Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I- Hoa Kỳ và Việt Nam 1940- 1950

Hồ sơ giải mật

Nguyễn Quốc Vĩ

http://sachhiem.net/SACHNGOAI/snN/NguyenQuocVi_05.php

23-Feb-2014

1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11  12  

I. B phần 1: Nguồn gốc của Việt Minh

Những phong trào chính trị ở Việt Nam thời kỳ trước Thế Chiến II

Tình hình chính trị trong những năm 1920 và năm 1930

Trong tám mươi năm Pháp thống trị Việt Nam sản lượng gạo đã không tăng tính trên mẫu Anh, nếu so với cùng độ mầu mỡ đất đai của Việt Nam, năm 1940, là mức thấp nhất trên thế giới. Dân số Việt đã tăng gấp hai lần mức tăng của sản lượng gạo từ vùng đất canh tác mới. Như vậy, việc Pháp xưng tụng rằng chủ nghĩa Đế Quốc của họ đã nâng mức sống của người Việt Nam là không đứng vững, đã không có bằng chứng nào cho thấy họ đã cải thiện chế độ ăn uống của nhân dân, hoặc giải quyết vấn đề nạn đói thường xuyên xảy ra. Trong thực tế, những người nông dân nông thôn vào những năm 1940 đã có hoàn cảnh xã hội khó khăn hơn so với tổ tiên của họ, trong đó xã hội phong kiến tiền thuộc địa với nền kinh tế tự cung tự cấp đã cung cấp tốt hơn cho nhu cầu cơ bản của [tổ tiên] họ về mặt chính trị, kinh tế và xã hội. Hơn nữa, chủ nghĩa trọng thương mới của Pháp, trên thực tế, đã giao cho Ngân Hàng Đông Dương một vai trò quan trọng trong chính sách thuộc địa [của Pháp]. Ngân Hàng này là một độc quyền của Pháp, gần như là một ảnh hưởng không may cho Việt Nam như những người cộng sản đã mô tả nó; ít nhất, với chính quyền thuộc địa, nó [Ngân Hàng Đông Dương] bảo vệ vị trí kinh tế Pháp thông qua việc ngăn chặn tính di động về xã hội và chính trị của Việt Nam. Người Việt được tham gia hợp pháp những doanh nghiệp trong nước với rất nhiều yếu kém, và được làm tất cả ngành nghề trừ ngành ngoại thương. Trước thế chiến II rất ít tác giả không phải là người Pháp đã mô tả chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam như được mô tả bởi Karl Marx. Ví dụ, quan chức người Mỹ gốc Áo, Joseph Buttinger, đã mô tả những đặc trưng của xã hội và chính trị Việt Nam vào cuối những năm 1930 như sau:

“Sự nghèo khổ là rất cao cho hầu hết các nông dân và tất cả các tá điền, không chỉ nạn nhân mãn xảy ra ở Bắc và Trung Kỳ, mà còn ở Đàng Trong, nơi được coi là phong phú hơn nhiều so với bốn quốc gia Đông Dương khác, nó [Đàng Trong] đóng góp 40% ngân sách chung. Gánh nặng kinh tế của nhà cầm quyền Pháp, theo một nhà văn người Anh đương đại, chủ yếu là nằm trên vai của nông dân, và nhu cầu tài chính, với tỷ lệ sinh sản ngày càng tăng, dẫn đến sự nghèo khổ ngày càng tăng của nông thôn, một quá trình minh họa bằng thực tế rằng nợ nông thôn tại Nam Kỳ một mình tăng từ 31 triệu đồng bạc Đông Dương năm 1900 lên đến 134 triệu đồng trong năm 1930.

"Tuy nhiên không có phán quyết nào nghiêm trọng cho sự thất bại của người Pháp về việc chống lại đói nghèo ở nông thôn hơn một báo cáo khô khan của một cơ quan Pháp về điều kiện sống ở Việt Nam. “Đó chỉ là trong những thời gian lao động nông nghiệp bận bịu nhất [mùa cấy, gặt]", E.Lerich đã viết như thế trong một nghiên cứu được công bố vào năm 1942, có nghĩa là chỉ một phần ba của năm và đặc biệt là khi thu hoạch, người dân có đủ để ăn.

“Nỗ lực đầy đau khổ của người nông dân, một người Việt Nam yêu dân tộc thuần phục [trong guồng máy] đã viết trong những năm 1920, không được trả công bằng cuộc sống no đủ, vì vậy anh ước mơ được “hạnh phúc hơn, công bằng hơn”. Không thể nghi ngờ rằng chắc chắn anh ta đã hành động. Nhưng những gì những người dân tộc chủ nghĩa đã không nhìn thấy vào những năm 1930, là người nông dân đã rất sẵn sàng ra khỏi giấc mơ để xông vào hành động. Lúc ấy họ sẽ lắng nghe bất cứ phe phái nào có nhà lãnh đạo đã sẵn sàng lấy đấu tranh cho người nghèo làm cương lĩnh chính trị. Thật không may, điều này chỉ được nắm bắt bởi những người cộng sản. Khi họ tuyên bố rằng cuộc đấu tranh cho độc lập có thể có ý nghĩa cho người nghèo chỉ khi độc lập nhằm mục đích cải thiện điều kiện xã hội của họ [người nghèo], những người cộng sản đã giành chiến thắng vòng đầu trong cuộc chiến giành phần lãnh đạo với phe quốc gia chủ nghĩa. “ 2/

Cộng sản, tuy nhiên, không phải chỉ là phong trào chính trị Việt Nam duy nhất tích cực tìm cách thay đổi mối quan hệ với thực dân Pháp. Ba loại lực lượng chính trị có thể được xác định:

Các phong trào chính trị Việt Nam chính năm 1920 – 1940 (với năm thành lập) 3/

Nhóm chủ trương cải cách hệ thống [cai trị của] Pháp

Đảng Lập Hiến (1923)

Đảng Nhân Dân Tiến Bộ Việt Nam (1923)

Đảng Dân chủ (1937)

Đảng Xã hội (1936)

Nhóm Giáo Phái

Cao Đài (1920)

Hòa Hảo (1939)

Đảng chủ trương Cách Mạng và Độc Lập Dân Tộc

Việt Nam Quốc Dân Đảng (1927)

Việt Nam Cách Mạng Đảng (1927) – giải tán (1930)

Việt Nam Tân Cách Mạng Đảng (1928) – giải tán (1930)

Đảng Cộng Sản Đông Dương (1930)

Phong trào Trốt Kít (1931)

Việt Nam Quang Phục Hội (1931)

Phe cải cách mạnh nhất tại Nam Kỳ nơi mà người Pháp quản lý trực tiếp không như là do người Việt ở Trung Kỳ hoặc Bắc Kỳ, và, có lẽ họ cảm thấy an toàn hơn trong vòng kiểm soát của Pháp, được có những hoạt động chính trị ở Việt Nam nhưng [chính những hoạt động đó] lại bị cấm ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, không phong trào cải cách nào có được một cơ sở quần chúng, và tất cả đều suy tàn vào lúc bắt đầu của cuộc chiến tranh Thế giới II.

Các giáo phái cũng là một hiện tượng [đặc thù] của Nam Kỳ, nhưng không giống như phe nhóm cải cách, họ được rộng rãi nhân dân ủng hộ. Giáo phái Cao Đai nhanh chóng đặt cơ sở trong những năm cuối 1920 và 30, và đã trở thành một lực lượng chính trị chính danh giữa các nông dân trong tỉnh Tây Ninh (phía Tây Bắc của Sài Gòn) và ở đồng bằng sông Cửu Long. Giáo phái Hòa Hảo phát triển nhanh chóng từ khi thành lập vào cuối năm 30 trong vùng những nông dân phía Tây Nam đồng bằng sông Sài Gòn.

Các nhóm cách mạng, ngược lại, tập trung chủ yếu ở miền Bắc, mang tính triệt để và hình thái bí ẩn là hai điều cần thiết – trong hoàn cảnh các chính sách đàn áp của Pháp và của Pháp thông quan hệ thống quan lại mà họ cai trị -- và chịu ảnh hưởng của các tư tưởng nước ngoài, đặc biệt là từ Trung Quốc, và từ các trường đại học ở Hà Nội và Huế. Tất cả các nhóm cách mạng đều có sự tham gia tích cực của người Việt Nam ở nước ngoài. Việt Nam Quang Phục Hội chủ yếu có trụ sở tại Nhật (và cuối cùng trở thành cỗ xe hỗ trợ cho việc Việt Nam gia nhập vào khối Thịnh Vượng Đại Đông Á). Còn lại chủ yếu dựa trên Trung Quốc, và bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi triết lý của Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch của Quốc Dân Đảng, và đảng Cộng sản Trung Quốc của Mao Trạch Đông. Trong các nhóm, chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đạt được quyền lực chính trị thực sự, nhưng ngay cả những đảng này cũng không thành công trong việc đánh đuổi sự thống trị của Pháp; những thất bại được biết đến của họ, tuy nhiên, đã cho thấy những tiền đề chính trị của Việt Nam hiện đại.

2) Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ)

Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDD) thành lập vào năm 1927 chủ yếu là từ giới trẻ Việt Nam bất mãn trong các phong trào, chẳng hạn như Hiệp hội Cách mạng không hiệu quả và các tổ chức cộng sản thời sơ khai bị chi phối bởi những người thuộc thế hệ quan lại cổ xưa còn giữ những suy nghĩ trên trời. Các đảng viên VNQDD tự hào về việc xác định họ là giai cấp nông dân Việt Nam, và rập theo mô hình của Quốc Dân Đảng [Trung Hoa]: chi bộ và bí mật, tranh đấu theo cương lĩnh "Dân chủ, Dân tộc, và Dân sinh" của Tôn Dật Tiên. Như mô tả trong sơ đồ (hình 1) 4/. Lịch sử của Quốc Dân Đảng là một trong những đảng bị nhiều phân hóa - đều từ cả hai việc là tranh chấp phe phái và các hành động truy bức của Pháp -- và sáp nhập vào các phong trào khác. Trong cách nhìn của một ai đánh giá dòng lịch sử, Quốc Dân Đảng bắt nguồn từ một trong vài anh hùng dân tộc người Việt Nam thời hiện đại, Phan Bội Châu, từ một phong trào người Việt ở Vân Nam do một đệ tử của Phan Bội Châu là Lê Phú Hiệp; và từ một nhà xuất bản có khuynh hướng Quốc Dân Đảng gọi là Thư viện An Nam. Quốc dân Đảng lúc đầu là một đảng ở Bắc Kỳ, nhưng đã trở thành liên minh với Việt Nam Cách Mạng Đảng của Trung Kỳ (và, trong một mức độ nhỏ, cùng một đảng ở Nam Kỳ). Mối quan hệ [giữa các đảng] không bao giờ lên tới nhiều hơn là liên lạc, và trung tâm Quốc Dân Đảng vẫn là Bắc Kỳ. Tuy nhiên, họ đã có một số lượng [đảng viên] đáng kể, và đã thành công trong việc thành lập một số tế bào trong số người Việt Nam phục vụ trong lực lượng vũ trang Pháp. Năm 1930 các nhà lãnh đạo Quốc Dân Đảng, Nguyễn Thái Học, đã ra lệnh một cuộc tổng nổi dậy chống Pháp.

http://vnthuquan.net/userfiles/images/hinh%20bia%20sach/vn1.png

Ngày 10 Tháng Hai, 1930, cuộc khởi nghĩa bắt đầu với một cuộc binh biến của quân đội tại Vĩnh Yên, và lây lan trên toàn Bắc Kỳ. Pháp phản ứng nhanh chóng, hiệu quả và tàn khốc. Nguyễn Thái Học đã bị bắt và xử tử [chặt đầu cùng 12 Liệt Sĩ Yên Bái khác], cùng lúc hàng trăm Quốc Dân Đảng khác cấp thấp hơn trốn sang Trung Quốc. Đến năm 1932, tàn dư Quốc Dân Đảng ở Việt Nam đã bị săn đuổi khi hoạt động, và Đảng sau đó là tập trung vào cộng đồng lưu vong ở Trung Quốc. Đến năm 1940, sau một loạt các cuộc đấu tranh giữa các phe phái, ba nhánh chính đã thành hình: một phe thân Nhật được gọi là Đảng Đại Việt Dân Chủ, một nhóm lại thành lập ở Việt Nam được gọi là Đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng; và phe ở Côn Minh [bên Tầu] theo Vũ Hồng Khanh mang tên VNQDD ban đầu. Nhóm kể sau [VNQDD] sống sót sau chiến tranh, và trở thành quan trọng sau những thăng trầm của nó.

Ưu thế của đảng Cộng Sản Đông Dương

Mất đoàn kết, mong manh và không nhất quán của Quốc Dân Đảng - mặc dù [đảng này] tương đối là hiệu năng so với đa số các đảng khác nhưng tương phản so với sự đoàn kết và sức bền bỉ của Đảng Cộng Sản Đông Dương (ICP). Yếu tố thống nhất chính của phong trào cộng sản là Hồ Chí Minh, và tập thể những người Cộng Sản trung kiên, đa số là do ông tuyển dụng, đào tạo, và lãnh đạo. Nhưng những điều quan trọng như lãnh đạo, lý thuyết và kỷ luật cũng tìm thấy trong thành công của cộng sản. Hồ (trước đó được gọi là Nguyễn Ái Quốc) đã tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp, và sau khi đào tạo tại Moscow, đã thành lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Minh Hội tại Quảng Châu, thông báo chủ yếu là nhắm vào các người quốc gia chủ nghĩa (Hình 2) 5/ Tuy nhiên, trong nhật ký của ông viết vào năm 1926, Hồ đã viết rằng: "Chỉ có một đảng cộng sản mới có thể bảo đảm được ấm no cho An Nam", và dường như ông đã bắt đầu về điều đó khi đào tạo cán bộ cho những hoạt động bí mật. Đến năm 1929, khoảng 250 Việt đã được đào tạo tại Quảng Châu, và ít nhất 200 đã trở lại Đông Dương để thực hiện công tác tổ chức, trong năm đó, khoảng 1000 người cộng sản và cộng tác viên với 10% tại Nam Kỳ, khoảng 20% ở Trung Kỳ, và phần còn lại ở Bắc Kỳ. 6 Năm 1929, cộng sản đã tìm cách hợp nhất với Đảng Tân Cách Mạng Việt Nam, và tấn công Quốc Dân Đảng (VNQDD) như là một "đảng tư sản.". Trong năm đó một nhóm của Đoàn Thanh niên Cách Mạng thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, đảng đầu tiên mang tên này. Năm 1930, Đoàn Thanh niên Cách Mạng, một số thành viên của đảng xã hội của Nguyễn An Ninh, và An Nam Cộng sản Đảng lưu vong đã tham gia với nhóm vừa kể đầu tiên để lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam, và sau đó do Quốc Tế Cộng Sản mong muốn, nó đã mở rộng để bao trùm Lào và Campuchia – thành tổ chức Đông Dương Cộng Sản Đảng, và đã được Quốc Tế Cộng Sản công nhận.

Bạo lực do nhóm dân tộc đã hối hả xảy ra năm 1930, khoảng 1000 đảng viên Cộng Sản đã cầm đầu khoảng 100.000 nông dân trong đình công, biểu tình, và công khai nổi dậy. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An quê của Hồ, nông dân đã lập những sô viết, và nhiều chủ điền đã bị giết, và nhiều ruộng đất đã bị xé ra thành mảnh nhỏ. Những phương pháp đưa ra bạo lực, bị nhuộn đen bởi cướp bóc và giết người, Quốc Tế Cộng Sản phản đối việc này và cho rằng rằng chúng [phương pháp] không phù hợp với "bạo lực có tổ chức" [bạo lực cách mạng] của chủ nghĩa Mác Xít. 7/ Tuy nhiên, một lần nữa Pháp kháng cự nhanh chóng và đích đáng. Cảnh sát Pháp đã phá hủy bộ máy của công khai của ĐCSĐD tại Việt Nam trong năm 1930 và 1931, và theo yêu cầu của họ, Hồ Chí Minh đã bị người Anh bắt tại Hồng Kông. Nỗ lực tái tổ chức lại ĐCSĐD vào năm 1932 lại bị đợt đàn áp mới của cảnh sát [Pháp], và chỉ cho đến 1933 một lần nữa đảng cộng sản mới được phép hoạt động chính trị với bất kỳ thể loại nào. 8/ Tuy nhiên, đảng [CSĐD] đã sống lại, lập một chỗ đứng mới tại Nam Kỳ nơi được dễ dãi hơn, dưới [sự lãnh đạo] của Trần Văn Giàu (hình 3). Trần đã thành lập Liên Đoàn Chống Đế Quốc Chủ nghĩa, một tổ chức ở tuyến đầu đặc biệt chủ trương bất bạo động trong chương trình hoạt động được thiết kế để thu hút sự hỗ trợ từ chính trị cánh giữa và cánh hửu. Năm 1935, sau Đại hội Quốc tế cộng sản thế giới lần thứ VII, ĐCSĐD tập trung ở vùng Sài Gòn, và đưa ra một “Mặt trận Dân chủ” Đông Dương, song song với phong trào Mặt trận Bình Dân ở Pháp. Tuy nhiên, gần như ngay lập tức, các thành viên Trốt Kít ủng hộ cuộc "cách mạng lâu dài," tách ra khỏi sự lãnh đạo của ĐCSĐD, và bắt đầu nhấn mạnh về một đường lối độc lập, cách mạng nhiều hơn.

Phe Trốt Kít nội bộ lại chia thành hai nhóm: Nhóm "đấu tranh" và nhóm "Tháng Mười", khác nhau chủ yếu là ở mức độ đồng tình hợp tác với ĐCSĐD. Năm 1937, một ứng cử viên Trốt Kít, Tạ Thu Thâu, cùng với một nhà lãnh đạo ĐCSĐD, Nguyễn Văn Tạo, được bầu vào Hội đồng thành phố Sài Gòn. Năm 1939 phe Trốt Kít đã kéo lại với nhau thành một bên, và năm đó một người thuộc phe Trotskyite đã giành 80% phiếu bầu trong một cuộc bầu cử ở Nam Kỳ - một thất bại nghiêm trọng cho lãnh đạo ĐCSĐD bởi Nguyễn Văn Tạo từ đó lập ra một nhánh đảng cộng sản khác.

