CHƯƠNG 3 (tiếp theo)
Lò Thiêu Người Hàng Loạt
Chủ nghĩa xã hội của tất cả chúng ta được neo chặt bởi lòng trung thành
tuyệt đối, trong sự quy phục ngài Quốc Trưởng, âm thầm thi hành các mệnh
lệnh của ngài mà không cần hỏi đến lý do trong một số trường hợp đặc biệt.
Chúng ta tin rằng Quốc Trưởng đã vâng theo một lời gọi cao cả hơn để thành
lập lịch sử Ðức quốc. Và không thể có một phê bình nào cho một niềm tin như
thế.
(Rudolf Hess, trong một diễn văn đọc tháng Sáu, 1943)
[43]
Sự xuất hiện của Chủ nghĩa Quốc Xã ở Ðức đòi hỏi rất nhiều ở sự “trung thành vô
điều kiện”. Lò thiêu người Do Thái đã làm nổi bật sự chấp nhận được những tư
tưởng cực kỳ phi lý, vượt xa hẳn cả lòng trung thành (và ngoan đạo) thấp hèn của
con người.
Heinrich Himler nghĩ quân đội SS nên có tỏi và nước khoáng cho bữa ăn
sáng. Ông nghĩ là có thể làm con người tự thú bằng telepathy. Bắt chước Vua
Arthur và và luật bàn tròn, ông chỉ có mười hai người cùng ăn bữa tối. Ông
ta tin rằng chủng tộc Aryans không hề tiến hóa từ con khỉ và đười ươi như
các chủng tộc khác, mà xuống trần gian thẳng từ thiên đàng, nơi họ được ướp
gìn giữ trong băng đá từ thủa ban sơ. Ông thiết lập một tiểu đoàn về khí
tượng để chuyên chú vào việc minh chứng sự thể về vũ trụ này. Ông cũng nghĩ
rằng mình là tái sinh của Heinrich đệ nhất. Himmler là một trường hợp cực
đoan: có lẽ là hình ảnh của một kẻ thật điên loạn. Nhưng một trong những
tính cách của y được chia xẻ rộng rãi hơn nhiều-đó là tâm hồn y chưa từng
được khuyến khích để phát triển. Tràn ngập bởi các thông tin và các ý kiến,
y không hề có được những quyền chỉ trích. [44]
Tại tâm điểm của mỗi guồng máy chuyên chế, người ta thấy
được các học thuyết lạ lùng, cải soạn một cách nghèo nàn, nhưng lại
hữu hiệu một cách vững vàng như những bánh răng chuyền trong các công cụ lố bịch
của tử thần. Dĩ nhiên, chủ nghĩa quốc xã tiến hoá ra từ một loạt những hệ quả
chính trị và kinh tế, nhưng củ nghĩa này cuộn chặt được với nhau bởi một niềm
tin về tính thuần chủng và thượng đẳng của dân tộc Ðức. Tôn trọng niềm đam mê
với giòng giống này chính là sự tin chắc rằng tất cả các nhân tố không trong
sạch-những kẻ luyến ái đồng tính, tàn phế, du mục Gypsy, và, nhất là người Do
Thái-là biểu hiện một đe dọa đến tổ quốc. Dù lòng oán thù Do Thái ở Ðức tự thể
hiện trong một phương cách nghiêng mạnh về thế tục, nó chính là sự kế thừa trực
tiếp từ Kitô giáo trung cổ. Trong nhiều thế kỷ, Những người Ðức ngoan đạo đã
nhìn người Do Thái như các sinh vật tệ hại nhất trong những kẻ dị giáo và xem họ
như những nguyên nhân mang lại các bệnh hoạn xã hội bằng chính sự tiếp tục hiện
diện của họ giữa những người có đức tin. Daniel Goldhagen đã truy tìm căn nguyên
nhận thức về Do Thái của người Ðức như là một “chủng tộc” và một “quốc gia”, vốn
đã đạt đến đỉnh cao bằng sự hình thành một chủ nghĩa dân tộc triệt để của lòng
oán thù Kitô giáo cổ đại.[45]
Dĩ nhiên, sự ma quỷ hoá mang tính tôn giáo về người Do Thái cũng là một
hiện tượng cùng thời. (Thật ra, chính Vatican đã làm nuôi dưỡng sự phỉ báng
huyết thống trong báo chí của họ mãi đến năm 1914).
