CHƯƠNG 1
Lẽ phải trong lưu đày
Người thanh niên bước lên khi chiếc xe bus vừa ra khỏi
trạm. Y mặc một chiếc áo choàng. Dưới lớp áo của y dấu kín một trái bom. Trong
các túi áo, đầy những đinh nhọn, bạc đạn và thuốc chuột.
Chuyến xe đầy khách chạy vào trung tâm thành phố. Người thanh niên ngồi chiếc
ghế bên cạnh một cặp trung niên. Y sẽ đợi cho xe đến trạm kế. Cặp trung niên
cạnh y đang tìm mua cái tủ lạnh mới. Người phụ nữ thích một loại nhưng ông chồng
e ngại kiểu đó mắc quá. Ông chọn một kiểu khác trong tờ quảng cáo đặt trên đùi
người vợ. Trạm kế vừa trờ đến. Cửa xe bus bung mở ra. Người đàn bà quan sát thấy
kiểu tủ lạnh chồng bà lựa không vừa với dàn tủ trong nhà bếp của họ. Những hành
khách mới lên đã ngồi kín đến chiếc ghế trống cuối cùng rồi tiếp tục đứng ra cả
giữa lối đi. Chiếc xe bus bây giờ đầy ứ. Gã thanh niên mỉm cười. Chỉ một cái ấn
nút nhẹ, y đã tự hủy chính mình cùng đôi vợ chồng trung niên bên cạnh và hơn hai
mươi người khác trên chuyến xe. Những đinh nhọn, bạc đạn và thuốc chuột bắn tung
tóe nhằm vào nhiều nhân mạng nữa trên đường phố và các xe cộ chung quanh. Tất cả
xảy ra đúng như kế hoạch đã định.
Chẳng bao lâu sau đó, cha mẹ gã thanh niên biết được số phận của y. Dù buồn vì
mất đi đứa con trai, nhưng họ vô cùng tự hào về thành quả của y. Họ biết y đã
đến được cõi thiên đàng và sẽ dọn đường cho họ đến sau. Y cũng đọa đày được
những nạn nhân của mình vào chốn địa ngục đời đời. Thật là một thắng lợi nhân
đôi. Làng xóm láng giềng nhìn sự kiện này như một dịp trọng đại để ăn mừng và
vinh danh cha mẹ gã thanh niên bằng cách biếu tặng họ tiền bạc và thực phẩm.
Những điều này là sự thật. Ðây là tất cả những điều mình biết chắc về gã thanh
niên ấy. Ta có thể suy luận ra điều gì khác từ hành vi của y hay không? Y có hòa
đồng với mọi người trong trường học không? Y giàu hay nghèo? Thông minh hay kém
cỏi? Hành vi của y không để lại một dấu vết gì cả. Chẳng hiểu y có tốt nghiệp
cao đẳng hay chưa? Liệu y có một tương lai kỹ sư cơ khí sáng sủa hay không? Hành
vi của y đơn giản chỉ lặng im trước hàng trăm câu hỏi đại loại như thế (1). Và,
tại sao lại quá dễ, thậm chí dễ đến mức bạn có thể lập tức dám đánh cuộc mạng
mình để đoán biết được ngay đạo giáo của y là gì? (2)
NIỀM TIN là một cái cần khởi động, một khi đã tác động vào, sẽ chuyển dịch tất
cả mọi thứ trong đời sống của một con người. Bạn là một nhà khoa học? Một người
phóng khoáng? Một kẻ kỳ thị chủng tộc? Ðấy thật đúng là những dạng của niềm tin
khác nhau trong hành động. Niềm tin của bạn sẽ xác định cái nhìn của bạn về thế
giới, chi phối đến tình cảm của mình đối với những đồng loại khác. Nếu bạn nghi
ngờ điều này, hãy thử xem đời mình sẽ thình lình thay đổi ra sao khi bạn trở nên
tin vào một trong những điều sau:
1. Bạn chỉ còn sống được đúng hai tuần nữa.
2. Bạn vừa trúng sổ xố trị giá một trăm triệu dollars.
3. Người hành tinh đã cấy một cái máy trong đầu bạn và khống chế suy nghĩ của
bạn.
Ðấy thuần túy chỉ là những câu chữ - trừ khi bạn tin vào chúng. Một khi đã tin,
những câu chữ ấy trở thành cơ phận chính cho bộ máy suy tưởng của bạn, định đoạt
các ước vọng, nỗi sợ hãi, niềm trông đợi và các hành vi đều hậu quả từ đó.
Tuy nhiên, có lẽ có vấn đề với một số những niềm tin hằng ấp ủ nhất của chúng ta
về thế giới: Các niềm tin đã dẩn dắt chúng ta không một cách không thể cưỡng lại
được đến việc giết hại người khác. Liếc nhìn vào lịch sử, vào bất cứ trang nhật
báo nào, để vạch ra những ý tưởng vốn chia rẽ, phân nhóm nhân loại chúng ta để
chỉ đoàn kết họ vào những giết chóc, thường là có căn nguyên từ tôn giáo. Dường
như nếu loài người chúng ta từng tự tiêu diệt chính mình trong chiến tranh, thì
không phải bởi vì việc ấy đã được viết ra từ trên những vì sao xa xôi mà chính
ngay từ các kinh sách của chúng ta; là những gì chúng ta hành động vì các từ như
“Thượng đế”, “thiên đàng” và “tội lỗi” trong chính hiện tại này khiến định đoạt
đến tương lai của chúng ta.