Sự chia rẽ trong phong trào cộng sản của Việt Nam trong những năm 1930, cũng như sự việc ĐCSĐD sẵn sàng tiếp thu học thuyết [Cộng Sản] là điều ghê gớm cho cả Pháp và giai cấp tư sản trong mục tiêu ngắn hạn, điều hiển nhiên sau đây trong báo cáo "Cương Lĩnh của Mặt Trận Dân Chủ Thời Kỳ (1936-1939) " do Nguyễn Ái Quốc (bí danh của Hồ Chí Minh) trình bày vào tháng Bảy năm 1939:

Trong thời gian này, Đảng không thể đưa ra những đòi hỏi quá cao (độc lập dân tộc, quốc hội, v.v…). Làm như vậy là đi vào gian kế của phát xít Nhật. Chúng ta chỉ nên đưa ra những yêu cầu về các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, lệnh ân xá chung cho tất cả các tù nhân chính trị, và đấu tranh cho việc hợp pháp hoá của Đảng.

Để đạt được mục tiêu này, Đảng cần phải phấn đấu để tổ chức rộng rãi Mặt trận Dân chủ. Mặt trận không chỉ ôm hôn người Đông Dương mà còn nhân dân tiến bộ Pháp cư trú ở Đông Dương, không chỉ người lao động mà còn là giai cấp tư sản dân tộc.

Không thể có bất kỳ liên minh hay nhượng bộ nào với nhóm Trotskyite. Chúng ta phải làm mọi thứ có thể để làm họ phơi mặt ra như là tay sai của phát xít và tiêu diệt chúng về chính trị.

Để tăng cường và củng cố lực lượng của mình, để mở rộng ảnh hưởng của chúng ta, và làm việc hiệu quả, Mặt trận Dân chủ Đông Dương phải giữ liên lạc chặt chẽ với Mặt trận Bình Dân Pháp vì họ cũng đấu tranh cho tự do, dân chủ, và có thể giúp đỡ chúng ta rất nhiều.

Đảng không thể yêu cầu Mặt trận công nhận quyền lãnh đạo của Đảng [trên Mặt Trận]. Thay vào đó [Mặt trận] phải tạo hình ảnh theo đó chính Đảng như là người chịu hy sinh lớn nhất, hoạt động và trung thành nhiều nhất. Chỉ thông qua cuộc đấu tranh và công việc hàng ngày mà mà quần chúng sẽ thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng và từ đó [Đảng] có thể giành được vị trí lãnh đạo.

Để thể thực hiện nhiệm vụ này, Đảng phải chiến đấu không khoan nhượng chủ nghĩa bè phái và hẹp hòi và tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin để nâng cao trình độ văn hóa và chính trị của các đảng viên và giúp cán bộ không phải là đảng viên nâng cao trình độ của mình. Chúng ta phải duy trì liên lạc chặt chẽ với Đảng Cộng sản Pháp.

Ban Chấp hành Trung ương phải giám sát báo chí của Đảng để tránh những sai lầm về kỹ thuật và chính trị. (Ví dụ, trong cuốn tiểu sử đồng chí R được xuất bản, báo Lao Động đã tiết lộ địa chỉ và nguồn gốc của mình, v.v… Nó cũng đã đăng tải mà không bình luận bức thư của ông này khi nói rằng chủ nghĩa Trốt Kít là một sản phẩm của một sự khoe khoang, vv..). " 9/

http://vnthuquan.net/userfiles/images/hinh%20bia%20sach/vn2.png

Đảng cần phải giữ một thái độ khôn ngoan, linh hoạt với giai cấp tư sản, phấn đấu để đưa họ vào Mặt trận, thuyết phục những người có thể thuyết phục được và vô hiệu hóa những người mà có thể vô hiệu hóa được. Chúng ta phải bằng mọi cách tránh để họ ở bên ngoài Mặt trận, vì sợ rằng họ rơi vào tay kẻ thù của Cách Mạng và gia tăng sức mạnh của bọn phản động.

http://vnthuquan.net/userfiles/images/hinh%20bia%20sach/vn2.png

Đảng cần phải giữ một thái độ khôn ngoan, linh hoạt với giai cấp tư sản, phấn đấu để đưa họ vào Mặt trận, thuyết phục những người có thể thuyết phục được và vô hiệu hóa những người mà có thể vô hiệu hóa được. Chúng ta phải bằng mọi cách tránh để họ ở bên ngoài Mặt trận, vì sợ rằng họ rơi vào tay kẻ thù của Cách Mạng và gia tăng sức mạnh của bọn phản động.

Vào tháng Tám năm 1939, tuy nhiên, liên minh Hitler, Stalin được ký kết, và các tháng tiếp theo tất cả các nhóm cộng sản, cả trong nước và thuộc địa, đã bị người Pháp nguyền rủa. Tại Việt Nam, các tổ chức cộng sản một lần nữa hoàn toàn bị phá hủy bởi cảnh sát, nhóm Trốt Kít là đặc biệt đau khổ. 10/ Chỉ một chi bộ bí mật của Đảng CSĐD là còn sống sót.

Đảng CSĐD đã [sống sót] qua được nhiều cuộc thanh trừng của Pháp vào những năm 1930 - 1932 và năm 1939 - 1940 chứng tỏ sức mạnh của nó, mức độ thanh trừng tương tự đã làm suy yếu VNQDD và tất cả các đảng chính trị cách mạng Việt Nam khác. Tại điểm khởi đầu của Chiến tranh thế giới thứ II, đảng CSĐD đã hưởng được một sự độc quyền thực sự giữa những phe [Việt Nam] dân tộc chủ nghĩa có tổ chức, một vị trí có được là do (1) sự tàn nhẫn của người Pháp trong việc loại bỏ sự cạnh tranh [giữa các đảng phái], (2) cộng sản có kỷ luật, huấn luyện cao, và nhờ đó, có khả năng sống sót; (3) chiến lược và chiến thuật của cộng sản nhằm đấu tranh với chính quyền thực dân Pháp và việc huy động dư luận quần chúng là tốt hơn, và (4) sự khoan dung của "Mặt Trận Bình Dân" của cộng sản xuất phát từ sự thắng thế của cánh Tả tại Pháp trong những năm giữa của 1930. Pháp, bằng cách chối bỏ các đảng phái Việt Nam dân tộc chủ nghĩa ôn hoà, phân cực tình cảm chính trị của nhân dân bản xứ, và đã mời gọi nhân dân dành sự hỗ trợ rộng rãi của họ cho những giải pháp mạnh bạo và triệt để hơn của Đảng CSĐD..

Thế Chiến Thứ II và Việt Minh

(1) Thành lập Phong Trào Thanh Niên

Ngay sau khi Pháp bại trận tháng Sáu năm 1940 Nhật lập tức đưa ra đòi Pháp cho Nhật vào chiếm đóng Đông Dương. Ngày 9 tháng Sáu 1940, Nhật trao cho Pháp cái đầu tiên trong một chuỗi tối hậu thư được gửi dồn đến, sau những bước đi sai trật của chính phủ Vichy, trong một sắc lệnh ký ngày 2 tháng Chín 1940, bởi Thống Chế Pétain, chỉ đạo cho chính quyền Pháp tại Đông Dương thương thảo những điều khoản cho phép quân đội Nhật có thể vào Đông Dương và [được quyền] xử dụng các căn cứ quân sự ở đây. Trong vòng một tháng, Hải Quân Nhật phô diễn ở bờ biển vịnh Bắc Kỳ, và thực tế Bắc Kỳ đã bị quân Nhật tràn vào từ miền Nam Trung Hoa, những điều khoản đòi hỏi bởi Nhật đều được thỏa mãn. Người Pháp đã cai trị Việt Nam như chủ nhà chứa chấp Nhật cho đến năm 1945, nhưng đầu lê ngọn súng của Nhật đã làm chủ quyền của Pháp trở thành danh nghĩa. Dưới chính quyền Vichy, Phó đô đốc Jean Decoux [Toàn Quyền Đông Dương 1940-45] đã đưa ra một thứ dân tộc chủ nghĩa lạ thường của Pháp ở Đông Dương đề cao địa vị người khách [Nhật] của họ, ca tụng chức năng giám hộ của Pháp trên Việt Nam, và đóng cửa bất kỳ nhượng bộ nào cho nguyện vọng độc lập chính trị cho người bản xứ. Trên tất cả, họ đã cố gắng bảo tồn ảo tưởng rằng người Nhật được đóng quân ở Đông Dương là với sự cho phép của họ. Đô đốc Jean Decoux cho rằng:

“Một quốc gia không phải là nước bị chiếm đóng nếu nó còn giữ quân đội riêng và hoàn toàn chủ động trong các vận động của nó, nếu chính phủ và tất cả các guồng mày công quyền vẫn còn đang hoạt động một cách tự do và không bị trở ngại, nếu những dịch vụ công cộng và đặc biệt là cảnh sát và lực lượng an ninh vẫn còn vững chắc trong tay quyền tự chủ và ngoài tất cả các can thiệp của nước ngoài11/

Tuy nhiên, sự ra sức nhấn mạnh của chính phủ Vichy trên hai chữ "tự do" của ho chỉ làm nản lòng những người Việt yêu nước đã đưa bàn tay hợp tác của họ [cho Pháp]. Điều hiển nhiên đã sớm rõ là chế độ Decoux là phục vụ mục đích của chính sách Nhật, và được "tự do" cho đến mức độ nào người Nhật muốn. Đầu năm 1941, Nhật tán thành Thái Lan trong cuộc xâm lược Lào và Cam-pu-chia. Pháp đã thành công quân sự trong việc ngăn chặn người Thái, nhưng Nhật, yêu cầu Thái Lan phải hợp tác cho Nhật [mượn đường] vào Mã Lai Á, buộc người Pháp giao cho Thái Lan tất cả các lãnh thổ mà Nhật muốn. Ngày 6 tháng, năm 1961, một loạt hiệp ước thương mại quốc tế Pháp-Nhật đầu tiên đã được ký có tác dụng chuyển giao từ Pháp cho Nhật tất cả các lợi ích khai thác của doanh nghiệp Pháp thuộc địa, mà Đông Dương được nhận trở lại những hàng hóa như nó đã thường nhận được qua thương mại từ Pháp. Lực lượng vũ trang Nhật được [Pháp] giao cho toàn bộ máy của đất nước, và sau ngày 07 Tháng 12 năm 1941, Decoux đã tuyên bố Đông Dương là một phần của "Khối Thịnh Vượng Đại Đông Á."

