Sau khi đọc bài
“Trao đổi...” của Hoàng Cúc với tôi, tôi không
muốn nói là Hoàng Cúc không chỉ ưa “kết luận” khống về lịch
sử mà còn ưa kết luận về người khác là “lưu manh”, “thiếu
trí thức”...
Trong bài viết trước, tôi có viết về nhầm lẫn của Hoàng Cúc
như sau: “Điều nhầm lẫn của Hoàng Cúc chính là mượn vào
bức ảnh (nhầm lẫn) đó để “phủ định” những dư luận cho rằng
Phật giáo mới là sở hữu chủ thực sự của mảnh đất Tòa Khâm sứ
(vốn là Chùa Báo Thiên). Nên Hoàng Cúc viết: “Những bằng
chứng có vẻ như lịch sử” (có nghĩa là không phải lịch sử?),
phải chăng để nhằm phủ định những “cáo trạng lịch sử” mà
người Phật tử đã đưa ra?”.
Nhưng không hiểu sao ở bài trao đổi vừa rồi Hoàng Cúc chỉ
trích dẫn: “Điều nhầm lẫn của Hoàng Cúc chính là mượn
vào bức ảnh (nhầm lẫn) đó để “phủ định” những dư luận cho
rằng Phật giáo mới là sở hữu chủ thực sự của mảnh đất Tòa
Khâm sứ (vốn là Chùa Báo Thiên)”, mà bỏ qua phần tôi
nhấn mạnh ở sau, tức là Hoàng Cúc coi một số tranh luận của
người Phật tử chỉ là những chứng cớ “có vẻ như lịch sử”.
Sở dĩ tôi đưa phần trích dẫn theo André Masson (NQT dịch),
để chứng minh việc “san bằng ngôi chùa và tịch thu
miếng đất”, có nghĩa rằng có một ngôi Chùa Báo
Thiên hiện diện thực sự, chứ nó không phải là một khu đất
trống:
“San bằng cái chùa và tịch thu miếng đất, thật không có
gì dễ bằng trong thời gian chiếm đóng…, tuy nhiên, công bình
mà nói, tôi cảm thấy ít nhiều ái ngại trong việc phạm một sự
lạm quyền kiểu đó, nên thấy nên nhờ ông Tổng đốc Nguyễn Hữu
Độ. Ông rất tâm đầu ý hiệp với Giám mục
[Puginier, NQT, ct.] và muốn làm vừa
lòng ngài cũng như tôi vậy. Thoạt tiên, ông cho điều nghiên
xem có ai là hậu duệ của người sáng lập ra chùa, đã chết hai
thế kỷ trước, và lẽ dĩ nhiên, không tìm ra ai. Thứ đến ông
chỉ thị cho các công dân lãnh đạo trong phường, được chọn
lựa có vẻ như là do sự may rủi giữa các người Công giáo, đến
thẩm lượng mức kiên cố của ngôi chùa; họ không ngần ngại xác
quyết rằng, ngôi chùa đã mục nát có thể sập gây nguy hiểm
cho người qua lại. Bây giờ mọi việc đã đâu vào đấy, san bằng
ngôi chùa và tịch thu miếng đất…” (André Masson,
The Transformation of Hanoi, 1873-1888, Madison, WI:
Center for Southeast Asian Studies. University of
Wisconsin-Madison, 1983, 51, NQT dịch).
Đoạn trích tiếp theo mà tác giả Hoàng Cúc đưa thêm vào như
sau: “Cho phá hủy ngôi chùa, trưng thu mảnh đất vô chủ
vì lợi ích công quyền, theo tập tục An Nam, là những biện
pháp chính đáng, không thể gây nên một sự phản đối nào; đó
là điều ông Tổng đốc đã làm”.