Hoàn cảnh của chúng ta là như thế này: hầu hết mọi người trên thế gian tin rằng
Ðấng tạo nên vũ trụ đã từng viết một cuốn sách. Bất hạnh là chúng ta đã có quá
nhiều cuốn sách như thế trong tay, mỗi cuốn sách lại độc quyền xác quyết như thể
mình không thể sai lầm được. Con người thường tự tổ chức mình thành những phần
nhóm nhỏ theo những loại xác quyết vốn đố kỵ lẫn nhau nào mà họ từng tin – hơn
là từ căn bản của ngôn ngữ, màu da, nơi sinh quán hay bất cứ các tiêu chuẩn nào
khác của tính bộ tộc. Mỗi văn, kinh bản này thôi thúc người đọc chấp nhận một số
niềm tin và cách thực hành khác nhau, một số niềm tin thì vô hại nhưng đa số còn
lại thì không. Tuy nhiên, tất cả đều ở trong một thỏa thuận ngoan cố về một vấn
đề có tầm quan trọng chủ yếu: sự “tôn trọng” các đức tin khác, quan điểm khác
của những người không tin theo, đều không phải là thái độ mà Thiên chúa yêu
thích. Trong khi ở nơi này nơi khác, tất cả các đức tin đã được đề cập đến trong
tinh thần thống nhất Ki-tô giáo trên toàn cầu, tín điều trọng tâm của mọi truyền
thống tôn giáo rằng tất cả những niềm tin khác loại chỉ là một kho chứa đựng các
sai lầm, hay nói cho đúng nhất là thiếu sót một cách nguy hiểm. Sự bất khoan
dung này ẩn sâu trong mọi tín ngưỡng. Khi một người đã tin, thực sự đã tin -
rằng một số tư tưởng có thể dẫn mình đến hạnh phúc đời đời hay đến chốn ngược
lại, y sẽ không tha thứ cho cái khả năng người mình yêu thương lại bị lạc đường
từ sự tán tỉnh của những kẻ không tin. Xác tín về thế giới bên kia đơn giản là
không thích hợp với lòng tha thứ trong đời sống này.
Tuy vậy, việc bình phẩm về những điều này trực tiếp mang lại khó khăn cho chúng
ta, bởi vì phê bình đức tin của một con người vẫn còn là một điều cấm kỵ trong
mọi ngõ ngách của văn hóa chúng ta. Về chủ đề này, những người phóng khoáng và
thủ cựu cùng đạt đến một đồng thuận hiếm hoi: các niềm tin tôn giáo đơn giản là
đứng trên các phạm vi của bàn luận lý lẽ. Phê bình ý tưởng của một ai về Thiên
chúa hoặc đời sau bị xem như bất lịch sự trong khi cùng một phê bình như thế về
lịch sử hay vật lý học thì không hề gì. Và như thế có nghĩa là khi một kẻ đánh
bom tự sát Hồi giáo xóa sạch dấu vết của chính mình cùng với nhiều người vô tội
khác trên một đường phố ở Jerusalem thì vai trò của đức tin trong hành động của
y luôn luôn được giảm nhẹ. Động cơ của y chắc chắn phải là do chính trị, kinh tế
hoặc hoàn toàn có tính cá nhân. Không có đức tin, những con người tuyệt vọng vẫn
hành động các sự việc khủng khiếp. Còn bản thân đức tin luôn luôn được miễn tội,
ở đâu cũng thế.
Nhưng khoa học kỹ thuật có một phương cách tạo nên các yêu cầu đạo đức mới. Kỹ
thuật tiến bộ của chúng ta trong nghệ thuật chiến tranh cuối cùng phải trao lại
cho các khác biệt tôn giáo – chính từ đây các niềm tin tôn giáo của chúng ta -
đối nghịch lại sự sống còn của chúng ta. Chúng ta không còn có thể làm ngơ trước
sự việc hàng tỉ anh em láng giềng tin vào cái siêu hình của sự tử đạo, hay tin
vào sự thật theo nghĩa đen của kinh Khải huyền, hay là từ bất cứ một quan niệm
lập dị nào đã từng ẩn náu trong những người ngoan đạo suốt hàng nghìn năm - bởi
vì ngày nay láng giềng mình đã trang bị vũ khí sinh học, hóa học và hạt nhân.
Không còn nghi ngờ gì nữa rằng những phát triển này đánh dấu giai đoạn cuối cùng
cho tính cả tin nhẹ dạ của chúng ta. Các từ ngữ như "Thiên chúa” và “Allah” phải
đi theo con đường của “thần Apollo” và “thần Baal” nếu không, thế giới của chúng
ta sẽ phải tiêu tan.
Vài phút lang thang trong nghĩa địa của các tư tưởng tồi sẽ thấy rằng một cuộc
cách mạng về nhận thức như thế là có khả năng. Hãy xem trường hợp của thuật giả
kim: nó đã quyến rũ con người từ nhiều ngàn năm nhưng ngày nay nếu có ai nghiêm
chỉnh nhận mình là một người thực hành giả kim thuật chắc chắn y sẽ tự loại mình
ra khỏi tất cả các vị trí có trách nhiệm trong xã hội chúng ta. Các tôn giáo dựa
trên đức tin lẽ ra cũng phải chịu sự suy thoái tương tự vào lãng quên.
Có một thay thế nào cho tôn giáo mà chúng ta hằng được biết? Đây là một câu hỏi
sai. Ngành hóa học không phải là một “thay thế” cho thuật giả kim; đó là sự đổi
chác hàng loạt của sự ngu dốt lỗi thời nhất của kiến thức chân thực (3). Chúng
ta sẽ nhận ra, như với trường hợp giả kim thuật, rằng nói đến sự “thay thế"đối
với đức tin tôn giáo là trật vấn đề.
