CHƯƠNG 6 (tiếp theo)
Một lỗ hổng cho Phán quan Tòa Dị Giáo ?
Đặt ra các truy vấn về
đạo lý trong các ý nghĩa của hạnh phúc và khổ đau có thể nhanh chóng dẫn chúng
ta đến một khu vực xa lạ. Thử nghĩ đến trường hợp tra tấn vì công lý. Thoạt
nhìn, dường như đó là một con quỷ không có tham vọng. Thế nhưng, lần đầu tiên
trong ký ức đời sống, những người đàn ông đàn bà tử tế trong đất nước chúng ta
đã bắt đầu công khai tái xét lại. Các lợi ích của đối tượng này xuất hiện dưới
sự khêu gợi từ một thế giới quan đưa ra bởi Alan Dershowitz, một nhà vô địch cổ
xưa về các quyền được vô tội cho đến khi có chứng minh là có tội, trên chương
trình truyền hình CBS 60 phút.
[32] Trong
chương trình này, trước hàng triệu khán thính giả vốn nghĩ rằng khó có thể phục
hồi quan niệm tra tấn khổ hình, Dershowitz đã trình bày trường hợp bom nổ chậm
kiểu mẫu.
Tưởng tượng rằng một tên
khủng bố quen thuộc đã cài đặt một trái bom to lớn trong trung tâm thành phố kế
bên. Kẻ khủng bố này giờ đang ngồi trong nhà tù. Anh ta không chịu tiết lộ vị
trí của trái bom, chỉ cho biết rằng đó là khu vực đã được lựa chọn để tạo hậu
quả sát thương tối đa. Trong tình uống này, nhất là khi còn có đủ thời gian để
ngăn ngừa một thảm họa sắp xảy ra- dường như sẽ không tổn thương một ai để phủi
sách bụi bặm dụng cụ tra tấn kiểu đi tàu bay và đặt gả khủng bố đáng ghét này
vào sức thuyết phục của dĩ vãng xa xưa.
Dershowitz đã tranh cãi
rằng một tình huống như thế này có thể chia xẻ những ý nghĩa khiến đánh thức
được vị phán quan của thời dị giáo trước mặt tất cả chúng ta. Nếu quả bom nổ
chậm kia không lay chuyển được quý vị, hãy hình dung đứa con gái bảy tuổi của
bạn đang bị ngạt thở từ từ trong một nhà kho cách đó chỉ năm phút, trong khi đó
gã khủng bố trong tù đang cầm giữ cái chìa khoá nhà kho giam con gái bạn. Và nếu
như con gái bạn chưa đủ để làm chênh các cân, hãy thêm vào những đứa con gái của
tất cả các cặp vợ chồng trong một khu vực rộng một ngàn dặm- vì một số sơ suất
ngang ngạnh về phía chính phủ của chúng ta, hàng triệu bé gái đang phải ở dưới
sự điều khiền của tên thiên tài quỷ sứ hiện đang ngồi trong xiềng xích cùm trói
trước mặt bạn. Rõ ràng là, hậu quả sự bất hợp tác của một con người có thể quá
trầm trọng, và ác tâm cùng tội lỗi của y quá hiển nhiên, đến mức có thể quấy
động đến cả giấc ngủ của những người tự oán ghét mình trong chủ thuyết tương đối
về đạo lý.
Ta thường nghĩ rằng vấn
nạn đạo lý ghê gớm nhất chúng ta phải đối diện trong sự phục hồi tra tấn là
chúng ta sẽ buộc phải khảo tra một số những người đàn ông đàn bà vô tội. Hầu hết
chúng ta muốn được đóng cái nắp tòa dị giáo vào trường hợp trên bắt đầu lúng
túng trước những tình huống chi tiết của thực tế, khi tội lỗi của một con người
đơn độc trở nên một sự thể của một số điều không chắc chắn. Và sự việc này xảy
đến trước cả khi những môi lo lắng khác thu hút chú tâm của chúng ta. Chẳng hạn
như chứng cớ đáng tin cậy nào có thể suy ra được dưới những đòn khảo tra ? Chúng
ta không cần phải đặt ra những câu hỏi như thế vì chúng ta đã từng do dự trước
hiểu biết rằng, trong thế giới thực này, mình không thể bảo một người là có tội
chỉ bằng cách nhìn thấy.
Do đó dường như là chúng
ta có hai tình huống khiến sẽ lay động những con người loạn trí và những con
người tử tế nhất: trong tình huống thứ nhất, như đã được hình dung bởi
Dershowitz, dường như cứ kiên quyết lo lắng cho quyền lợi của tên khủng bố khi
bao nhiêu sinh mạng vô tội bị đe dọa; một đàng thực tế hơn, sự không chắc về tội
phạm của một con người thường loại đi sự xử dụng đến khảo tra. Có phải đây là
vấn đề của chúng ta ? Chắc là không phải.