Việc Nhật vào Đông Dương đã khởi động, trong năm 1940 và năm 1941, các cuộc khởi nghĩa người Việt chống Pháp, [và Pháp] lúc này càng tỏ ra đàn áp nhiều hơn và trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Hơn nữa, một số nhóm Việt Nam dân tộc chủ nghĩa từ lâu đã nhìn về Nhật để giúp giải phóng đất nước của họ. Những người cộng sản có vẻ như chưa dám quyết định vì sợ nguy cơ của một cuộc nổi dậy sớm khác. Trong khi có vẻ như là Trung Ương đảng CSĐD đang chỉ đạo các cấp thừa hành kềm chế bạo lực, những người cộng sản, đầu tiên ở Nam Kỳ, và sau đó ở Bắc Kỳ, đã lãnh đạo cuộc nổi dậy vũ trang. Kết quả là thảm khốc cho phe kháng chiến. Người Nhật, dù có vẻ đã khuyến khích các cuộc nổi dậy ở mức mà họ [Nhật] có thể, chọn đứng qua một bên trong khi người Pháp đã nhanh chóng phản ứng và trấn áp dã man người Việt. 12/ Nhiều người lãnh đạo trong hàng ngũ đảng CSĐD và hàng ngũ quốc gia khác đã chết trong chiến đấu, hoặc bi chế tài khắc nghiệt của hệ thống tư pháp Pháp tiếp sau đó. Kết quả của các cuộc nổi loạn năm 1949 và 1941 là một cuộc thanh trừng khác của Pháp, đã đẩy các lực lượng quốc gia Việt đi lưu vong. Trong khi vẫn có những hoạt động bí mật quy mô nhỏ tại Việt Nam, bộ phận chính bị buộc phải dời ra nước ngoài, chủ yếu là Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Năm 1946, chính phủ Việt Nam đã xuất bản một tờ truyền đơn thừa nhận mình nợ Trung Quốc:

“Vì vậy, vượt vào miền nam Trung Quốc đã trở thành điển hình cho tất cả người làm cách mạng Việt Nam. Đó là nơi sinh của phong trào cách mạng Việt Nam, là căn cứ mà từ nơi đó ta đã chỉ đạo tất cả các hoạt động cách mạng, vượt ra “ngoài biên giới" - trên lãnh thổ Việt Nam của chúng ta" 13/

Động cơ của Trung Quốc tài trợ cho phe quốc gia Việt Nam là bao gồm một mong muốn có được tin tức tình báo về các lực lượng Nhật ở sườn phía Nam của họ, và để đánh phá Nhật thông qua phá hoại và các hoạt động khác ở Đông Dương, cũng có thể có một ý đồ chính trị về lâu dài sau khi chiến tranh chấm dứt

Trong tháng 5 năm 1941, người đứng đầu đảng CSĐD Nguyễn Ái Quốc - người sau đó được gọi là Hồ Chí Minh - đã triệu tập Hội nghị lần thứ Tám của Ủy ban Trung ương (ĐCSĐD) để biểu quyết sự hình thành của một tổ chức thống nhất trong một mặt trận mới mà người Việt yêu nước có nhu cầu tham gia để chống Nhật và chống Pháp đều có thể tham gia. Cuộc họp của Đảng đã được theo sau bởi một "đại hội" người Việt Quốc Gia, những người mới đây đã thoát khỏi quê hương, hay những người đã lưu vong nhiều năm, cũng có đại diện của hội "Cứu Quốc” của công nhân, nông dân, chiến sĩ, phụ nữ và thanh thiếu niên - hầu hết trong số đó là do người của đảng CSĐD tổ chức và thống trị. "Đại hội" thông qua khuyến nghị của các nhà lãnh đạo ĐCSĐD, và thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, mà sau đó được gọi tắt là Việt Minh. Nguyễn Ái Quốc được bầu làm Tổng thư ký của Việt Minh, và hầu hết các vị trí chủ chốt đã được giao cho các thành viên (ĐCSĐD). Nguyễn Ái Quốc đã ban hành một lá thư kêu gọi nhân dịp này, bao gồm những điều hấp dẫn sau đây:

"Đồng bào cả nước! Hãy mau chóng vùng lên. Chúng ta hãy theo tấm gương anh hùng của nhân dân Trung Quốc. Hãy mau chóng tổ chức các Hội Cứu Quốc chống Pháp và Nhật.

"Hỡi các bô lão!

"Hỡi các nhân sĩ!

"Mấy trăm năm trước, khi đất nước của chúng ta đang bị đe dọa bởi cuộc xâm lược của Mông Cổ, các bô lão của chúng ta dưới triều đại nhà Trần đã đứng lên phẫn nộ và kêu gọi con em gái của họ trong cả nước tcùng đứng lên muôn người như một để giết chết kẻ thù. Cuối cùng họ đã cứu dân tộc khỏi vòng nguy hiểm, và tên tuổi hào hùng của họ đã được lịch sử hậu thế ghi nhận. Các bô lão và các nhân sĩ của nước ta nên theo gương tổ tiên chúng ta trong nhiệm vụ vinh quang cứu nước.

“Người giàu, binh sĩ, công nhân, nông dân, trí thức, nhân viên, người buôn bán, thanh niên, và những phụ nữ nhiệt tình yêu nước chúng ta! Tại thời điểm hiện tại, giải phóng dân tộc là vấn đề quan trọng nhất. Hãy đoàn kết lại với nhau! Muôn người như một, đồng tâm đồng sức, chúng ta sẽ đánh đuổi Nhật và Pháp và bọn chó rừng của chúng để cứu nhân dân trong tình hình dầu sôi lửa bỏng hiện nay.

“Đồng bào yêu quí !

“Cứu Nước là chính nghĩa chung của toàn dân tộc chúng ta. Mỗi người Việt phải tham gia nó. Người có tiền sẽ đóng góp tiền của mình, người có sức mạnh sẽ góp phần sức mạnh của mình, người có tài năng cống hiến tài năng của mình. Tôi thề sẽ dùng tất cả khả năng khiêm tốn tôi để cùng tham gia với đồng bào, và tôi đã sẵn sàng cho một sự hy sinh cuối cùng.

“Các người kháng chiến cách mạng !

"Giờ đã điểm Hay đưa cao các biểu ngữ nổi dậy và hướng dẫn nhân dân trong cả nước để lật đổ Nhật và Pháp! Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc vang dội trong tai của các bạn, máu của tổ tiên anh hùng của chúng ta đã hy sinh cuộc sống đang chảy cuộn trong tim của các bạn! Tinh thần chiến đấu của nhân dân đã được nhìn thấy ở khắp mọi nơi trước mặt các bạn! các bạn hãy mau chóng đứng lên! Hãy đoàn kết với nhau,cùng thống nhất hành động của các bạn để lật đổ Nhật và Pháp.

“Cách Mạng Việt-Nam sẽ chiến thắng!

“Cách Mạng Thế Giới sẽ chiến thắng! 14/

Các đảng phái [trong Việt Minh] và Cương Lĩnh

Việt Minh khởi thủy là một Mặt Trận “Chống Phát Xít” gồm các đảng quốc gia sau đây:

Đảng Tân Việt

Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội

Việt Nam Quốc Dân Đảng

Nhiều “Hiệp Hội Cứu Quốc”

Đảng Cộng Sản Đông Dương

Bắt đầu từ tháng Mười, 1940, Ủy ban Trung ương đảng CSĐD đã rút khẩu hiệu đặc biệt cộng sản của nó "Tịch thu chủ đất đai và phân phối cho các xới," hạ giọng thành "Tịch thu đất thuộc sở hữu của những kẻ phản bội để phân phối cho nông dân nghèo.", và đã bắt đầu thay vào đó nhấn mạnh "giải phóng dân tộc". 15/ Trong Việt Minh, “giải phóng dân tộc " đã trở thành trung tâm cho cương lĩnh của Đảng, nhưng ĐCSĐD ngay từ đầu đã thống trị giải đấu. Theo ông Võ Nguyên Giáp, Đảng đặt ra mục tiêu chính trị cho Việt Minh bỏ qua vai trò lịch sử của nó là "nhiệm vụ chống phong kiến", nhưng nhất thiết phải:

“Chính vì lý do này [nhấn mạnh trên vấn đề giải phóng dân tộc] mà chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Minh đã tập hợp được các lực lượng lớn lao nhân dân và trở thành tổ chức chính trị mạnh mẽ nhất của một quần chúng cách mạng rộng lớn."