Dĩ nhiên, con người của đức tin rơi vào một thể tiếp diễn: một số tìm được khuây
khỏa và cảm hứng từ một truyền thống tôn giáo đặc trưng những vẫn luôn gìn giữ
lòng tận tụy cho sự tha thứ và tính đa dạng, trong khi những người khác sẽ thiêu
cháy cả địa cầu ra tro than nếu như cần phải tiêu diệt kẻ dị giáo. Nói một cách
khác, có tôn giáo ôn hòa, có tôn giáo cực đoan, và không nên nhầm
lẫn về các đam mê cùng các công trình khác nhau của họ. Tuy nhiên, một trong
những trọng tâm của tác phẩm này là, những người ôn hòa tôn giáo chính là đang
tự chống đỡ cho một giáo lý tệ hại: họ tưởng tượng rằng con đường dẫn đến an hòa
sẽ được lát một khi mỗi chúng ta học được cách tôn trọng các niềm tin vô chứng
cứ của kẻ khác. Tôi hy vọng chỉ ra rằng chính cái lý tưởng của vị tha tôn giáo
này – đã đẻ ra ý tưởng rằng mọi con người nên được tự do tin vào bất cứ điều gì
họ muốn tin về Thiên chúa – là một trong các lực chủ yếu kéo chúng ta xuống vực
thẳm.
Chúng ta đã chậm nhận ra cái mức độ mà đức tin tôn giáo đã ghi khắc vĩnh viễn
cái phi nhân tính của con người vào con người. Điều này không ngạc nhiên bởi vì
đa số chúng ta vẫn còn tin rằng đức tin là một bộ phận quan yếu của đời sống con
người. Hiện nay, hai điều hoang đường giữ đức tin vượt qua được các tranh cãi
của phê phán thuộc về lý lẽ, và các huyền thoại này như đã nuôi dưỡng đồng đều
cho cả tôn giáo ôn hòa lẫn chủ thuyết tôn giáo cực đoan: (1) đa số chúng ta tin
rằng con người thực có hưởng được những điều tốt từ đức tin tôn giáo mà không
thể tìm được ở đâu khác (td. Các cộng đồng vững mạnh, cư xử hợp đạo lý, các
chứng nghiệm về tâm linh); (2) đa số chúng ta tin rằng nhiều điều tệ hại đã đôi
lúc xảy ra dưới danh nghĩa tôn giáo không phải là sản phẩm của tự bản thân đức
tin mà là cái gì thuộc bản chất tự nhiên - các động lực như tham lam, hận thù
hay sợ hãi - những thứ mà tự chính niềm tin tôn giáo là thuốc chữa hiểu quả nhất
(ngay cả duy nhất). Những điều hoang đường này, gộp chung lại, dường như đã ban
cho chúng ta sự miễn nhiễm đến các bùng nổ về sự phải quấy trong các cuộc luận
bàn công cộng.
Nhiều người ôn hòa tôn giáo đã xử dụng con đường hiển nhiên cao cả của chủ nghĩa
đa nguyên, đòi hỏi đến giá trị đồng đều của tất cả mọi đức tin, nhưng trong khi
làm như thế, họ tảng lờ không chú ý đến các khẳng định chân lý có tính bè phái
tuyệt vọng của từng đức tin này. Chừng nào người Kitô giáo còn tin rằng chỉ có
những đồng đạo đã rửa tội của mình mới được giải thoát trong ngày phán xét,
người ấy không thể nào “tôn trọng” niềm tin của kẻ khác, bởi vì người ấy hiểu
rằng ngọn lửa địa ngục đã cháy lên ngay từ chính các ý tưởng này và đã chờ đợi
những kẻ tin theo ấy ngay từ bây giờ. Người Hồi giáo và người Do thái thường có
những quan điểm ngạo mạn tương tự từ sự táo bạo của họ và đã nghìn năm nhiệt
thành lập đi lập lại những sai lầm của các đức tin khác. Cố nhiên là những niềm
tin đố kỵ nhau này đều không hề bị ô uế bởi chứng cứ.
Song le, trí thức các loại như H.G.Wells, Albert Einstein, Carl Jung, Max
Planck, Freeman Dyson và Stephen Jay Gould đã tuyên bố rằng cuộc chiến tranh
giữa lẽ phãi và đức tin còn lâu mới chấm dứt được. Theo quan điểm này, không cần
phải có tất cả các niềm tin của chúng ta về sự nhất quán của vũ trụ. Một người
có thể vừa là người Kitô giáo kính sợ Chúa vào ngày chủ nhật lại đồng thời là
một nhà khoa học vào ngày thứ hai mà không hề phải giải thích về sự phân chia
dường như đã tự trồi lên trong đầu mình lúc ngủ, và nếu như điều này có xảy ra,
người này có thể có lý lẻ riêng của mình và ăn mòn nó luôn. Như những phần trước
của cuốn sách này sẽ minh hoạ, chính bởi vì ở phương Tây, các nhà thờ đã đi hàng
hai một cách khôn ngoan để ai cũng có thể nghĩ được bằng cách này. Ở những nơi
mà các học giả có thể bị ném đá cho chết vì dám nghi ngờ sự chân thực của kinh
Koran thì khái niệm của Gould về một “giáo ước thương yêu” giữa lẽ phải và đức
tin đáng phải là một sự đánh lừa tuyệt hảo.(4)
Điều này không phải để bảo rằng những quan tâm sâu sắc của những người ngoan
đạo, ôn hòa hoặc cực đoan, là sai lầm hoặc không đáng kể. Không hề có sự chối bỏ
rằng hầu hết chúng ta đều có những nhu cầu về tâm linh và tình cảm vốn đang được
nhắc đến – dù quanh co và ở một cái giá đắt khủng khiếp - từ những tôn giáo chủ
đạo. Và đây là những nhu cầu mà chỉ riêng hiểu biết của chúng ta, một
cách khoa học hay cách nào khác, sẽ chẳng bao giờ có thể hoàn thiện được. Đây rõ
ràng là một chiều kích thiêng liêng cho sự hiện hữu của chúng ta, và đi đến giới
hạn của sự việc này chính là mục đích cao nhất của con người. Nhưng chúng ta tìm
ra rằng không hề phải cần đến một đức tin trong những tuyên bố không thể kiểm
chứng- như Jesus được sinh ra từ sự đồng trinh; Koran chính là lời của Thượng đế
- để mà thực hiện mục tiêu cao cả đó.