Vấn đề cho thấy là những
kềm chế xử dụng đến khảo tra ấy không thể hòa hợp với ý muốn gây chiến của chúng
ta ngay tự khởi đầu. Vả lại, “những chết chóc tương tàn” các tra khảo tình cờ
nhầm lên người vô tội ? Bất cứ khi nào chúng ta đồng lòng thả những trái bom,
chúng ta hành động như thế với hiểu biết rằng sẽ có một số trẻ con bị mù lòa,
phanh bụng, tê liệt, mồ côi và bị sát hại. Thật kỳ lạ là trong khi việc hành hạ
chính bản thân Osama bin Laden có thể gây nên những biến động về lương tâm giữa
các nhà lãnh đạo của chúng ta (dù hoàn toàn có thể tiên liệu, do đó chấp nhận
được) trong khi việc sát hại trẻ con lại không .
Do đó giờ đây chúng ta có
thể hỏi rằng nếu chúng ta sẵn lòng hành động trong một phương cách có thể bảo
đảm một số giới hạn các đau khổ và chết chóc của những trẻ con vô tội thì cớ sao
phải nương nhẹ với tên khủng bố ? Có khác biệt gì giữa sự việc theo đuổi một
hành động khiến tình cờ tra tấn nhầm vào những người vô tội, và việc thực hiện
một phương cách khiến tình cờ giết hại đến nhiều sinh mạng đàn ông, đàn bà trẻ
em vô tội ? Hơn nữa, dường như rõ ràng là việc ứng dụng khảo tra nhầm sẽ mang
đến ít tổn thương cho chúng ta hơn là những cái chết tương tàn: nói cho cùng,
không hề có trẻ thơ bị giam giữ ở trại giam Guantanamo Bay, chỉ có những thiếu
niên tương đối hư hỏng, đa số bị bắt quả tang khi đang tìm cách sát hại quân
lính của chúng ta.[33]
Khảo tra còn không hề mang đến một rủi ro đáng kể nào về sát thương hay thương
tật vĩnh viễn trên nạn nhân; trong khi các tổn thương lẫn lộn thì hầu như là què
quặt và tử thương. Bài toán chia có tính đạo lý được mở ra ở đây như để mang đến
một đề nghị là những ai muốn thả những trái bom cũng có thể muốn bắt cóc luôn cả
những kẻ thân thích lân cận của những tên bị tình nghi khủng bố - mẹ, vợ hoặc
con gái chúng- để mà tra khảo với giả định là sẽ tìm được điều gì có lợi cho phe
chúng ta từ cách khảo tra như vậy. Phải thú nhận rằng, đấy sẽ là một hậu quả ghê
khiếp từng có thể đạt được qua tranh cãi có lý trí, và chúng ta muốn tìm cách
nào đó để thoát khỏi được điều này.[34]
Trong nội dung này, chúng
ta nên ghi nhận rằng nhiều ảnh hưởng khác nhau lên cảm tính của chúng ta về môt
hành vi bạo lực trên thể xác, cũng như các trực giác của chúng ta về tình trạng
đạo đức. Như Glover vạch rõ, “trong chiến tranh hiện đại, cái đáng kinh hãi nhất
là một chỉ hướng nghèo nàn cho sự việc nào là tổn thương nhất”. Để biết được ông
nội của một ai đó đang thực hiện một phi vụ thả bom ở Dresden hồi thế chiến thứ
hai là một chuyện, biết được ông ấy đã sát hại năm bé gái và mẹ chúng bằng một
cái xẻng là một việc khác. Chúng ta có thể chắc rằng ông có thể đã sát hại nhiều
đàn bà, thiếu nữ hơn từ cách thả bom xuống ở những độ cao xa xưa ấy, và biết
rằng có lẽ các nạn nhân đã chết trong những kinh hoàng tương tự như nhau, nhưng
sự có tội của ông ấy chắc sẽ không như nhau. Thực ra, dường như chúng ta hiểu
được, một cách trực giác, rằng phải cần đến một loại người khác hơn để mà gây
nên loại bạo hành giết người bằng xẻng. Và như chúng ta sẽ nhận thấy, các ảnh
hưởng tâm lý của việc dự phần vào những loại bạo hành này thường là khác biệt.
Thử suy nghĩ tường thuật sau đây của một người lính Nga ở Afghanistan: “Giết
người rất khó khăn và đáng sợ, nhưng chẳng lâu sau đó bạn nhận ra rằng những gì
mình thực sự thấy khó chịu chính là bắn thẳng vào một ai đó. Giết hàng loạt,
giết từng tốp một, mới thực sự phấn kích, và ngay cả –tôi đã tự mình nhìn thấy
rằng- thật là thích thú”
[35]
Việc này không phải đến nói rằng chưa một ai từng được tận hưởng thú vui giết
người ở ngay kề sát mình; mà để muốn nói rằng tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng
một thú vui như thế phải cần đến một mức độ nhẫn tâm khác thường để có thể làm
người khác đau khổ được.