[46] Mỉa mai
thay, chính cái sự thật người Do Thái đã bị đối xử tồi tệ ở Ðức (và các nơi
khác) kể từ thời xa xưa-từ việc bị ép vào ở trong các ghetto và tước đoạt mất tư
cách công dân-đã đem đến sự nổi dậy bộ phận thế tục hiện đại của chủ nghĩa bài
Do thái, bởi vì không phải đến các nỗ lực giải phóng của tiền thế kỷ mười chín
mà sự oán hận người Do Thái mới tìm được một biến thái rõ rệt về chủng tộc. Ngay
cả tổ chức tự xưng là “bạn của người Do Thái”, một tổ chức tìm kiếm sự dung nạp
người Do thái vào xã hội Ðức với tất cả quyền lợi công dân đã hành động như thế
chỉ trên giả thiết là người Do thái có thể cải tạo và đầu hàng được bằng sự
thuần túy chịu gia nhập với dòng giống Ðức.
[47] Do đó,
những tiếng nói của sự khoan dung thông thoáng trong khuôn khổ của Ðức thì
thường cũng bài Do thái như những thành phần bảo thủ đối lập, bởi vì họ chỉ khác
biệt trong niềm tin rằng người Do Thái có khả năng thay đổi đạo đức. Vào cuối
thế kỷ thứ mười chín, sau khi những thử nghiệm hào phóng đã thất bại trong việc
hòa tan người Do Thái trong thứ dung môi xa xưa của niềm khoan dung Ðức, người
bạn cũ “Bạn của người Do Thái” đã đi đến chỗ nhìn những người khách lạ này lẫn
trong chính mình với sự kinh tởm tương tự mà những kẻ đương thời ít lý tưởng hơn
đã cùng nuôi dưỡng. Một phân tích của các tác giả bài Do Thái nổi bật, xuất bản
từ năm 1861 đến 1895 hé lộ cho thấy tính tàn sát của những người Ðức chống Do
Thái từng hướng đến: hơn hai phần ba những người này có ý muốn mang lại một
“giải pháp” cho “vấn nạn Do Thái” công khai tán thành sự hủy diệt tính mạng
người Do Thái.- và điều này, như Goldhagen đã vạch rõ, là đã có từ một vài thập
niên trước sự xuất hiện của Hitler. Thực thế, khả năng hủy diệt một dân tộc đã
được xem xét đến ngay cả trước khi từ ngữ “diệt chủng” có được ý nghĩa rõ rệt
của nó, và đã có lâu trước khi sự giết hại trên một bình diện lớn lao như thế
cho thấy có thể thực hiện được trong thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai.
Trong khi lời kết án gây ra nhiều tranh cãi của Goldhagen
cho rằng người Ðức là những “đao phủ tự nguyện” của Hitler dường như khá công
bằng, sự thực chính là các dân tộc ở các đất nước khác cũng tự nguyện tương tự.