Sự Hoang Đường của “Tính Ôn hòa” trong tôn giáo.
Ý tưởng rằng mỗi tôn giáo của chúng ta đại diện cho những lời không thể sai lầm
được của một Thượng Đế Duy Nhất Thật (One True God) cần được nuôi dưỡng bằng cả
một sự ngu đần có tính bách khoa của lịch sử, thần thoại học, và cả nghệ thuật
nữa – như các niềm tin, lễ nghi và các mô tả tranh tượng của mỗi tôn giáo đã
chứng minh hàng trăm năm giao phấn với nhau. Bất kể các cội nguồn tưởng tượng
của họ từ đâu, các học thuyết của tôn giáo hiện đại không còn biện hộ được hơn
những học thuyết khác vì những sự thiếu mạch lạc, đúc khuôn từ đống phế thải của
thần thoại học hàng nghìn năm trước; bởi vì không còn bằng chứng nào nữa để minh
giải một niềm tin vào sự hiện hữu phàm tục của Yahweh và Satan hơn là đã có để
giữ thần Zeus trên đĩnh núi đăng quang của ngài hoặc Thủy thần sẽ quậy sóng biển
lên.
Theo viện Gallup, 35 phần trăm người châu Mỹ tin Thánh kinh là những lời đúng và
không thể sai lầm của Ðấng tạo hóa (5). 48 phần trăm tin đó là những lời “gợi ý”
của cùng Ðấng ấy và không thể sai lầm được, mặc dù một số chương đoạn đã phải
diễn dịch một cách tượng trưng trước khi sự thật của chúng được mang ra ánh
sáng. Chỉ có 17 phần trăm còn lại trong chúng ta nghi ngờ rằng một Thiên chúa
nhân tính, trong sự thông thái vô hạn của Người, có thể đã soạn văn bản này,
hoặc, vì tầm hệ trọng đó, để tạo nên trái đất này với 250,000 loài bọ khác nhau.
Khoảng 46 phần trăm người Mỹ đứng về phía quan điểm nghĩa đen của sự sáng thế
(40 phần trăm tin Thiên chúa đã hướng dẫn sự sáng tạo thế gian thông qua hàng
triệu năm). Ðiều này có nghĩa là 120 triệu chúng ta đặt sự kiện big bang vào
2500 năm sau khi người Babylon và Summerian biết học làm bia bọt. Nếu các
con số thăm dò này là đáng tin cậy, gần 230 triệu người Mỹ tin rằng một cuốn
sách không đồng nhất trong văn cách lẫn tính nhất quán nội dung đã được một đấng
toàn năng, toàn trí và hiện hữu ở mọi nơi chốn soạn thảo ra. Một cuộc khảo cứu
về Ấn độ giáo, Hồi giáo và Do thái giáo khắp thế giới chắc chắn cũng sẽ mang đến
một kết quả tương tự, cho thấy rằng chúng ta, như một loài sinh thể, đã trưởng
thành được một cách hoàn hảo không hề vẩn đục bởi các hoang đường thần thoại của
chúng ta. Trong riêng lãnh vực này của đời sống, chúng ta đã tự thuyết phục được
chính mình rằng các niềm tin về thế giới này có thể trôi đi thong dong hoàn toàn
không cần đến một lý lẽ, một bằng chứng nào. Như thế là như thế nào?
Chính vì tôn trọng hơn là ngạc nhiên đến bối cảnh của nhận thức này mà chúng ta
phải phân định rõ thế nào là một người tôn giáo “ôn hòa” ở thế kỷ hai mươi mốt
này. Những người ôn hòa trong mọi đức tin buộc phải giải thích lỏng lẻo (hoặc
đơn giản cứ giả vờ quên đi) hầu hết những giáo điều vì các quyền lợi của cuộc
sống trong một thế giới tân tiến. Không còn nghi ngờ gì rằng có một thứ chân lý
kinh tế tối tăm đang tác động ở đây: các xã hội có vẻ trở nên kém phát triển một
cách đáng kể mỗi lúc có một số đông người ngừng sản xuất các widget và bắt đầu
giết hại khách hàng và các chủ nợ của mình vì họ dị giáo. Ðiều đầu tiên để nhận
xét về sự rút lui của người ôn hòa từ chủ nghĩa đọc thánh kinh theo nghĩa đen là
ở chỗ họ rút ra được cảm hứng không phải từ kinh sách mà từ các phát triển xã
hội vốn được diễn dịch từ những phát biểu của Thiên chúa vốn khó chấp nhận như
đã được viết ra trong kinh sách. Ở Mỹ, phong trào ôn hòa tôn giáo còn được mạnh
hơn từ sự thực là đa số người Mỹ và người Do thái không hề đọc Thánh kinh trọn
vẹn và hậu quả là họ không biết gì về việc Thiên chúa của Abraham dứt khoát mãnh
liệt muốn những kẻ dị giáo phải bị triệt tiêu. Ai đọc sách Ðệ nhị luật sẽ tìm
thấy Người có một điều gì rất đặc biệt trong suy nghĩ nếu như con trai, con gái
bạn trở về nhà sau buổi học Yoga mà dám bênh vực cho sự sùng kính đấng Krishna:
Nếu anh em của ngươi, con trai của mẹ ngươi, hay con
trai, con gái của ngươi, người vợ ôm ấp của ngươi, bạn thân như chính bản thân
mình của ngươi, bí mật lén lút cám dỗ ngươi mà nói rằng “Chúng ta hãy đi phụng
thờ các thần chúa khác”,… ngươi không được ưng thuận, nghe lời hay nhường bước
chúng nó, không được thương hại chúng, không được tha thứ chúng, không được dấu
giếm bao che chúng mà phải giết chúng đi. Tay ngươi phải là bàn tay đầu tiên
trước tất cả mọi người khác để giết chúng chết đi.Nó phải chết bởi vì đã tìm
cách lôi kéo ngươi ra khỏi đất Ai cập, rời khỏi cảnh nô lệ… Nếu ngươi nghe thấy,
nơi một trong những thành mà Thiên chúa đã ban cho ngươi để ở, rằng có những kẻ
phát xuất từ các ngươi và lôi kéo dân cư mà bảo rằng “Mình hãy đi thờ phụng
những thần chúa khác” những thần, chúa mà ngươi không được biết thì các ngươi
phải điều tra, xem xét, tra hỏi kỹ lưỡng để chắc rằng đã có điều đáng ghê tởm
như thế từng được thực hiện giữa các người,thì chắc chắn rằng ngươi phải đặt
những cư dân ấy dưới lưỡi gươm, hủy diệt đến tận cùng, tất cả mọi người trong
thành cùng nhà cửa dinh thự.
