Một Số Điều Gian Dối Trong Cuốn
Công Và Tội Của CT Hồ Chi Minh Và ĐCSVN 1945-2006
của tác giả Hoàng Ngọc Thành
Nguyễn Mạnh Quang
http://sachhiem.net/NMQ/HGNGTH/NMQ02.php
bản rời | trở ra mục lục »» | 16 tháng 4, 2011
PHẦN HAI
SƠ LƯỢC MỘT SỐ BIẾN CỐ LỊCH SỬ QUAN TRỌNG TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI CẬN VÀ HIỆN ĐẠI
Mục đích của Phần Hai này là giúp cho độc giả nhìn thấy rõ:
A.- Một số những biến cố quan trọng trong dòng lịch sử Việt Nam thời cận và hiện đại (trong đó có một số là những nguyên nhân chính làm nẩy sinh ra các lực lượng hay tổ chức nghĩa quân vũ trang kháng chiến và chính quyền kháng chiến của dân tộc ta từ đầu thập niên 1860 cho đến ngày 30/4/1975). Có nhìn thấy rõ những biến cố quan trọng này, thì độc giả mới dễ dàng nhận thức được những sai lầm và thiếu sót có chủ tâm trong cuốn Công Và Tội Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam của tác giả Hoàng Ngọc Thành.
B.- Khi viết về một sự kiện hay một biến cố lịch sử hoặc một chế độ chính trị thì phải trình bày đầy đủ cả 3 (ba) yếu tố:
1.- Nguyên nhân: Hoàn cảnh lịch sử khiến cho sự kiện hay biến cố lịch sử đó xẩy ra, hoặc là bối cảnh lịch sử khiến cho một cá nhân hay một thế lực có cơ hội thành công trong việc tranh đấu lên nắm chính quyền.
2.- Tiến trình: Diến tiến chính sách hay việc làm của chính quyền (được đề cập) được thi hành trong thời gian tồn tại.
3.- Hậu quả: Tác dụng của các chính sách hay việc làm của chính quyền đối với đại khối nhân dân bị trị, tức là phản ứng của đại khối nhân dân bị trị đối với chính quyền.
Có nắm vững những yếu tố (nguyên nhân, tiến trình và hậu quả) trên đây, thì độc giả mới có thể dễ dàng nhìn ra những thiếu sót và sai lầm (có thể là có chủ tâm) của tác giả Hoàng Ngọc Thành khi nói về (1) chính quyền Bảo Hộ trong những năm 1885-1945, (2) việc cựu hoàng Bảo Đại được (tác giả Thành không nói rõ thế lực nào) đưa lên thành lập chính phủ để chống lại chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Mặt Trận Việt Minh thành lập dưới quyền lãnh đạo của cụa Hồ Chí Minh, và (3) việc ông Ngô Đình Diệm được (tác giả Thành cũng không nói rõ thế lực nào) đưa lên cầm quyền rồi những việc làm bất chính và thất nhân tâm khiến cho quân nhân miền Nam phải vùng lên khử diệt cả cá nhân tên bạo
chúa dã man này và cái chế độ đạo phiệt Ca-tô khốn nạn do Vatican chủ
trương dựng nên..
Xin gọi cái mánh mung viết sử thiếu sót và sai lầm có chủ tấm như vậy là “thủ đoạn viết sử ởm ờ” hay “nhập nhằng đánh lận con đen”.
Đọc hết Phần Hai này, độc giả sẽ nhìn thấy rõ vai trò của Vatican trong dòng lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại rấ là đậm nét, nghĩa là Vaticạn đã tích cực và liên tục can thiệp vào nội tình Việt Nam một cách vô cùng trắng trợn và hết sức thô bạo. Ấy thế mà điều quan trọng này lại không được tác giả Hoàng Ngọc Thành có lời nào đề cập đến.
I.- NHỮNG YẾU TỐ CĂN BẢN CẦN PHẢI ĐƯỢC NÓI RÕ KHI TRÌNH BÀY MỘT BIẾN CỐ LỊCH SỬ
Trước khi bàn đến điểm chính của mục này, có hai vấn đề cần phải được làm sáng tỏ:
Vấn đề quan trọng nhất là nguyên nhân và hậu quả. Ai cũng biết rằng, cây cỏ trong thiên nhiên đều có gốc rồi mới có ngọn, bất cứ chuyện gì trong xã hội loài người đều phải có đầu rồi mới có đuôi, và tất cả mọi biến cố lịch sử cũng đều phải có các yếu tố như (1) nguyên nhân, (2) tiển trình hay diễn biến các sự kiện (các việc làm hay chính sách được thi hành), và (3) hâu quả. Đây là quy luật mà nhà Phật gọi văn tắt là luật nhân quả.
Người viết không biết việc giảng dạy các môn học khác như thế nào. Riêng về môn sử, giáo viên trong ngành chuyên môn này tại các lớp ở bậc trung học cũng như các giảng sư hay giáo sư sử học tại các trường đại học, khi trình bày một vấn đề về một chế độ chính trị hay một biến cố lịch sử nào, đều phải trình bày (1) trước hết là các yếu tố thuộc về nguyên nhân hay nguồn gốc hoặc động lực hay bối cảnh lịch sử làm nẩy sinh ra biến cố lịch sử đó hay khiến cho một chế độ chính trị được hình thành, (2) kế đến là phải nói đến diễn tiến hay tiến trình xẩy ra những biến cố như những việc làm hoặc các chính sách hay kế hoạch của tân chế độ được đem thi hành, và (3) sau cùng là phải nói đến hậu quả hay tác dụng của những việc làm (hay các chính sách) của chế độ đó đối với đại khối nhân dân bị ảnh hưởng (giai cấp bị trị) và phản ứng của ngừời dân. Đây là nguyên tắc căn bản có thể coi như là cốt yếu mà tất các cả giáo viên hay giáo sư phụ trách giảng dạy môn lịch sử đều phải nắm vững và đều phải tuân hành.
Là một giáo-sư có bằng tiến-sì về sử học và đã phụ trách giảng dạy các lớp sử tại Đại Học Sư Phạm Sàigòn trong nhiều năm (có lẽ từ năm 1969 đến năm 1975), nếu có lương tâm chức nghiệp, tất nhiên, ông Hoàng Ngọc Thành phải biết và biết rõ điều này hơn ai hết. Thế nhưng, sau khi đọc cuốn Công Và Tội của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006, người viết có cảm tưởng như ông Thành không còn giữ được cái lương tâm chức nghiệp của một nhà giáo dạy sử và của người viết sử. Vì thế mà cuốn sách này của ông ta đã mất hết giá trị của một tác phẩm lịch sử, và trở thành “một tài liệu tố Cộng”, giống như muôn ngàn tài liệu tố cộng khác của bộ máy tuyên truyền của Vatican hay của các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Phần trình bày dưới đây sẽ cho thấy rõ điều này.
II.- MỘT SỐ BIẾN CỐ LỊCH SỬ VIỆT NAM TRONG THỜI CẬN VÀ HIỆN ĐẠI DO VATICAN CHỦ MƯU
Những ai đã từng đọc lịch sử Việt Nam thời cận và hiện đại Việt Nam đều nhận thấy rằng Giáo Hội La Mã mà cơ quan đầu não là Vatican đã tìm đủ mọi cách can thiệp vào chính tình Việt Nam một cách hết sức lộ liễu và vô cùng thô bạo, giống y hệt như giáo hội đã hành xử ở Âu Châu trong thời Trung Cổ. Các nhà sử học chuyên về Việt Nam đều khẳng đinh như vậy. Bằng chứng bất khả phủ bác cho sự kiên là:
1.- Vịệc nhà truyền giáo của Giáo Hội La Mã như Linh-mục Le Grand de la Iraye, Linh-mục Huc, Giám-mục Pellerin, và Tổng Giám Mục Bonnechose tích cực vận động triều đình Hoàng Đế Napoléon III (1852-1870) phải liên kết với Vatican đem quân đánh chiếm Việt Nam để cùng thống trị, cùng cưỡng bách dân ta làm nô lệ, cùng cướp đoạt tài nguyên, cùng bóc lột dân ta đến tận xương tận tủy, v.v… Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ trong Chương 5, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem: http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_Main.php
2.- Sự hiện diện của các giáo sĩ người Âu và người Việt cùng với tín đồ Ca-tô bản địa trong đoàn quân xâm lăng Pháp – Tây Ban Nha và bộ máy đàn áp dân ta của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican từ năm 1858-1945.
3.- Việc liên minh xâm lược này đem quân tái chiếm Đông Dương vào mùa thu năm 1945 gây nên cuộc chiến tranh mà chính nhân dân Pháp gọi là “Cuộc Chiến Tranh Bẩn Thỉu” (La Sale Guerre).
4.- Hành động ngang ngược của Vatican đưa cựu hoàng Bảo Đại lên lập chính quyền bù nhìn làm tay sai cho Pháp và Vatican để vừa thi hành chính sách chia để trị, vừa chống lại chính quyền kháng chiến của nhân dân ta trong những năm 1945-1954.
5.- Việc Vatican cho người dẫn ông Ngô Đình Diệm đến Mỹ trao cho Hồng Y Francis Spellman lo việc sử dụng các tín đồ Ca-tô có thế lực trên sân khấu chính trị Hoa Kỳ để vận động chính quyền Mỹ làm áp lực với Pháp và với ông Bảo Đại đưa ông ta về Việt Nam cầm quyền làm tay sai cho cả Vatican và Mỹ.
v.v….
Tất cả những bằng cớ nêu lên ở trên đều đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 17 (với tựa đề Dùng Tín Đồ Vào Các Cuộc Bạo Loạn Chống Lại Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam), sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_17.php. Vì giới hạn, ở đây, chúng tôi chỉ tóm lược một số biến cố hết sức quan trong trong Phần Hai này mà thôi.
A.- Vatican Vận Động Pháp Cấu Kết Với Vatican Và Xuất Quân Đánh Chiếm Việt Nam Làm Thuộc Địa.
Theo sách sử, Vatican đã gửi các nhà thuyết khách đến Paris vận động chính quyền Pháp tất cả là 3 lần:
Lần thứ nhất: Vào năm 1652, Vatican phái Linh-mục gián điệp Alexandre de Rhodes đến Paris làm thuyết khách vận động triều đình Vua Louis XIV (1638-1715) liên kết với Vatican xuất quân đánh chiếm Đông Dương. Sách sử ghi lại sự kiện này như sau:
"Tôi tin rằng", ông (Alexandre de Rhodes) viết, "Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ để chinh phục toàn thể Phương Đông. Cũng như ở đó, tôi sẽ có cách để chọn được nhiều giám mục vốn là các cha và các thầy của chúng ta ở trong các nhà thờ. Tôi rời La Mã ngày 11 tháng 9 năm 1652 với ý định đó." Nguyên văn:"J'ai cru que la France, écrivait il, étant le plus pieux royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l' Orient, que j'y trouverais moyen d'avoir des évêques qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Eglises. Je suis sorti de Rome à ce dessein, le 11 Septembre 1652.” [1]
Lần này không thành công vi lúc đó nước Pháp lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chánh gây ra bởi (1) việc tích cực tham dự vào cuộc chiến tranh tôn giáo giữa một bên phe Ki-tô La Mã và một bên là phe Ki-tô Tin Lành kéo dài cả 30 năm (1618-1648) và (2) việc xấy cất Điện Versailles quá ư tốn kém.
Lần thứ hai. Lần này được tiến hành vào những năm 1785-1787 và người được Vatican phái đi thuyết phục chính quyền Pháp là Giám-mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc). Lần này tưởng như đã thành công vì rằng vị giám mục này đã nhân danh tên Việt gian phản quốc Nguyễn Ánh ký với chính quyền Pháp Thỏa Hiệp Versailles vào ngày 21/11/1787, theo đó thì Pháp sẽ viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh để đánh bại nhà Tây Sơn. Đổi lại, Nguyễn Ánh phải chấp nhận một số điều kiện do Pháp đưa ra. Những điều kiện này rất là bất lợi cho Việt Nam, nhưng có lợi rất nhiều cho cả Pháp và Vatican. Các nhà viết sử cho rằng hiệp ước này đã trở thành cái cớ (excuse hay pretext) cho Liên Minh Pháp -Vatican sau này tiến quân đánh chiếm Việt Nam dù rằng chính nước Pháp đã không thi hành hiệp ước này do một biến cố bất ngờ gây ra. Đó là Cách Mạng Pháp 1789.
Sở dĩ Thỏa Hiệp Versailles không được nước Pháp thi hành là vì khi vừa mới ký xong vào cuối tháng 11/1787, thì sang đầu năm 1788 (mùa đông), nước Pháp rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chánh, nhân dân Pháp đói khổ, xã hội Pháp rối loạn và tình hình chính trị càng ngày càng trở nên bất ổn. Rồi Cách Mạng Pháp 1789 bùng nổ và chính quyền của Vua Louis XVI bị lật đổ. Mục tiêu của tân chính quyền cách mạng là hủy bỏ tất cả quyền lực chuyên chính và phong kiến mà đối tượng chính là Giáo Hội La Mã và chế độ quân chủ trung ương tập quyền của dòng họ Bourbons. Vì thế mà Thòa Hiệp Vesailles 1787 không được nước Pháp thi hành. Tuy nhiên, không phải vì thế mà Vatican và Bá Đa Lộc bỏ cuộc. Với sự tích cực của Vatican ở đàng sau, Bá Đa Lộc cùng với những cán bộ gián điệp khác (với danh nghĩa là các giáo sĩ hay các nhà truyền giáo) đã nhân danh Giáo Hội La Mã tích cực đi quyên góp ”gây qũy thánh chiến” và đã thu góp được từ các chính quyền đạo phiệt và giới Ca-tô giầu có những khoản tiền không lồ đủ để trang trải cho mọi chi phí quân viện cần thiết cho Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn. Chủ tâm của Vatican trong việc giúp Nguyễn Ánh là sẽ dùng Nguyễn Ánh hay Hoàng Tử Cảnh làm con bài để Ki-tô hóa Việt Nam theo hệ thống dọc từ trên xuống dưới, nghĩa là sẽ biến Nguyễn Ánh thành Constantine ở Việt Nam.