Chủ nghĩa diệt chủng bài Do Thái đã từng hiện diện đâu đó vào một số thời điểm,
đặc biệt ở Ðông Âu. Thí dụ như vào năm 1919, riêng ở Ukraina, có sáu mươi ngàn
người Do Thái bị sát hại.[48]
Một khi đệ tam Ðế chế của Ðức bắt đầu công khai hành quyết người Do Thái, các
cuộc tàn sát chống Do Thái lập tức nổ ra ở Ba Lan, Rumania, Hungary, Áo, Tiệp,
Croatia và những nơi khác.[49]
Với việc thông qua luật Nuremberg năm 1935, cuộc chuyển hóa
chủ nghĩa bài Do Thái của Ðức đã hoàn tất. Người Do Thái, từng một thời là kẻ
thù của nước Đức hùng mạnh trên nguyên tắc, đã được xem như một chủng tộc.Với
cương vị như thế, họ không thể cải tạo được về căn bản, bởi khi một người có thể
vứt bỏ lý tưởng tôn giáo, ngay cả chấp nhận rửa tội để vào nhà thờ, kẻ ấy cũng
không thể làm mất đi chính bản thân mình. Và chính là ở đây mà chúng ta chạm
trán với sự đồng lõa không úp mở của giáo hội trong mưu toan giết hại cả một dân
tộc. Công giáo Ðức tự lộ ra sự đồng thuận rõ rệt với một tín ngưỡng phân biệt
chủng tộc ở những mục tiêu chồng chéo với tối thiểu một trong những niềm tin cơ
bản của họ: bởi vì nếu phép rửa tội thực sự có sức mạnh của sự chuộc tội, thì sự
hoán cải của người Do Thái nên được cứu rỗi mà không nên có chút cặn bã nào
trong ánh mắt của giáo hội. Nhưng, như chúng ta đã thấy, sự nhất quán trong bất
cứ hệ thống đức tin nào cũng không bao giờ được hoàn hảo-và Giáo hội Ðức, để duy
trì các trật tự trong khi họ hành đạo, cuối cùng đã buộc phải in ấn những truyền
đơn khiển trách những bầy chiên của họ đừng công kích người Do Thái đổi đạo
trong giờ đang hành lễ. Điều mà dòng giống của một con người không thể hủy
bỏ được đã được nhấn mạnh mãi từ năm 1880, trong một văn bản được chuẩn y của
Vatican:” Ôi sai lầm và nhơ nhớp làm sao cho những kẻ nghĩ rằng Do Thái giáo chỉ
là một tôn giáo như Công giáo, đa thần giáo, Thệ phản giáo, chứ không phải sự
thực là một chủng tộc, một dân tộc, một quốc gia !...Bởi vì người Do Thái không
phải là người Do Thái chỉ vì cái tôn giáo của chúng...Chúng là những bọn Do thái
cũng và chính đặc biệt bởi vì cái dòng giống của chúng”[50] .
Các giám mục Công giáo Ðức tự đề ra hướng luật riêng của mình vào năm 1936:
“Chủng tộc, đất đai, máu huyết và con người là những giá trị tự nhiên quý báu,
mà Thượng đế, đức Thánh thần đã tạo nên và đã đặt tin tưởng vào người Ðức chúng
ta để chăm sóc những giá trị ấy”.[51]
Nhưng sự đồng lõa nham hiểm thực sự của giáo hội nằm trong
sự tình nguyện của họ để mở hồ sơ gia phả ra cho Ðức quốc xã và vì thế đã cho
phép Ðức quốc xã truy tìm được nhánh rẽ tổ tiên dòng tộc Do Thái của từng người.
