Lời cuối
"Tinh
thần nhân loại có hai căn bệnh trầm kha: Niềm thôi thúc chuyển
tiếp mối thù đẫm máu qua các thế hệ và khuynh hướng muốn trói
chặt những nhãn hiệu phe nhóm vào con người thay vì nhìn nhau
như những cá thể riêng biệt. Tôn giáo của Abraham đã mạnh mẽ
khuyến khích cả hai căn bệnh này – và đã trộn cả hai vào với
nhau một cách dữ dội. Chỉ kẻ nào tự nguyện mù lòa mới có thể
không vướng mắc vào cái thế lực tôn giáo đầy chia rẽ trong hầu
hết, nếu không muốn nói là tất cả các thù hận bạo hành trong thế
giới ngày nay. Thật không mảy may nghi ngờ gì đó chính là nguy
cơ quan yếu của vùng Trung đông. Những ai trong chúng ta đã từng
nhiều năm ròng tử tế che dấu đi sự khinh miệt của mình về những
ảo tưởng nguy hiểm của tôn giáo cần phải đứng dậy để dóng lên
tiếng nói. Mọi việc hiện nay đã đổi khác. “Tất cả đều đã thay
đổi, thay đổi một cách rốt ráo”.
RICHARD DAWKINS
Một năm
đã trôi qua kể từ khi Tận cùng của Đức tin được
xuất bản lần đầu tiên ở Hoa kỳ. Trong sự phản hồi, tôi đã không
ngớt nhận được các thư từ người đọc và những người không
đọc, qua đó diễn đạt từ các ủng hộ mê say đến các loại lên án
gần như chết người. Nhiều ngàn người rõ ràng đã đọc, hàng triệu
người khác đã được nghe nói đến nội dung tác phẩm này thảo luận
trên các hệ thống truyền thông. Cũng trong các phản hồi ấy, rất
nhiều thư từ và điện thư đã gởi đến tôi từ các khoa học gia, vật
lý gia ở mọi tầng lớp chuyên môn của họ, từ các quân nhân chiến
đấu ở Iraq, từ các nhà tu Kitô giáo vốn đã mất (và cả những
người chưa mất ) đức tin của mình, từ những tín đồ Hồi giáo đồng
thuận với sự miệt thị tổng quát của tôi về tôn giáo của họ, và
từ những kẻ muốn tôi đến gặp họ tại một tu viện địa phương nào
đó để tôi có thể học hỏi tốt hơn về ý chí của thượng đế. Tôi
cũng đã được nghe từ hàng trăm đội ngũ những nhà tư tưởng độc
lập sống nơi các “tiểu bang đỏ” của Hoa Kỳ. Qua thư từ đánh giá
từ nhóm cuối cùng này thì trung tâm châu Mỹ đã nhanh chóng trở nên
hẹp hòi như những kẻ man rợ ở Afghanistan. Có lẽ là một sự quá
đáng khi hy vọng rằng các nỗ lực của những người hiểu biết sẽ
cỡi được ngọn triều dâng này.
Dựa theo
các thăm dò gần đây, 22 phần trăm người Mỹ đoan chắc rằng Jesus
sẽ trở lại thế gian này ở thời điểm nào đấy trong năm mươi năm
tới. 22 phần trăm khác tin rằng Jesus có thể sẽ hành động như
thế. Điều này tương tự như thể 44 phần trăm những người đi nhà
thờ mỗi tuần một lần hay nhiều hơn là những người tin rằng
Thượng đế đã hứa hẹn đất mảnh đất Israel cho người Do thái,
những người muốn ngăn chặn việc giảng dạy cho con trẻ về các sự
thực sinh học của tiến hóa. Những người tin tưởng các loại như
thế này đã tạo nên thành phần liên kết và tân tụy nhất của cử
tri đoàn Hoa Kỳ. Hậu quả là, các quan điểm và định kiến của họ
đã ảnh hưởng đến hầu hết các quyết định của các vấn đề hệ trọng
tầm quốc gia. Political liberals dường như đã rút ra bài học sai
lầm từ những diễn biến này và giờ đang kất từng trang kinh sách,
băn khoăn tự hỏi làm thế nào để có thể làm cho mình được thương
mến giữa vô vàn những người nam người nữ dọc đất nước đã bỏ
phiếu chỉ dựa phần lớn trên căn bản của các chủ thuyết tôn
giáo.