Nhưng rồi, “thiên bất dung gian”. Khi Nguyễn Ánh đang trên đà chiến thắng thì Bá Đa Lộc qua đời đột ngột vào ngày 9/10/1799 và Hoàng Tử Cảnh cũng đi theo bố nuôi (Godfather)Bá Đa Lộc về nước Chúa vào ngày 20/3/1801 vì bị bệnh đậu mùa. Rồi khi thành công, lên ngai vàng tại Phú Xuân vào tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), lấy vương hiệu là Gia Long, Nguyễn Ánh lại tìm cách lảng tránh các ông giáo sĩ Ca-tô đàn em của Bá Đa Lộc. Vì thế mà âm mưu của Vatican định biến Nguyễn Ánh hay Hoàng Tử Cảnh thành một Constantine ở Việt Nam bị thất bại.
Lần thứ ba: Lần này, Vatican cũng tích cực dồn nỗ lực vào việc vận động nước Pháp liên kết với giáo hội rồi đem quân đi chinh phục Việt Nam. Việc này phải đợi mãi đến đầu thập niên 1850, khi đó giáo hội đã bố trí xong thiếu nữ Eugenie ngoan đạo trẻ đẹp, người Tây Ban Nha, trở thành hoàng hậu của Hoàng Đế Napoleon III (1808-1873). Lúc đó, nhà vua đã sắp bước vào tuổi ngũ tuần trong khi con chiên Eugenie (1826-1920) kiều diễm còn mơn-mởn đào tơ, chưa đầy 27 cái xuân xanh. Nhờ vậy mà các nhà truyền giáo của giáo hội mới có thể dễ dàng lung lạc nhà vua qua bà Hoàng Hậu vừa trẻ vừa xinh đẹp này để đẩy mạnh chiến dịch vận động nhà vua liên kết với giáo hội đem quân đi chinh phục Việt Nam. Đây là một sự thật lịch sử. Sự thật này được Tiến-sĩ Cao Huy Thuần ghi lại trong cuốn Đạo Chúa Và Thực Dân Tại Việt Nam như sau:
"Chính các vận động để được ủng hộ về sự can thiệp của các nhân vật quan trọng như Tổng Giám Mục Bonnechose ở Rouen và của chính Hoàng Hậu, bà này đã thuyết phục được vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt. Các cuộc vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh Mục Huc, hội viên Hội Thánh Lazare (Tu Hội Lazariste), cựu đại diện Giáo Hoàng ở Trung Quốc, tác giả cuốn "Đạo Thiên Chúa ở Trung Quốc, (Tartarie và Tây Tạng, và Giám Mục Pellerin, đại diện Giáo Hoàng tại Bắc Nam Kỳ."
“Trong văn thư đệ lên vua, Linh-mục Huc trình bày các mối lợi mà việc chiếm Việt Nam có thể mang lại cho Pháp…” [2]
“Thất vọng vì sự thất bại của phái đoàn Montigny, theo lời khuyên của bạn bè, Giám-mục Pellerin quyết định “đi Pháp để trình bày với nhà vua tình trạng thê thảm của các đoàn truyền giáo do các biện pháp nửa vời gây nên”. Đến Pháp vào đầu tháng 5 (1857), ngày 16/5, ông trình bày trước Ủy Ban và ngày 21/5 ông trao cho họ bản thuyết trình đầy đủ chi tiết trước khi Napoléon tiếp kiến…
Nhưng sự vụ hình như kéo dài sốt ruột, Giám-mục (Pellerin) tin là nên nhắc lại Napoléon III: “Thần xin Chúa Thượng, chúng ta thấy trong thư ngày 30/8/1857 của ông, cho phép thần nói đến các người mới theo đạo khốn khổ ở xứ Cochinchine và các nhà truyền giáo ở xứ An Nam, hiện giờ máu họ đang đổ và tình cảnh của họ còn kinh khủng hơn từ cuộc vận động sau chót của nước Pháp không làm gì cho bọn thần, e rằng đạo Thiên Chúa sẽ bị tận diệt tại các vùng hình như sẵn sàng tiếp đón lợi ích của đạo Thiên Chúa và văn minh. Thần đến xin Chúa Thượng đừng bỏ rơi bọn thần. Điều bệ hạ làm cho bọn thần sẽ khiến cho ân phúc của Chúa ban xuống cho bệ hạ và triều đại huy hoàng của bệ hạ.
Kế đến tháng 11 (1857), Giám-mục Pellerin đi Rôme, Giáo Hoàng Pie XI tán thành các cuộc vận động ủng hộ cho các phái đoàn truyền giáo.”
Xuyên qua các cuộc can thiệp của Linh-mục Huc và Giám-mục Pellerin, chúng ta thấy ý tưởng chính sau đây: Cuộc viễn chinh của họ vận động, nhân danh các người truyền giáo tại Việt Nam, không phải chỉ là cuộc biểu dương lực lượng đơn thuần hay là một cuộc chiếm đóng tạm thời một vài địa điểm của nước Việt Nam, mà hoàn toàn là một cuộc viễn chinh thực dân, vì nhằm xây dựng một thuộc địa Pháp vĩnh viễn ở góc đất này ở Đông Nam Á. Ý tưởng này được một người truyền giáo khác là Linh-mục Legrand de La Liraye trình bày mạnh mẽ hơn trong một bản trần trình mà y gửi cho Napoléon III vào khoảng tháng 2/1857.” [3]
Nói về nỗ lực của Vatican vận động Pháp liên kết với Giáo Hội La Mã và xuất quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa, nhà biên khảo sử học Bùi Trần Phương ghi nhận như sau:
"Quan hệ gắn bó giũa Thiên Chúa Giáo và chủ nghĩa thực dân Pháp là một thực tế lịch sử phong phú, hiển nhiên đến nỗi không cần lý lẽ biện luận, thuyết minh thêm. Chỉ xin nhắc lại đôi chút về vai trò các nhà truyền giáo trong việc hình thành và phê chuẩn kế họach của chính quyền Đế Chế II cử phó đô đốc Rigault de Genouilly mang hạm đội đến tấn công Đà Nẵng năm 1858. Các nhà truyền giáo như Linh-mục Huc, Giám-mục Pellerin, Linh-mục Legrand de la Liraye, Giám-mục Retord... bằng nhiều văn thư và cả sự có mặt trực tiếp của mình trong các cuộc họp của Ủy Ban Nam Kỳ, tham gia tích cực vào việc xây dựng kế hoạch tấn công quân sự để đạt mục tiêu truyền giáo và xâm lược thực dân không chỉ ở một địa phương nào mà từng bước đi đến chinh phục toàn cõi Việt Nam (...). Các nhà truyền giáo đã "có công" đề xuất ý kiến vạch kế họach, cung cấp thông tin, hứa hẹn bảo đảm về hậu thuẫn của dân chúng tại chỗ. Nói tóm lại, chẳng những hết lòng ủng hộ mà còn gây áp lực chính trị, tinh thần thúc ép các nhà nước tư bản Pháp, Tây Ban Nha tiến hành một kiểu "thánh chiến" bảo vệ đạo ở Việt Nam để mưu đồ cầu lợi ích chung của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản. Trong họat động này, các nhà truyền giáo có một ưu thế rõ rệt: Họ là những người am hiểu nhất về tình hình các vùng đất - còn xa lạ với Phương Tây - nơi họ đã xây dựng và chuẩn bị lực lượng từ rất lâu đời thông qua những hoạt động mang danh nghĩa là tôn giáo của nhiều thê hệ tu sĩ. Tiếng pháo của hạm đội Rigault de Genouilly bắn vào Đà Nẵng làm bùng nổ một xung đột đã âm ỉ từ lâu. Nó cũng phơi bày sự thật hiển nhiên về ý nghĩa chính trị rất "thế tục" của họat động "truyền giáo" của các giáo sĩ Phương Tây ở Viễn Đông từ mất thế kỷ trước.” [4]
Tất cả những vấn đề này đã được chúng tôi trình bày đầy đủ nơi Chương 5, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nưóc Việt Nam. Chương sách này có thể đọc online trêm sachhiem.net. http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_Main.php
Như vậy, nguyên nhân của việc Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican đánh chiếm và thống trị Việt Nam (1858-1945) khởi đầu là do tham vong bá quyền của Vatican và cũng chính Vatican đã chủ động thuyết phục và thúc đẩy Pháp cấu kết với Vatican xuất quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa. Sự kiện này chứng tỏ rằng vai trò Giáo Hội La Mã hay Vatican rất là quan trọng trong dòng lịch sử Việt Nam thời cận và hiện đại. Thiết nghĩ rằng một sự kiện quan trọng như vậy không thể nào thiếu vắng trong bất kỳ tác phẩm lịch sử nào có liên hệ đến chế độ thuộc địa hay chính sách cai trị cúa Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong những năm 1858-1954.
B.- Vatican Cấu Kết Với Pháp Đem Quân Tấn Chiếm Và Thống Trị Việt Nam
NGUYÊN NHÂN: Nguyên nhân khiến cho Pháp cấu kết với Vatican đem quân đánh chiếm Việt Nam làm thụôc địa đề cùng thống trị nước ta, cùng cưỡng bách dân ta làm nô lệ cho chúng, cùng cướp đoạt tài nguyên của đất nước và cùng bóc lột dân ta đến tận xương tận tủy đã được chúng tôi trình bày quá rõ ràng trong Muc A ở trên và trong Chương 3, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương ách này đều có thể đọc online trên sachhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_Main.php.
DIỄN BIẾN SỰ KIỆN: Đây là một chuỗi những hành động của Liên Minh Pháp- Vatican như (1) đem quân sang chinh phục nước ta, (2) thiết lập bộ máy cai trị, (3) tận tính cướp đoạt tài nguyên và bóc lột dân ta đến tân xương tận tủy bằng đủ mọi thức thuế khóa vô cùng bất nhân, và (4) cưỡng bách dân ta làm lao nô phục dịch trong các công trường xây cất hàng ngàn ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ với những tháp chuông cách chót vót vươn lên đến tận trời xanh cùng những công trình kiến trúc khác như tu viện, chủng viện, các dinh thự cư ngụ cho các giám mục và các quan lớn quan nhỏ trong bộ máy đàn áp nhân dân ta, (5) nhập cảng thuốc phiện vào Việt Nam từ thời Tòan Quyền Paul Doumer (12/1886-3/1902) bán cho dân ta tiêu thụ với dã tâm vừa làm tiếu hao ý chí quân khởi của người Việt Nam, vừa kinh tài thu vơ lợi nhuận tích lũy cho đầy túi tham. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ trong Mục X gồm các Chương 26, 27, 28, 29 (Phần III), sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Tất cả các chương sách này đều có thể đọc online trên sachhiem.net. http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH26.php và các links tiếp theo. Riêng về vấn đề nhập cảng thuộc phiện vào Việt Nam bán cho dân ta đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 91 có tựa đề là “Vấn Nạn Buộn Bạn Ma Túy” (Mục XXIII, Phần VI), sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php.
HẬU QUẢ: Hậu quả trực tiếp của việc Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đánh chiếm và thống trị nước ta là dân ta rơi vào thảm cảnh nghèo khổ, chậm tiến, việc học hành bị hạn chế tối đa khiến cho dân trí thấp kém, nhân dân điêu đứng lầm than, lâm vào tình trạng chết đói thảm thương đến độ chỉ trong mấy tháng mùa xuân năm Ất Dậu 1945 mà con số nạn nhân chết đói lên tới hai triệu người. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày đầy đủ trong Chương 30, (Mục X, Phần III), sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên sáchhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH30.php.
Hậu quả này trở thành nguyên nhân khiến cho toàn thể nhân dân ta vô cùng ghê tởm, coi đạo Ca-tô là một thứ đạo ăn cướp và quyết tâm vùng lên liều chết tống cổ liên minh giặc xâm lăng Pháp – Vatican khốn nạn này ra khỏi đất nước để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Cũng vì thế mà bất kỳ thế lực nào nổi lên phất cở khởi nghĩa nêu rõ mục đích đánh đuổi liên minh xâm lược này cũng đều được toàn thể nhân dân ta nức lòng đi theo và liều chết sát cánh cùng họ chiến đấu cho tới cùng để đạt được khát vọng trên đây. Sự kiện này được ông Hoàng Văn Đào ghi nhận trong cuốn Việt Nam Quốc Dân Đảng với nguyên văn như sau:
“Sau 80 năm bị lệ thuộc, dân tộc Việt Nam chỉ thèm khát độc lập, và không biết gì đến khuynh hướng chính trị của phe này với nhóm khác. Người dân Việt Nam nghĩ rằng: miễn là nước được độc lập, còn đảng phái nào lãnh đạo cuộc tranh đấu giành độc lập hay cầm chính quyền cũng vậy, cốt là “Nước Việt Nam của người Việt Nam!”
Một yếu tố khác nữa, ngót hai triệu đồng bào chết đói vừa qua, là chết để đem linh hồn thức tỉnh ý chí những kẻ còn sống cũng phải phục thù rửa hận cho toàn dân. Đó là hoàn cảnh tạo nên cuộc cách mạng âm ỷ trong đầu óc mọi người dân Việt, khác nào như một kho thuốc nổ, chỉ còn đợi người nào hoặc đoàn thể nào châm ngòi lửa là nổ bùng. Lò thuốc súng đã có người châm, ngòi đã nổ, quần chúng ùa chạy theo Việt Minh Cộng Sản.”[5]
Nhờ vậy mà Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh đã có thể quy tụ được toàn dân dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc và đã hoàn thành sứ mạng lịch sử đánh đuổi liên minh xâm lược Pháp – Vatican giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc trong cuộc chiến 1945-1954, cũng như sau này, họ lại thành công trong nhiệm vụ lịch sử trong cuộc chiến đánh đuổi liên minh xâm lược Mỹ - Vatican một cách vô cùng hiển hách để đòi lại miền Nam cho đất nước, đem giang sơn về một mối vào mùa xuân năm 1975.