Guenther Lewy, một sử gia của Giáo hội Công giáo, đã viết rằng :
Chính câu hỏi là phải chăng Giáo hội [Công Giáo] nên
giúp nước Ðức quốc Xã lọc ra những người có dòng tộc là Do Thái chưa bao giờ
được mang ra bàn cãi. Ngược lại. “Chúng ta luôn luôn làm việc không ích kỷ cho
dân tộc mà không cần lưu tâm đến sự trả ơn hay vô ơn”, một giáo sĩ đã viết ở
Klerusblatt vào tháng chín năm 1934. “Chúng ta cũng nên làm hết sức mình để giúp
đỡ trong ích lợi này của dân tộc”. Và sự hợp tác của giáo hội trong sự việc này
đã tiếp diễn qua suốt thời chiến tranh, khi cái giá phải trả vì là người Do thái
không còn là sự sa thải khỏi các công việc trong chính phủ hoặc thiệt hại đến
công ăn việc làm mà là sự trục xuất và tiêu diệt thẳng thừng”.[52]
Tất cả điều này, bất kể sự thật là Giáo hội Công giáo đã ở
trong vị trí thực sự đối nghịch với nền tảng của Ðức quốc Xã, cái đã từng cương
quyết tước đoạt quyền lực của mình. Goldhagen cũng nhắc nhở chúng ta rằng không
một giáo hội công giáo Ðức nào bị rút phép thông công trước, trong và sau cuộc
chiến tranh, “sau khi đã phạm một tội ác tày trời trong lịch sử nhân loại”. Ðây
thật là một sự kiện phi thường. Trải suốt thời kỳ này, giáo hội vẫn tiếp tục rút
phép thông công các nhà thần học, các học giả trong những số người có các quan
điểm không chính thống và cấm đoán hàng trăm cuốn sách nhưng vẫn không một thủ
phạm nào của sự diệt chủng-những thủ phạm vốn có vô số bằng chứng-có thể hằn
được những vến nhăn trên hàng mi khiển trách của giáo hoàng Piuos XII.
Tình hình lạ thường này đáng để được viết ra ngoài lề một
chút. Vào cuối thế kỷ thứ mười chín, Vatican đã cố gắng chiến đấu với các kết
luận không chính thống của các nhà phê bình Kinh thánh tân tiến bằng nền học
thuật nghiêm khắc của mình. Các học giả Công giáo bị thúc đẩy phải theo các kỹ
thuật phê bình hiện đại, để chứng minh rằng những kết quả của một nghiên cứu tỉ
mỉ và vô tư về Thánh kinh sẽ có thể tương thích được với học thuyết của giáo
hội. Phong trào được biết như là một thứ “chủ nghĩa tân thời”, và chẳng bao lâu
sau đô lúc đã trở nên vô cùng hổ thẹn, khi nhiều học giả giỏi nhất của Công giáo
đã thấy chính họ cũng trở nên ngờ vực về chân lý nghĩa đen của kinh sách. Năm
1893, giáo hoàng Leo XIII công bố :
Tất cả những kinh sách này…mà giáo hội đã xem như
thiêng liêng và hợp quy tắc đã được trước tác với tất cả nội dung dưới cảm hứng
của Thánh Linh. Hiện nay, ngược với việc thừa nhận sự cùng hiện hữu của các sai
lầm, cảm hứng thiêng liêng tự nó loại trừ tất cả sai sót, và điều ấy cũng từ sự
cần thiết, bởi vì Thiên chúa, Chân lý tối thượng, không thể có năng lực giảng
dậy sai lầm.[53]
Vào năm 1907, giáo hoàng Pius X kết án chủ nghĩa tân thời
là một dị giáo, rút phép thông công tất cả bộ phận của họ trong giáo hội, và đặt
tất cả các sách vở nghiên cứu phê bình kinh thánh vào danh mục những sách vở bị
cấm đọc. Các học giả lỗi lạc gồm Descarte (với một số công trình bị lựa riêng
ra), Montagne (các tiểu luận), Locke (Essay on Human Understanding),
Swift (Tale of Tub), Swedenborg (Principia), Voltaire (Lettres
philosophiques), Diderot (Encyclopédie), Rousseau (Du Contrat
social), Gibbon (The Decline and Fall of the Roman Empire), Paine (The
Rights of Man), Sterne (A Sentimental Journey), Kant (Critique of
Pure Reason), Flaubert (Madame Bovary), và Darwin (On the Original
of Species). Tác phẩm Suy tưởng (Meditations) của Descartes bị thêm
vào danh mục vào năm 1948 là một trường hợp khiển trách muộn. Với tất cả các sự
việc như vậy xảy ra trong đầu thập niên, ta hẳn phải nghĩ rằng Tòa Thánh đã có
thể tìm ra những xúc phạm lớn hơn với những thứ để quan tâm đến. Mặc dù không
một lãnh tụ nào của Ðức quốc Xã-ngay cả chính Hitler-từng bị rút phép thông
công, ngay Galileo không hề được xá tội dị giáo cho đến mãi năm 1992.