Hơn 50 phần trăm người Mỹ có cảm nhận “tiêu cực” hoặc “hết
sức tiêu cực” về những con người không tin vào Thiên chúa, 70
phần trăm cho rằng một ứng cử viên tổng thống “ngoan đạo” là một
điều quan trọng. Bởi vì thật là một điều cấm kỵ để phê phán các
niềm tin tôn giáo của người khác, các tranh luận chính trị về
các vấn đề chính sách công cộng (khảo cứu về tế bào nhân, đạo lý
của việc giúp ngưòi tự tử và sự chết không đau đớn, sự tục tĩu
và vấn đề tự do ngôn luận, hôn nhân đồng tính v.v…) thường đóng
khung trong những khuôn khổ thích hợp với một loại chính trị
thần quyền. Sự điên rồ giờ đang có ưu thế trong Hoa kỳ, trong
các trường học, pháp đình, và ở trong mỗi ban ngành của chính
quyền liên bang. Chỉ có 28 phần trăm người Mỹ tin vào thuyết
tiến hóa; 72 phần trăm tin có các thiên thần. Sự ngu dốt ở trong
mức độ này, tập trung cả ở trong đầu và trong cái bụng phệ của
một loại siêu quyền lực đang lặc lè, hiện đang là vấn nạn cho cả
toàn thế giới.
Sau khi
nhìn luận điểm chống lại đức tin của mình được bàn luận, xưng
tụng, bị công kích và bị dẫn dắt sai lạc trong các blog và các
bài điểm sách trên toàn thế giới, tôi xin được nhân cơ hội phát
hành ấn bản bìa mềm tác phẩm này để trả lời những lời phê bình
và những hiểu lầm phổ biến nhất. Những điều này không phải là
các loại tranh cãi vô bổ; mà chính là những điều mà những con
người có thực (và thỉnh thoảng có thể là những người điểm sách)
tin là những lời trả miếng bạo tàn nhất đến các tiền đề căn bản
của tôi :
1.
Đúng, tôn giáo
đôi khi có gây ra bạo hành, nhưng các tội ác lớn nhất thế kỷ 20
đều gây nên bởi những kẻ vô thần. Không có Thiên chúa – như đã
được minh chứng từ những chế độ của Hitler, Stalin, Mao và Kim
Jong Il – là những tình huống nguy hại hơn tất cả.
Đây là
một trong những phê bình phổ biến nhất mà tôi từng gặp phải. Và
đây cũng là một loại phê bình đáng chán nhất, như tôi đã thấy
trước và trả lời sớm sủa trong tác phẩm (tr. 79). Dù rằng một số
trong những phong trào chính trị hèn hạ nhất của lịch sử nhân
loại đã từng là những loại rõ ràng không có tính tôn giáo, chúng
cũng không có lý lẽ gì đặc biệt. Các tuyên bố công khai của
những chế độ này từng chỉ thuần túy là lời cầu kinh của ảo tưởng
- về chủng tộc, kinh tế, bản sắc dân tộc, tiến triển của lịch
sử, hoặc các nguy hiểm đạo đức của chủ thuyết duy lý trí. Lò
thiêu Auschwitz, quần đảo ngục tù và các cánh đồng chết không
phải là những thí dụ về những gì đã xảy ra với khi con người trở
nên quá khe khắt về các loại niềm tin không thể minh xác được;
ngược lại, những kinh hoàng này chứng minh cho sự nguy hiểm của
việc không tư duy đủ khắt khe về những ý thức hệ thế tục đặc
thù. Không cần phải nói, những tranh luận của tôi chống lại đức
tin tôn giáo không phải là loại tranh luận để những người mù ôm
vội lấy chủ nghĩa vô thần như một thứ giáo điều. Vấn nạn
mà tôi đặt ra trong tác phẩm này không là gì hơn chính vấn nạn
tự thân của giáo điều- của cái mà mọi tôn giáo từng có thừa mứa
bất công. Tôi biết không một xã hội nào trong lịch sử nhân loại
từng phải chịu đựng vì dân chúng của mình trở nên quá hiểu biết.