Có khả năng là chúng ta
chỉ đơn giản không được trang bị để chỉnh sửa sự khác biệt này- trở thành, trong
các ý nghĩ của Glover, chấn động bởi những gì thương tổn nhất. Không khó khăn
gì để tìm một nhân tố cơ bản về sinh học , bởi vì hàng triệu năm ở thảo nguyên
Phi châu đã không thể được lựa chọn cho một khả năng tạo nên một cảm giác xúc
động cho nỗi kinh hoàng thế kỷ hai mươi. Rằng căn nguyên di truyền Paleolithic
giờ có được các vũ khí hoá học, sinh học, và hạt nhân trong tầm tay nghĩa là, từ
quan điểm tiến hóa của chúng ta, rất ít khác biệt với việc đem loại kỹ thuật này
vào bàn tay loài vượn người. Khác biệt giữa việc giết hại một người và hàng ngàn
người có vẻ như không nổi rõ ra như lẽ ra phải như thế. Và như là Glover đã nhận
định, trong nhiều trường hợp chúng ta sẽ nhận thấy trường hợp giết một người đơn
lẻ lại là đáng ưu phiền hơn. Ba triệu linh hồn có thể bị bỏ đói và bị sát hại ở
Congo và những đôi mắt Argus của chúng ta hầu như không hề liếc nhìn đến. Trong
khi có một công chúa chết trong một tai nạn giao thông thì cả một phần tư dân số
thế gian lăn ra đau buồn. Có lẽ chúng ta không thể hiểu được cái gì cần phải cảm
thương để mà thay đổi thế gian của chúng ta.
Ta sẽ cảm thấy như thế
nào khi nhìn thấy ba ngàn người đàn ông đàn bà và trẻ em hỏa thiêu ra tro bụi
trong không khí chỉ trong vài giây ? Bất cứ ai có được một màn ảnh truyền hình
vào ngày 11 tháng Chín năm 2001 giờ đã hiểu được cảm giác ấy. Nhưng hầu hết
chúng ta đều không hiểu được gì về những cảm giác ấy. Mục kích cảnh tượng tòa
nhà thương mại thế giới nuốt hai chiếc phản lực vào lòng cùng hàng ngàn sinh
mạng con người để cuối cùng còn lại là một sự không thể tin được nữa, cho thấy
cần phải có một số hình thái hư hại về thần kinh. Rõ ràng là có một số giới hạn
mà tâm trí con người có thể kham nổi để mang lại được những cảm giác - chỉ với
cái cảnh tượng của một tòa nhà cao tầng, đầy những con người đang làm việc, tan
biến thành đống gạch vụn. Có lẽ những điều này sẽ thay đổi.
Trong bất cứ trường hợp
nào, nếu quý bạn nghĩ rằng sự tương đương giữa khảo tra và tổn thất chung không
có giá trị, bởi vì khảo tra là sự việc có tính cá nhân và tiếp cận trong khi
việc thả bom chùm thì không, là bạn đang bị kết tội không tưởng tượng nổi tối
thiểu là hai trường hợp: trước tiên là một giấy phút phản tỉnh về những kinh
hoàng chắc chắn đã đến với những con người Afghan và Iraq vô tội sẽ cho thấy là
họ ngang hàng với các tội phạm trong bất cứ ngục tù nào. Một loại tưởng tượng
như thế cần phải có mới mang đến được giá trị ngang nhau cho sự khảo tra và sự
tổn thương chung cho sự tách biệt giữa cái đáng kinh sợ và cái gây nhiều tổn
thương nhất mà Glover đã nhận xét. Điều này cũng minh chứng được mức độ mà chúng
ta từng bị mê hoặc bởi các lối diễn đạt đầy uyển ngữ của chúng ta. Giết người
trong một khoảng cách xa thì dễ dàng nhưng cũng không phải là dễ dàng đến mức ấy
được.
Thứ hai, nếu như trực
giác của chúng ta về cái sai của việc khảo tra sinh ra từ sự không thích nhìn
thấy biểu lộ của con người thường xảy ra khi bị tra khảo thì chúng ta nên lưu ý
rằng sự không may đặc biệt này có thể là một dược lý bị đánh lừa, bởi vì các
loại thuốc làm tê liệt có thể khiến không nghe được tiếng kêu la, không nhìn
thấy các đau đớn. Chúng ta có thể dể dàng nghĩ ra các phương cách tra khảo khiến
người khảo tra như mù không thể nhìn thấy cái khốn khổ của nạn nhân cũng như
người hoa tiêu thả bom ở độ cao ba mươi ngàn bộ. Hậu quả là, tính không ưa thích
tự nhiên của chúng ta đối với hình ảnh và âm thanh của luyện ngục không mang lại
điểm tựa cho những ai muốn tranh cãi chống lại việc khảo tra. Ðể minh chứng sự
trừu tượng khó hiểu đến thế nào của nỗi đau đớn nơi người bị tra khảo, ta chỉ
cần tưởng tượng ra một “viên thuốc hành hạ” lý tưởng. một dược liệu có thể mang
lại cả hiệu quả cho sự đau đớn lẫn cho cả những dấu diếm sâu kín nhất.
VẬY cán cân sẽ nghiêng về
bên nào ? Giả thử rằng chúng ta muốn duy trì một quan điểm đạo đức nhất quán về
những sự kiện này, thì điều này có vẻ dẫn đến một trường hợp bắt buộc phải lựa
chọn: nếu chúng ta muốn thả những trái bom hoặc ngay cả chấp nhận rủi ro rằng
các tầm đạn bắn có thể đi lạc, chúng ta nên sẵn lòng để tra tấn một số loại tội
phạm tình nghi và các tù binh; nếu chúng ta sẵn sàng để tra khảo, chúng ta sẽ
sẵn sàng để phát khởi một cuộc chiến tranh kiểu hiện đại.