C.- Vatican Cấu Kết Với Pháp Đem Quân Tái Chiếm Đông Dương
NGUYÊN NHÂN: Nguyên nhân của biến cố này là do Pháp và Vatican đồng thuận với nhau trong mưu đồ tái chiếm Đông Dương bằng vũ lực và bằng mọi giá. Vì vậy mà cả chính quyền Pháp và Vatican mới đồng thuận với nhau cùng quyết định đưa cựu linh mục Georges Thiery d’ Argenlieu lên nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương vào ngày 17/8/1945 để đảm trách việc làm bất chính này. Dã tâm của Vatican và Pháp trong việc đưa tên cựu Linh-muc này lên nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương là hy vọng rằng nhờ dựa vào cái danh hiệu hay tước vị (title) “linh mục” của tên đại thực dân này sẽ lôi cuốn được khôi tín đồ Ca-tố cuồng tín bản địa (người Việt) đi theo và tích cực tiếp tay cho đoàn viễn chinh Pháp tiến hành những chiến dịch đánh bại quân đội kháng chiến của nhân dân ta dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh giống như chuyện đã xẩy ra trong thời hậu bán thế kỷ 19.
DIỄN BIẾN: Đây là một loạt những hành động của Liên Quân Xâm lăng Pháp – Vatican trong suốt thời gian từ đầu tháng 9 năm 1945 cho đến cuối tháng 7 năm 1954. Xin phân chia những những hành động này ra làm hai đợt A và B:
Những hành động trong đợt A: Trong những hành động trong đợt này, đáng kể lả (1) việc gây hấn tấn công chính quyền ta ở Sàigòn vào ngày 23/9/1945, rồi phóng ra các cuộc hành quân cưỡng chiếm Nam Kỳ, (2) gây hấn ở Hải Phòng vào hạ tuần tháng 11.1946, rồi gây hấn ở Hà Nội và ở nhiều nơi khác trong những ngày kế tiếp. Những hành động này đã khiến cho chính quyền ta không thể tiếp tục nhượng bộ, đành phải kêu gọi nhân dân ta đứng lên cầm súng chống lại quân cướp xâm lăng. Vì thế mà chíến tranh đã thực sự bùng nổ trên toàn quốc vào ngày 19/12/1946.
Những hành động trong đợt B: Đây là những việc làm của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong thời gian từ 19/12/1946 cho đến ngày 20/7/1954.Hầu hết những việc làm trong đợt này do chính Vatican chủ động:
Thứ nhất, ngay sau khi đưa cựu Linh-mục Georges Thiery d’ Argenlieu lên nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương, Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) ra lệnh cho các nhân vật chức sắc trong hàng giáo phẩm tại Đông Dương phài:
1.- Hành động tích cực để thúc đẩy và lôi cuốn tín đồ Ca-tô bản địa hăng say tình nguyện gia nhập hàng ngũ liên quân xâm lược Pháp - Vatican chống lại đại cuộc kháng chiến của dân ta;
2.- Răn đe và ngăn cấm, không cho họ gia nhập vào hàng ngũ kháng chiến dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh;
3.- Khởi xướng việc đưa Bảo Đại lên thành lập chính quyền làm tay sai cho cả Pháp và Vatican trong mưu đồ:
a.- Tiến hành chính sách chia rẽ dân ta thành hai khối “dân có đạo” và “dân ngoại đạo”;
b.- Thi hành chính sách chia để trị “dùng người Việt đánh người Việt” để rồi tiến tới thi hành chính sách dùng “nhóm thiểu số dân có đạo” để cai trị “đại khối dân ngoại đạo”.
4.- Chính thức sử dụng thanh niên bản địa để thành lập đạo quân lính đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican. Sự kiện này được sách Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong Giai Đoạn Hình thành 1946-1955 (Quân Sử 4) viết:
”Ngày 1/10/1946, Pháp khai sinh Vệ Binh Cộng Hòa Nam Kỳ. Đây là lực lượng đầu tiên của chính phủ Nam Kỳ tự trị. Ngaòi lực lượng này, Pháp cũng tổ chức những lực lượng quân sự khác như phụ lực quân, địa phương quân, huơng dũng, hương vệ để tăng cường cho đoàn quân viễn chinh. Đoàn quân viễn chinh còn được sự hợp tác của những quân nhân thuộc địa người Việt từ Pháp theo về và ở trong nước khi Pháp tới tái chiếm.
Ngày 15/7/1946, Pháp bắt đầu tăng cường thêm cấp chỉ huy người Việt bẳng cách mở khóa Liên Quân Viễn Đông tại Đà Lạt.” [6]
Các đạo quân đánh thuê này gồm (1) những tên lính đánh thuê người Việt vốn đã là quân lính trong Liên Quân Pháp – Vatican từ trước tháng 3/1945, và (2) những tân binh tình nguyện mà hầu hết là tín đồ Ca-tô người Việt. Sau này, trong những năm 1954-1955, có một số trong tên lính thuê trên đây được Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican thăng lên hàng tướng lãnh và giao phó cho nấm giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền và quân đội miền Nam trong những năm 1954-1975. Đó là trường hợp các tướng Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao Văn Viên,Tôn Thất Đính, Hoàng Xuân Lãm, Ngô Du ,Lữ Lan, Lam Sơn, Vĩnh Lộc, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Hữu Có, Trần Tử Oai, Phạm Quốc Thuần, Huỳnh Văn Cao, Lâm Quang Thi, Hoàng Văn Lạc, Lý Tòng Bá, Nguyễn Vĩnh Nghi, Nguyễn Ngọc Oánh (Không Quân), v.v…
Thứ hai, xin nói về những việc làm chung của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican ở Đông Dương. Sau khi núp bóng quân Anh đổ bộ vào Sàigòn vào ngày 12/9/1945, Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican liền chuẩn bị và tiến hành những cuộc hành quân để đánh bại chính quyền và quân đội kháng chiến của nhân dân ta. Trong các cuộc hành quân trên đây, những tín hữu Ki-tô người Việt hoặc là những người lính đạo trong các đạo quân xâm lược này, hoặc là những toán quân lính đạo được liên minh giặc vũ trang có những hành động cực kỳ man rợ giống y hệt như những người lính thập ác trong các đoàn quân thập tự chinh tiến vào vùng Cận Đông và miền Nam nước Pháp trong thời Trung Cổ và Liên Quân Xâm Lược Tây Ban Nha - Vatican tiến vào Châu Mỹ La-tinh và Phi Luật Tân vào đầu thế kỷ 16. Những hành động tàn ngược và man rợ này đã gây nên không biết bao nhiêu chết chóc đau thương cho nhân dân ta. Tình trạng này kéo dài cho đến khi chiến tranh chấm dứt vào cuối tháng 7/1954 được quy định bởi Hiệp Ước Geneve 1954. Để có thể nhìn ra hay hình dung được những hành động dã man của những người lính thập ác Việt Nam trong thời Kháng Chiến 1945-1954 như thế nào, xin độc giả đọc những cuốn như (1) Những Hoạt Động Của Bọn Phản Động Thiên Chúa Giáo Trong Thời Kháng Chiến Thời Kỳ Kháng Chiến 1945-1954 (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học, 1965) của hai tác giả Quán Toàn và Nguyễn Hòai, (2) Chương 11, sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã (Tacoma, WA: TXB, 1999) của tác giả Nguyễn Manh Quang, và (3) đọc Chương 13 (có tựa đề là Những Việc Làm Sáng Danh Chúa của Giáo Hội La Mã), sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net:
http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_13.php.
Đến đây, thiết tưởng cũng nên nói rõ hơn về dã tâm thâm độc của Vatican trong thời kỳ này là đưa Bảo Đại lên thành lập chính quyền làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican để thì hành chính sách chia để tri với hai kế sách được thi hành theo từng bước một tùy theo tình thế và hoàn cảnh của đất nước ta:
Bước 1.- Dùng người Việt đánh người Việt được thi hành triệt để khi mà chiến tranh còn diễn ra quyết liệt và được khởi tiến ngay từ khi chính quyền Bào Đại với nội các Nguyễn Văn Xuân hình thành và trình diện vào ngày 2/6/1948.[7]
Bước 2.- Dùng tín đồ Ki-tô để cai trị đại khối nhân dân thuộc các tôn giáo cổ truyền của dân tộc như Phật, Lão, Khổng, đạo thờ gian tiên, v.v.., và sẽ được tiến hành vào khị tình thế thuận tiện hay Vatican cảm thấy chính quyền tay sai của họ đã được củng cố vững mạnh. Lúc đó, Vatican sẽ tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa dân ta bằng bạo lực đúng theo tinh thần Sắc Chỉ Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 mà chúng tôi đã nói rõ trong phần Dẫn Nhập. Bản văn sử dưới đây cho chúng ta thấy rõ dã tâm thâm độc này của Vatican:
“28/12/1945: Huế: Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại diện Roma tuyên bố: Gia đình Bảo Đại là “gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophilende tous les annamites), và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3/ (1945) (À mon avis, il serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi come le chef regulier avant le mars; DOM [Aix], CP 125). Drapier cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long (mới có 10 tuổi) lên kế vi, và Nam Phương là Giám Quốc [Phụ Chính].” [8]
Bản văn sử trên đây nói rõ ý đồ của Vatican là sẽ đưa cậu bé Bảo Long (mới 10 tuổi) lên làm vua và dùng bà Nam Phương Hoàng Hậu làm nhiếp chánh. Vấn để đặt ra là TẠI SAO người đại diện của Tòa Thánh Vatican lại nói đến việc “sau đó sẽ cho Bảo Long lên kế vi, và Nam Phương là Giám Quốc [Phụ Chính].”?
Dưới đây là lời giải thích của chúng tôi về thắc mắc này:
Như đã nói ở trên, chủ đích của Vatican trong việc đưa Bảo Đai lên cầm quyền là để thi hành chính sách chia để trị được thi hành bằng hai kế sách (hai bước) theo hai thời kỳ khác nhau:
Bước 1: tiến hành kế sách dùng người Việt đánh người Việt và cũng là dọn đường để tiến sang Bước 2.
Bước 2: Tiến hành việc sử dụng tín đồ Ca-tô cai trị đại khối nhân dân thuộc tam giáo cổ truyền. Trong bước 2 này, việc đầu tiên là thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô (papacy) rồi sau đó sẽ sử dụng các phương tiện của nhà nước để vừa thi hành chinh sách “bất khoan dung” cố hữu của giáo hội, vừa tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân ta bằng bạo lực từ trên xuống dưới (từ trung ương xuống tới các địa phương).
Ôn có tri tân.
Trở lại vấn đề TẠI SAO Vatican lại nói đến việc “đưa cậu bé Bảo Long (mới 10 tuổi) lên làm vua và dùng bà Nam Phương Hoàng Hậu làm nhiếp chánh “, chúng tôi xin lấy chuyện đã xẩy ra trong quá khứ để suy ra chuyện này. Chúng ta nhớ lại, khi có phong trào Tin Lành nở rộ ở Âu Châu vào thế kỷ 16, tại nước Pháp, Vatican cũng đã dùng một nữ tín đồ cuồng tín là Hoàng Hậu Catherine de Medici (1519-1589) nhiếp chánh cho ấu quân Charles IX (1550-1574), lúc đó mới có 10 tuổi và biến bà hoàng hậu này thành một nữ bạo chúa lừng danh với vụ tàn sát tín đồ Tin Lành vào ngày 24/8/1572 mà sách sử gọi là “The St. Bartholomew’s Day Masscre of 1572”. Cuộc tàn sát cực kỳ dã man này khởi đầu ở Paris rồi làn tràn ra nhiều nơi trong nước Pháp và kéo dài trong nhiều ngày (hơn một tuần lễ). Con số nạn nhân bị sát hại lên đến gần hai chục ngàn người. Xin xem Chương 13 - Mục III, tiểu Mục B với tựa đề là "Những Hành Động Trả Thù Cho Chúa Bằng Cách Tra Tấn và Hành Hạ Nạn Nhân một cách cực kỳ Man Rợ" (http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_13b.php) để biết rõ vụ tắm máu cực kỳ kinh khủng này.
Chinh vì vụ tàn sát người Tin Lành một cách cực kỳ man rợ như vậy mà sử gia Nigel Cawthorn mới đưa Hoàng Hậu Catherine de' Medici (1519-1589) vào cuốn sách 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại.[9]
Từ câu chuyện sử dụng Catherine de' Medici làm giám quốc cho ấu quân Charles IX (1550-1574) của nước Pháp, chúng ta có thể suy ra để nhìn thấy rõ dã tâm của Vatican đề xuất ý kiến đưa cậu bé Bảo Long lên ngai vàng và dùng bà Nam Phương Hoàng Hậu làm giám quốc.
Ý đồ của Vatican là như vậy, nhưng trong những năm 1945-1954, chính tình nước Pháp không được ổn định vì chế độ đại nghị và đa đảng. Lúc đó, nước Pháp cứ độ vài ba tháng lại xẩy ra chuyện thay đổi chính phủ. Hơn nữa, ở chính quốc cũng như ở Đông Dương, có rất nhiều chính khách cầm quyền đều chịu ảnh hưởng sâu nặng của tinh thần Cách Mạng 1789. Với những người này, những hành động tham tàn, gian ác và dã man của Giáo Hội La Mã từ thời Trung Cổ cho đến thời Cách Mạng tháng 7/1830 vẫn còn đậm nét trong trí nhớ của họ. Vì thế mà họ nhất định chỉ để cho tấn tuồng “giải pháp Bảo Đại” do Vatican đưa ra được trình diễn một phần nào thôi, chứ không được toàn vẹn 100% theo như ý muốn của Vatican.
Vấn đề này cũng đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 7 (có tựa đề là “Chân Dung Những Người Tự Nhận là Người Việt Quốc Gia”), sách Chân Dung Người Việt Quốc Gia: http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN07.php.