Qua chính ngôn từ của vị giáo hoàng đương nhiệm, John Paul
II, chúng ta có thể thấy sự tình hiện tại ra sao: “Sự Mặc khải này là cuối cùng;
ta chỉ có thễ hoặc là chấp nhận hoặc chối từ . Nếu chấp nhận, nghĩa là công nhận
tin vào Thiên chúa, Thánh Cha toàn năng, Ðấng tạo nên thiên đàng và trần thế, và
tin Chúa Jesus cứu thế, Con Một của Thiên chúa, với tất cả tính chất như Ðức
Chúa Cha và Thánh Thần, là Chúa và Ðấng ban phát sự sống. Hoặc là chối bỏ tất cả
mọi điều này.”[54]
Dù sự nổi dậy rồi thất bại của chủ nghĩa tân thời trong giáo hội khó có thể được
nhìn nhận như một chiến thắng của lẽ phải, nó minh họa được một điểm quan trọng:
để biết được thế gian này ra sao, con người phải bị thương tổn bởi chứng cứ mới.
Không phải tình cờ mà học thuyết tôn giáo và sự truy tìm lương thiện rất hiếm
khi được ở cạnh bên nhau trong thế giới của chúng ta.
Khi chúng ta suy nghĩ đến số ít thế hệ đã đi qua kể từ khi
giáo hội ngưng mổ bụng những người vô tội trước sự chứng kiến của gia đình
họ, thiêu sống các bà già nơi các quảng trường công cộng, và hành hạ các bậc thức
giả đến điên loạn chỉ vì những suy đoán về những hành tinh, có lẽ ít ngạc nhiên
là nó đã thất bại để nghĩ ra bất cứ điều gì trở nên quá sức tồi tệ ở Ðức trong
những năm chiến tranh. Thật thế, rất nhiều người cũng biết được là một số viên
chức Vatican (nổi tiếng nhất là giám mục Alois Hudal) đã giúp đỡ các thành viên
của mật vụ SS như Adolf Eichmann, Heinrich Mueller, Franz Stangl, và hàng trăm kẻ
khác trốn thoát sang Nam Mỹ và Trung Ðông sau hậu quả của chiến tranh.[55]
Nội dung này cũng nhắc ta nhớ rằng những người khác trong Vatican cũng đã có
giúp người Do Thái trốn thoát. Điều này có thật. Tuy nhiên, cũng có thật là các
trợ giúp của Vatican thường tùy thuộc vào việc những người Do Thái ấy trước đó
có rửa tội hay không.[56]
Không nghi ngờ gì là có vô số không kể hết những bằng chứng
về việc người Kitô giáo Âu châu hy sinh đến tính mạng mình để bảo vệ những người
Do Thái sống giữa lòng mình, và họ đã hành động như thế chính vì tính Kitô giáo
của họ.[57]
Nhưng con số họ không nhiều đến mức không thể đếm được. Sự thật của việc con
người đôi khi cảm hứng được đến các hành động anh hùng của lòng nhân từ bởi các
giảng dậy của Kitô giáo không nói lên được điều gì về sự thông thái và sự cần
thiết vào niềm tin rằng người ấy, độc nhất, là Con một của Thiên chúa. Thực thế,
chúng ta sẽ tìm thấy rằng mình không cần phải tin vào một điều gì thiếu chứng cứ
để mà cảm thấy được niềm thương cảm đến khổ đau của tha nhân. Lòng nhân đạo
thông thường của chúng ta đủ để bảo vệ đồng loại của mình khỏi các hiểm nguy. Sự
bất khoan dung mang tính diệt chủng, mặt khác, không tránh khỏi việc tìm được sự
khuyến khích ở một nơi nào đó. Bất cứ nơi nào bạn nghe thấy con người bắt đầu cố
tình giết hại những người không vũ khí một cách bừa bãi, hãy tự hỏi chính mình
chủ thuyết gì ở sau lưng họ. Những kẻ sát nhân mới toanh này tin vào cái
gì ? Bạn sẽ tìm thấy luôn luôn- luôn luôn- là họ tin vào sự phi lý.