Để xác minh về sự hiện diện của ngôi chùa (bằng xương bằng
thịt), tôi có thể chỉ cần trích dẫn câu: “San bằng cái
chùa và tịch thu miếng đất, thật không có gì dễ bằng trong
thời gian chiếm đóng…” ở ngay đoạn đầu mà không nhất
thiết phải dẫn thêm nữa. Đoạn này đã được trích dẫn đầy đủ
trên phattuvietnam.net: “Chùa Báo Thiên có bị thực dân
Pháp và tay sai phá đi xây Nhà thờ Lớn?”, và dĩ nhiên,
nó cũng phần nào khác với Hoàng Cúc về mặt chữ nghĩa.
Hoàng Cúc có đưa ra thêm những dẫn chứng của Lê Điều về tác
phẩm “Mẫu thượng ngàn”, nhưng chỉ xin đọc lại bài viết “Vụ phá Chùa Báo Thiên xây Nhà thờ Lớn trong tiểu thuyết
Mẫu thượng ngàn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh”
(phattuvietnam.net).
Có thể tác giả muốn thêm đoạn trích để “hợp thức hóa” việc
chiếm phá này. Nhưng xin thưa, nếu nó “hợp pháp” thì chẳng
ai như Công sứ Bonnal phải “e ngại” vì “sự lạm quyền” kiểu
đó. Và cách tốt nhất mà ông ta không nên dính vào mà nhờ ông
Nguyễn Hữu Độ (rất tâm đầu ý hợp với Giám mục Puginier) giúp
việc chiếm phá chùa. Ở phần cuối bài viết “Những bài học ứng
xử cần thiết”, sau khi dẫn một vài chứng cớ về việc xây nhà
thờ trên đất chùa và bị triều đình triệt phá trả về cho Phật
giáo, tôi có viết, nhẽ ra ông Nguyễn Hữu Độ phải báo cáo với
triều đình về việc sửa sang, tu bổ lại chùa, thì ông lại
cùng Giám mục Puginier chiếm phá chùa. Tôi còn nói vì Chùa
Báo Thiên ở quá xa kinh thành nên “nước xa không chữa được
lửa gần”.
Đây là một sự thật lịch sử và việc làm của Nguyễn Hữu Độ,
nói như Công sứ Bonnal là “lạm quyền”, cho nên nó không thể
là hợp pháp. Chúng ta nghĩ sao, nếu một vị chủ tịch tỉnh nào
đó, chiếm nhà của người này rồi ngang nhiên cấp sổ đỏ cho
người khác sử dụng bất chấp luật pháp, và người có sổ đỏ đến
ở và vỗ ngực tự xưng vì mình có mảnh giấy “hợp pháp”? Người
lấy nhà bị cướp đó có lương tâm để ung dung mà ở đó không?
Đó là thứ “công lý” mà các giám mục và tay sai thường sử
dụng hay sao? Còn cái gọi là vì “lợi ích công quyền”, đó là
thứ công quyền nào? Chẳng lẽ đó là thứ “công quyền” của quân
xâm lược?
Theo tác giả Hoàng Cúc “Phải hiểu những sự kiện này trong
bối cảnh Hà Nội vào nửa cuối thế kỷ XIX, với hai lần quân
Pháp tấn công thành Hà Nội vào năm 1873 và 1882”. Nếu đã
hiểu sự kiện lịch sử của thời điểm này thì xin hãy xâu chuỗi
và nhìn một cách toàn diện về các sự kiện, để tránh thiên
lệch. Việc Hoàng Cúc nói đến “Quân Cờ Đen” và “Văn thân” một
cách phiến diện để nói đến việc bách hại Công giáo có lẽ còn
ít hơn nhiều việc Công giáo bách hại người lương và đốt phá
chùa chiền.
Để nhận diện chân dung về một người có thế lực và hiếu chiến
nhất tại Bắc Kỳ, chúng ta không khó để tìm hiểu chính sách
xâm lược, thống trị, đồng hóa của vị Giám mục Puginier này
đã diễn ra như thế nào. Bài viết của Trần Điều “Từ việc
chiếm phá Chùa Báo Thiên xây Nhà thờ Lớn tìm hiểu bộ mặt
thật của Giám mục Puginier” (phattuvietnam.net) đã phần
nào chỉ ra điều đó. Từ đó chúng ta có thể hiểu thêm về vụ
chiếm phá Chùa Báo Thiên, đó có phải là một “hệ thống ý thức
chiếm phá chùa chiền” như tôi đã nói hay không.