Hậu quả: Việc Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican tiến hành cuộc chiến tái chiếm Đông Dương và đưa Bảo Đại lên thành lập chính quyền bù nhìn làm tay sai chống lại chính quyền Kháng Chiến Việt Mnh đã trực tiếp và gián tiếp gây nên nhiều hậu quả cực kỳ tại hại cho đất nước và dân tộc ta. Vì giới hạn của tập sách này, ở đây, chúng chỉ xin nêu lên một vài hậu quả như sau:
Hậu quả 1.- Hậu qủa này là gần như toàn thể nhân dân Việt Nam lâm vào thảm cảnh đau thương, khốn khỏ lầm than: (1) Nỗi đau thương lớn nhất là con số người bị thiệt mạng và bị tàn phế do chiến tranh gây ra, để lại cho đất nước hàng triệu người rơi vào thảm họa cha mẹ mất con, vợ mất chồng và trẻ thơ mất cha, tức là mất đi những người thân thương cột trụ nuôi sống gia đình và an ủi nhau khi sớm khi trưa, khi mưa khi nắng, khi tắt lửa khi tối đèn, v.v… . (2) Nhiều thảm cạnh đau thương khác nữa là không biết bao nhiêu triệu người sống trong cảnh màn trời chiếu đất vì nhà cửa và tất cả những công trình kiến trúc khác đều bị quân lính Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican cũng như lính Bảo Đại và lính đạo tại các địa phương thiêu hủy trong các chiến dịch hành quân trong những năm 1946-1954.
Hậu quả 2: Đây là hậu quả của việc chính quyền bù nhìn Bảo Đại ban hành lệnh tổng động viên cưỡng bách thanh niên trong vùng tạm chiếm phải đi lính chết thay cho quân lính người Âu Phi của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican. Sách Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Trong Giai Đoạn Hình Thành (Quân Sử 4) ghi nhận vấn đề này như sau:
“Tháng 7 guồng máy chiến tranh chuyển động và lan rộng mạnh, lệnh động viên được ban hành chiếu theo dụ số 12 ngày 15/7/1951 gọi khóa đầu tiên sĩ quan trừ bị và 60 ngàn thanh niên nhập ngũ.” [10]
Lệnh tổng động viên này đã tạo ra (1) hàng trăm ngàn thanh niên bị đưa ra mặt trân làm bia đỡ đạn chết thay cho quân lính người Pháp cùng quân lính người Âu Phi, và (2) hàng ngàn những người được giặc huấn luyện thành quân lính đánh thuê chuyên nghiệp cho liên minh giặc Pháp – Vatican, rồi sau này chính những tên lính đánh thuê này trở thành những nhân vật nắm giữ những chức vụ chỉ hủy trong đạo quân đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican ở miền Nam trong những năm 1954-1975. Bằng chứng là những người như Nguyễn Cao Kỳ, Lê Nguyên Khang, Nguyễn Ngọc Loan, Hồ Văn Kỳ Thoại, Nguyễn Hữu Tần, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, v.v… đều là những người xuất thân từ trong đạo quân đánh thuê của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong thời Kháng Chiến 1945-1954.
Hậu quả 3: Đây là hậu quả gây ra bởi việc chính quyền Bào Đại tuân hành lệnh truyền của Vatican ban hành Dụ Số 10 vào ngày 6 tháng 8 năm 1950. Việc làm phản quốc này của chính quyền bù nhìn Bảo Đại được sách sử ghi lại đầy đủ. Sách Ngô Đình Diệm: Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở viết:
"Chiếu dụ số 10 do Quốc Trưởng Bảo Đại ban hành ngày 6 tháng 8 năm 1950 ấn định quy chế các hiệp hội tôn giáo, thật sự là nhằm giúp đỡ Phật giáo và miễn áp dụng cho các tôn giáo và giáo phái khác, mặc dù có những điều khoản bênh vực bảo vệ của cải bất động sản của Hội Thừa Sai Ba Lê, của cải của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nhưng lại do người Pháp đứng tên nên thuộc quyền sở hữu của Pháp. Nhân dịp chuyển giao đất đai Nhà Chung đó cho hàng Giám Mục Việt Nam, nhiều vấn đề phức tạp đã xẩy ra."[11]
Ngòai chủ tâm chuyển nhượng khối bất động sản kếch sù của giáo hội cho các tu sĩ Ca-tô người Việt đứng tên, sau đó, Dụ số 10 phản quốc này còn được chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm sử dụng để dọn đường cho kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân Miền Nam bằng phương tiện của nhà nước. .Đây là một sự thật lịch sử và đều được sách sử
ghi lại rõ ràng. Sách Thập Giá Và Lưỡi Gươm viết:
“Trước tiên là chỉ thị số 10 của Phủ Tổng Thống, lấy lại các sắc chỉ của chế độ thuộc địa, nói rằng:“Tất cả các hiệp hội tôn giáo, văn hóa, thể dục, chỉ trừ Công Giáo, đều không được quyền mua các bất động sản, nếu không có phép riêng của Phủ Tổng Thống.” Bản văn của sắc lệnh đặt Công Giáo ra ngoài và hạ Phật Giáo xuống hàng các hiệp hội văn hóa và thể thao, tất nhiên là nó phải làm bực bội Giáo Hội Phật Giáo. Việc trở lại thời thuộc địa như thế, cũng không làm hài lòng đại bộ phận quần chúng nhân dân, dẫu sao cũng không bao giờ từ bỏ truyền thống nhà Phật. Hơn nữa, sắc lệnh khơi lại sự đố kỵ đối với người công giáo, mới đây đã từng liên minh bọn xâm lược và hôm nay lại liên minh với bọn chủ mới là Mỹ. Sau nữa, những hành động lập đi lập lại như dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ, đưa nhiều người công giáo lên các chức vụ quan trọng trong chính quyền, cho phép giải thích sắc lệnh, vốn dĩ đã bất công, như một cử chỉ “tìm cách Ki-tô hóa” cả nước trái ý mọi người.”[14]
Được đằng chân lân đằng đầu, thấy răng Dụ Số 10 chính
quyền Bảo Đại ban hành vào ngày 6/8/1950 để làm cơ sở cho việc Vatican nuốt
trọn những khoản bất động sản khổng lồ bằng hình thức chuyển nhượng do
bọn thực dân Pháp cướp đoạt của dân ta trong những năm 1862-1950, và sắc
lệnh của chính quyền Ngô Đình Diệm trên đây "hạ Phật Giáo xuống
hàng các hiệp hội văn hóa và thể thao" bọn tu sĩ áo đen có thế lực ở hậu trường sân khấu chính quyền miền Nam lúc bấy giờ đã hồ hởi tiến lên, dưa ra một định nghĩa về tôn giáo khẳng định một cách võ đoán hết sức trịch thượng và cực kỳ lố bịch rằng ở miền Nam Việt Nam chỉ có Ki-tô giáo mới là tôn giáo theo đúng nghĩa của tôn giáo, còn tất cả các tôn giáo cổ truyền của dân tộc đều không phải là tôn giáo. Trước hết, chúng ta hãy nghe một cán bộ truyền giáo của Vatican là Linh-mục Vũ Đình Hoạt đưa ra những lời ngụy biện cho những hành động xấc xược và ngược ngạo này như sau:
“Cho được là một Đạo hay một Tôn Giáo thì phải có Giáo Chủ, Phẩm Trật, Giáo Điều, Giáo Lý và Quy Luật. Hiểu nhự vậy thì đạo Khổng cũng không phải là một tôn giáo vì không có Giáo Chủ và Phẩm Trật, Lão Giáo cũng không và ngay cả Phật Giáo cũng không nốt, vì không có Giáo Chủ và Phẩm Trật. Lão Giáo thì không hề có. Còn như Phật Giáo thì mãi tới năm 1955, Phật Giáo mới thành lập Hội Phật Giáo Thống Nhất (Tín Ngưỡng Việt Nam, Toán Ánh, Nếp Cũ, trang 285, Quyển Thượng). Và mãi đến năm 1964 Phật Giáo mới có bản Hiến Chương đầu tiên: Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” được làm tại Chùa Xá Lợi: Ngày 20/11 Âm Lịch 2507 (tức ngày4/01/1954). Phật Giáo Việt Nam Tranh Đấu Sử Tuệ Giác, trang 428-438).” [12]
Bản văn trên đây cho chúng ta thấy rõ giới tu sĩ áo đen người Việt đã tự đặt ra một định nghĩa võ đoán về tôn giáo theo tiêu chuẩn riêng của Ca-tô giáo để khẳng định một cách trịch thượng rằng các tôn giáo cổ truyền của dân tộc Việt Nam đều không phải là tôn giáo. Với cái lối định nghĩa ngược ngạo và nghịch lý như thế, thì ngay cả các hệ phái Tin Lành và rất nhiều tôn giáo khác của các dân tộc khác ở trên thế giới cũng đều không phải là tôn giáo vì rằng các tôn giáo này cũng không có giáo chủ. Như vậy, rõ ràng là dã tâm của họ (giới tu sĩ áo đen) là biện minh cho việc Ki-tô giáo nắm độc quyền nhân lãnh hết tất cả quyền lợi dành cho tôn giáo, trong đó có những khoản tiền viện trợ kếch sù của Liên Hiệp Quốc và những đặc quyền đặc lợi mà chính quyền cố ý dành cho tôn giáo nói chung để rồi chỉ có một mình Ca-tô được hưởng thụ.
Nói gì thì nói, cốt lõi hay chủ tâm của Vatican vẫn là chia rẽ tôn giáo, miệt thị, khinh rẻ các tín ngưỡng bản địa cổ truyền của dân tộc và chà đạp lên quyền hành xử tín ngưỡng của các thành phần xã hội thuộc các tôn giáo khác, đúng như những gì mà Linh-mục Alexander de Rhodes (1593-1660) đã viết ra thành văn bản in trong phần có tựa đề là Ngày Thứ Bốn nơi các trang 94-132, sách Phép Giảng Tám Ngày (Rome: Bộ Truyền Giáo Roma, 1651).
Hậu quả 4: Bất kể là cái Dụ Số 10 trên đây mang nặng tính cách phí lý, bất chính và phản quốc, chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm vẫn coi nó như là một nền tảng pháp lý để cho Vatican nắm độc quyền nhân danh tôn giáo, làm mưa làm giáo trên sân khấu chính trị và nắm quyển kiểm sóat tất cả mọi sinh họat trong xã hội miền Nam. Đây là một sự thật và sự thật này được chính cán bộ truyền giáo của Vatican là Linh-mục Vũ Đình Hoạt ngụy biện bằng luận điệu quái đản như sau:
“Ngày 6/8/1950, dưới thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu, Quốc Trưởng Bảo Đại ban hành Dụ số 10 về quy chế Hiệp Hội, tức là các thể lệ phải theo khi muốn lập Hội. Chiếu Dụ số 10 này, thì khi muốn lập Hội, bắt buộc phải xin phép trước đã. Tư cách pháp nhân sẽ bị hạn chế. Đối với các Hội Truyền Giáo của Thiên Chúa Giáo và Gia Tô, cùng các Hoa Kiều Lý Sự Hội, thì sẽ có thể lệ đặc biệt cho các Hội đó trong khi họ muốn xin lập Hội.”[13]
Đất nước bị chia đôi, dân tộc lại bị Giáo Hội La Mã chia rẽ thành hai khối dân, một khối là nhóm thiểu số tín đồ Ki-tô, và một khối là đại đa số nhân dân sống theo nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc. Nói về tội ác này của Vatican, sách Vatican Thú Tội và Xin lỗi viết:
“Trọng tội của Giáo Hội là Giáo Hội không phải là nguồn gốc phúc lộc bình an dưới thế! Ngược lại, và riêng tại Việt Nam, Giáo Hội chống phá đạo hiếu, phế bỏ bàn thờ tổ tiên, chà đạp văn hiến dân tộc Đại Việt, gọi tôn giáo bản địa là thờ Bụt Thần Ma Quỷ… Giáo Hội chia hai dân tộc Việt Nam thành dân có đạo là dân riêng của Giáo Hội, và dân vô đạo là dân ngoại đạo theo tà thần, tạo dựng thành kiến kỳ thị rất sâu đậm và thô bạo. Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng xác minh trọng tội này của Giáio Hội trong bài tham luận đọc tại Roma năm 1988, có Đức Giáo Hoàng đương kim ngồi dự thính.” [15]
Tình trạng chia rẽ này bắt đầu tiến hành ngay từ khi "cái
tôn giáo ác ôn" này được truyền vào Việt Nam vào hồi hậu bán thế kỷ 16, Càng
về sau, tình trạng chia rẽ này càng trở nên trầm và mức độ trầm trọng tăng
theo đà lớn manh về quyền lực của Vatican ở Việt Nam, trầm trọng hơn hết là
trong những năm 1954-1975 ở miền Nam vĩ tuyên 17. Trong những năm này, dựa
vào chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn
Thiệu, nhóm thiêu số tín đồ Ca-tô tự phong là "công giáo" và trở thành một
thứ "kiêu dân Công Giáo": Đây là sự thật lịch sử mà những người đã từng sống
ở nmiền Nam Việt Nam vào những năm này đều xác nhận là như vậy, và sách sử
cũng ghi lại như vậy:
"Trong cuốn Sử Việt, Đọc Vài Quyển, được
xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2004, Tạ Chí Đại
Trường có nhận định rằng khối người làm nồng
cốt cho chế độ Ngô Đình Diệm là một khối “kiêu dân”. Nguyên văn: “…với Công giáo
di cư ít nhiều gì cũng là kiêu dân…”Nguồn:http://virtualarchivist.wordpress.com/page/2/
D.- Vatican Cấu Kết Với Mỹ Đưa Ngô Đình Diệm Về Việt Nam Cầm Quyền Làm Tay Sai Cho Cả Mỹ Và Vatican
NGUYÊN NHÂN:
Cuối tháng 9 năm 1949, trước sức mạnh tấn công như vũ bão của Hồng Quân Trung Hoa, Quân Đội ô hợp nặng tính cách thổ phỉ của Tưởng Giới Thạch không chống cự nổi, chỉ nghe phong thanh thấy cộng quân sắp sửa tiến đến là đã tranh nhau bỏ chạy y hệt như quân đội miền Nam trong những ngày từ 11/3/1975 cho đến ngày 30/4/1975. Đứng trước tình hình này, Vatican tiêu liệu rằng, chắc chắn là (1) Mao Trạch Đông sẽ làm chủ lục địa Trung Hoa, (2) tân chính quyền Trung Quốc sẽ viện trợ ồ ạt cho quân đội Kháng Chiến Việt Minh, và (3) Pháp sẽ rơi vào tình trạng yếu thế không thể kham nổi rồi phải tính kế thương thuyết trực tiếp với chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa để công nhận chủ quyền độc lập của các dân tộc Đông Dương và rút quân về nước. Nếu xẩy ra như vậy và rất cho thể là như vậy, Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican sẽ tan vỡ và Vatican sẽ không còn chỗ dựa để duy trì quyền lực ở Việt Nam và bảo vệ các quyền lợi đã ăn cướp của nhân dân ta từ năm 1862 cho đến lúc bấy giờ. Để chuẩn bị đối phó với thình thế mới này, Vatican đưa ra hai sách lược:
1.- Ra lệnh cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại ban hành Dụ Số 10 với nội dung hợp thức hóa khối bất động sản khổng lồ do các giáo sĩ người Pháp đứng tên chuyển sang cho các tu sĩ người Việt đứng tên để đề phong nếu Việt Minh đại thắng và sẽ quốc hữu hóa các khỏan tài sản do người nước ngoài đứng tên thì sẽ thoát được. Đây là khối ruộng đất mà Vatican đã cướp đoạt của dân ta trong những năm 1852-1945 nhờ dựa vào chính quyền bảo hộ. Vấn đề này sẽ được nói rõ ở sau.