Mục đích của tôi trong chương này là gợi ý, trong cách thức
càng ngắn gọn càng tốt, một số những hậu quả kinh hoàng đã xãy ra một cách logic
và không thể tránh khỏi từ đức tin Kitô giáo. Không may thay, cuốn mục lục liệt
kê các điều ghê tởm này đã tăng thêm chi tiết đến vô tận. Auschwitz, dị giáo
Cathar, các săn lùng phù thủy - những nhóm chữ này báo hiệu chiều dày của sa đọa
và khổ đau của nhân loại chắc chắn vượt quá sự diễn đạt mà một người cầm bút còn
có thể làm được công việc nào khác nữa. Khi tung một mẻ lưới rộng lớn trong
chương hiện tại, tôi chỉ có thể nài nỉ các độc giả, những người có thể có cảm
giác như vừa chạy xe hết tốc lực ngang qua một tai nạn bên đường hãy tra cứu tài
liệu về những chủ đề này. Các tham khảo ngoại khóa ấy sẽ vạch ra rằng lịch sử
của Kitô giáo chủ yếu là một câu chuyện về nỗi khốn nạn của con người và sự ngu
xuẩn hơn là cái tình yêu Thiên chúa đầy ân oán của nó.
Trong khi Kitô giáo hiện nay vẫn còn một số ít quan tòa dị
giáo còn sống, Hồi giáo vẫn còn vô số. Trong chương kế tiếp chúng ta sẽ nhìn
thấy vị trí của mình trong thế giới quan của Hồi Giáo, chúng ta đương đầu một
nền văn minh với một lịch sử bị chặn đứng lại. Tưởng như cánh cổng chính của
thời gian đã được mở ra để lũ người nguyên thủy của thế kỷ mười bốn tràn vào thế
giới chúng ta. Bất hạnh thay, hiện nay họ đang được trang bị bằng các vũ khí của
thế kỷ hai mươi mốt.
Chú thích:
[43]
Trích trong J. Glover, Humanity:A Moral History of the Twentieth
Century (New Haven:Yale Univ. Press, 1999), 328.
[44]
Sách đã dẫn, trang 360-61.
[45]
Theo D. J. Goldhagen, Hitler’s Willing Executioners: Ordinary Germans
and the Holocaut (New York:Afred A. Knopf, 1996), 24-48.
[46]
Theo Kertzer, “Modern Use”.
[47]
Sự thể đã trở nên hợp thời thượng để xác nhận rằng cái kinh hoàng thực
sự của Lò Thiêu người hàng loạt, ngoài tầm mức lớn lao của nó, là đó
chính là một diễn đạt của lẽ phải, và từ đó giải thích được một
bệnh lý thuộc về truyền thống Thời đại Ánh sáng của Âu Châu. Chân lý của
điều quyết đoán này được nhiều học giả xem như một sự hiển nhiên - bởi
vì không ai có thể chối bỏ được rằng khoa học kỹ thuật, bộ máy quan
liêu, và tư tưởng quản trị hệ thống đã hiện thực hóa được khát vọng diệt
chủng trong chế độ Quốc xã Đức. Cái luận điểm hão huyền ẩn áu ở đây
chính là bản thân lẽ phải có một “phía bị che phủ”, và do đó, không có
chỗ để quay lại che chở cho hạnh phúc nhân loại. Tuy nhiên, đây là một
sự hiểu lầm trầm trọng về tình thế. Lò thiêu người hàng loạt đánh dấu
điểm tột cùng của cung cách ứng xử kiểu bộ lạc của Đức và hai ngàn năm
căm giận của Kitô giáo đối với người Do Thái. Lẽ phải chẳng có liên quan
gì ở đấy. Đặt một chiếc kính viễn vọng trong tay môt con đười ươi, và
nếu nó đập đầu hàng xóm của nó bằng cái ống kính ấy, thì lý do “phía bị
che phủ” sẽ được tìm ra tương tự. (Theo K. Wilber, Sex, Ecology,
Spirituality [Boston: Shambhala, 1995] , 663-64, cũng nêu ra đồng một
quan điểm).