Hoàng Cúc chứng minh việc Giám mục Puginier làm lễ ở ngôi
nhà nguyện bằng gỗ vào thời điểm 1-1-1873 (đoạn sau bài viết
lại ghi là ngày 1-1-1870) và chứng minh việc giáo dân sống ở
khu vực này để cho rằng “khu vực này đã do người Công giáo
quản lý”.
Ngôi nhà nguyện này (Hoàng Cúc có “chua” thêm một
tấm hình trong bài để “đánh tráo” với Tòa Giám mục hiện
thời) là “Tòa Giám mục Tây Đàng ngoài ở Kẻ Sở”, còn Tòa Giám
mục sau này là Tòa Giám mục nằm trên đất Chùa Báo Thiên.
“Năm
1873, Francis Garnier đánh chiếm Hà Nội lần thứ
nhất, giao toàn bộ ngôi chùa tháp này cho Giám mục Puginier
làm nơi ở và làm việc tạm thời khi giám mục về Hà Nội trực
tiếp làm thông ngôn và cố vấn cho Garnier. Lúc đó, giám mục
Puginier dựng mấy ngôi nhà gỗ trong vườn chùa để ở và làm
việc cho gần Garrnier đóng quân tại Trường Thi gần đó, còn
Tòa Giám mục (khi đó gọi là Tòa Giám mục Tây Đàng ngoài) thì
vẫn đóng ở
Kẻ Sở (nay là vùng Ngã tư Sở). Năm
1882,
Henry Riviere đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai. Năm
1883, theo yêu cầu của
Công sứ Bonnal, kinh lược
Bắc Kỳ là Tổng đốc
Nguyễn Hữu Độ đã giao khu chùa này cho Giám mục Puginier phá
đi để kiến tạo Nhà thờ Chính toà Hà Nội. Năm
1887, khi Pháp đã đặt vững nền cai trị ở Bắc Kỳ,
Giám mục Puginier mới cho xây dựng mới Nhà thờ Lớn và các
toà nhà khác của Nhà Chung bằng những vật liệu kiên cố rồi
dời Toà Giám mục Hà Nội về đây” (vi.wikipedia.org).
Hoàng Cúc viết: “Như vậy, tuy có một số khác biệt về mặt dữ
liệu giữa André Masson và Joseph Villebonnet, nhưng theo các
tài liệu trên đây, có thể xác định được rằng khu vực Toà
Giám mục Hà Nội hiện nay cùng với Toà Khâm sứ cũ đã được các
vị linh mục Bonfils và Landais mua trước năm 1876, lúc đó
quyền cai trị miền Bắc, cụ thể hơn là Hà Nội, vẫn còn nằm
trong tay quan lại nhà Nguyễn, dù ít nhiều đã có những sức
ép từ phía các quan chức người Pháp. Khu vực Chùa và Tháp
Báo Thiên mà vào năm 1883 Tổng đốc Nguyễn Hữu Độ trưng thu
và qua Bonnal trao cho Giám mục Puginier ít nhất cũng phải
nằm ở phía bắc toà nhà xây năm 1876 trong ảnh, theo tôi khu
vực đó có thể gồm hang đá Đức Mẹ, một phần sân chủng viện,
khu trường học (nay là Trường Trung học Cơ sở Hoàn Kiếm -
Tân Trào) được nhà nước “mượn”, khu vực nhà xứ và
Nhà thờ Lớn hiện nay”.
Tòa Khâm sứ có được mua hay không? Tại sao khi dẫn về hai
tác giả André Masson và Joseph Villebonnet, Hoàng Cúc không
“trích” luôn một đoạn về việc “mua bán” tòa Khâm sứ này để
người đọc tường tận, mà lại viết “có thể xác định được
rằng”. Ai “có thể” xác định vậy?