Đến năm 1943, Việt Minh trong thực tế, đã thu hút một khối lượng rộng lớn người quốc gia và trí thức, cũng như mở rộng tổ chức đều đặn đến tận nông dân. Một lịch sử 1946 chính thức trình bày này xây dựng các chương trình của nó tại thời điểm đó:

"Trong Đại Hội ở 1943, các đại biểu của tất cả các tổ chức cách mạng chống phát-xít đã thông qua các chương trình chính trị sau đây: (1) Bầu cử quốc hội lập hiến của Đông Dương trên cơ sở phổ thông đầu phiếu; (2) Phục hồi các quyền tự do dân chủ và các quyền, bao gồm cả quyền tự do tổ chức, báo chí và hội họp, tự do tín ngưỡng, tư tưởng, quyền sở hữu, quyền đình công, tự do cư trú và tự do tuyên truyền, (3) tổ chức một quân đội; (4) quyền tự quyết của các dân tộc thiểu số, (5) các quyền bình đẳng phụ nữ (6) quốc hữu hóa các ngân hàng thuộc phát xít và sự hình thành của một ngân hàng quốc gia Đông Dương; (7) xây dựng một nền kinh tế quốc dân mạnh mẽ với việc phát triển ngành công nghiệp bản địa, thông tin liên lạc, nông nghiệp và thương mại; (8) cải cách nông nghiệp và mở rộng canh tác đất bỏ hoang; (9) Lao động pháp luật, bao gồm cả sự ra đời của ngày làm việc tám giờ và tiến bộ trong cải cách pháp luật xã hội; (10) Phát triển giáo dục và văn hóa quốc gia.

Trong lĩnh vực quốc tế, cương lĩnh đòi hỏi việc sửa đổi lại các điều ước quốc tế bất bình đẳng và một liên minh với tất cả các quốc gia dân chủ để duy trì hòa bình. Quan trọng hơn trong cuộc chiến chống Nhật, tuy nhiên, có những chương trình hành động cấp bách: (1) Tổ chức quần chúng công nhân, nông dân, phụ nữ và thanh thiếu niên cho cuộc đấu tranh chống phát-xít. Việc này đã đạt được những thành công đầy hứa hẹn. (2) Chuẩn bị một cuộc nổi dậy bằng cách tổ chức người dân thành các tự vệ đoàn. (3) Sự hình thành của các nhóm du kích và căn cứ “để họ chịu trách nhiệm lớn hơn khi chúng ta dần dần qua thời gian đến gần các hành động quân sự trên toàn quốc..” 17/

Sức cạnh tranh giữa các đảng

Đồng Minh Hội

Ngay từ đầu, người Trung Quốc đã nghi ngờ Việt Minh. Năm 1942, họ bắt giữ Nguyễn Ái Quốc, và bỏ tù ông. Tháng mười năm 1942, hơn một năm sau khi Việt Minh được sáng lập, Quốc Dân Đảng Trung Hoa tài trợ "mặt trận" thứ hai gồm những người Việt Nam quốc gia lấy tên là Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội cùng trụ sở chính của Việt Minh ở Liễu Châu tỉnh Quãng Châu Trung Quốc, Đồng Minh Hội – tên như nó đã được biết đến - bao gồm:

Việt Nam Quốc Dân Đảng

Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội

Đại Việt Quốc Dân Đảng

Việt Minh

Giải Phóng Hội

Đồng Minh Hội đã được đưa ra với sự phê duyệt chính thức của Thống Tướng Chang Pháp-kuei, một lãnh chúa gần như tự trị của Trung Quốc; cương lĩnh ban đầu của họ rõ ràng theo mô hình của chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên của Trung Hoa Quốc Dân Đảng và tổ chức bán quân sự của nó được thành lập với mục ddi’ch hợp tác chặt chẽ với quân đội Quốc Dân Đảng.Tuy nhiên, sau hơn một năm bị tù, Nguyễn Ái Quốc đã được thả bởi Trung Quốc - có lẽ do lệnh của Tướng Chang Pháp-kuei, và không được biết đến hoặc đợc phê chuẩn bởi văn phòng trung ương của Tướng Tưởng Giới Thạch - và đã cài đặt , với bí danh mới là Hồ Chí Minh, làm Chủ tịch của Đồng Minh Hội. Việt Minh một mình được lợi bởi tình trạng hai mặt của lãnh đạo. Chỉ qua con người của Hồ Chí Minh, và trong chính Liễu Châu nó, đã có sự hợp nhất của hai tổ chức "mặt trận". Trên thực địa ở Bắc Kỳ, họ đã cạnh tranh với nhau - và thỉnh thoảng đánh nhau.

18 / Nhưng ở Việt Nam, chỉ có Việt Minh là phong trào kháng chiến có hiệu quả và rộng lớn.

Các Đảng “hợp tác”

Cả Pháp và Nhật tài trợ cho chính trị Việt Nam. Nhìn chung, người Nhật thành công đáng kể hơn trong việc thao tác người Việt Nam, và do đó họ làm chính quyền thuộc địa của Decoux thành nhu nhược. Thông qua việc hỗ trợ trực tiếp các giáo phái, chẳng hạn như Cao Đài và Hòa Hảo, và đủ các đảng phái chính trị quốc gia, họ đã duy trì tiềm năng chống đối ở thế cân bằng với lực lượng Pháp đang có mặt. Kết quả là, phần lớn lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là tại Nam Kỳ, đã được người Pháp bỏ trống cho người Việt Nam cai trị. Theo các nguồn tin mà Nhật báo cáo trong Thế chiến II hai nhóm quốc gia người Việt hợp tác quan trọng nhất là: Đảng Đại Việt - một nhóm gồm các thành viên hữu khuynh của VNQDD tách ra thành lập; và Việt Nam Quang Phục Hội - dựa trên các nhóm quốc gia lưu vong ở Nhật. Theo báo cáo của Nhật, ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, các đảng “hợp tác” bao gồm:

Đảng Đại Việt

Đảng Đại Việt vào điểm cực thịnh vào khoảng năm 1940 - đã có khoảng 25.000 thành viên, nhưng sau những lần bị của chính quyền Pháp ở Đông Dương đàn áp, hiện nay phần nào giảm. Thành viên của nó là chủ yếu là do những giao cấp thấp, sinh viên, Hướng Đạo sinh, và ảnh hưởng của nó kéo dài từ các tỉnh Hà Đông, Hải Dương, Bắc Ninh và miền trung Trung Kỳ cho đến Lào.

Đảng Đại Dân chủ Việt Nam, đã bị giải tán vào năm 1941 như là một kết quả của áp lực của chính quyền, nhưng canh tân vào năm 1942 và bao gồm chủ yếu là trí thức và các sĩ phu, số thành viên khoảng 2.000. Đây có lẽ là một phần của Việt Nam Quốc Dân Đảng được gọi là Đại Việt Dân Chính và lãnh đạo bởi Nguyễn Tường Tam.

Ba nhóm khác có tổng số thành viên khoảng hai hoặc 3000. Một trong các nhóm nhỏ hơn có lẽ là nhóm Thanh Nhiên Ái Quốc, dẫn đầu bởi Võ Xuân Cam, đã được mô tả như là một đảng khủng bố duy trì hang loạt tuyên truyền bạo lực chống Pháp. Một nhóm khác là Phụng Sự Đất Nước), lãnh đạo bởi Phạm Đình Cường.

Liên Minh Phục Quốc

Đảng Quốc gia Việt Nam, bao gồm một đội tình nguyện viên, một phần dân sự, và một phần quân sự. Đoàn tình nguyện, là yếu tố chủ yếu, số lượng khoảng 1,500 ở phía bắc, 3.000 trung tâm, và 5.000 ở phía Nam và có ảnh hưởng trong giới kinh doanh, cán bộ, công chức, và trí thức.

Đảng Việt Nam Aí Quốc gồm các bác sĩ, luật sư và trí thức trong các ngành nghề tự do và có sức mạnh tiềm ẩn giữa các trí thức trẻ.

Đảng Đại Việt Quốc Xã, có khoảng 2000 thành viên và vùng ảnh hưởng chính của của nó là ở các thị trấn công nghiệp nhẹ của Hải Phòng và Hà Nội. Đảng này được Trần Trọng Kim lãnh đạo, sau này là người đứng đầu trong chính phủ Bảo Đại, và được cho là đã được cảnh sát quân sự và Tổ chức Tình báo (Kempei Tai) Nhật lập ra để tuyển dụng người Việt Nam vào các lực lượng quân sự bù nhìn. 19/

Trong Nam Kỳ, Liên Minh Phục Quốc là hơn hẳn

Liên Minh Phục Quốc

Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, được thành lập bởi Trần Văn Ân, Nguyễn Văn Sâm, Hồ văn Ngà, và Ngô Tấn Nhơn. Một số thành viên của Việt Nam Cách Mệnh Đảng đã bị giải tán vào năm 1939 đã gia nhập các tổ chức mới. Đảng rõ rệt ủng hộ Nhật trong định hướng. Ủng hộ sự hợp tác với quân đội Nhật và sự tuân thủ của Việt Nam với Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á.