Các đối thủ chống lại
việc tra khảo sẽ nhanh nhảu tranh cãi rằng các lời thú tội kết quả từ tra khảo
thường nổi tiếng là không đáng tin. Tuy nhiên, với những điều đã nói ở trên, sự
phản bác này dường như thiếu sức mạnh. Hãy cứ tạo cho những lời thú tội của quý
vị càng không đáng tin đi – cơ hội khiến các yêu cầu tra hỏi của chúng ta sẽ đạt
được trong bất kỳ giây phút nào của cuộc tra khảo chỉ cần cân bằng với cái hoàn
cảnh mà chúng ta cần phải thả một trái bom xuống. Cơ hội nào sẽ đến khi ảnh
hưởng của việc thả trái bom số 117 ở Kandahar sẽ ảnh hưởng đến sự suy tàn của Al
Qaeda ? Cơ hội ấy chắc là rất mỏng manh. Thử tính đến kẻ bị bắt giữ đáng giá
nhất của chúng ta trong cuộc chiến tranh chống khủng bố :Khalid Sheikh Mohammed.
Ðây chính là một tính cách được cắt ra từ tấm vải Dershowitzian. Hiện nay các
viên chức chính phủ Hoa kỳ tin rằng chính tay y đã cắt đầu Daniel Pearl, phóng
viên tờ Wall Street Journal. Cho dù điều này đúng hay sai, tính cách thành viên
của y trong Al Qaeda ít nhiều đã cho thấy y không hề là kẻ “vô tội” trong bất cứ
ý nghĩa quan trọng nào, và vai vế của y trong tổ chức này cho thấy rằng các kiến
thức của y về những kế hoạch tàn bạo phải là sâu rộng. Trái bom nổ chậm đang đếm
ngược. Chỉ cần tính đến những thương tổn chúng ta đang sẵn lòng gây đến cho
những tâm hồn và thể xác của các trẻ thơ vô tội ở Afghanistan và Iraq, thì sự
chối bỏ việc xử dụng đến khảo tra trong trường hợp của Khalid Sheikh Mohammed dường
như là một sự ương ngạnh.
Nếu như chỉ có được một trong hàng
triệu cơ hội khiến y có thể cho chúng ta biết được một điều gì thông qua khảo
tra để dẫn được đến việc triệt phá Al Qaeda, dường như rằng chúng ta nên xử dụng
đến tất cả phuơng tiện mà chúng ta có để khiến y phải nói ra.
GIỮA tất cả những điều có
thể xảy ra, bất kể là tôi đã viết nhiều đến đâu và bạn đã bắt đầu đọc chương
này, đã thuyết phục được rằng tra khảo là một điều thật xấu xa và chúng ta thật
khôn ngoan đã tránh không thực hành đến phương cách ấy-thực ra, trong phạm vi
rộng, là chúng ta đã văn minh bởi vì chúng ta không thực hành đến sự việc
ấy. Hầu hết chúng ta cảm thấy tối thiểu bằng trực giác của mình là chúng ta
không thể tập trung được một sự trả đũa vào Deshorwitz và quả bom nổ chậm của
ông ấy, chúng ta có thể nương náu trong cơ sở lập luận là mô hình ấy có lẽ không
bao giờ xảy đến. Từ viễn cảnh này, tô điểm cơ chế công lý của chúng ta với một
dự phòng của công cụ tra khảo trông như vừa không cần thiết vừa nguy hiểm, vì
một ngày nào đó sẽ nhìn thấy quy luật của những hậu quả không định trước được sẽ
ném toàn bộ công trình vào sự xáo trộn. Bởi vì tôi tin sự giải thích ở trên là
vững vàng thỏa đáng, tin rằng mình đã lập luận thành công cho sự xử dụng đếnkhảo
tra trong bất cứ tình huống nào mà mình có thể có ý muốn gây ra những tổn thất
tương tàn.[36]
Ngịch lý thay, sự tương đồng này đã không tạo cho việc xử dụng tra khảo trở nên
có thể chấp nhận được một chút nào cho tôi, cũng như, tôi tin rằng cho tất cả
các độc giả. Tôi tin rằng ở đây chúng ta đi đến một thứ đại loại như ảo ảnh đạo
đức – tương tự như các ảo ảnh tri giác vốn là mối quan tâm dai dẳng đối với các
nhà khoa học nghiên cứu các đường thị giác trong não bộ. Vầng trăng tròn xuất
hiện ở chốn chân trời không lớn hơn vầng trăng tròn xuất hiện ngay trên đỉnh
đầu, nhưng nó trông to hơn, vì những nguyên nhân vẫn còn khó hiểu đối với
những nhà khoa học về thần kinh học. Một cây thước giơ ngang bầu trời sẽ chỉ ra
được một số điều mà nếu không chúng ta có thể không nhìn thấy được, ngay cả
chúng ta hiểu rằng đôi mắt của chính mình có thể phản bội mình. Được lựa chọn
giữa việc hành xử trên căn bản của các sự việc như trong thí dụ này, hay trên
những gì mang lại từ cây thước đo của mình, hầu hết chúng ta sẽ sẵn lòng bỏ qua
những ảo ảnh - đặc biệt khi đời sống của chính mình và tha nhân tùy thuộc vào
lựa chọn đó. Tôi tin rằng hầu hết độc giả đã theo dõi đến đây sẽ tự thấy mình
căn bản ở trong một quan điểm tương tự đối với tính đạo lý của việc tra tấn khảo
cung. Nếu thêm vào những gì đa số chúng ta tin về tính khẩn trương của cuộc
chiến tranh chống khủng bố của chúng ta, việc thực hành tra tấn, trong một số
trường hợp, có lẽ không chỉ là được phép mà còn là cần thiết. Dù rằng, nó không
thể được chấp nhận lắm, trong các ý nghĩa về đạo lý, hơn là trước đây. Nguyên
nhân cho điều này, tôi tin, tất cả mọi điều nhỏ nhặt cũng có tính thần kinh học
tựa những gì đã tạo nên ảo giác về ánh trăng. Thực tế, đã có một số những bằng
chứng khoa học cho thấy rằng trực giác đạo lý của chúng ta bị tác động bởi một
khối lượng đáng kể các loại tương cận và xúc cảm nổi bật mà tôi đã trình bày ở
trên.[37]
Rõ ràng, những trực giác này có thể là sai lầm. Trong trường hợp hiện tại, nhiều
sinh mạng vô tội có thể bị mất đi kết quả từ sự bất lực của chúng ta để nhận
thấy được một tương đương đạo đức nơi một tương đương đạo đức dường như có hiện
diện ở đấy. Có lẽ đến lúc để chúng ta phải lấy thước đo của mình ra mà dương cao
lên trên bầu trời.