DEUTERONOMY 13:7-11
Dù việc ném đá vào trẻ con đã trở nên lỗi thời trong đất
nước chúng ta, bạn cũng không hề nghe một người Kitô giáo ôn hòa hay một người
Do thái tranh cãi gì về việc đọc các chương đoạn như thế này “một cách tượng
trưng”. (Thực ra, có một đoạn đã bị ngăn chặn dứt khoát bởi chính Thiên chúa
trong sách Ðệ nhị luật 13:1 – "Bất cứ điều gì ta ra lệnh cho ngươi bây giờ,
ngươi phải giữ lấy và tôn trọng, không thêm thắt, không bỏ đi gì cả” ) Chương
trên đây đã hợp quy tắc giáo hội như bất cứ chương nào khác trong Thánh kinh, và
nó đã được như thế chính từ việc tảng lờ đi những hành vi man rợ để cuốn sách
tốt lành có thể hòa giải được với cuộc sống trong thế giới tân tiến. Ðây là vấn
nạn của “ôn hòa” trong tôn giáo: nó không có cái gì để bảo hiểm mình hơn là sự
tảng lờ không thừa nhận về nghĩa chữ của luật thánh.
Lý do duy nhất của một ai “ôn hòa” trong vấn đề đức tin ngày nay là kẻ ấy đã
tiêu hóa một số hoa trái của tư tưởng nhân loại suốt hơn hai nghìn năm qua (các
nền chính trị dân chủ (6), các tiến bộ của khoa học trên tất cả mọi mặt, các
quan tâm về nhân quyền, sự chấm dứt các cô lập về văn hóa và địa lý, v.v…). Cánh
cửa dẫn ra khỏi chủ nghĩa kinh bản nghĩa đen không được mở ra tự bên trong.
Sự ôn hòa chúng ta nhìn thấy giữa những kẻ không chính thống không phải là những
chỉ dấu cho thấy đức tin tự nó đang chuyển hóa. Ðúng hơn, nó là sản phẩm sau
nhiều cú đánh trí mạng của nền hiện đại khiến lộ diện ra một số tín điều trở nên
đáng nghi hoặc của đức tin. Không một chút gì tối thiểu trong những diễn biến
này là sự xuất hiện xu hướng nhằm đánh giá chứng cớ hoặc bị thuyết phục bởi
những xác nhận đến mức thực sự tin có bằng chứng cho việc ấy. Ngay đa số những
người thuộc tôn giáo chính thống sống trong ánh sáng hợp lý về mặt này; dường
như lý trí của họ đã phải phân chia ra sao cho phù hợp với những khẳng định sự
thật vốn hoang phí về đức tin của mình. Bảo một người Kitô giáo sùng đạo rằng vợ
anh đang gian dối anh, hoặc ăn sữa chua đông lạnh có thể làm anh trở nên vô
hình. Như mọi người, hầu như anh ta sẽ đòi hỏi các bằng chứng càng nhiều càng
tốt, và anh chỉ có thể bị thuyết phục trong giới hạn của những bằng chứng mình
có thể tìm được. Bảo anh ta rằng cuốn kinh sách anh giữ ở đầu giường được viết
bởi một đấng thần linh vô hình và đấng này sẽ trừng phạt anh bằng ngọn lửa địa
ngục miên viễn nếu anh ta không chấp nhận các khẳng định tồi tệ về vũ trụ thì
anh ta lại sẽ không đòi hỏi bằng chứng gì cả.