Đảng Việt Nam Ái Quốc do một nhóm trí thức và sinh viên

Đảng Đại Việt Quốc Dân một sản phẩm tự nhiên của Đảng Quốc Gia Nam Kỳ Việt Nam bao gồm các yếu tố ủng hộ Nhật.

Đảng Việt Nam Quốc Gia, một đảng nhỏ

Thanh Niên Nghĩa Dõng Đoàn, một nhóm nhỏ thanh niên

Thanh Niên Ái Quốc, một nhánh ph’ia Nam của một nhóm khủng bố. Những thành viên phía Nam đã lập ra một tổ chức lấy tên là Đảng Việt Nam Dân Chủ

Giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo còn có tên là Đảng Việt Nam Vãn Hồi Độc Lập do Huỳnh Phú Sổ lãnh đạo

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thuộc giáo phái Cao Đài, lãnh đạo bởi Trần Quang Vinh, phụ tá chính của giáo chủ Phạm Công Tắc. Người Cao Đài được Nhật trang bị vũ khí và được dùng như một lực lượng cảnh sát phụ trợ [cho Nhật] ở khắp Nam Kỳ. 20/

Tuy nhiên, bất cứ lợi thế gì có được trong ngắn hạn mà các nhóm này đã đạt được đối với người Pháp Vichy, việc hợp tác với Nhật bị ảnh hưởng về dài hạn đưa đến việc mất uy tín của họ trong mắt một số lượng đáng kể trong dân chúng Việt Nam, đưa phong trào của họ vào thế đặc biệt bất lợi trong cuộc cạnh tranh sau chiến tranh với Việt Minh, nơi còn lưu giữ được hào quang của đức tin vững chắc vào sức đề kháng chống lại tất cả sự thống trị nước ngoài.

Trốt Kít

Trong Nam Kỳ nhiều người cộng sản cấp tiến sống sót, và khi chiến tranh đang tiếp diễn, họ đã thành công tập trung ở vùng Sài Gòn. Năm 1944, nhóm "Tháng mười" công bố hình thành Liên Đoàn Cộng sản Quốc Tế, và tháng ba năm 1945, ban hành một bản tuyên ngôn lên án "chủ nghĩa Stalinists” của ĐCSĐD đã ủng hộ Đồng Minh, và những kẻ "phong kiến​​" cộng tác với Nhật:

"Sự thất bại của chủ nghĩa đế quốc Nhật trong tương lai sẽ đưa người Đông Dương đến con đường giải phóng dân tộc. Giai cấp tư sản và phong kiến chịu thua phục vụ những người cai trị Nhật ngày hôm nay, sẽ phục vụ các nước đế quốc Đồng minh như thế. Bọn quốc gia trí thức tiểu tư sản, bởi chính sách vô bổ của họ, cũng sẽ không có khả năng lãnh đạo nhân dân đi tới chiến thắng cách mạng. Giai cấp công nhân, mà cuộc đấu tranh độc lập dưới lá cờ của Đệ Tứ Quốc Tế, sẽ có thể hoàn thành nhiệm vụ tiền phong của cách mạng.

“Bọn Stalinists của Đệ Tam Quốc tế đã từ bỏ giai cấp công nhân để thảm hại nhóm mình với các đế quốc 'dân chủ'. Họ đã phản bội nông dân và không còn nói về vấn đề ruộng đất. Nếu hôm nay họ diễu hành với bọn tư bản nước ngoài, trong tương lai, họ sẽ giúp giai cấp bóc lột quốc gia để tiêu diệt những người cách mạng trong những giờ sau đó” 21/

Nhóm Trốt Kít "Đấu tranh" cũng tái xuất hiện vào Tháng Năm năm 1945, để tiếp tục cạnh tranh với phe "Tháng mười", nhưng cả hai đều ủng hộ cuộc cách mạng thế giới, một chính phủ công nhân-nông dân, trang bị vũ khí cho nhân dân, tước đoạt mọi quyền sở hữu về đất đai và công nghiệp. Điều có y nghĩa chủ yếu về việc làm họ chỉ làm suy nhược (ĐCSĐD) tại Nam Kỳ, và làm giảm hiệu quả của Việt Minh.

Hoạt đông của Việt Minh ở Việt Nam

ĐCSĐD, trái tim của Việt Minh, đã thông báo cho phong trào [Việt Minh] những bài học đau đớn học được trong cuộc nổi dậy năm 1930-1931, và 1940 - 41: (1) Tuy nhiên mong muốn những người đã cầm vũ khí, cuộc nổi dậy đã phải được [tổ chức] một cách chính xác về thời gian để khai thác tối đa cả hai việc: sự hỗn loạn trong hàng ngũ đối phương và sự hỗ trợ tối đa của những người chưa dấn thân [kháng chiến] (2) phải có chút tin tưởng vào những kẻ đào thoát từ lực lượng địch – phần còn lại phụ thuộc "chủ yếu vào đông đảo quần chúng"; (3) cơ sở hỗ trợ cho các hoạt động phải được chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước. 22 Theo sử liệu riêng của mình, ĐCSĐD đã bắt đầu chuẩn bị từ năm 1941 cho một cuộc tổng khởi nghĩa ở Việt Nam. Tại Nam Kỳ, cho đến tháng 4 năm 1945, ĐCSĐD tiếp tục hoạt động chủ yếu trong bí mật mà không quan tâm nhiều về các lớp phủ Việt Minh, ở Bắc Kỳ, tuy nhiên, tất cả các chủ trương của ĐCSĐD đều dưới danh nghĩa của Việt Minh. Suốt Việt Nam, ĐCSĐD đưa ra những hoạt động chính trị kiên nhẫn: phổ biến tuyên truyền, đào tạo cán bộ, thành lập một mạng lưới các tế bào đến tận thôn ấp. Uỷ ban Trung ương ĐCSĐD đã thông qua chương trình bốn điểm vào năm 1941 này:

“1. Xây dựng thêm những tổ chức mới trong nhân dân, và củng cố những tổ chức đang tồn tại trong Việt Minh.

2. Mở rộng các tổ chức ở các thành phố.

3. Tổ chức dân tộc thiểu số trong Việt Minh..

4. Hình thành các nhóm du kích nhỏ. "

Việt Minh đặt ưu tiên cho nhiệm vụ chính trị trước các sứ mạng quân sự. Cán bộ nhiều lần đã gây ấn tượng về sự thiết yếu cần chuẩn bị kỷ lưỡng về chính trị và cơ sở vật chất cho chiến tranh du kích. Ngay cả khi sau này [chiến tranh du kích] được đồng tình ủng hộ, họ cũng phải phải đặt tin tưởng vào “số đông quần chúng”, vào sự tăng trưởng liên tục, tính di động cực cao, và tính thích ứng liên tục." 24/ Trong khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam [Việt Bắc] trên Hà Nội căn cứ thường trực đầu tiên của Việt Minh đã được thành lập vào năm 1942-1943. Sau đó là chính phủ [kháng chiến] bí mật gồm cán bộ Việt Minh, và đến tháng Chín, 1943, sau khi dân chúng đã được tổ chức tốt, địa phương tuyển chọn lực lượng du kích đầu tiên do Việt Minh bảo trợ. Không phải cho đến 22 tháng 12, năm 1944, là ngày mà đơn vị đầu tiên của Quân đội Giải phóng Việt Minh được tạo ra, nhưng có rất ít bằng chứng vềc ác hoạt động du kích có phối hợp cho đến sau tháng Ba, năm 1945, cho đến lúc đó tổ chức ngầm là phổ biến. Tính đến cuối năm 1944, Việt Minh tuyên bố đã có 500.000 thành viên, trong đó 200.000 ở Bắc Kỳ, 150.000 ở An Nam, và 150.000 tại Nam Kỳ. 25 Mục đích là mỗi làng có một ủy ban Việt Minh, nằm trong một hệ thống gồm các ủy ban, quan trọng nhất là hầu hết ở đâu có ủy ban thôn tồn tại, ở đó nó đã ở một vị trí thách thức chính quyền. Theo Giáp, năm 1945 Việt Minh là đã là chính quyền trên thực tế trong nhiều lĩnh vực:

“Có những khu vực mà trong đó quần chúng tham gia các tổ chức Cứu Quốc, và trong những ngôi làng các Ủy ban Việt Minh đã có, như một chuyện phải đến, uy tín trong quần chúng như một tổ chức ngầm của chính quyền cách mạng. " 26/

Ngày 09 Tháng 3 năm 1945, Nhật lật đổ chế độ Vichy ở Đông Dương, và lập Hoàng đế Bảo Đại của An Nam thành người đứng đầu quốc gia tuyên bố độc lập tách khỏi Pháp, nhưng tham gia vào Khối Thịnh Vương Chung Đại Đông Á. Việc thống nhất Việt Nam dưới thế của một Nhật đang chao đảo tiếp theo việc Hoàng đế An Nam không hiệu quả đã mở ra cơ hội chính trị mới cho Việt Minh. Ngày 06 tháng 4 năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD đã chỉ đạo hình thành một chính phủ [kháng chiến] cho toàn Việt Nam, mở rộng đến tất cả các bậc thang của xã hội, chuẩn bị sẵn sàng để huy động toàn dân cho chiến tranh. Tháng năm 1945, "vùng giải phóng” Việt Minh được thành lập gần biên giới Trung Quốc.