|
|
Ở Birkenau, Auschwitz, những người được chọn để cho thẳng vào lò hơi ngạt.
|
Đức Quốc Xã: Bãi tha ma vĩ đại của trại Bergen-Belsen ở miền Bắc nước Đức, |
Như tôi
đã từng tranh cãi dọc suốt tác phẩm, sự tin chắc không có chứng
cứ là sự mất nhân tính và chia rẽ tất yếu. Thực tại, tôn trọng
chứng cứ và tranh luận hợp lý là điều khiến cho sự hợp tác hòa
bình trở nên khả thi. Là con người, chúng ta sống trong lựa chọn
không ngừng giữa đối thoại và bạo lực; điều gì, ngoài tính tự
nguyện có tính căn bản để trở nên hợp lý, có thể bảo đảm rằng
chúng ta sẽ tiếp tục đàm thoại với nhau ?
2. Chúng ta cần đức tin để làm bất cứ điều gì. Thật là ngu
xuẩn khi tưởng rằng chúng ta có thể làm được gì mà
không cần đến đức tin.
Một điện
thư tôi từng nhận được về chủ đề này đã bắt đầu bằng câu "Tôi
thích văn phong của anh nhưng anh là một thằng ngu". Công bằng
hợp lý lắm đấy. Việc trao đổi thư từ của tôi sau đó đã tiếp tục
để chỉ ra, như nhiều thừ từ đó đã chỉ rõ, rằng mỗi chúng ta đều
phải thức dậy ra khỏi giường mỗi sáng và sống cuộc đời của mình,
và chúng ta hành động như thế trong cái ý nghĩa của tính bất
định, một sự bất định khủng khiếp, như sự chắc chắn xảy đến của
sự chết. Sự sắp đặt rõ rệt này, sự sẵn lòng đi đến một tiến
trình trong đời sống mà không có được một bảo đảm nào là sự việc
sẽ xảy ra như ý mình, thường được gọi là "đức tin". Do đó mà,
người ta có thể tạo một chỗ dựa cho người bạn muộn phiền bằng
câu "hãy có đức tin vào chính mình". Những từ chữ ấy hầu như
không bào giờ giả tạo, ngay cả khi được thốt ra từ miệng lưỡi
của người vô thần. Xin cho tôi được khẳng định rõ để lưu lại
sách vở là tôi không thấy gì sai với loại "đức tin" như thế này.
Nhưng đây
không phải là loại đức tin đã mang tôn giáo đến cho chúng ta. Có
lẽ sẽ là một điều khá phi thường nếu có tính cách tích cực trên
dung nhan của sự bất định khiến không thể tránh được việc dẫn
đưa đến những cáo giác lố lăng về thứ cội nguồn thánh thần của
một số kinh sách,một số điều cấm kỵ văn hóa quái dị, sự thù ghét
khinh bỉ đồng tính luyến ái và sự xem khinh giá trị của phụ nữ.
Thử nhận lấy một dự phóng khá tích cực thì điều kế tiếp bạn nhìn
thấy sẽ là các kỹ sư và kiến trúc sư đang khởi sự đâm các máy
bay thẳng vào các cao ốc.
