5:12, we read that “sin entered the world through one man, and through
sin - death, and thus death has spread through the whole human race because
everyone has sinned.”
The whole justification of Jesus' life and death is predicated on the existence
of Adam and the forbidden fruit he and Eve ate. Without the original sin, who
needs to be redeemed? Without Adam's fall into a life of constant sin terminated
by death, what purpose is there to Christianity? None.
Even a high school student knows enough about evolution to know that nowhere in
the evolutionary description of our origins does there appear an Adam or an Eve
or an Eden or a forbidden fruit. Evolution means a development from one form to
the next to meet the ever-changing challenges from an ever-changing nature.
There is no fall from a previous state of sublime perfection.
Without Adam, without the original sin, Jesus Christ is reduced to a man with a
mission on a wrong planet!"
64. Matthew Avery Sutton, Aimee
Semple McPherson and the Resurrection of Christian America,Harvard University
Press, Cambridge, Massachusetts, London, England, 2007, pp. 267-280 :”…The most
recent major work to reduce the evangelist to a caricature of hypocrisy and
sexuality is Mick Farren ‘s book Jim Morrison’s Adventures in the Afterlife
(1999)…….. His work presents McPherson as a complex, sex-crazed woman…….”
65.
AAUP»Publications & Research»Academe»2002 Issues»September-October 2002»Nota Bene»Accreditor
Rejects Evangelical College
“Patrick Henry College in
Virginia was denied preaccreditation (the step preceding full accreditation) in
April by the American Academy for Liberal Education (AALE), a national
organization approved by the U.S. Department of Education to accredit liberal
arts institutions and degree programs. Because the college requires faculty to
affirm a Statement of Biblical Worldview, it fails to meet an
accreditation standard stipulating that “[l]iberty of thought and freedom of
speech are supported and protected,” AALE’s rejection letter said. In addition,
Patrick Henry College’s requirement that biology professors teach that God
created the world in six twenty-four-hour days “appears to restrict curriculum
content and teaching to a degree that inhibits the acquisition of basic
knowledge.”
66. Charlie Nguyễn, Công
Giáo Trên Bờ Vực Thẳm : Kinh Sách Công Giáo Và Tác Hại Của Nó,
https://sachhiem,net
67.
Roger Osborne, Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus
Books, New York, 2006, p.265-266 ) “ Here St Augustine’s doctrine foud its
vindication – uncivilized humans were prey to the worst desires and basest
instints; they must be civilized or destroyed “.
68.
Roger Osborne, Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus
Books, New York, 2006,p.258
69. .
Roger Osborne, Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus
Books, New York, 2006, pp.258-260
70 .
Roger Osborne, Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus
Books, New York, 2006,pp. 260-263
71. .
Roger Osborne, Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus
Books, New York, 2006,p.266
72.
Roger Osborne, Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus
Books, New York, 2006,p.264 :” with perfect right the Spaniards rule over
these barbarians of the New World and the adjacent islands, who, in wisdom,
intelligence, vortue and thequalities of civilization are as inferior to
Spaniards as infants to adults and women to men. There is as much difference
between them as there is between cruel, wild peoples and the the most
merciful of peoples, between the most monstrously intemperate peoples and
those who are temperate and moderate in their pleasures, that is, to say,
between apes and men “
73. .
Roger Osborne, Civilization : Anew History of The Western World, Pegasus
Books, New York, 2006,p. 278 “ Every stroke brought away a strip of skin,
which clung to the lash, or fell quivering on the pavement while the blood
follwed after it… This was in a public and regularly organised prison; the
punishment was one recognized and authorized by the law. But you think the
poor wretch had committed a heinous offence….? Not at all. She was brought
by her master to be whipped by the common executioner, without trial, judge
or jury, just at his beck or nod, for some real or supposed offence, or to
gratify his own whim or malice. And he may brng her day after day, without
cause assigned, and inflict ay number of lashes he pleases… provided only he
pays the fee.”
74. Charlie
Nguyễn, Công Giáo Bên Bờ Vực Thẳm : Công Giáo Và Thánh Tử Đạo,
https://sachhiem.net
Các bài viết của Mục Đồng
Câu chuyện “vô luân” về cái chết “dại” (Mục Đồng) Không Thể Không Nói về “Không Thể Không Nói” (Mục Đồng) Nhà Đại Truyền Giáo Ki tô: Pat Robertson “Bị Chúa Trác” (Mục Đồng) Những Con Ếch Ngồi Đáy Giếng (Mục Đồng) Những Kẻ Gian (Mục Đồng) Pat Robertson “Bị Chúa Trác” (Mục Đồng) Phụ đạo các thầy (Mục Đồng) Sao Giáng Sinh - Chúa giáng sinh vào ngày 17/6 (Minh Long) -VietNamNet Tại Sao Cổ Xúy Cho Côn Đồ ? (Mục Đồng) Tội Tổ Tông Đích Thực của Người Ki Tô Giáo VN (Mục Đồng) Xin Đừng Ảo Tưởng! (Mục Đồng)
|