[38]
Sự Lựa chọn sai của
Chủ nghĩa hòa bình
Chủ nghĩa hòa bình[39]
thường được xem như chọn lấy một vị trí không gây hấn có tính đạo đức để đáp lại
sự bạo động của con người. Ðiều dở nhất thường được nói đến về chủ nghĩa này
chính là thường rất khó có thể duy trì được một vị trí như thế. Chủ nghĩa hòa
bình hầu như chưa từng bị gán cho là rõ ràng kém đạo đức dù tôi tin rằng chính
là như thế. Khi ít hiểm nguy, lập trường này biểu hiện sự cao quý, nhưng chủ
nghĩa hòa bình rõ ràng không là gì hơn một sự hy sinh tự nguyện, và để cho người
khác cùng hy sinh chết theo, trước sự thỏa mãn của bọn sát nhân trên thế gian.
Cũng quá đủ để nhận thấy rằng chỉ cần một tên khủng hoảng tâm thần, trang bị
không gì hơn với một con dao, có thể sát hại cả một ngôi làng của những người
theo chủ nghĩa hòa bình. Chắc chắn một loại khủng hoảng tâm thần ấy có thể xảy
ra và chúng thường là được vũ trang tốt hơn thế nhiều. Sợ rằng những phản ánh ở
trên về sự khảo tra có thể đem đến một tiềm năng tranh cải cho chủ nghĩa hòa
bình, tôi muốn khẳng định ngắn gọn nguyên nhân vì sao tôi tin rằng chúng ta cần
phải chấp nhận thực tế là bạo động (hoặc các đe dọa của nó) thường là một sự cần
thiết có tính đạo lý.
Có lần tôi đi bộ trên các
đưòng phố ở Prague vào đêm khuya, tình cờ gặp một người đàn ông và một phụ nữ
trẻ đang xô xát. Khi lại gần, tôi thấy người đàn ông đã say khướt và quá giận
dữ, đang tìm cách lôi người phụ nữ vào trong một chiếc xe. Cô ta chống cự lại
một cách mạnh mẽ và quyết liệt, nhưng ông ta một tay nắm được cánh tay cô ta còn
tay kia dọa sẽ đánh vào mặt cô-và dường như y đã đánh cô ấy một lần trước khi
tôi kịp đến. Cánh cửa sau của chiếc xe mở toang, và một người đồng phạm đã ngồi
sẵn trên tay lái. Một số đàn ông khác đi qua lại chung quanh đó, nhìn cử chỉ,
ánh mắt của họ, thảy như đều đồng ý với cuộc truy bức đang xảy ra này.
Không biết mình phải làm
gì. Nhưng lập tức tôi như đứng về phía người phụ nữ để bênh vực cô ấy. Nhưng khi
máu nóng mình dâng cao và khi kẻ tấn công cô ta xoay chuyển sự chú ý qua mìnhi,
tôi nhận ra khả năng nói tiếng Anh của y quá tồi, hay hầu như là không hề có.
Chỉ cái nỗ lực để hiểu được tôi cũng đã quá tốn kém khiến có thể dẫn đến một sự
hiểu lầm hoàn toàn. Sự bất lực không thể giải bày được ý định của mình cũng có
thể dẫn đến một cuộc va chạm thực sự trông thấy. Nếu y cùng nói được chung một
ngôn ngữ hẳn chúng tôi đã lập tức đấm nhau và tôi đã có ý nghĩ không có gì can
đảm hơn là việc yêu cầu y phải buông thả cô ta ra, và gã đàn ông ấy, để giữ thể
diện, chắc sẽ đánh lại tôi. Vì tôi đã nhìn thấy hắn có một số đồng bọn của hắn
(và những người cổ vũ cho hắn) trong đám đông, chắc buổi tối hôm ấy của tôi sẽ
kết thúc rất là thảm hại. Ðến đó, khi nhận ra như thế, mục đích của tôi, đã là
giữ một thái độ như không hiểu chuyện, không làm cho một kẻ nào trong bọn nóng
giận, để người phụ nữ có đủ thì giờ chạy thoát.