Như tôi
nỗ lực giải thích qua các chương sách, đức tin tôn giáo là loại
niềm tin trong các mệnh đề có tính lịch sử, trừu tượng và không
hề có đủ chứng cớ. Khi các chứng cớ cho một tiền đề tôn giáo quá
thiếu thốn hoặc không hề hiện hữu, hoặc khi có các chứng cớ rõ
ràng chống lại các niềm tin ấy, thiên hạ sẽ viện dẫn đến đức
tin. Nếu không, người ta cứ đơn giản viện dẫn những nguyên nhân
cho niềm tin của mình (thí dụ như "sách Tân Ước đã khẳng định
các khải huyền của sách Cựu Ước", "Tôi từng nhìn thấy dung nhan
Jesus trên một cái cửa sổ", "Chúng tôi cầu nguyện, và bệnh ung
thư của con gái chúng tôi đã thuyên giảm"). Các nguyên nhân ấy
nói chung thường không thỏa đáng, nhưng thà có chúng còn hơn là
không có nguyên nhân gì cả. Những con người của đức tin thường
nhận ra được một cách tự nhiên tính ưu việt của các nguyên nhân
và xử dụng chúng vào những lý giải ở nơi nào chúng có thể lý
giải được. Đức tin đơn giản chỉ là cái chứng chỉ họ tự ban cho
mình để tiếp tục giữ lấy niềm tin khi các lý giải bị thất bại.
Khi một cuộc thẩm tra hợp lý hỗ trợ được tín ngưỡng, chúng sẽ
được bảo vệ; khi cuộc thẩm tra ấy cho thấy sự đe dọa, chúng sẽ
bị nhạo báng; đôi khi ở trong cùng lời kết án. Đức tin là chất
vữa để trét kín những kẽ nứt trong chứng cớ và các khoảng hở
trong lý luận, do đó chính là loại đức tin duy trì cái công
trình vĩ đại khủng khiếp của tính quyết đoán tôn giáo vẫn đang
lù lù hiện ra một cách nguy hiểm trên toàn thế giới.
3. Hồi
giáo không còn phải chịu trách nhiệm cho các bạo lực hơn là các
tôn giáo khác. Bạo lực mà chúng ta đang thấy trong thế giới Hồi
giáo là sản phẩm của chính trị và kinh tế chứ không phải là đức
tin.
Cái mã
ngoài dối trá của lời khiếu nại này tốt nhất nên được nhìn xuyên
qua ánh sáng lóa của bom nổ. Những kẻ Plestine đánh bom tự sát
có ai là tín đồ Kitô giáo ? Chính những tín đồ Kitô giáo này
cũng khốn khổ vì sự sỉ nhục thường nhật từ chiếm đóng của Do
Thái. Cũng trong cùng câu hỏi này, những người Phật giáo Tây
tạng đánh bom tự sát thì ở đâu ? Dân Tây tạng đang phải chịu
đựng một sự chiếm đóng áp bức chua cay hơn hẳn tất cả bất cứ
tình trạng nào mà Hoa kỳ và Do Thái đang áp đặt vào thế giới Hồi
giáo. Vậy các đám đông người Tây tạng đang sẵn sàng thực hiện
các cuộc tự sát kinh hoàng lên các lực lượng Trung quốc không vũ
trang ở nơi nào rồi ? Họ không hề hiện hữu.
Sự khác biệt nào đã
tạo nên những khác nhau ấy ? Sự khác biệt nằm trong những tín
điều đặc thù của Hồi giáo. Điều này không phải để bảo rằng Phật
giáo không thể tạo cảm hứng cho các loại bạo lực tự sát. Phật
giáo có thể và họ đã từng như thế (ở Nhật bản thời Đệ nhị Thế
chiến). Nhưng điều này dứt khoát không thể thay thế cho những
lời xin lỗi của Hồi Giáo. Người Phật tử phải phấn đấu hết sức
vất vả để có thể bào chữa cho sự dã man ấy, người Hồi giáo thì
không cần.