“Sau khi xâm chiếm Việt Nam, thiết lập chế độ cai trị,
thực dân Pháp tiến chiếm một số chùa chiền lấy
đất đai để xây dựng công sở và giao cho
giáo hội xây dựng nhà thờ và các cơ ngơi phục vụ
cho giáo hội. Năm 1873, được sự đồng ý của
chính quyền thuộc địa, giáo hội chiếm một khu đất
thuộc Báo Thiên Tự và cho xây dựng ở đây một nhà thờ bằng
gỗ. Đến năm Năm 1883 chùa Báo Thiên hoàn toàn được phá bỏ để
xây dựng Nhà thờ Lớn Hà Nội, thay thế cho ngôi nhà thờ bằng
gỗ. Tòa Khâm sứ Hà Nội là một cơ ngơi của Nhà thờ Lớn Hà Nội
(Nhà thờ Chính toà của Tổng Giáo phận Hà Nội), nằm cạnh Toà
Giám mục trong khuôn viên đất nhà thờ.
Năm 1950, khi Hà Nội đã là thủ đô của Việt Nam, Khâm sứ John
Dooley chuyển trụ sở ra Hà Nội, được
Tòa Tổng giám mục Hà Nội cho mượn cơ ngơi để làm
Toà Khâm sứ. Năm 1959, chính phủ của ông Hồ Chí Minh bắt đầu
áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt đối với Công giáo, ra lệnh
cho các
giáo sĩ ngoại quốc phải rời khỏi miền Bắc. Tòa
Khâm sứ của Vatican tại Hà Nội bị tịch thu, một bức tường
ngăn cách giữa
Tòa Giám mục Hà Nội và Toà Khâm sứ đã được chính
quyền dựng lên. Sau đó Tòa Khâm sứ đã được sử dụng vào nhiều
mục đích phục vụ công ích khác nhau, có thời kỳ dùng làm
nhà văn hóa thiếu nhi.” (vi.wikipedia.org)
Với từ “theo tôi…” của Hoàng Cúc ở lời cuối bài (nói phải có
chứng cớ mới là thái độ lương thiện lịch sử và trí thức, nếu
không sẽ trở thành ngụy tạo lịch sử), chỉ mong Hoàng Cúc đọc
thêm: “Hồ Gươm bây giờ bé hơn rất nhiều (khoảng bằng 1/3) so
với hồ Gươm khi xây Tháp và Chùa Báo Thiên, và cả so với
thời điểm trước khi xây nhà thờ Lớn. Riêng đoạn bờ hồ phía
tây thì ăn sâu vào, men từ ngã năm Hàng Đào xuôi theo Hàng
Trống, áp sát Chùa Bà Đá, kéo dài qua đường Tràng Thi. Bờ hồ
phía đông thì ra đến khu Ngô Quyền, Hàng Chuối...
Chùa Lý Triều Quốc Sư vốn là một ngôi đền nhỏ thờ
Quốc sư Minh Không trong khuôn viên Chùa Báo Thiên, dựng đời
nhà Lý. Chùa Bà Đá cũng thuộc khuôn viên Chùa Báo Thiên,
dựng đời Lê Thánh Tông khi phát hiện ra pho tượng đá cổ, khi
đó Tháp Báo Thiên thời Lý - Trần đã bị phá một phần sau 20
năm thuộc nhà Minh.” (“Thư trao đổi gửi ngài Nguyễn Văn Sang
– Giám mục Thái Bình”, phattuvietnam.net).
Như chúng tôi đã nói, một cuộc hội thảo nghiêm túc về Chùa
Báo Thiên nên được diễn ra càng sớm càng tốt. Cuối cùng,
chúng tôi xin dẫn lời của Trần Điều: “Cái gì đã là di sản
thì dù nó có nằm sâu dưới lòng đất, chúng ta cũng phải đưa
nó lên và bảo quản”.
Trương Công Khanh
Cùng tác giả: 1
2 3
Các bài viết cùng đề tài
|