2.- Ra lệnh cho Giám-mục Ngô Đình Thục dẫn ông Ngô Đình Diệm sang Mỹ trao cho Hồng Y Francis Spellmam để ông hồng y này huy động các vị chức sắc và tín đồ Ca-tô Mỹ đang có thế lực vận động chính quyền Hoa Kỳ dùng tiền viện trợ gây áp lực với Pháp và với ông Bảo Đại đưa ông ta (Ngô Đình Diệm) về Việt Nam cầm quyền làm tay sai cho cả Vatican và Mỹ.
Những vị chức sắc và tín đồ Ca-tô có thế lực ở trên sân khấu chính trị Hoa Kỳ lúc bấy giờ là (1) Hồng Y Francis Spellman, (2) John Foster Dulles nắm giữ chức vụ Tổng Trưởng Ngọai Giao trong chính quyền Eishenhower (1953-1961), (3) Allan W. Dulles, Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA), (4) Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, (5) Thượng Nghị Mike Mansfield, (6) Dân Biểu Walter Judd, (7) Thẩm Phán Tòa Tối Cao Pháp Viện William Douglas và nhiều vị chức sắc Ca-tô và Tin Lành khác có thế lực ở hậu trường sân khấu chính trị Mỹ vào lúc đó. Như vậy là thế lực của Vatican ở trong chính quyền Mỹ lúc bấy giờ rất mạnh. Nhờ thế mà khi Liên Quân Xâm Lược Pháp sắp bị đại bại tại Điện Biên Phủ, Mỹ đã dễ dàng ép Pháp phải nhường cái di sản của Pháp ở Việt Nam cho Mỹ.
Khi đã được Pháp thỏa thuận rồi, chính quyền Tổng Thống Eisenhower quyết định chọn ông Ngô Đình Diệm làm quản lý (manager) đảm trách các công việc nội chính cho Mỹ ở Việt Nam. Rồi sau đó, ông Bảo Đại được cả Mỹ và Pháp khuyên bảo bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng vào ngày 19/6/1954. Nhờ vậy mà chỉ có mấy ngày sau đó, ông Diệm đã có thể lên đường về nước vào ngày 25/6/1954 và chính thức nhậm chức vào ngày 7/7/1954. Tất cả những sự kiện lịch sử này đều được sách sử ghi lại rõ ràng. Độc giả có thể kiểm chứng vấn đề này bằng cách tìm đọc các sách như (1) Vietnam: A History (New York: Viking Press, 1983) nơi trang 217 của tác giả Stanley Karnow, (2) Vietnam, Vietnam: A Dragon Embattled, Vol. II (New York: Frederich A. Praeger, 1967) nơi các trang 846-848 của tác giả Joseph Buttinger, (3) Vietnam why did we go? (Chino, CA: Chick Publications, 1984) nơi cảc trang . 57-58 của tác giả Avro Manhattan, (4) The Two Vietnams (New York: Frederich A. Praeger, 1964), nơi các trang 243-244, (5)Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, California: Văn Nghệ, 1993), nơi các trang 87-91 của tác giả Đỗ Mậu, và (6) Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, Calìornia, 1997) nơi các trang 23-24 của tác giả Lê Hữu Dản, v.v…
Cũng nên biết là Nếu ông Ngô Đình Diệm không được Vatican đỡ đầu và tích cực vận động chạy chọt với chính quyền Mý để được đưa lên làm thủ tướng trong chính quyền Bảo Đại, THÌ chắc chắn là Mỹ sẽ chọn một trong các ông Phan Huy Quát, Trần Văn Tuyên, Phan Quang Đán và Nguyễn Phan Long đưa lên giữ chức vụ này để làm tay sai cho họ.
DIỄN BIẾN:
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ ràng là Vatican đã cấu kết với Mỹ đưa ông Diêm về Việt Nam cầm quyền để làm tay sai phục vụ cho cả hai thế lực này. Phục vụ cho cả hai thế lực này có nghĩa là ông Diệm phải có các nghĩa vụ đối với cả Vatican và Hoa Kỳ. Diễn tiến sự việc ở đây là việc chính quyền Ngô Đình Diệm phải thi hành các nghĩa vụ với Hoa Kỳ và các nghĩa vụ đối với Vatican.
a.- Các nghĩa vụ của ông Ngô Đình Diệm đối với Hoa Kỳ:
Theo Hiệp Định Genève 1954, Việt Nam tạm thời bị chia làm hai miền Nam và Bắc qua lằn ranh vĩ tuyến 17 và sẽ được thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử (bỏ phiếu kín) phổ thông đầu phiếu được ấn định vào tháng 7 năm 1956. Thế nhưng, vì muốn duy trì miền Nam mãi mãi ở trong tình trạng chia đôi và biến miền Nam làm thuộc địa riêng, cho nên Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican đã ra lệnh cho chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của họ, từ chối mọi đề nghị của chính quyền miền Bắc hiệp thương với chính quyền miền Nam để bàn việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp Định Genève 1954 đã quy định. Hành động bất chính này của Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican và của chính quyền miền Nam đã khiến cho chính quyền miền Bắc bắt buộc khải phát động chiến tranh để đòi lại miền Nam cho dân tộc và mang lại thống nhất cho đất nước. Đây là sự thật lịch sử không ai có thể phủ bác được.
Sự thực là như vậy. Dù muốn dù không, chúng ta cũng phải thành thật nhìn nhận rằng cả hai thế lực Hoa Kỳ và Vatican đều coi miền Nam Việt Nam như là một thuộc địa riêng của họ, và mỗi thế lực có những chính sách riêng để thi hành và khai thác miền Nam theo chủ trương và nhu cầu chiến lược của họ. Trong khi đó thì chính quyền miền Bắc và toàn thể nhân dân Việt Nam cũng như toàn thể nhân dân thế giới đều coi miền Nam là một phần lãnh thổ của nước Việt Nam bị Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican tạm thời cưỡng chiếm và phải được giải phóng bằng bất cứ giá nào. Điểm đặc biệt là vì bị ảnh hưởng sâu nặng bởi xảo thuật tuyền truyền của cả Vatican và Mỹ, chính quiyền miền Nam, nhóm thiểu số tín đồ Ca-tô người Việt, nhóm thiểu số tàn dư phong kiến của triều đình nhà Nguyễn và nhóm tàn dư của Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican lại quan niệm rằng miền Nam Việt Nam là một quốc gia riêng biệt bất kể là quan niệm như vậy là đi ngược với quyền lợi tối thượng của dân tộc và tổ quốc, đị ngược với quốc tế công pháp. Cái quan niệm ngược ngạo này đưa đến hành động ngang ngược khác nữa là họ coi miền Nám Việt Nam là một quốc gia riêng biệt để rồi nhập nhằng gọi những thằng Việt gian thứ thiệt trọn đời làm tay sai bán nước cho Liên Minh Giặc Xâm Lăng Pháp – Vatican như Trần Bá Lộc, Trần Lục, Nguyễn Hữu Độ, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Ngồ Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Thục, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, v.v… là những người Việt Quốc Gia chân chính yêu nước hay các nhà ái quốc.
Rồi tiến xa hơn nữa, ho gọi quân đội nhân dân Việt Nam của dân ta trú đóng ở miền Nam vĩ tuyến 17 là quân đội xâm lăng và tất cả những người chống lại Vatican và chính quyền miền Nam là “Việt gian”, trong đó có cả nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng bị họ gọi là “Việt gian”. Rõ ràng là họ đã “cưỡng từ đoạt lý” một cách vô cùng thô bạo. Có người cho rằng đây là một quái chiêu của bộ máy truyên truyền của Vatican tung ra theo “sách lược tung hỏa mù” để cho người đời lẫn lộn không biết rõi những ai là Việt gian thứ thiệt, và những ai là nạn nhân bị họ (bọn văn nô Ca-tô) chụp mũ là Việt gian. Vatican làm như vậy là để giảm nhẹ cái mặc cảm mang tội Việt gian của bọn người “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”.
Trở lại chuyện cả Hoa Kỳ và Vatican đều coi miền Nam là một thuộc địa của họ, một lần nữa, chúng tôi xin khẳng định đây là một sự thật lịch sử. Sự thực này cũng được chính ông Tổng Thông Thống Ngô Đình Diệm nhìn nhận qua câu nói, “Miền Nam Việt Nam không muốn làm thuộc địa của Mỹ.”[16]
Trước kia, trong những năm 1862-1945, Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican thi hành chíinh sách trực trị ở Nam Kỳ và bán trực trị ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, Vatican giữ vai trò đồng minh của Pháp, chỉ được Pháp ưu đãi (1) dành cho một số đặc quyền đặc lợi về kinh tế như tha hồ cướp đọat ruộng đất làm của riêng nhà Chúa, (2) cung ứng nhân sự cho bộ máy đàn áp nhân dân ta, nhất là ngành công an và mật vụ.
Trong những năm 1954-1975, Liên Minh Xâm Lược Mỹ – Vatican cũng coi miền Nam Việt Nam là lmột thuộc địa, nhưng khác với Pháp, Mỹ lại để cho Vatican bao thầu nắm độc quyền thi hành mọi chủ trương và chính sách do Hoa Kỳ đã hoạch định sẵn. Nói cho rõ hơn, Hoa Kỳ viện trợ cho thuộc địa miền Nam Việt Nam về tài chánh cũng như quân sự và đặt các phái đoàn cố vấn chuyên môn chỉ huy tất cả các bộ và các cơ quan trong chính quyền miền Nam. Phái đoàn cố vấn này nằm dưới quyền chỉ huy của tòa đại sứ. Giống như phủ Tòan quyền Đông Dương trong những năm 1886-1945, tòa đại sứ và phái đòan cố vấn Mỹ sẽ họach định mọi chính sách (policy making) về tất cả mọi phạm vị từ quân sự, tình báo, an ninh, cảnh sát, kinh tế, tài chính, giáo dục, văn hóa, xã hội cho đến các tổ chức lao động, rồi giao cho chính quyền Ngô Đình Diệm (do Vatican bao thầu và bảo lãnh) cứ theo đó mà thi hành. Tất cả mọi việc tổ chức, huấn luyện, trang bị đều do Hoa Kỳ đảm nhiệm, và tất cả mọi chi phí cho bất cứ tài khoản nào, kể cả tiền trả lương cho nhân viên chính quyền từ Tổng Thống Ngô Đình Diệm xuống đến nhân viên cấp thấp nhất là anh tùy phái lo việc quét dọn văn phòng, và quân nhân các cấp từ ông đại tướng nắm giữ chức vụ tổng tham mưu trưởng cho đến anh binh nhì đều do Hoa Kỷ trả lương và đều có tên trong sổ lương trong bộ ngọai giao Hoa Kỳ. Tất cả các nhân viên cao cấp trong chính quyền cũng như các sĩ quan cấp tướng nắm giữ các chức vụ tổng tham mưu trưởng, chỉ huy các quân đoàn và sư đoàn cũng như các ông tá chỉ huy các trung đoàn và các tiểu đoàn cũng đều do tòa đại sứ hay cố vấn Mỹ sắp đặt (ra lệnh cho chính quyền Sàigòn phải làm theo) và chỉ bảo phải làm như thế nào. Đây là sự thực lịch sử và sự thực này đều được các sách sử ghi lại rõ ràng. Bằng chứng là:
Thứ 1 là bản văn sử ghi trong sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập I- C: 1955-1963 viết:
“Ngày 27/1/1955:Washington, DC: Phiên họp thứ 234 của Hội Đồng ANQG Mỹ. Ẹisenhower chủ tọa, Collins (Đại-Sứ Mỹ tại Sàigòn) thuyết trình về tình hình Việt Nam. Lược thuật về quy ước 7 điểm với Ely (French Commissioner General in Indo-China). Quyết định:
1.- Tại Hội Nghị SEATO ở Băngkok sắp tới, Dulles (Ngọai Trưởng Mỹ) sẽ yêu cầu các thành viên hứa phản ứng để yểm trợ Việt Nam Tự Do nếu chiến tranh tái phát;
2.- Vì Việt Nam Tự Do khó tồn tại nên Pháp không yểm trợ, phải áp lực Pháp thực thi thỏa ước Walter B. Smith-Guy La Chambre (27-29/9/1954), và những nguyên tắc căn bản trong Qui Ước ngày 13/12/1954 giữa Ely (đại diện Pháp) và Collins (Đại Sứ Mỹ tại Sàigòn).
3.- Tiếp tục ủng hộ chính phủ Diệm.
Ngoài ra, yểm trợ các chương trình cải tổ quân đội, cải cách điền địa, tái định cư dân tị nạn, và thiết lập một quốc hội.
Trong vòng 2 tháng tới, Bộ Ngoai Giao Mỹ sẽ nghiên cứu và đệ trình một kế hoạch về tổng tuyển cử 7/1956.
Chấp thuận viện trợ cho Nam Việt Nam, về quân sự cũng như các lãnh vực khác.