Có thể nói bất cứ gì về việc bóp méo lịch sử của các sử gia cộng sản nhằm phóng đại tầm quan trọng của Việt Minh, nhưng thực tế là trong Thế Chiến II cơ quan O.S.S [tiền thân của CIA] của Mỹ đã xem Việt Minh như bộ máy kháng chiến duy nhất có hiệu quả tại Việt Nam về những thông tin tình báo và những giúp đỡ trong việc hỗ trợ các phi công Đồng Minh bị bắn rơi. 27/ Đường như rõ ràng rằng về tiếng tăm trong quần chúng tại Việt Nam, không có phong trào chính trị Việt nào có được như ĐCSĐD và Việt Minh đã bổ sung vào tầm vóc của mình trong các hoạt động thời chiến của họ.

Giải Phóng Miền Bắc

Khi chiến tranh sắp kết thúc, Việt Minh đã chứng minh được sự khéo léo chiến lược như đã chứng minh trên mặt chiến thuật, như Trường Chinh, Tổng thư ký của ĐCSĐD đã cẩn thận chỉ ra [những gì đã làm] vào năm 1946 là ĐCSĐD đã chứng minh được khéo léo của họ. Theo Trường Chinh, ngày 13 tháng 8 năm 1945, Đảng, được thông báo về sự sụp đổ của Nhật, đã quyết định để chặn trước việc Đồng Minh chiếm đóng của Việt Nam, và đã vội vã triệu tập một Đại Hội Việt Minh đã được đang chờ họp kể từ tháng Sáu:

"Trong kỳ họp Quốc hội lịch sử, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã chủ trương một chính sách rất rõ ràng: lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa để giải giới Nhật trước khi các lực lượng Đồng Minh có mặt tại Đông Dương, giành quyền lực từ tay Nhật và các con rối tay sai của họ và cuối cùng là quyền lực của nhân dân, để chào đón các lực lượng Đồng Minh đến giải giới quân Nhật ở Đông Dương. " 28/

Một hồ sơ có thể chính xác hơn - vì nó phù hợp với các tin tức khác và đã đề cập đến các cuộc nổi dậy tự phát của địa phương trước khi có "lệnh cho cuộc tổng nổi dậy" của Đảng - được xuất bản bởi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào tháng Chín năm 1946:

"Những biến cố của thời cuộc đã tác động Đảng Việt Minh triệu tập không chậm trễ hơn nữa một Đại Hội Toàn Quốc. Một ủy ban cách mạng được tạo ra và lệnh một cuộc Tổng Nổi Dậy đã được đưa ra vào đêm 13 tháng 8, ngay sau khi nhận được tin Nhật đã đầu hàng vô điều kiện.

"Ngày 16 Tháng 8, Đại hội toàn quốc mở tại Tân Trào, một địa danh thuộc tỉnh Thái Nguyên, trong vùng giải phóng. Sáu mươi đại diện từ tất cả các bộ phận của đất nước đến để tìm hiểu thêm chi tiết về mệnh lệnh cho cuộc Tổng Khởi Nghĩa.. Các chính sách quốc nội và quốc ngoại của Chính phủ Cách Mạng đã được vạch ra và Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc Việt Nam đã được thành hình, và [Ủy Ban này] sau này đã trở thành Chính Phủ Lâm Thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

"Vào thời điểm lịch sử đang hội tụ này, Việt Minh đặt ra một chương trình rõ ràng mang những điểm sau đây:

a) giải giới Nhật trước khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương.;

b) giành quyền lực từ tay của kẻ thù;

c) đạt một vị trí có thẩm quyền khi chào đón các lực lượng Đồng Minh.

"Trong một số khu vực, tuy chưa nhận được lệnh Tổng Khởi Nghĩa, các thành viên của Việt Minh đã lấy sáng kiến ra lệnh tổng động viên và lãnh đạo nhân dân vào cuộc đấu tranh dành chính quyền. Do đó, ngày 11 tháng 8, đồng bào của chúng ta ở Hà Tĩnh đã đứng lên cầm vũ khí chống phát xít Nhật trong khi các cuộc nổi dậy cũng đã diễn ra tại Quảng Ngãi.

Ngày 14 và 15, các lực lượng của chúng ta đã chiếm giữ nhiều vị trí tiền tiêu của địch quân trong vùng lân cận các khu giải phóng.

“Ngày 16 Tháng Tám, với những tin tức về sự đầu hàng của Nhật, hàng triệu người trong cả nước đã cùng đứng lên vào dịp này và một cuộc tấn công toàn diện vào doanh trại và các cơ sở quân sự của Nhật bắt đầu.

“Ngày 17-18, một cuộc biểu tình rất lớn đã diễn ra tại thành phố thủ đô Hà Nội. Cuộc đấu tranh cướp chính quyền thực sự đã bắt đầu ở đây, vào ngày 19, với các lực lượng dân quân địa phương đã đứng về phía Cách Mạng. Dẫn đầu bởi các đoàn thể thanh niên, quân đội nhân dân dưới sự chỉ huy của Việt Minh đã tiến vào tòa nhà của Bộ Nội Vụ. Khâm Sai Phan Kế Toại đã chạy trốn với cộng tác viên thân cận nhất của mình. Chính phủ bù nhìn Trần Trong Kim nhanh chóng tan rả trong khi ở cố đô của An Nam, Hoàng Đế Bảo Đại đã ký sắc lệnh thoái vị của mình trước sự hiện diện của đại diện của Cơ Sở Trung Ương của Việt Minh.

"Vì vậy, một chính quyền mới ra đời, Chính phủ Cách Mạng của nhân dân được chính thức công bố và được sự hỗ trợ hoàn toàn của toàn dân.

"Một vài ngày sau đó, các thành viên của Ủy ban Giải phóng Quốc gia đã gặp nhau trong phiên họp tại Hà Nội. Trước tình hình mới, chính quyền mới đã được tái tổ chức và một Chính Phủ Tạm Thời trong đó bao gồm một số thành viên độc lập [không thuộc đảng phái nào] được thành lập với Chủ tịch là Hồ Chí Minh. 29/

Hồ Chí Minh đã ban hành một lời "Kêu Gọi Tổng Khởi nghĩa" sau cuộc họp ngày 16 tháng 8:

“...Đây là một bước tiến vĩ đại trong lịch sử của cuộc đấu tranh tiến hành trong gần một thế kỷ bởi nhân dân ta để tự giải thoát mình

"Đây là một thực tế đã làm đồng bào chúng ta vui mừng và cho tôi một niềm vui lớn lao.

"Tuy nhiên, chúng ta không thể xem đó đã là đủ thành công. Cuộc đấu tranh của chúng ta còn lâu dài và khó khăn.. Bởi vì không phải Nhật bị đánh bại mà chúng ta đã được giải phóng sau một đêm. Chúng ta vẫn còn phải hy sinh nhiều hơn nữa và tiến hành cuộc đấu tranh. Chỉ có đoàn kết thì cuộc đấu tranh mới mang lại cho chúng ta Độc Lập.

"Mặt trận Việt Minh là cơ sở của cuộc đấu tranh và đoàn kết của nhân dân ta hiện nay. Tham gia Mặt trận Việt Minh, hỗ trợ, và làm cho nó lớn hơn và mạnh mẽ hơn!

"Hiện nay, Ủy ban Giải phóng Quốc gia, do đó, như đã nói, bản thân là chính phủ lâm thời của chúng ta. Đoàn kết xung quanh nó và thông qua nó mà các chính sách và trật tự được thực hiện trên cả nước!

"Bằng cách này, Tổ quốc của chúng ta, chắc chắn sẽ dành được Độc Lập và nhân dân ta chắc chắn sẽ dành được Tự Do sớm.

"Giờ quyết định số phận của nhân dân ta đã điểm. Hãy đứng lên với tất cả sức mạnh để giải phóng bản thân của chúng ta!

"Nhiều dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang ganh đua với nhau trên con đường dành lại Độc Lập cho mình. Chúng ta không thể cho phép mình tụt hậu ở phía sau.

"Tiến lên! Hãy tiến lên! Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, hãy can đảm tiến lên !" 30/

[Vị Hoàng Đế] Bảo Đại không may của một Việt Nam lần đầu tiên được danh nghĩa một quốc gia thống nhất, độc lập sau gần một thế kỷ, ngày 18 Tháng Tám 1945, đã gửi Tổng Thống De Gaulle của Pháp thông điệp sâu sắc và tiên tri sau đây:

Tôi đích thân trình bày cho người dân ở Pháp, đất nước của tuổi trẻ của tôi. Tôi cũng đích thân trình bày với các nhà lãnh đạo và giải phóng Đất Nước và tôi mong muốn được nói chuyện như một người bạn chứ không phải như là người đứng đầu của Nhà nước.