“Xin lỗi” tôi nói "Cho
tôi hỏi thăm" tôi bị lạc không tìm thấy đường về khách sạn, nơi tôi ở, có các đồ
dùng tuỳ thân của tôi. Quý bạn có thể giúp tôi được không ? Ở chỗ nào nhỉ, ở chỗ
nào ?”
“Tìm gái à ?” gã đàn ông
hỏi với sự khinh bỉ ra mặt, như thể tôi đã tự khẳng định mình là một đồng loại
với người phụ nữ bệnh hoạn y đang túm giữ. Giờ đây tôi thấy có lẽ người phụ nữ
ấy là một ả điếm, và gã này chắc là một khách hàng ngang ngược.
“Không, không phải tìm
gái. Tôi muốn tìm một căn cao ốc đặc biệt. Căn này không hề có các cửa nhôm hay
kính màu gì cả. Mấy cái cửa sổ có thể bị trét đầy bột hạnh nhân. Quý bạn có biết
căn nhà này ở đâu không. Chỉ dùm tôi, gấp lắm “
Trong khoảnh khắc, vẻ mặt
gã đàn ông chuyển biến rõ ràng, từ giận giữ sang dễ chịu. Trong khi y tìm cách
giải mã những điều tôi vừa nói, tôi ngầm liếc mắt qua người phụ nữ - kẻ phải nói
rằng đang khá chậm để nhìn ra được cơ hội giải phóng của mình đang ở trong tay.
Gã đàn ông bắt đầu trao
đổi với tôi bằng loại ngôn ngữ Tiệp trôi chảy với một trong những người bạn của
y. Tôi tiếp tục nói như kẻ điên. Người phụ nữ cứ nhin tôi chừng chừng như nhìn
một thằng khùng. Thế rồi, chực nhận ra cơ hội hiếm có của mình, như một con chim
đang bị nhốt trong lồng quá lâu, cô ta vùng chạy thoát thân trên đường phố. Kẻ
tấn công cô ta quá mải chăm chú suy nghĩ đến nỗi không kịp nhận ra cô ta đã
thoát mất rồi.
Nhiệm vụ thành công, tôi
cảm ơn cả nhóm xong tiếp tục đi tản bộ.
Dù cách giải quyết của
tôi trong tình huống trên được sự đồng thuận của hầu hết mọi người, tôi muốn
nhắc đến ở đây bởi vì tôi xem đó như một sự thất bại về đạo đức. Trước hết, tôi
đã nói dối, và nói dối vì sợ hãi. Tôi đã chẳng hề bị lạc đường và chẳng hề cần
đến những giúp đỡ như thế. Tôi vận dụng đến phương cách ấy bởi vì, rõ ràng là
tôi muốn tránh đi việc đối đầu trực diện với một lũ những tên côn đồ ngoài đường
phố như thế. Có người sẽ cho đó là sự khôn ngoan, nhưng đối với tôi, lúc đó
chính là sự hèn nhát. Tôi đã chẳng hề cố gắng trao đổi với những gã đàn ông ấy
để khêu gợi phần đạo lý ít ỏi nơi họ ra, dù sơ sài, hay là tạo nên nơi họ một ấn
tượng nào đó…Tôi đã ý thức họ không phải như những giới hạn nơi chính họ, như
những sinh loài có năng lực đối thoại, nhân nhượng, hay hướng dẫn được, mà chỉ
nhìn họ thuần túy là một sự đe dọa trong ý nghĩa rõ rệt nhất. Sự thất bại về đạo
lý của mình, như tôi tự nhận thấy, chính là ở chỗ tôi đã chưa hề trực diện với
các hành vi của họ- từ đấy, họ không hề nhận được sự giáo dục nào từ thế gian.
Họ chỉ hoàn toàn là bị lạc hướng trong một chốc, cho cơ hội của một người phụ nữ
duy nhất. Người phụ nữ kế tiếp nào đó có thể đối tượng bị ăn thịt của họ sẽ
không có lý do gì để cảm ơn tôi. Ngay một sự can thiệp ngắn ngủi cho người phụ
nữ kia sẽ bảo đảm cho tương tích của tôi, bảo đảm cho một thông điệp rõ ràng sẽ
được nhắn gửi ra: không phải mọi người xa lạ đều đứng trơ vô dụng khi bạn đánh
đập và bắt giữ một người phụ nữ trên đường phố. Hành vi tôi đã làm không hề gửi
đi được một thông điệp như thế. Thực ra, tôi nghi rằng ngay cả người phụ nữ
thoát thân được kia cũng không hề hiểu được là tôi đến để giúp cô ta.[40]
GANDHI chắc chắn là người
theo chủ thuyết hòa bình có ảnh hưởng nhất trong thể kỷ hai mươi. Sự thành công
mà ông đạt được trong việc buộc đế quốc anh phải rút khỏi tiểu lục địa Ấn độ đã
đem chủ thuyết hòa bình xuống từ chín từng mây của giáo huấn tôn giáo và mang
lại một sự thích nghi chính trị mới. Chủ nghĩa hòa bình trong hình thái này chắc
chắn cần đến một lòng can đảm đáng kể từ những người thực hành đồng thời hình
thành một sự đương đầu trực tiếp với bất công. Như thế, chủ nghĩa hòa bình còn
liêm chính tử tế hơn cả các mưu mẹo kể trên của tôi. Tuy nhiên, rõ ràng là bất
bạo động của Ghandhi chỉ có thể áp dụng cho một số giới hạn của các xung đột con
người. Một phương cách giải quyết của Ghandhi trong vụ Holocaust sẽ giúp ích cho
chúng ta ở đây: ông đã tin rằng người Do Thái nên tự sát hàng loạt, bởi vì sự
kiện ấy sẽ “thức tỉnh dân Đức và cả thế giới về tội ác của Hitler”[41]
Chắc chúng ta phải tự hỏi một thế gian tràn ngập những người theo chủ nghĩa hòa
bình sẽ còn làm được gì một khi đã trở nên “thức tỉnh” -cũng tự sát chết cả hay
sao ?