Tái khẳng định yểm trợ Việt Nam Tự Do của Nghị Quyểt NSC (National Security Council) 5429/5, tiết 10-a (FRUS, 18=955-57, I, tài liệ 28).” [17]
Thứ 2, lời Đại Tá Edward G. Lansdale dặn dò ông Diệm về cuộc trưng cầu dân ý truất phế Vua Bảo Đại cho chúng ta thấy rõ đây là một loại ngôn từ của một thượng cấp nặng tính cách răn đe và cảnh cáo đối với một thuộc cấp thừa hành thuộc loại người bất khả tín. Dưới đây là nguyên văn “lời dặn dò lịch sử” này được sách sử ghi lại:
“Đại Tá Edward Lansdale căn dặn ông Diệm.”Trong lúc vắng mặt, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin ông đắc cử với tỉ số 99.99 phần trăm số phiếu,” [MCC, Trg. 62.]” [18]
Thứ 3 là việc ấn định ngày bầu cử quốc hội vào ngày 4/3/1956 cũng do chính quyền Mỹ quyết định. Bản văn sử dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự thật này:
“Ngày 16/1/1956.- Sàigòn: Diệm gặp Reinhardt (Đại Sứ Mỹ tại Sàigòn). Diệm nói sẽ tổ chức bầu cử Quốc Hội vào thượng tuần tháng 3/1956. Reinhardt nhắc nhở Diệm rằng phải bầu cử càng sớm càng tốt. Lúc Reinhardt sắp từ biệt, một người thân cận Diệm tiết lộ Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia (một tổ chức chính trị của anh em ông Ngô Đình Diệm) muốn lùi lại ngày bầu cử để có kết quả chắc chắn. Reinhardt nhắn cho Diệm biết là Mỹ muốn bầu cử chậm nhất vào ngày 4/3/1956. Ngày 20/1 (1956) , BNG (Bộ Ngoại Giao) cho biết đồng ý với Reinhardt (FRUS, 1955 1957, I-621).”[19]
Thứ 4 là ngay cả vấn đề sắp xếp lại tổ chức an ninh và tình báo cũng do cố vấn Hoa Kỳ ra lệnh cho chính quyền Ngô Đình Diệm phải thi hành theo kế sách của họ, đặt dưới quyền chỉ huy của họ và mọi khoản tiền chi phí cho tổ chức này cũng đều do họ (Mỹ) đài thọ hết cả. Sự kiện này được chính ông Lữ Giang, một con chiên cuồng tín, ghi lại với nguyên văn như sau:
“Cuối năm 1956, theo khuyến cáo của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã giải tán Nha Tổng Nghiên Huấn, một cơ quan tình báo phản gián của Bộ Quốc Phòng, và thành lập một tổ chức mới lấy tên là Sở Liên Lạc, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống, ngân sách do Hoa Kỳ đài thọ. Đại tá Rogers là ngươi đầu tiên được cử đến làm cố vấn cho sở này, sau đó Đại Tá Floyld Parker đến thay thế.
Đại Úy Lê Quang Tung đang làm Chánh Sở 2 An Ninh Quân Đội ở Huế được gọi vào Dinh Độc Lập. Ông được chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm phỏng vấn trong nhiều giờ, rồi phong làm Trung Tá giả định và cử Làm Giám Đốc Sở Liên Lạc. Đại Úy Trần Khắc Kính làm Phó Giám Đốc.
Ngay sau đó Mỹ làm thủ tục và đưa Trung Tá Tung qua Honolulu học một khoá đặc biệt về hoạt động bí mật và xâm nhập. Đại Úy Trần Khắc Kính và Trung Úy Lê Quang Triệu, em của Trung Tá Lê Quang Tung, cũng được đưa qua Saipan – một hòn đảo lớn ở phía Bắc đảo Guam - huấn luyện về tình báo. Khi trở về, Trung Úy Triệu được giao cho tuyển dụng các điệp viên.“ [20]
Cũng nên biết Lế Quang Tung, Lê Quang Triệu, Trần Khắc Kính, Trần Kim Tuyến, Trần Khắc Nghiêm (em ruột Trần Khắc Kính), Ngô Thế Linh, Phan Quang Đông, Dương Văn Hiếu, Nguyễn Văn Hai, Tràn Thiện Dzai, v.v…đều là con chiên thuộc loại siêu cuồng tín. Hầu như toàn thể những người nắm giữ các chức vụ chỉ huy và nhân viên trong các ngành tình báo, an ninh, mật vụ và cảnh sát đều là con chiên cuồng tín như vậy cả.
Thứ 5 là chính sách cải cách ruộng đất cũng do Hoa Kỳ đề xướng và chi tiền, rồi ra lệnh cho chính quyền Ngô Đình Diệm phải thi hành. Sách sử ghi lại vấn đề này như sau:
“Thứ Ba, 5/7/1956.- Sàigòn: Diệm tiếp Reinhardt và Barrows về kế họach cải cách ruộng đất. Tham dự có Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Ngọc Thơ (Phó Tổng Thống) và Ladejinsky, cố vấn cải cách ruộng đất của Diệm . VNCH trù tính mua lại khoảng 1 triệu mẫu đất của chủ điền rồi bán lại cho dân. Mỗi chủ điền từ nay chỉ được sở hữu từ 60 đến 200 mẫu. (Trước đây, khoảng 6 ngàn chủ điền làm chủ 45% đất ruộng miền Nam, vào khoảng 1 triệu mẫu). Dự trù giá mua một mẫu tư 5 ngàn tới 15 ngàn đồng, như thế sẽ cần một ngân khỏan 7 tỉ đồng hay 200 triệu Mỹ kim. Sẽ trả chủ điền 10-15% bằng tiền mặt, sau đó trả bằng trái phiếu quốc gia từ 10 tới 15 năm. Thơ yêu cầu Mỹ cho vay hay viện trợ từ 10 tới 20 triệu MK để trả trước cho chủ điền. (Trong thư gửi PTT Richard Nixon ngày 6/7/(1956), tăng lên từ 20 tới 30 triệu). Nông dân sẽ phải trả tiền mua đất trong vòng 5 năm, không phải trả tiền lời (FRUS,1955-1957, I: Tài liệu 337)” [21]
Cũng nên biết là khi vừa đưa ông Diệm lên cầm quyền, Hoa Kỳ thấy rằng muốn ổn đinh xã hội thì phải xoá bỏ tình trạng bất công về ruộng đất ở nông thôn, và muốn làm được như vậy, thì phải phát động và thực hiện một chương trình cải cách hay phân phối lại ruộng đất hầu giúp cho các anh em nông dân nghèo có ruộng cày để mưu sinh. Vì thế, vào năm 1956, Hoa Kỳ mới quyết định dành hẳn một khoản tiền đặc biệt và ra lệnh cho chính quyền Ngô Đình Diệm phải thi hành chính sách cải cách điền địa nhằm giảm bớt số ruộng đất của những thành phần đại địa chủ để bán lại với giá rẻ tiền và bán chịu cho anh em nông dân với mục đích là tranh thủ đuợc sự ủng hộ của đại khối nông dân nghèo khổ. Đây là một sự thật. Sách Vietnam: A Dragon Embattled viết rõ ràng như sau:
"Hơn nữa, hàng trăm ngàn anh em nông dân được Sở Nông Nghiệp Tín Dụng giúp đỡ bằng cách cho vay tiền làm vốn mà trước kia họ phải vay của bọn chủ nợ tư nhân với giá cắt cổ. Nhưng vì không có đại diện thực sự của họ cho nên đại khối nông dân ở nông thôn vẫn tiếp tục là nạn nhân (bị bóc lột) của giới địa chủ và viên chức chính quyền. Giá nộp tô hợp pháp được quy định là 25% mà hầu như khắp nơi không có ai quan tâm hay để ý tới. vì rằng tá điền thường cho là nếu không quá 30% là may mắn lắm rồi. Ngay cả những năm sau năm 1960, khi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phát động cuộc chiến chống lại chính quyền miền Nam là lúc tranh giành lòng dân, lôi kéo nhân dân về phía mình, mà tình trạng này vẫn như vậy. Các ông địa chủ có quân lính trở lại các vùng do Việt Minh kiểm soát trước đó để đòi nông dân phải nộp tô cho họ với giá cao hơn giá chính quyền ấn định. Chỉ có sự đồng thuận hay tiếp tay của chính quyển thì giới địa chỉ mới làm được như vậy.
Anh em nông dân bất mãn vì không được quyền chiếm hữu những đất đai không có chủ mà chính họ đã liên tục canh tác cho đến lúc đó. Đây là sự thực. Ngay cả với 43 ngàn giáo dân Bắc Kỳ đến định cư ở Cái Sắn cũng chống lại những khế ước về chính sách nộp tô như vậy, nhất là lúc đó chính quyền đã cắt giảm tiền trợ cấp định cư cho họ.
Việc thi hành chương trình cải cách điền địa một cách vụn vặt và chắp vá trong một pham vi hạn hẹp như vậy đã gây tai hại cho việc cải tiến về chính trị của đất nưỡc. Sự kiện này cũng cho chúng ta thấy rõ những lời cao rao rằng chế độ của ông Ngô Đình Diệm là một chế độ cách mạng chỉ là những lời tuyên truyền giả dối rỗng tuếch. Ông Diệm không có khả năng nhận thức được rằng cuộc cách mạng quốc gia chỉ có thể hoàn thành được vào khi mà tất cả những tàn dư của chế độ thuộc địa cũ đã bị quét sạch, và bằng những chương trình cách mạng cấp tiến về xã hội và kinh tế. Đối với đại khối nông dân, trong thời chế độ thực dân thuộc địa, giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột họ là một sự thực. Vì thế cho nên, chỉ khi nào chế độ thực dân thuộc địa bị xóa bỏ thì khi đó mới có thể chấm dứt được chế độ địa chủ bóc lột giai cấp nông dân.
Trong thực tế, vì không bị loại bỏ bởi chương trình cải cách điền địa, giai cấp địa chủ đã từng cấu kết với chế độ thực dân thuộc đía trong nhiều thập niên, đã thành công trong việc đòi lại những quyền lợi của họ trong thời chế độ Diệm. Tối đại đa số trong số 6,300 địa chủ (đa số là nhũng địa chủ vắng mặt) chiếm hữu 45% ruộng lúa ở miền Nam. Đại đa số những địa chủ này không bị ảnh hưởng bởi chương trình cải cách điền địa của chính phủ, vi rằng họ chỉ làm chủ vào khoảng 300 mẫu, giới hạn mà luật lệ nhà nước quy định cho phép được giữ lại (không bị truất hữu), Tuy nhiên, ngay cả trong số 2,500 địa chủ chiếm hữu 40 phần trăm ruộng lúa ở miền Nam, cho tới cuối năm 1962, cũng chỉ có 1,584 địa chủ bị truất hữu một phần ruộng đất của họ mà thôi.” [22]
Thế nhưng, với tinh thần “tuyệt đối tin tưởng vào Tòa Thánh Vatican” như đã công khai tuyên bố với các chính khách có thế lực trên sân khấu chính trị Hoa Kỳ trong bữa cơm chiều tại Khách Sạn Mayfower ở Washington D.C. vào đầu tháng 10/1955, cho nên khi bị chính quyền Hoa Kỳ thúc giục thi hành chính sách cải cách ruộng đất trên đây, ông Ngô Đình Diệm lại toa rập với Giáo Hội La Mã để qua mặt chính quyền Hoa Kỳ, không rớ tới khối ruộng đất khổng lồ 370 ngàn mẫu Anh của giáo hội. Sự kiện này cũng được sử gia Joseph Buttinger ghi lại như sau:
“Ruông đất do Giáo Hội La Mã làm chủ ước lượng vào khoảng 370 ngàn (370,000) mẫu không hề bị đụng (rớ) tới.” Nguyên văn: “Land held by the Roman Catholic Church, estimated about 370,000 acres was not subject to transfer.” [23]
Thứ 6 là việc sử dụng vũ khí hóa học gọi là chất độc Da Cam (một thứ vũ khí nguy hiểm và độc hại nhất cho tất cả mọi sinh linh và đất đai trong vùng mục tiêu, chưa từng được sử dụng trong lịch sử chiến tranh) cũng do Mỹ chủ trương và ra lệnh cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải tuân lệnh. Bản văn sử dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự thật thê thảm và khốn nạn này:
“Ngày 30/11/1961, Tổng Thống John F. Kennedy phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ Việt Nam. Quyết định này được Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng Thống Nam Việt Nam ủng hộ nhiệt liệt. Diệm cho rằng ông ta “biết cộng sản ở đâu” và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mĩ mãn. Ngược lại với quan điểm của Diệm, các giới chức cao cấp trong Bộ Ngoại Giao Mĩ như Roger Hilsman và W. Averell Harriman phản đối quyết liệt quyết định của Tổng Thống Kennedy, vi họ cho rằng không có cách gì để biết được chiến dịch sẽ “khai quang” hay đồng ruộng của dân sẽ bị tiêu hủy. (Họ, người Mĩ xem ra còn có quan tâm đến sinh mạng và cuộc sống của người Việt Nam hơn là ông Diệm). Ông Averell và Hilsman còn lí giải rằng nếu Mĩ dùng hóa chất trong cuộc chiến, Việt Nam sẽ có lí do để tố cáo Mĩ là “đế quốc ngoaị bang dã man” (Foreign imperialism”). Nhưng chiến dịch vẫn được thi hành.
Hóa chất bắt đầu được vận chuyển đến Việt Nam trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1961. Các hóa chất này được chứa trong các thùng phuy với mã màu khác nhau: chất màu hồng (Agent Pink), chất màu xanh lá cây (Agent Green), màu tím (Agent Purple), màu da cam (Agent Orange), màu trắng (Agent White), và màu xanh da trời (Agent Blue). Mỗi thùng phuy chứa khoảng 250 lít (tức 55 gallons). Mỗi loại hóa chất màu có thành phần hóa học khác nhau, nhưng nói chung phần lớn chúng đều có thành phần 2,4,5-T, tức có chưa dioxin. Dioxin như đã và sẽ đề cập trong phần sau, là một độc chất có khả năng gây ra bệnh ung thư và hang loạt bệnh tật khác trên con người. Vì thế nói đến chất độc màu da cam, người ta thường đồng hóa với dioxin.