Ôn hòa tôn giáo phát sinh từ sự thật là ngay cả một người ít học nhất giữa chúng
ta cũng hiểu biết nhiều hơn về một số sự thể mà ai đó đã thực hiện từ hai ngàn
năm trước – và hầu hết kiến thức này đều tương thích với kinh sách. Nếu được
nghe hiểu về các khám phá của y học trong thế kỷ qua, tất cả chúng ta không ai
còn coi quá trình bệnh tật như một thứ tội lỗi hay là quỷ ám nữa. Ðược học hiểu
về khoảng cách của các vật thể trong vũ trụ, hầu hết chúng ta (đúng ra là khoảng
một nửa chúng ta) nhận ra ý tưởng cho rằng tất cả vạn vật đã được tạo nên sáu
ngàn năm trước (với ánh sáng từ các vì sao xa xôi đã sẵn sàng để chuyển xuống
địa cầu) thì thật không thể nào xem là nghiêm chỉnh được. Những nhượng bộ đối
với cái hiện đại như vậy không hề cho thấy đức tin không hề thích hợp một chút
nào với lẽ phải, hay các tôn giáo của chúng ta đang có căn bản để học hỏi những
cái mới. Ðó chính là cái lợi ích của sự tảng lờ (hay phiên dịch lại) một số chủ
đề của đức tin đang tràn ngập hiện nay. Bất cứ ai phải bay đến một thành phố
khác để giải phẩu heart-bypass đã thừa nhận, hoặc tối thiểu là ngầm thừa nhận
rằng, kể từ thời Moses đến nay, chúng ta đã thực sự học hỏi được một số điều về
vật lý học, địa lý, kỹ thuật và y học.
Do đó, không phải là các văn bản ấy giữ được sự vẹn toàn với thời gian (chúng
vốn không giữ được như thế) mà chính là vì chúng đã được biên soạn một cách hiệu
quả từ sự tảng lờ của chúng ta đối với một số chương đoạn. Hầu hết những chương
đoạn còn lại – các phần tốt – đã được tha miễn khỏi sự sàng lọc tương tự bởi vì
chúng ta chưa có được sự hiểu biết thực cận đại về các cấu thành luân lý của
chúng ta và năng lực của chúng ta đối với kinh nghiệm tâm linh. Nếu chúng ta có
hiểu biết tốt hơn về các công việc của não bộ con người, chúng ta chắc chắn sẽ
khám phá ra những liên kết đúng giữa tình trạng ý thức của chúng ta và cung cách
ứng xử của chúng ta và có thể xử dụng nhiều phương cách khác nữa cho các chú tâm
của chúng ta. Cái gì khiến cho người này hạnh phúc hơn người kia? Tại sao yêu
thương có ích lợi hơn là oán ghét? Tại sao chúng ta thường thích vẻ đẹp hơn là
sự xấu xí, thích trật tự hơn là náo loạn? Tại sao lại cảm thấy sung sướng để mỉm
cười hay cười vang lên và tại sao khi chia xẻ những kinh nghiệm này sẽ mang con
người lại gần nhau hơn? Phải chăng cái tôi là một ảo giác, và, nếu là ảo giác,
cái tôi muốn ám chỉ cái gì cho đời sống con người? Có một đời sống khác sau khi
chết hay không? Ðấy là những câu hỏi chủ yếu, cuối cùng, cho một nền khoa học
trưởng thành của tâm hồn. Nếu chúng ta đã từng khai triển được một nền khoa học
như thế, thì hầu hết các văn bản tôn giáo đã không còn ích lợi cho sự huyền bí
hay cho thiên văn học như hiện nay.
Trong khi sự ôn hòa trong tôn giáo có vẻ như là một vị trí hợp lý để khoanh
vùng, trong ánh sáng của tất cả những gì chúng ta từng (và chưa từng) hiểu biết
về vũ trụ, ôn hòa tôn giáo không mang lại được bức tường thành ngăn cản cực đoan
tôn giáo và bạo hành tôn giáo. Từ bối cảnh của những ai tìm cách sống với từng
từ ngữ của các văn bản, những người ôn hòa tôn giáo không khác hơn là một người
chính thống thất bại. Người ấy, có nhiều khả năng, sẽ đi đến chung cuộc trong
cõi địa ngục cùng với tất cả những kẻ không tôn giáo khác còn lại. Cái vấn nạn
mà ôn hòa tôn giáo mang đến với chúng ta là họ không cho phép được nói lên một
điều gì chống lại chủ nghĩa tôn giáo nghĩa đen. Chúng ta không thể bảo rằng
người chính thống là điên bởi vì họ chỉ đơn thuần thực hành quyền tự do tin của
mình, ngay cả chúng ta không thể bảo rằng họ đang sai lầm trong các phạm trù
tôn giáo, bởi vì kiến thức về kinh sách của họ thường là vô địch. Tất cả những
gì chúng ta có thể nói, như một người ôn hòa tôn giáo, là chúng ta không thích
các phí tổn cá nhân và xã hội hoàn toàn theo kinh sách đang bắt chúng ta phải
gánh chịu. Ðây không phải một hình thức mới của đức tin, hoặc ngay cả không phải
là một phạm trù mới của bình giải kinh sách. Nó đơn giản chỉ là một sự thỏa hiệp
với một loạt những quyền lợi quá-con-người mà chủ yếu không có gì liên quan đến
Thiên chúa. Tôn giáo ôn hòa là sản phẩm của kiến thức thế tục và sự ngu xuẩn
kinh sách – và tôn giáo ôn hòa không có thiện ý, trong điều kiện tôn giáo, để
đặt nó ngang hàng với trào lưu chính thống (7). Bản thân các văn tự không mang
hai nghĩa: chúng hoàn hảo trong tất cả các phân đoạn. Từ ánh sáng của kinh sách,
ôn hòa tôn giáo đã phô bày cho thấy chẳng khác gì hơn là một sự không tự nguyện
quy phục hoàn toàn vào luật Thiên chúa. Chính từ thất bại trong việc sống theo
từng nghĩa chữ của kinh sách, trong khi lại tha thứ cái phi lý của những người
tuân phục kinh sách, ôn hòa tôn giáo đã phản bội cả đức tin lẫn lẽ phải. Trừ khi
các giáo lý cốt tủy của đức tin được đem ra để xét hỏi – như, rằng chúng ta biết
có một Thiên chúa, biết Người muốn gì nơi mình- còn thì ôn hòa tôn giáo sẽ chẳng
làm gì để dẫn chúng ta ra khỏi chốn hoang dại.