Các biến
cố gần đây ở Iraq đã mang lại được nhiều chứng thực cho luận
điểm này. Dĩ nhiên, đúng là người Iraq đã bị thương tổn nhiều
bởi nhiều thế hệ chiến tranh và áp bức. Nhưng chiến tranh và áp
bức không giải thích được cho những cuộc bạo hành tự sát trực
tiếp chống lại Hội Hồng thập Tự, Liên Hiệp quốc, các công nhân
ngoại quốc và những thường dân Iraq vô tội. Chiến tranh và áp
bức đã không thể thu hút được dòng chảy lũ lượt những người lính
ngoại quốc sẵn sàng hy sinh tính mạng của họ chỉ để gieo thêm
khủng hoảng. Những người Iraq nổi loạn chưa từng bị khuấy động
bởi các bất mãn chính trị hoặc kinh tế. Họ cũng có những bất
mãn, dĩ nhiên, nhưng bất mãn chính trị kinh tế không thể khiến
một kẻ nào cố tình nổ tung chính mình ra trong một đám đông
những trẻ con, hay khiến mẹ hắn phải hát lên những lời ngợi ca
cho hành động ấy. Phép màu của thứ loại này thường phải cần đến
đức tin tôn giáo.
Hình người tự sát bằng bom trong trận tấn công ở Sri Dalada Maligawa
Dĩ nhiên,
cũng có những việc khác trùng hợp ở đây - như chính sách kiểm
duyệt về chủ nghĩa khủng bố, một số trường hợp đánh bom tự sát
bị cưỡng ép- nhưng chúng ta không thể để các sự kiện này che mắt
chúng ta cái ảnh hưởng rồ dại và rộng khắp của niềm tin tôn
giáo. Sự thật mà chúng ta cuối cùng cần đối diện chính là Hồi
giáo chứa đựng những lý thuyết đặc thù về tính tử đạo và thánh
chiến mà hiện nay đang trực tiếp xúi dục chủ nghĩa khủng bố Hồi
giáo. Trừ khi thế giới Hồi giáo có thể tìm ra một phương cách
nào đó để xoá sạch một thứ lý thuyết vốn đang biến tôn giáo của
họ thành một thứ giáo phái của tử thần, nếu không, chúng ta sẽ
chắc chắn sẽ phải đối diệnvới những loại hành vi kiên trì phá
hoại trên đa phần của thế giới. Ở nơi nào có những biến cố này
xảy ra, chúng ta đều sẽ tìm thấy những người Hồi giáo có khuynh
hướng về hùa với những người Hồi giáo khác, bất chấp kiểu tâm
thần xã hội nào từ các ứng xử của họ. Đây là sự đoàn kết độc ác
mà tôn giáo nuôi dưỡng nên. Đã đến lúc những con người điên loạn
ấy phải chấm dứt những lời bào chữa cho điều ấy. Và đây là lúc
mà người Hồi giáo-đặc biệt là phụ nữ Hồi giáo- phải nhận ra rằng
không một ai đau khổ vì những hậu quả của Hồi giáo hơn là chính
họ phải chịu.
4.
Tận cùng của Đức tin không phải là một cuốn sách thực sự
mang tính vô thần. Tác phẩm này thực ra là một loại bình phong
cho Phật giáo, cho chủ nghĩa thần bí của thời đại mới, hoặc một
hình thái khác của tính phi lý.
Dù mỗi
trang sách của tôi đều cống hiến cho việc phô bày các vấn nạn
của đức tin tôn giáo, thật là mỉa mai khi một số những lời phê
bình khe khắt nhất lại đến từ những người vô thần vốn cảm thấy
rằng tôi đã phản bội lý tưởng của họ trong các vấn đề ngoại vi.
Tôi không hề được biết nếu như có một cuốn sách nào khác đánh
mạnh hơn vào tôn giáo. Nói như thế không phải để cho rằng cuốn
sách của tôi không có nhiều thiếu sót-nhưng để thỏa hiệp, dỗ
dành tính phi lý tôn giáo thì đây không phải là một cuốn sách
trong số đó.