Chiến dịch xịt hóa chất xuống Việt Nam có tên là “Operation Trail Dust”. Trong chiến dịch này có nhiều chiến dịch và chương trình nhỏ. Chiến dịc Ranch Hand (nằm trong chiến dịch Trail Dust) thực hiên khoảng 95% việc xịt hóa chất. Khi đến Việt Nam, trên danh nghĩa, các hóa chất này thuộc quyền sở hữu của chính phủ miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Điều này có nghĩa là quân đội Nam Việt Nam trực tiếp quản lí và sử dụng các hóa chất này. Trong chương trình có tên là “Farmagate” (do Bộ Quốc Phòng Mỹ điều khiển), máy bay mang nhãn hiệu Việt Nam, do phi công mặc đồ dân sự lái và với sự trợ giúp của một nhân viên người Việt đã tiến hành những phi vụ tiêu hủy vụ mùa ở miền Nam và Trung Việt Nam.
Trong chiến dịch Ranch Hand, có nhiều dự án với những mục tiêu cụ thể, chẳng hạn như xịt ở đâu, bao nhiêu, loại hóa chất nào, và do ai tiến hành. Mỗi dự án đều có sự chấp thuận của hai bên Mỹ và Việt Nam.
Như đã đề cập ở trên, cá nhân Tổng Thống John F. Kennedy trực tiếp phê chuẩn chiến dịch hóa chất, nhưng tất cả các mục tiêu, đia điểm xịt đều phải quan sự phê chuẩn của Văn Phjòng Tổng Thống (Oval Office). Đến cuối năm 1962, vì bận nhiều việc khác, Tổng Thống Kennedy ủy nhiệm một phần quyền hạn này cho Đại Sứ Mỹ tư lệnh quân đội tại Việt Nam (the Message, Department of State to Embassy Saigon, Joint State – Defense Message No. 561, ngày 30/11/1962).
Kể từ 1962, Lực Lượng Không Quân Mỹ đã bắt đầu rải hóa chất với qui lớn trong các vùng đất thuộc miền Nam và Trung Việt Nam. Phần lớn (90%) AO (Agent Orange) được rải xuống Việt Nam bằng máy bay loại C-123, và phần còn lại (10%) bằng trực thăng, xe vận tài, và đị bộ.” [24]
Vì thế mà chiến dịch khai quang này được quân đội Mỹ cho tiến hành trên đất nước Việt Nam và hậu qủa ghê gớm của chiến dịch này được sách sử ghi nhận như sau:
“Trong thời gian từ 1962 đến 1971, quân đội Mỷ rải 77 triệu lít chất độc da cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.” [25]
Bản văn sử trên đây cho chúng ta thấy rõ (1) người chủ trương quyết định sử dụng vũ khí hóa học (chật độc Da Cam) là Tổng Thống Kennedy, (2) người hồ hởi tán dương, triệt đế ủng hộ quyết định ác độc và dã man này là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Cũng nên biết cả hai ông Tổng Thống Kennedy và Tổng Thống Ngô Đình Diệm đều là con chiên ngoan đạo của Giáo Hội La Mã, đều có liên hệ khắng khí với Hồng Y Spellman, đều được Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) bảo trợ và nâng đỡ hết mình đưa lên làm tổng thống, đều có bản chất tàn ngược và dã man giống như hai tện ác quỷ Giáo Hoàng Pius XII và Hồng Y Spellman. Qua hành động này, chúng ta có thể nói cả hai ông tổng thống tín đồ Ca-tô này đều có tâm địa ác độc và dã man đã làm cái chuyện cực kỳ dã man đối với dân tộc Việt Nam đúng như lời dạy trong kinh thánh và đúng như tinh thần Sắc Chỉ Romanus Pontifex của Giáo Hội được ban hành vào ngày 8/1/1454 như đã nói ở trong phần Dẫn Nhập. Trong khí đó, hai ông Roger Hilsman và W. Averell Harriman tuy không phải là người Việt Nam, còn có lương tâm con người, cho nên họ mới “quan tâm đến sinh mạng và cuộc sống của người Việt Nam hơn là ông Diệm”.
Đây cũng là một vấn đề mà chúng ta cần phải tìm hiểu TẠI SAO những người nước ngoài như hai ông Roger Hilsman và W. Averell Harriman còn “biết quan tâm đến sinh mạng và của cuộc sống của người Việt Nam” trong khi đó thì ông Ngô Đình Diệm là người Việt Nam lại ác độc và dã man với người Việt Nam ngoại đạo đến như vậy?
Có thể là các đặc tính Ca-tô cuồng tín trong con người ông Diệm đã khiến cho ông ta trở thành con người ác độc và dã man như vậy. Có thể là hai ông Roger Hilsman và W. Averell Harriman không có cái đặc tính Ca-tô cuồng tín, cho nên họ mới còn có lương tâm soi sáng cho họ nhìn thấy rõ tình cảnh thê thảm của nạn nhân của chất độc Da Cam và nhìn thấy rõ cái tâm địa ác độc và dã man của ông con chiên ngoan đạo Ngô Đình Diệm khi ông ta “ủng hộ nhiệt liệt” việc sử dụng chất độc Da Cam một cách hồ hởi và hí hửng như đã nói ở trên. Cũng vì vậy mà khi xẩy vụ bách hại Phật giáo hết sức thô bạo và cực kỳ dã man vào mấy tháng mùa hè năm 1963, hai ông Roger Hilsman và W. Averell Harriman mới tin rằng đây là thời cơ thuận lợi cho họ quyết tâm tìm cách dứt bỏ cho nhân dân miền Nam Việt Nam thoát khỏi cái ách thống trị tham tàn man rợ của tên bạo chúa phản thần tam đại Việt Nam họ Ngô này.
Ấy thế mà những người Mỹ tử tế này lại bị bọn văn nô cừu non người Việt thóa mạ, nguyền rủa bằng tất cả những thứ ngôn từ hạ cấp nhất trong nền văn hóa Ca-tô dã man của họ.
Tư cách và miệng lưỡi cúa bon con chiên người Việt khốn nạn như thế đó!
Còn một đỉều khác nữa cũng phải nói cho rõ: Đối với Giáo Hội La Mã và xã hội Ca-tô, thằng Cuội Ngụy Diên Ngô Đình Diệm được coi là mẫu người lý tưởng và được suy tôn lên là “nhà chí sĩ yêu nước” và “nhà ái quốc” (của Đế Quốc Vatican). Nhưng đối với xã hội Đông Phương, thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian này đã được ghi vào lịch sử là “một tên thiên cổ tội nhân” của dân tộc, và các nhà viết sử ở ngoài xã hội Ca-tô cũng đã ghi nhận nó là một trong số 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân lọai.
b.- Nghĩa vụ của ông Diệm đối với Vatican:
Đây là những việc làm mà ông Diệm phải làm cho Vatican. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bầy đầy đủ trong Chương 17 (Phần C: Thời Kỳ 1954-1975), sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam (http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_17a.php)-+. Những việc làm này là sự đòi hỏi của Vatican đối với ông Diệm. Đây là sự đòi hỏi chung của Vatican đối với tất cả các tín đồ được Vatican đưa lên cầm quyền. Sự đòi hỏi này đã được nói rõ trong Sắc Chỉ Romanus Pontifex của Vatican được ban hành vào ngày 8/1/1454. Nội dung của sắc chỉ này đã được nói rõ trong Phần DẪN NHẬP ở trên.
Như đã nói ở trong mục C. (Vatican Cấu Kết Với Pháp Đem Quân Tái Chiếm Đông Dương), việc tiến hành bước 2 trong chính sách chia để trị của Vatican sẽ được tiến hành vào khi tình thế hay hoàn cảnh chính trị thuận lợi (đối với Vatican). Thế nhưng, từ tháng 9/1945 cho tới tháng 7/ 1954, đối với Vatican, tình hình Việt Nam càng ngày càng trở nên xấu. Vì thế mà suốt trong thời gian này bước 2 của chính sách chia để trị của Vatican vẫn chưa thể cho khởi tiến được. Phải đợi đến cuối năm 1954, sau khi đã loại được Tướng Nguyễn Văn Hinh (Tổng Tham Mưu Trưởng của Quốc Trưởng Bảo Đại) ra khỏi sân khấu chính trị miền Nam (vào thương tuần tháng 9/1954) và được Mỹ triệt để ủng hộ, Vatican mới cảm thấy quyền lực của họ ở miền Nam đã vững như bàn thạch và cần phải ra lệnh cho chính quyền Ngô Đình Diệm tuần tự thi hành “nghĩa vụ tông đồ” (đối với Giáo Hội La Mã), nghĩa là phải khởi tiến và tiến mạnh bước 2 của chính sách chia để trị mà Vatican đã chủ trương và đã tích cực và liên tục thi hành bước 1 từ năm 1948 cho đến lúc bấy giờ.
Tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa dân ta có nghĩa là phát động những chiến dịch làm sáng danh Chúa bằng bạo lực để biến nhân dân miền Nam thành công giáo trong vòng 10 năm.[26] Đồng thời, phải triệt để kiểm sóat tất cả mọi phạm vị sinh họat trong xã hội để vơ vét cho đầy túi tham đem về chứa trong kho nhà Chúa và bảo vệ khối bất động sản không lồ mà Vatican đã cướp đoạt của dân ta từ năm 1862 cho đến lúc bấy giờ.
Vì phải thi hành nghĩa vụ với Vatican, đặc biệt là “làm nghĩa vụ tông đồ” (làm sáng danh Chúa), chính quyền Ngô Đình Diệm đã hăng say lao vào hố sâu tội ác với cả hàng rừng hành hành động bất chính, đại gian, đại ác, cực kỳ tàn ngược và cực kỳ man rợ. Dưới đây là một vài hành động bất chính, lưu manh và hết sức khủng khiếp này:
1.- Ban hành lệnh cưỡng bách nhân dân trong nước phải sử dụng danh xưng “công giáo” thay vì các danh xưng “đạo Cơ Đốc”, “Đạo Da-tô” “đạo Thiên Chúa La Mã” như trước kia vẫn thường sử dụng.[27]. (Bất chính và lưu manh).
2.- Tổ chức đại lễ vô cùng long trọng để dâng nước Việt Nam cho Vatican được tàng hình với danh nghĩa là dâng cho “Đức Mẹ Vô Nhiễm”.[28] (Bất chính và lưu manh)
3.- : Vinh danh những tên tội đồ nguyên gốc là tu sĩ và tín đồ Da-tô người Việt và người Âu đã phạm tội chống lại tổ quốc Việt Nam. Ngay khi ông Diệm vừa mới được Hoa Kỳ và Vatican đưa về cầm quyền ở Việt Nam, bọn Việt gian Da-tô tay sai của giáo hội trong chính quyền Ngô Đình Diệm hồ hởi vinh danh những tên tội đồ chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17. (Bất chính và lưu manh). Đây là hành động dùng danh tính của những tên tội đồ khốn nạn này để đặt tên cho các trường học, đường phố ở Sàigòn và nhiều thành phố lớn khác ở miền Nam Việt Nam. Ai đã từng sống ở Sàigòn trong những năm 1954-1975 đều thấy có một số trường học và đường phố Sàigòn mang tên những tên tội đồ khốn kiếp này.
Về trường học, chúng ta thấy có các trường học như Trường Pétrus Ký, Trường Nguyễn Tường Tộ, Trường Trần Lục, Trường Hồ Ngọc Cẩn, Trường Nguyễn Bá Tòng, Trường Nguyễn Duy Khang (ở Thị Nghè), Trường Lê Bảo Tịnh, Trường Thánh Thomas (Nhà Thờ Ba Chuông), v.v...
Về đường phố, thì có Đường Tổng Đốc Lộc (Da-tô Trần Bá Lộc), Đường Tổng Đốc Phương (Da-tô Đỗ Hữu Phương), Đường Alexandre de Rhode, Đường Pétrus Ký, Đại Lộ Ngô Đình Khôi, Đường Nguyễn Bá Tòng, Đường Huỳnh Tịnh Của, Đường Phát Diệm, Đường Bùi Chu, v.v... Đặc biệt ở Vĩnh Long, lại có Đại Lộ Ngô Đình Thục.
4.-: Kiểm sóat gắt gao môn lịch sử thế giới và môn quốc sử, chỉ cho học sinh được phép học những bài học nào mà nhà thờ cho phép; tránh né, không dạy cho học sinh biết phương cách sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật; loại bỏ hết những bài học nào có liên hệ đến những việc làm phản tiến hóa hay những việc làm tội ác của Vatican.[29] Bất chính, lưu manh, phản tiến hóa, phản dân tộc).
5.- Đem môn thần học Ki-tô ca ngợi Thiên Chúa vào chương trình học trong của trường Đại Học Công Lập/Phân Khoa Văn Khoa Sàigòn bằng cách ngụy trang là môn triết học. (Bất chính, lưu manh, phản tiến hóa). Sự kiện này được ông Lê Dọn Bàn kể lại như sau:
‘’Về phương diện may mắn, không được như các vị này, nên tôi đã phải ở trong vị thế của một nạn nhân! Trong một trường mệnh danh là đại học trước đây ở miền Nam Việt Nam, người ta đã mời những người học trò chăm chỉ, đỗ đạt của môn thần học Kitô vào dạy, đóng những vai giáo sư “triết học”, và những lớp triết lý của họ đã thành những lớp thần học cưỡng bách.
Nhớ lại một lớp học loại như thế, điển hình do một thày chăn chiên già, dòng dõi hoàng tộc Nguyễn phụ trách, ông đã chuyển toàn bộ giảng khóa siêu hình học, ngay từ những phút mở đầu đến những phút cuối ở buổi học cuối cùng, ròng rã hơn sáu tháng, thành nội dung là những tuyên truyền trắng trợn, một chiều và bây giờ nhớ lại, ấu trĩ ngớ ngẩn, về một gót Kitô (Christian God) của ông, vốn thực chỉ là một huyễn tưởng, ít nhất là đối với rất nhiều người khác, như nhan đề của một quyến sách nổi tiếng của Richard Dawkins.