Những việc làm tốt đẹp của hầu hết những người ôn hòa tôn giáo không hề cho thấy
đức tin tôn giáo là một điều gì tuyệt vời hơn cuộc hôn nhân tuyệt vọng giữa hy
vọng và ngu dốt, cũng chẳng bảo đảm rằng sẽ không phải trả một giá đắt cho việc
giới hạn phạm vi của lẽ phải trong cư xử với tha nhân của chúng ta. Ôn hòa tôn
giáo, trong mức độ mà nó tiêu biểu cho một nỗ lực muốn bám chặt lấy cái vẫn có
ích lợi trong tôn giáo chính thống, đóng lại cách cửa để các tiếp cận giả dối
hơn đến tâm linh, luân lý và sự xây dựng những cộng đồng vững mạnh. Ôn hòa tôn
giáo dường như tin rằng cái chúng ta cần không phải là sự thấu hiểu, cấp tiến và
đổi mới trong những lãnh vực này mà chỉ là thuần một sự pha loãng của triết học
thời đại đồ sắt. Thay vì mang lại tất cả năng lực sáng tạo và lý trí của chúng
ta để chống đỡ giải quyết các vấn nạn của luân lý, liên kết xã hội và ngay cả
các kinh nghiệm tâm linh, những người ôn hòa tôn giáo chỉ đơn thuần yêu cầu
chúng ta nới lỏng các tiêu chuẩn liền lạc đối với các cấm kỵ và mê tín cổ đại,
trong khi vẫn duy trì một hệ thống niềm tin vốn đã được truyền đến chúng ta từ
những con người nam, nữ mà đời sống của họ đã chỉ đơn giản bị tàn phá bởi những
ngu dốt căn bản của họ về thế giới. Những quỵ lụy với truyền thống như thế sẽ
đuợc chấp thuận trong không gian nào của đời sống? Trong Y học?, Kỹ thuật? Không
chỉ riêng chính trị phải chịu đựng sự lỗi thời vốn đang thống trị suy nghĩ của
chúng ta về giá trị luân lý và kinh nghiệm tâm linh.
Thử tưởng tượng nếu chúng ta có thể làm sống lại một người Kitô giáo học thức
cao rộng của thế kỷ thứ mười bốn. Người ấy sẽ chứng tỏ cả một sự ngu dốt trên
mọi lãnh vực, trừ lãnh vực của đức tin. Các niềm tin của kẻ ấy về địa lý, thiên
văn và y học sẽ làm xấu hổ đến ngay cả đứa con nít, nhưng y sẽ hiểu biết không
ít thì nhiều tất cả những điều gì cần biết về Thiên chúa. Dù y có thể bị coi như
một kẻ khờ khạo vì tin rằng địa cầu là trung tâm của vũ trụ hay việc khoan sọ là
một sự can thiệp y học sáng suốt và các ý tưởng tôn giáo của y vẫn đứng ngoài
mọi quở trách. Có hai cách giải thích cho sự việc này: hoặc là vào một ngàn năm
trước – khi kiến thức chúng ta trên tất cả các mặt khác, vẫn còn phôi thai,
chúng ta đã hoàn thiện được hiểu biết tôn giáo của mình về thế gian; hoặc tôn
giáo vốn chỉ thuần tuý là sự cưu mang, duy trì một tín điều, là một lãnh vực bàn
luận không cho phép đến sự tiến bộ. Chúng ta sẽ thấy có rất nhiều điều để nói
đến về quan niệm sau.
Mỗi năm trôi qua, các niềm tin tôn giáo của chúng ta có duy trì bảo quản được
nhiều hơn dữ liệu về kinh nghiệm của con người không? Nếu tôn giáo nhắm đến một
khu vực chân thực của hiểu biết và nhu cầu con người, thì tôn giáo có thể kham
được sự tiến bộ, học thuyết của tôn giáo nên trở thành hữu ích hơn thay vì là
kém đi. Tiến bộ trong tôn giáo, cũng như tiến bộ trong các lãnh vực khác, phải
nên là một nội dung của sự tra vấn hiện tại, chứ không phải chỉ là sự lập lại
của một học thuyết lỗi thời. Bất cứ cái gì đúng với hiện tại phải nên khám phá
được trong hiện tại và diễn tả được trong các phạm trù không phải là sự sỉ nhục
trực tiếp đến những gì chúng ta đang biết được về thế gian. Với tiêu chuẩn này,
toàn bộ công trình tôn giáo tựa như thật sự thoái bộ. Tôn giáo không tồn tại
được dưới những đổi thay đã đến với chúng ta - về văn hóa, khoa học kỹ thuật –
và ngay cả về luân lý học. Nói cách khác, có ít lý do để tin rằng chúng ta có
thể cứu sống được tôn giáo.
Những người ôn hòa không hề muốn giết hại ai nhân danh Thượng Đế, nhưng họ muốn
chúng ta tiếp tục dùng từ “Thượng Đế” như thể chúng ta phải biết mình đang nói
về ai. Và họ không muốn bất cứ những lời phê phán thái quá về những người thực
sự tin vào Thiên chúa của tiền nhân mình, bởi vì có lẽ, lòng khoan dung, trên
tất cả mọi điều khác, là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Để nói thẳng thắn và
công khai về tình trạng của thế giới chúng ta – thí dụ như để nói rằng Kinh
thánh và kinh Koran chứa đựng một núi những điều lắp bắp, vô nghĩa và hủy diệt
đời sống – là một phản đề với lòng khoan dung như những người ôn hòa đang tưởng
tượng. Nhưng chúng ta không thể kham nổi cái xa xỉ của sự phải đạo chính trị đó
nữa. Chúng ta phải ý thức được cái giá cuối cùng phải trả để duy trì cái ảnh
tượng ngu xuẩn của mình.