"Chúng tôi đã phải chịu quá nhiều đau khổ trong suốt bốn năm tang tóc mà không hiểu rằng nhân dân Việt Nam, người đã có một lịch sử hai mươi thế kỷ và thường là với một quá khứ vinh quang, nay không còn muốn, không còn có thể hỗ trợ bất kỳ sự thống trị của nước ngoài hoặc chính quyền nước ngoài.

"Các ông có thể hiểu tốt hơn nếu các ông có thể đển xem những gì đang xảy ra ở đây, nếu các ông có thể cảm nhận được niềm khát khao Độc Lập đang âm ỉ trong tận cùng các con trái tim [của chúng tôi], thì không có lực lượng con người nào còn có thể kìm giữ được. Nếu các ông đến để tái thiết lập một chính quyền Pháp ở đây, thì nó sẽ không còn được tuân theo, mỗi làng sẽ là một ổ kháng chiến, mỗi người bạn cũ thành một kẻ thù, và các quan chức và những kẻ thực dân của các ông sẽ phải yêu cầu được rời bỏ nơi mà bầu không khí không thở được.

"Tôi cầu xin các ông hiểu rằng cách duy nhất để bảo vệ lợi ích, ảnh hưởng văn hoá của Pháp ở Đông Dương là thẳng thắn công nhận nền độc lập của Việt Nam và từ bỏ bất kỳ ý tưởng nào nhằm tái lập chủ quyền của Pháp hay chính quyền dưới bất cứ hình hức nào có thể được.

"Các ông có thể dễ dàng lắng nghe và trở thành bạn bè của chúng tôi nếu các ông dừng tham vọng để trở thành chủ nhân của chúng tôi một lần nữa.

"Đưa ra lời kêu gọi này đến chủ nghĩa lý tưởng của nhân dân Pháp và đến trí tuệ tuyệt vời của lãnh đạo của họ, chúng tôi hy vọng rằng hòa bình và hạnh phúc, reo vui cho tất cả mọi người trên thế giới, sẽ đảm bảo được bình đẳng cho tất cả những người sống ở Đông Dương, bản địa cũng như nước ngoài. " 31/

De Gaulle không bao giờ trả lời. Lời nhắn trong bất kỳ sự kiện nào đều không được đưa lên bàn luận, bởi vì trong vòng một tuần, Bảo Đại chính thức nhượng lại quyền hạn của mình cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và sau đó, Pháp đã phải đối mặt ở miền Bắc Việt Nam không phải quan vua phong kiến, nhưng là Hồ Chí Minh, một người cách mạng chuyên nghiệp không nhân nhượng – dâng hiến mình cho dân tộc và cộng sản.

Giải Phóng Nam Kỳ

Việc lật đổ quyền lực của Nhật tại Nam Kỳ theo một diễn tiến riêng biệt. Chính phủ Bảo Đại đã chờ đợi cho đến ngày 11 tháng tám 1945 để công bố xác nhập Nam Kỳ vào một nước Việt Nam thống nhất, nhưng động thái này đã quá muộn để có bất kỳ tác động nào. Các bước hiệu quả đầu tiên trong việc củng cố các nhóm chia rẽ về chính trị Việt Nam ở miền Nam được tiến hành bởi nhóm Trốt Kít "đấu tranh" và các đảng phái hợp tác trước đây, cùng sát nhập chung ngày 14 Tháng Tám 1945, để hình thành một " Mặt trận Quốc Gia Thống Nhứt”. Những người tham gia bao gồm giáo phái Cao Đài, giáo phái Hòa Hảo, và Liên đoàn Phật giáo. Mặt trận Quốc gia đã thông qua nền tảng Trốt Kít, và tập trung năng lượng chủ yếu chống lại các đại diện của Bảo Đại ở Sài Gòn. Việt Minh dường như đã trì hoãn cho đến ngày 24 tháng 8 để khởi động chương trình của họ ở Nam Kỳ, rõ ràng là những chuyển động trong thời điểm đó là để giữ quyền lực của Việt Minh ở An Nam và Bắc Kỳ. Trong khi đó, ĐCSĐD, dẫn đầu bởi Trần Văn Giàu, lặng lẽ nắm quyền. Ngày 25 Tháng Tám, 1945, Việt Minh đã bảo trợ một cuộc họp từ đó một chính phủ mang tên "Ủy ban điều hành tạm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” đã được thành lập. Uỷ Ban [Kháng Chiến] Nam Bộ, mặc dù thống trị bởi Trần Văn Giàu và các thành viên khác của ĐCSĐD, mục đích đại diện cho cả Việt Minh và của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, và là cánh tay phía nam của chính phủ Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất có đại diện trong các cuộc họp ngày 25 tháng Tám, nhưng các cuộc đàm phán chính thức cho một liên minh giữa Việt Minh và Mặt trận đã không bắt đầu cho đến ngày 30 tháng Tám. Sau đây là những ghi chú trong biên bản về diễn tiến cuộc họp này, tiếp theo là một báo cáo của Trần Văn Giàu là Chủ tịch Ủy Ban Điều Hành Nam Bộ:

"Huỳnh Phú Sổ (lãnh đạo Hòa Hảo) [hỏi] - Ông Giàu có thể cho chúng tôi biết những nào nhóm trước đây bí mật hợp tác với Việt Minh, và sau đó công khai tham gia vào nó? '

"Trần Văn Giàu [trả lời] - ở Nam Kỳ, trong thời kỳ bí mật, các bên trong Mặt trận Việt Minh là: Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Tân Dân chủ Việt Nam, Thanh Niên Cứu Quốc, Quân Nhân Công Chức Cứu Quốc, Đảng Quốc Gia Việt Nam, và nay là Mặt trận Thống nhất Quốc gia.’

"Trần Văn Thạch (lãnh đạo nhóm Trốt Kít “Chiến Đấu”) [hỏi] - khi nào Ban Chấp Hành sẽ được thành lập và những ai sẽ là người chọn nó. Liệu các chính sách của Mặt trận sẽ được theo sau và liệu sẽ có liên lạc [tiêp theo] với Mặt trận? Và kể từ ngày đại hội được tổ chức hôm nay, liệu Chính phủ sẽ hành động phù hợp với đường lối của đại hội, hay là cuộc họp chỉ được tổ chức một lần duy nhất? "

"Trần Văn Giàu -" Bây giờ, tôi sẽ trả lời ông Thạch. Việc thành lập Ban Chấp hành không phải là quyết định duy nhất của tôi mà đã được thành lập cách đây một thời gian để cướp chính quyền. Ban chấp hành đó chỉ là tạm thời..., trong khi chờ đợi cuộc cuộc tổng tuyển cử. Trong thời gian lâm thời đó, không ai muốn nhận lãnh trách nhiệm hoặc chấp hành mệnh lệnh. Mặc dù câu hỏi của ông Thạch đã không được giải thích đầy đủ, tôi có thể nói với ông những gì mà tôi biết.. Ông muốn hỏi tại sao một người như ông lại không có một vị trí nào trong chính phủ, phải như vậy không ông Thạch? Tôi nhắc lại rằng Chính phủ này chỉ là tạm thời. Sau khi khi chúng ta có một cuộc tổng tuyển cử, nếu có khả năng, ông Thạch không cần phải lo lắng về việc không có một ghế trong Chính phủ. Về vấn đề làm việc giữa các đảng phái, ông và tôi, chúng ta sẽ gặp lại sau. '

"Huỳnh Văn Phương (Nhóm Trí Thức) - Do hoàn cảnh mà chúng ta phải đối diện hiện nay, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đã cảm thấy rằng không nên có hai mặt trận trong nước. Vì lý do này, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đã kêu gọi tất cả các đảng và phe nhóm các bên gặp nhau và đã lựa chọn Phan Văn Hùm làm đại diện để thương lượng với Việt Minh để nhằm sát nhập hai mặt trận thành một.

"Sau khi đàm phán, ông Hùm trở về và báo cáo rằng Việt Minh đã từ chối sát nhập mình vào Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Họ cho rằng Việt Minh đã là một mặt trận hợp nhất trong mắt của dân tộc và đã chiến đấu chống lại chủ nghĩa đế quốc Nhật. Ngày nay, để đoàn kết sức mạnh của chúng ta, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất nên liên kết [xác nhập] vào Việt Minh.

"Khi thấy quan điểm của Việt Minh là có cơ sở, sau khi nghe xem ông Hùm, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đã [quyết định] liên kết với Việt Minh....'

"Trần Văn Giàu - Việt Minh không muốn một cuộc đua quyền lực. Nếu người nào có khả năng thì không ai ngăn trở con đường của họ. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đại diện cho nhiều đảng và nhóm có liên quan của Việt Minh.... 32/

Mặc dù cuộc họp ngày 30 tháng 8 đã không đưa ra việc sáp nhập chính thức [giữa hai Mặt Trận], ngày 07 tháng 9 năm 1946, Việt Minh đã có thể công bố việc hình thành của một "Khối Đoàn Kết Quốc Gia" chung với Mặt trận Thống nhất Quốc gia. Đó là Ủy Ban Kháng Chiến Nam Bộ của Trần Văn Giàu mà trên thực tế đã là một chính phủ ở Sài Gòn, khi các lực lượng chiếm đóng Anh đến.

Nguồn: http://vnthuquan.net/truyen/

Trang Tôn Giáo