Dĩ nhiên, Gandhi là một
người giáo điều có tính đạo giáo, nhưng giải pháp của ông cho lò thiêu
Holocaust dường như đáng bị nghi ngờ về mặt đạo lý Nếu chúng ta có được quy
luật về nghiệp và tái sinh cho những gì mà Gandhhi tin vào, thì chủ nghĩa hòa
bình của ông như vẫn còn rất thiếu đạo đức. Tại sao lại nên nghĩ là một sự hợp
đạo lý để canh phòng cho đạo đức của riêng một ai (hay ngay cả hạnh phúc của tha
nhân) trong đời sống kế tiếp bằng phí tổn của nỗi đau khổ hiển nhiên của con cái
mình trong đời sống này. Thế giới theo Gandhi là một thế giới mà hàng triệu
người có thể đã phải chết để cho những hy vọng rằng một ngày nào đó những người
theo Ðức quốc xã sẽ ngờ vực đến cái tốt lành của Vương quốc nghìn năm của họ.
Thế giới của chúng ta là một thế giới ở đấy bom đạn thỉnh thoảng phải được đổ
xuống ở những nơi thiếu các mối nghi hoặc ấy. Chính ở đây chúng ta đi đến một
khía cạnh kinh hoàng của cuộc chiến tranh thiếu cân xứng vể đạo lý: khi kẻ thù
mình không ngần ngại thì sự ngần ngại của chính mình trở nên một khí giới khác
trong tay chúng.
Cho đến nay, vẫn chưa
biết được việc điều đó sẽ có ý nghĩa gì để chiến thắng cuộc chiến tranh chống
“khủng bố” – hay chẳng biết những dã man tôn giáo vốn tạo được sinh khí cho kẻ
thù của chúng ta cuối cùng có thể tẩy sạch đuợc khỏi thế gian hay không– nhưng
thật cũng quá rõ ràng là sự thể sẽ như thế nào nếu như chúng ta thua. Tính sơ sơ
bước đầu thì đời sống dưới ách Taliban là cái mà hàng triệu người Hồi giáo quanh
thế giới này muốn áp đặt lên chúng ta. Từ lâu họ đã thiết lập một loại xã hội
trong đó – khi thời cơ tốt xảy đến – đàn bà sẽ còn tiếp tục bị biến mất, không
ai nhìn thấy được và bất cứ ai muốn hiến mình cho các tự do dục tình, tri thức,
tâm linh sẽ bị sát hại bởi đám đông của bọn người sưng sỉa và thất học. Không
cần phải nói thêm, sự việc này là một viển ảnh đáng để cả thế giới phải kháng cự
lại. Chúng ta không thể để mối e ngại của mình về những loại tổn thất chung địch
ta làm tê liệt chính mình bởi vì kẻ thù của chúng ta không hề có các thứ e ngại
ấy. Chúng là loại giải pháp giết-trẻ-con-trước trong chiến tranh, và chúng ta
thì bỏ qua đi sự khác biệt căn bản giữa bạo lực của chúng và bạo lực của mình
trong mối an nguy của chính mình. Cứ nhìn vào sự tăng trưởng của vũ khí trên thế
giới, chúng ta không còn được cái lựa chọn phát động cuộc chiến này bằng gươm
giáo nữa. Và dường như, chắc chắn rằng các hình thái khác nhau của loại tổn thất
tương tàn (collateral damages) sẽ trở nên một phần của đời sống chúng ta trong
nhiều tháng năm sắp đến.
[32] 60 Minutes , 26
tháng 9 năm 2002
[33] Dù sao, những người
này đang bị cầm giữ vô thời hạn mà không hề được tìm kiếm đến các tham
vấn về pháp lý, sẽ là một vấn nạn cho chính chúng ta. Xin đọc " Khủng bố
và Cuộc Tấn công vào Quyền tự do Dân sự" của R. Dworkin mục New York
Review of Books, số ngày 6 tháng mười một năm 2003, trang 37-41, một bài
phân tích rất hay về các vấn đề liên quan đến đạo đức và pháp luật.