Tuy
nhiên, những người vô thần đã tìm ra quá nhiều điều để phàn nàn
trong cuốn sách này, đặc biệt là ở trong chương cuối nơi tôi đã
nỗ lực đặt thiền (meditation) và tâm linh (spirituality) trong
một quan hệ hợp lý. Trong ý nghĩa mà tôi xử dụng, "Thiền" thuần
túy đòi hỏi một người phải tập trung hết sức vào kinh nghiệm
từng giây từng phút của thế gian. Chẳng có gì phi lý khi hành
động như thế này. Thực ra, suy niệm tạo nên các căn bản hợp lý
duy nhất để làm thành các xác nhận chi tiết về trạng thái tự
nhiên của tính chủ quan của chúng ta.
Trải qua
thiền quán, một người có thể đi đến sự quan sát được dòng chảy
của kinh nghiệm mình với một sự trong sáng vô cùng, và điều này
đôi khi dẫn đến kết quả của một loạt những thấu hiểu mà con
người có khuynh hướng tìm kiếm cả trong sự đáng tin của tri thức
và trong chuyển hóa cá nhân. Khi tôi thảo luận về điều này trong
chương cuối, một trong những thấu hiểu là cái mà chúng ta gọi là
"Ta"- cái ý thức chính mình là chủ nhân của suy tưởng mình,
người chứng nghiệm những kinh nghiệm của mình- có thể biến mất
khi tìm kiếm bằng một phương cách nghiêm ngặt. Đây không phải là
một tiền đề được chấp thuận trong đức tin; đây là một nhận xét
có tính thực nghiệm, tương tự như việc khám phá ra những điểm mù
(blind spots) của một người.
Đa số mọi người thường không nhận
biết được những điểm mù của mình (gây ra bởi sự chuyển tiếp của
một dây thần kinh thị giác thông qua võng mạc của mỗi con mắt),
nhưng những điều này có thể chỉ cho mọi người một cách dễ dàng
với một số nỗ lực, dù sự khám phá này có khuynh hướng đòi hỏi
đến nhiều hướng dẫn rèn luyện hơn cả nơi thầy dạy và học trò.
Đức tin duy nhất đòi hỏi đến một dự án như thế phải khởi sự là
đức tin về một giả thuyết khoa học. Giả thuyết là như thế này:
Nếu tôi xử dụng chú tâm của tôi bằng một số phương cách, nó có
thể dẫn đến một ảnh hưởng đặc biệt và lập lại được. Không cần
phải nói, những gì xảy ra (hay thất bại không thể xảy ra) dọc
trên bất cứ con đường thực hành "tâm linh" nào phải được giải
thích trong ánh sáng của một số giản đồ ý thức, và mọi thứ nên
được mở rộng ra cho những tranh cãi hợp lý.
Tôi cũng
đã nhận lãnh cơn giận đáng kể từ những người vô thần vì một số
nhận xét của mình về trạng thái tự nhiên của ý thức. Hầu hết
những người vô thần có vẻ chắc chắn rằng ý thức hoàn toàn tùy
thuộc vào (và quy về) sự làm việc của não bộ. Trong chương cuối
cùng, tôi đã tranh luận một cách vắn tắt rằng điều này không hề
được bảo đảm. Sự thật là các nhà khoa học vẫn chưa hiểu được mối
quan hệ thực giữa ý thức và thực tại ra sao. Tôi không hề đề
nghị rằng chúng ta tạo nên một tôn giáo hoặc làm một điều gì
khác từ sự bất định không chắc này. Và, không cần phải nói thêm,
mối bí hiểm của ý thức không hề tạo làm cho các ý niệm tôn giáo
truyền thống về Thượng đế và thiên đàng trở nên hợp lý hơn.