[48]
Theo M. Gilbert, The Holocaust:A History of the Jews of Europe during
the Second Worl War (New York:Henry Holt, 1985), 22.
[49]
Sách đã dẫn,
[50]
Câu trích dẫn của G. Wills, “Before the Holocaust” New York Times
Book Review, 23, tháng Chín 2001.
[51]
Câu trích của Goldhagen, Hitler’s Willing Executioners, 106. Dĩ
nhiên, Chính sách bài Do Thái Ủy thác từ Giáo hội không bị giới hạn vào
Đức quốc. Hãy xem xét công bố của Giám Mục Công Giáo Balan, Hồng Y
Hlond, trong một lá thư năm 1936 ”Chừng nào người Do Thái còn tồn tại
khi ấy vẫn còn các vấn nạn về Do Thái .. Đó là một thực tế về việc người
Do Thái chiến đấu chống lại Giáo hội Công giáo, ngoan cố trong suy nghĩ
phóng khoáng của họ, và là đội quân tiền phong của những kẻ không chúa,
bôn sê vích và bọn lật đổ…Đó là thực tế rằng người Do Thái là những kẻ
lừa đảo, bòn thuế và mối lái…Đó là thực tế rằng tôn giáo và nền đạo đức
ảnh hưởng của lớp trẻ Do Thái lên lớp trẻ ở Ba Lan là một ảnh hưởng tiêu
cực ”. Như J. Caroll, trong “The Silence”, New Yorker, ngày 7 tháng Tư,
1997, vạch rõ “Lá thư của Hlond đã cẩn trọng để nói rằng những “thực tế”
này không hề bào chữa cho sự giết hại người Do Thái, nhưng khó mà thấy
được được làm thế nào mà sự bài chống Do Thái ấy về bên phần của bộ phận
lãnh đạo Công giáo Ba Lan không có quan hệ gì đến những gì xảy ra sau
đó. Trải qua nhiều thập niên và nhiều thế kỷ của thiên niên kỷ này, lối
diễn đạt ẩn ý đó của các lãnh tụ Kitô giáo thực không có gì là bất
thường”.
[52]
Theo G. Lewy, The Catholic Churh and Nazi Germany (New
York:McGrawHill, 1964), 282, câu trích của Goldhagen, trong Hitler’s
Willing Exercutioners, 110.
[53]
Trích theo L. George Crimes of Perfection:An Encyclopedia of Heresies
and Heretics (New York:Paragon House 1995), 211.
[54]
Theo Pope John Paul II, Crossing The Thereshold of Hope (New
York:Alfred A. Knopf, 1994), 10. Tác phẩm này thực sự là một kiệt tác
ngoạn mục về sự ngụy biện, lẩn tránh và tính nhỏ nhen hẹp hòi. Tác phẩm
này hầu như chứng minh được luận điểm của tôi trong từng dòng, bất chấp
các tham chiếu uyên bác đến Wittgenstein, Feurbach, và Ricoeur.
[55]
Theo M. Aarons và J. Loftus Unholy Trinity:The Vatican, The Nazis,
and the Swiss Banks, rev. ed. (New York: St. Martin’s Griffith,
1998); và G. Sereny, Into That Darkness:An Examination of Conscienne
(New York:Vintage, 1974).
[56]
Ðọc Sereny, Into that Darkness, 318.
[57]
Ðọc, e.g. Glover, Humanity, chương.40.