[34] Đối với tôi
dường như rằng chúng ta có thể ngưng cái hình ảnh có tính phiên xử dị
giáo này bằng cách trông cậy đến cuộc tranh cãi về "vũ khí toàn hảo" đả
trình bày trong chương 4. Nói cho cùng, có một sự khác biệt, giữa ý định
khêu gợi đau khổ của một con người vô tội và sự khêu gợi đau khổ một
cách không cố ý. Tính cả đến một gia đình của kẻ bị tình nghi khủng bố
trong các phương tiện tra khảo quả là một sự vi phạm trắng trợn nguyên
tắc này.
[35] Trích dẫn từ
Glover, Humanity, 55.
[36] Tôi ngờ rằng nếu
như các phương tiện truyền thông của chúng ta đã không kiểm duyệt các
hình ảnh gớm ghiếc hơn của chiến tranh thì các cảm tính đạo đức của
chúng ta chắc đã tiếp nhận được các sửa đổi cả trên hai mặt trận: Trước
tiên là, chúng ta có lẽ đã bị thúc đẩy hơn bởi các loại kinh hoàng mang
đến cho chúng ta từ các kẻ thù: chẳng hạn, mục kích việc Daniel Pearl bị
chặt đầu, chắc chắn sẽ kích động đến một cơn giận giữ ở tầm mức quốc gia
nếu như không có cái hình ảnh ấy. Kế đó là, nếu như chúng ta không che
dấu cái thực tế của những tổn thất chung (collateral damages) từ chính
phiá chúng ta, chắc chúng ta sẽ khó có thể ủng hộ việc thả các loại bom
"không thông minh", hoặc ngay cả các loại bom "thông minh". Trong lúc
báo chí và truyền hình của chúng ta sẽ trở nên quá kinh khiếp để mà đọc
và mục kích, tôi tin rằng chúng ta sẽ cảm thấy vừa thúc bách hơn và giới
hạn hơn trong cuộc chiến tranh chống khủng bố của chúng ta.
[37] Xem J. D. Green
et al., “An fMRI Investigation of Emotional Engagement in Moral
Judgement”, Science 293 (Sept. 14, 2001): 2105-8, và J. D. Green, “From
Neural ‘Is’ to Moral ‘Ought’: What Are the Moral Implications of
Neuroscientific Moral Psychology ?” Nature Reviews:Neuroscience 4
(2003): 846-49.
[38] Để có đươc một
giải thích rất sáng tỏ về sự xử dụng của “tình trạng bị ép buộc” của
những điều tra viên Mỹ và Do Thái, hãy đọc M. Bowden, “The Dark Art of
Intergoration” Atlantic Monthly, tháng Ba năm 2003, trang 51-77
[39] Nhiều hương vị
của chủ nghĩa hòa bình có thể đưọc tìm thấy trong văn chương triết học.
Ở đây tôi đang suy nghĩ đến cái được gọi là chủ nghĩa hòa bình "tuyệt
đối"- nghĩa là, niềm tin rằng bạo lực không bao giờ có thể chấp
nhận được một cách đạo đức, dù ở trong trường hợp tự vệ hay để bảo vệ
tha nhân. Đây chính là loại chủ nghĩa hoà bình mà Gahndhi từng thực
hành, và đấy có lẽ chính là hình thái duy nhất chứa đựng kỳ vọng vững
chắc của đạo đức.
[40] Có phải tôi cho
rằng công khai chống lại một điều sai trái là chuẩn mực của đạo đức ?
Đúng thế, tôi cho là như vậy khi có một mối nguy cơ lớn. Người ta có thể
luôn luôn tranh cãi rằng sự kháng cự công khai trong một tình huống đặc
biệt nguy hiểm- nghĩa là khi sự phản đối công khai có thể thiệt hại đến
tính mạng của một ai-chính là một tình huống đúng nhất. Những con người
phi thường đã từng che dấu người Do thái trong hầm nhà mình hoặc che chở
cho họ trong thời Đệ nhị thế chiến là những thí dụ đáng học hỏi về lãnh
vực này. Hiển nhiên là họ đã thực hiện được những điều thuận lợi hơn
bằng cách giúp đỡ người khác trong sự bí mật hơn là công khai chống lại
Đức quốc xã và phải chết đi vì giữ gìn nguyên tắc đạo đức. Nhưng đấy
chính là tình huống của họ chỉ vì rất ít người dám lộ ra sự chống đối
của họ ngay tự khởi đầu. Nếu như từng có nhiều người hành động như thế,
chắc đã có những người Đức quốc xã lẫn trốn trong các nhà hầm, viết các
trang nhật ký đến Đấng thiên chúa từng lãng quên họ, chứ không chỉ có
nhật ký của cô gái đáng thương sắp bị đưa đến lò thiêu. Do đó, như một
nhu cầu bức thiết, việc đối đầu với cái ác có lẽ là sự bắt buộc tốt nhất
mà chúng ta đã có. Lẽ tất nhiên, hình thái đương đầu này như thế nào, là
một vấn đề còn phải bàn luận. Nhưng sự việc chỉ đơn giản tạo ra cơ hội
cho cái ác của con người, hoặc tránh né chúng, chắc không phải là một
chọn lựa thuận lợi về mặt đạo lý.
[41] Theo G. Orwell,
“Reflections on Gandhi” trong The Oxford Book of Essays, ed. J.
Gross (Oxford: Oxford Univ. Press, 1949), 506.