Kể từ lần
xuất bản đầu tiên của Tận cùng của Đức tin, các
biến cố đương đại diễn ra vẫn duy trì như lời khẳng định các chủ
đề trọng tâm của cuốn sách. Đó là những tháng ngày mà hầu như
tất cả các dòng tin chính trên các báo chí buổi sáng đều làm
chứng cho những phí tổn xã hội của đức tin tôn giáo, và các bản
tin buổi tối như thể phát đi một cách phi thường từ thế kỷ thứ
mười bốn. Các hình ảnh kích động tôn giáo cứ thế phát đi liền
sát nhau. Những bùng nổ đầy phô trương sự mộ đạo khi công bố cái
chết của vị giáo hoàng (một con người tích cực chống lại việc xử
dụng bao cao su ở các vùng quê ngoại vi Sahara bên Phi Châu và
che dấu cho những người tu hành lạm dụng tình dục trẻ em khỏi
công lý thế tục) nhanh chóng chuyển đến những hình ảnh hung dữ
khác của các loại điên loạn tôn giáo.
Ngay vào lúc những dòng
này được viết ra, người Hồi giáo tại một số quốc gia đang náo
loạn vì một báo cáo cho biết các điều tra viên Hoa kỳ đã làm mất
tính thiêng liêng của một bản kinh Koran. Mười bảy người đã chết
và hàng trăm người khác bị thương tích. Để đáp trả của chính phủ
Hoa kỳ đã phải dâng cúng một số hành vi điên rồ của mình. Phát
ngôn viên của Bộ ngoại giao đã bảo đảm cho lũ người tử tế rằng
"Chính phủ Hoa Kỳ sẽ không tha thứ cho bất cứ sự thiếu tôn trọng
bản kinh Kinh Koran thiêng liêng nào". Hình thức không tha thứ
nào của chính phủ chúng ta sẽ được thi hành vẫn còn chưa được
định rõ. Tôi đang chờ đợi một tiếng gõ cửa.
Những
viễn cảnh hoàn hảo như thế của sự phi lý đã được nhấn mạnh bởi
nhiều cuộc xâm phạm đức tin thông thường: các báo cáo thường
nhật về những vụ tàn sát vì mộ đạo ở Iraq, của những nhà truyền
đạo nổi giận với lũ quỷ sứ của tư pháp thế tục, của sự lan rộng
cưỡng ép tôn giáo trong Không lực Hoa Kỳ, của các nỗ lực từ tối
thiểu là hai mươi tiểu bang muốn xác định lại nền khoa học để
bao gồm được các giải thích siêu nhiên về nguồn gốc của sự sống,
của những y dược sĩ từ chối kê toa cho các loại thuốc ngừa thai,
của các rạp chiếu phim từ chối không trình chiếu những phim tư
liệu công bố về tuổi thật của địa cầu và nhiều nhiều nhiều nữa
cho đến... thế kỷ thứ mười lăm.
Đối với
ai có đôi mắt để nhìn, sẽ chẳng còn nghi ngờ gì rằng đức tin tôn
giáo vẫn còn duy trì như một tài nguyên muôn đời cho xung khắc
của nhân loại. Tôn giáo thuyết phục những người đàn ông đàn bà
có trí thông minh đừng suy nghĩ, thay vì suy nghĩ hết sức mình,
về các vấn đề quan yếu của nền văn minh. Vì thế mà phê bình tôn
giáo hoặc ngay cả việc nhận xét một số tôn giáo này kém bác ái
hay kém thứ tha hơn một số tôn giáo khác vẫn còn là một điều cấm
kỵ trong xã hội chúng ta. Cái tồi tệ nhất trong chúng ta (sự lừa
dối trắng trợn) đã được nâng lên quá khỏi tầm với của sự phê
phán, trong khi cái phẩm chất (sự hợp lý và lương thiện tri
thức) lại phải duy trì ẩn dấu, hoặc phải sợ hãi vì sự xúc phạm.
Tận cùng của Đức tin tiêu biểu cho cố gắng đầu
tiên của tôi để kêu gọi sự chú ý đến các hiểm nguy và sự ngu
xuẩn cố hữu trong tình huống này. Tôi chân thành cầu mong rằng
các độc giả vẫn tìm tiếp tục nhìn nhận cuốn sách là hữu ích.
Sam
Harris
New York
Tháng Năm
2005