(còn tiếp)
Chú thích:
(1) Như chúng ta sẽ thấy trong phần 4, các đoán biết cho thấy đa phần là y không
thuộc về một thành phần thấp kém trong xã hội.
(2) Một số độc giả có thể phản đối vì cho rằng người đánh bom này nhiều khả năng
là một phần tử của Phong trào giải phóng Tigers của Tamil Eelam - Tổ chức ly
khai Sri Lanka đã gây ra nhiều hành vi khủng bố tự sát hơn tất cả các nhóm khác.
Quả thực, tổ chức “Tamil Tigers” thường được dùng như một thí dụ phản lại tất cả
những tố cáo nào cho rằng những kẻ khủng bố tự sát là sản phẩm của tôn giáo.
Nhưng để mô tả nhóm Tamil Tigers như một tổ chức thế tục – như R. A. Pape, “The
Strategic Logic of Suicide Terrorism” trong American Political Science Review
97, số 3 (2003): trang 20-32, và những học giả khác- chính là một sự đánh
lừa. Dù động cơ của Tigers không rõ ràng vì tôn giáo nhưng họ là những người Ấn
độ giáo vốn tin tưởng mù quáng vào nhiều điều không đúng đắn về bản chất của đời
sống và sự chết. Sự sùng bái tử đạo mà họ đã nuôi dưỡng trong nhiều thập niên
mang nhiều đặc tính tôn giáo rằng người ta có thể tin vào việc con người sẵn
lòng hy sinh dễ dàng mạng sống của mình cho một lý tưởng. Những người thế tục
Tây phương thường đánh giá thấp đến một số nền văn hóa ở mức độ họ mê mải như
thể ở trong một thế giới khác, nhìn về cái chết với ít sợ hãi hơn là có vẻ hoàn
toàn lý trí. Một lần tôi đi du lịch qua Ấn độ khi chính phủ sở tại đã sửa lịch
thi cử cho các học sinh muốn thi vào ngành phục vụ dân sự: Cái mà đối với tôi
đúng là những chuyện nhỏ nhặt của bất tiện hành chánh đã xô đẩy cả làn sóng
thanh thiếu niên phải quên mình mà phản đối. Những người theo Ấn giáo Hindu,
ngay cả những người vốn có thiên kiến như một người căn bản trần tục, thường
nuôi dấu những niềm tin tôn giáo mạnh mẽ.
(3) Ở đây tôi đang nói đến về “Thuật giả kim” như một thành phần của các kỹ
thuật luyện kim, hóa kim hoang đường thời thượng cổ với mục đích chuyển hóa các
kim loại sắt thép thường thành vàng ròng và các vật chất trần tục thành ra một
loại “thuốc tiên”. Cũng đúng khi có người cho rằng các tài liệu về thuật giả kim
đã tiên tri được các sự thực hiện đại nhất của các ngành vật lý thể rắn, ngành
dược lý học, và một số nguyên lý khác. Tuy nhiên tôi không hứng cảm lắm từ những
kết quả như tài liệu của Rorsach. Tuy nhiên, hãy đọc T. McKenna, The Archaic
Revival ([San Francisco]: Harper San Francisco, 1991), Food of the Gods: The
Search for the Orginal Tree of Knowledge (New York: Battam book, 1992), và
True Hallucinations ([San Francisco]: Harper San Francisco, 1993) để tìm
thấy một minh chứng của một tâm thức sáng sủa và đẹp đẽ đã từng nghiêm túc với
việc đánh giá lại môn Thuật giả kim.
(4) Theo S. J. Gould, trong “Nonoverlapping Magisteria”. Natural History,
số tháng Ba 1997.
(5) Theo G. H. Gallup Jr., Religion in America 1996 (Princeton: Princeton
Religion Research Center, 1996)
(6) Ðiều này không phải để chối bỏ việc có những vấn nạn đối với nền dân chủ,
đặc biệt khi dân chủ được mang ứng dụng quá sớm vào các xã hội vốn đang có tỉ lệ
trẻ em tử vong cao, kém dân trí, có tư tưởng bè phái, chủng tộc sâu sắc và kinh
tế kém ổn định. Rõ ràng có những thứ đại loại như một thể chuyên quyền rộng
lượng, và thể loại này có thể là một giai đoạn trung gian trong sự phát triển về
chính trị của nhiều xã hội. Xin đọc R. D. Kaplan, “Was Democracy Just a Moment
?”, Atlantic Monthly, tháng 12. 1997, trang 55-80, và đọc F. Zakaria,
The Future of Freedom: Illiberal Democracy at Home and Abroad (New York:
W.W. Norton, 2003).
(7) Theo Bernard Lewis, trong “The Revolt of Islam” New Yorker, 19 Tháng
11, 2001, tr. 50-63, và theo The Crisis of Islam: Holy War and Unholy Terror
(New York: Modern Liberary, 2003), đã vạch rõ rằng thuật ngữ “Chủ nghĩa chính
thống” đã được đặt ra bởi những người theo Thệ Phản giáo Mỹ và có thể trở nên
sai lạc khi dùng với các đức tin khác. Ðối với tôi tuy rằng dường như thuật ngữ
này đã thoát vào trong các xữ dụng rộng rãi, hiện thời nó vẫn biểu thị cho bất
cứ thứ loại nào của chủ nghĩa kinh thánh nghĩa đen. Tôi xử dụng thuật ngữ ấy
trong chính ý nghĩa này. Các vấn nạn của việc xử dụng các nhóm chữ ấy đặc biệt
trong Hồi giáo sẽ được nhắc đến trong chương 4.
nguồn https://www.x-cafevn.org/node/2218