Cho đến nay, tôi vẫn không dám chắc ông [chăn chiên già kiêm giáo sư triết học] này, có thực hiểu, hay có muốn biết đến sự khác biệt giữa thần học và siêu hình học hay không. Còn một vài bạn học biết được của tôi, “gót” đối với họ là ông ngáo ộp, một ông “kẹ”, mà nếu không chấp nhận trong bài thi cuối khóa, viễn tượng duy nhất mở ra, lúc còn chưa chết, là thi hỏng, rời trường, “bị” (tôi chưa nghe ai nói “được” cả) gọi nhập ngũ Thủ Đức. Có lẽ đây là kinh nghiệm đầu tiên của họ về “gót”, lúc ấy còn phải viết hoa, gọi bằng tên lấy từ gốc Tàu “Thượng Đế.”[30]
6.- Đẩy mạnh “kế họach Ki-tô hóa nhân dân” bằng bạo lực mà họ dự trù là chỉ trong vòng mười năm thì họ sẽ biến toàn thể nhân dân miền Nam thành tín đồ Ca-tô hết (như đã nói ở trên). Kế họach dã man này gây nên cuộc tắm máu vô cùng khủng khiếp với hơn 300 ngàn dân miền Nam bị sát hai, nhiều trăm ngàn người bị cầm tù, bị tra tấn và bị hành hạ đến mang thương tật.[31] (Bất chính, lưu manh, bạo ngược và dã man).
7.- Phóng tay cướp đọat tài nguyên, kiểm soát chặt chẽ tất cả mọi phạm vi sinh hoạt của người dân với dã tâm bóc lột nhân dân đến tận xương tận thủy, thu vơ và tích lũy của cải để vừa gừi về Vatican, vừa giữ làm của riêng hoặc là tậu mãi bất động sản, hoặc là đầu tư vào các nghiệp vụ kinh tài và gửi vào các nhà ngân hàng ở nước ngoài.[32] (Bất chính, tham tàn và gian ác).
8.- Thiết lập và phát triển hệ thống tổ chức nhập cảng lậu thuốc phiện sống từ Ai Lao và vùng Tam Giác Vàng về Sàigòn, rồi (1) vừa biến chế sản phẩm này thành thuốc phiện chín và phân phối cho khách hàng tiêu thụ ở trong nước, (2) vừa cung ứng cho tổ chức tội ác quốc tế chuyên về biến chế thuốc phiện sống thành bạch phiến ở Marseilles do tên đầu nậu đồng đạo người Ý có tên là Antoine Guerini điều khiển, rồi chuyền về trung tâm phấn phối tại Hoa Kỳ do mấy tên đồng đạo gốc Ý và gốc Tây Ban Nha là Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos Trafficante làm đầu nậu. Vấn đề này đã được trình bày khá đầy đủ trong Chương 11 (Mục Tội Ác của Vatican và giáo dân trong thời kỳ 1954-1975), sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_11a.php (Bất chính, tham tàn, gian xảo và tàn ngược.)
HẬU QUẢ: Hậu quả của những chính sách bất chính, tàn ngược và dã man trên đây của cá nhân và chính quyền Ngô Đình Diệm là (1) hơn 300 ngàn dân miền Nam bị tàn sát trong những “chiến dịch làm sáng danh Chúa” trong những năm 1954-1963, (2) rất nhiều người thuộc các thành phần đối lập chính trị bị thủ tiêu, (3) Phật giáo bị bách hại một cách vô cùng man rợ, (4) tăng, ni, Phật tử, học sinh sinh viên bị truy lùng, bắt giam, tra tấn và đánh đập hết sức dã man.
Tất cả đã làm cho (1) nhân dân ta cả miền Bắc lẫn miền Nam đều cực kỳ căm phẫn, uất khí lên đến tận trời xanh, (2) nhân dân Hoa Kỳ, (3) nhân dân thế giới cũng vô cùng phẫn nộ và hết sức kinh tởm, (4) rất nhiều thành phố lớn ở nhiều quốc gia trên thế giới tổ chức những cuộc biểu tỉnh rầm rộ, cực lực lên án chính quyền nhà Ngô và đòi hỏi chính quyền Hoa Kỳ phải có biện pháp cứng rắn trừng trị nghiêm khắc cái chính quyền man rợ này do chính Hoa Kỳ đã dựng nên và nuôi dường.
Đứng trước sự phẫn nộ của nhân dân thế giới và nhân dân Hoa Kỳ, chính quyền của Tổng Thống Kennedy bắt buộc phải cử phái đoàn McNamara đến tận Dinh Gia Long vào ngày 29/9/1963, để trực tiếp mặt đối mặt ra lệnh cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải (1) từ bỏ ngay tức khắc những hành động bách hại Phật giáo, (2) phóng thích ngay tức thì những tăng, ni, Phật tử, học sinh và sinh viện hiện đang còn bị giam giữ, (3) dân chủ hóa bộ máy chính quyền, và (4) có biện pháp đối với vợ chồng Ngô Đình Nhu.
Thế nhưng, vì mang nặng căn bệnh cuồng tín và đang say máu trong những chiến dịch “làm sáng danh Chúa” và cũng là để khỏi mất mặt làm tay sai cho Mỹ, ông Ngô Đình Diệm đã tỏ ra cứng đầu, ngoan cố, không cần để ý đến lệnh truyền của Tổng Thống Kennedy này do phái đoàn McNamara chuyển tới. Vô kế khả thi, Hoa Kỳ đành phải tính kế “thay ngựa giữa đường” bằng cách ngoảnh mặt đi, bật đèn xanh để cho quân dân miền Nam vùng lên làm lịch sử, lôi cổ anh em nhà Ngô ra đập chết vào sáng ngày 2/11/1963 trước sự vô cùng hân hoan sung sướng reo mừng của toàn thể nhân dân ta. Không những thế, sách sử còn quy liệt thằng phản thần tam đại Việt gian họ Ngô này vào danh sách của 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhn loại. [33]
E.- Nhận Xét Chung Về 4 Biến Lịch Sử Quan Trọng Trên Đấy
Thứ nhất, tất cả bốn (4) biến cố lịch sử trọng đại A,B, C và D trong thời cận và hiện đại trên đây đều được chúng tôi trình bày theo nguyên tắc viết sử rất sơ đảng và bắt buộc phải có cả 3 yêu tố theo thứ tự trước sau là (1) nguyên nhân, (2) diễn biến và, (3) hậu quả.
Thứ hai, qua phần trình bày trên đây, chúng ta thấy cả bốn biến cố hay sự kiện A, B, C, D trọng đại trong dòng lịch sử Việt Nam thời cận và hiện đại này đều có vai trò chủ động và rất tích cực của Vatican hay Giáo Hội La Mã ở trong đó. Ây thế mà trong cuốn Công Và Tội của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2008, tác giả Hoàng Ngọc Thành lại không hề nói đến:
1.- Nguyên nhân hay thế lực nào đã
a- làm nẩy sinh cuộc Kháng Chiến 1945-1954.
b.- đưa cựu hòang Bảo Đại lên thành lập chính quyền bù nhìn làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican để chống lại chính quyền Kháng Chiến Việt Minh dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và cụ Hồ Chí Minh.
c.- đưa ông Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng trong chính quyền bù nhìn Bảo Đại rồi làm phản truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại để nắm tòan quyền làm tay sai cho cả Mỹ và Vatican?
2.- Diễn biến:
a.- những việc làm của chính quyền Kháng Chiến Việt Nam khiến cho Pháp phải nghiêm chỉnh thương thuyết với đại diên chính quyền Việt Nam tại Hội Nghị Genève 1954 để công nhận chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam và rút quân về nước.
b.- những việc làm của chính quyền Bảo Đại trong việc tiếp tay cho Pháp và cho Vatican đánh phá chính quyền Kháng Chiến Việt Nam 1945-1954 và tiếp tay cho Vatican cướp đoạt tài nguyên của dân tộc ta qua hành động ban hành Dụ số 10 vào ngày 6 tháng 8 năm 1954.
c.- Những chính sách hay việc làm hại dân hại nước của chính quyền Ngô Đình Diệm trong những năm 1954-1963 như chúng tôi đã trình bày ở trên.
3.- Hậu Quả của các biến cố lịch sử trọng đại này như thế nào.
Tệ hơn nữa, ông Thành không những đã không có một lời nào đả động hay đề cập đến vai trò của Vatican trong các biến cố lịch sử trọng đại trên đây, không hề đền cập đệ những hậu quả gây ra bởi những những hành động can thiệp
trực tiếp vào nội tình Việt Nam một cáh hết sức tô bạo và cô cùng trắng trợn, mà lại còn đem hết tất cả những tội ác ghê tởm cực kỳ xấu xa này và những hậu quả của hai cuộc chiến gây ra đổ lên đầu (1) các thế lực đồng minh với Vatican là Pháp và Mỹ (do chính Vatican vận động thành lập),
và (2) Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như Mặt Trận Việt Minh để lấp liếm và chạy tội cho Vatican và cho bọn con chiên Việt gian bán nước cho Vatican.
III.- Nhiều Sự Kiện Lịch Sử Khác Cũng Do Vatican Chủ Mưu Và Chủ Động
Như đã trình bày ở trên, chủ trương đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa của Vatican nằm trong Sắc Chỉ Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455). Để có thể thực hiện được chủ trương bất chính, bất nhân và dã man này, ngay sau khi ban hành sắc chỉ ặn cướp trên đây, Vatican đã phải sai phái hàng binh đoàn gián điệp chuyên nghịệp với danh nghĩa là các nhà truyền giáo đến Việt Nam thi hành các điệp vụ thâu thập các tin tức tình báo chiến lược gửi về Vatican điều nghiên, đúc kết thành một kế họach đánh chiếm Việt Nam. Sau đó, ho gửi các tay thuyết khách đến tận kinh thành Paris, tiếp xúc với các nhà lãnh đạo Pháp trổ tài uốn lưỡi Tô tân thuyết phục chính quyền Pháp liên kết với giáo hội đem quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa để cùng cướp đoạt tài nguyên và cùng cưỡng bách dân ta làm nô lệ.
Để giúp cho quý vị nhìn thấy rõ bàn tay của Vatican (1) trong các sách lược cấu kết với đế quốc thực dân xâm lược Pháp và siêu cường Hoa Kỳ hầu cưỡng chiếm nước ta làm thuộc địa và nộ lệ hóa dân ta trước đây, và (2) trong việc kiểm sóat tất cả mọi sinh họat trong xã hội miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, chúng tôi xin làm bản tóm lược những chủ trương và những việc làm của Vatican chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ những ngày đầu cho đến những năm gần đây.
1.- Chủ trương đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa để cưỡng bách dân ta phải theo đạo Ki-tô làm nô lệ, chính là Vatican. Xin xem lại Chương 3 ở:
http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_Main.php.
2.- Đặt ra kế hoạch đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa cũng là Vatican. Xin xem lại Chương 4 ở: http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_Main.php.
3.- Dạy dỗ tín đồ bản địa bất tuân lệnh các vua nhà Nguyễn, xúi giục những thành phần bất mãn với triều đình Huế và tín đồ bản địa nổi loạn gây rối rồi nhẩy vào làm cố vấn chỉ đạo cho loạn quân trong mưu đồ cướp chính quyền cũng là Vatican. Xin xem lại Chương 17 ở: http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_17.php
4.- Chủ tâm xúi giục những vụ nổi loạn như trên khiến cho triều đình nhà Nguyễn phải ban hành những luật cấm đạo, rồi rêu rao rằng chính quyền Việt Nam bách hại Thiên Chúa Giáo và lấy đó làm cái cớ để vận động chính quyền Pháp liên kết với Vatican xuất quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa cũng là Vatican. Vấn đề này đã được trình bày khá đầy đủ trong bài viết “Nguyên Nhân Đưa Đến Việc Triều Đình Huế Ban Hành Lệnh Cấm Đạo”. Bài viết này có thể đọc online trên sachhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/VANHOAXD/NMQvh00.php
5.- Vận động Pháp liên kết với Vatican và xuất quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa để cùng thống trị, cùng cướp đọat tài nguyên, cùng nộ lệ hóa dân ta và cùng bóc lột dân ta đến tận xương tận tủy khiến cho dân ta rơi vào thảm họa chết đói tới hai triệu người cũng là Vatican.
6.- Dựa vào quyền lực của chính quyền Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican để cướp đoạt tài nguyên, đặc biết là đã cưỡng chiếm của dân ta một khối lượng bất động sản khổng lồ cũng là Vatican. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 29 có nhan đề là “Cướp Chùa, Chiếm Đất Xây Nhà Thờ Và Cướp Đoạt Ruộng Đất Của Nhân Dân”, Mục X, Phần III, sách Lịch Sử Và Hô Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH29.php
7.- Vận động Tổng Thống Chính Phủ Lâm Thởi Charles de Gaulle bổ nhậm cựu Linh-muc Georges Thierry d’ Argenlieu giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương vào ngày 17/8/1945 để lo việc điều động Đoàn Quân Viên Chinh Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican tái chiếm Đông Dương nhằm phục hồi quyền lực và quyền lợi cho Giáo Hội La Mã và thực dân tư bản Pháp tại Việt Nam cũng là Vatican.
8.- Chủ trương đưa Bảo Đại lên thành lập chính quyền làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican để thi hành chính sách chia để trị, dùng người Việt đánh người Việt chuẩn bị cho bước kế tiếp dùng tín đồ Ki-tô bản địa để cai trị và cưỡng bách đại khối nhân dân ta vốn sống theo nếp sống văn hóa cổ truyền phải theo đạo Ca-tô cũng là Vatican. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Mục III với tựa đề là “Giải Pháp Bảo Đại”, trong Chương 2 “Tính Cách Thuận Lý và Nghịch Lý của Một Chính Quyền “(sách Chân Dung “Người Việt Quốc Gia”). http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN02a.php.
9.- Chế biến ra các cụm từ “Người Việt Quốc Gia” để làm cái phao cho nhóm thiểu số vong bản phản dân tộc “thà mất nước, chứ không thà mất nước”, “giữ đạo, chứ không giữ nước” cùng đám tàn dư vua quan phong kiến lỗi thời triều đình Huế và bọn lưu manh xu thời Việt gian cố cựu bám lấy như một liều thuốc an thần làm nhẹ cái mặc cảm tội ác của chúng về những việc làm “phản quốc, bán nước cho quân cướp ngoại thù” cũng là Vatican. Thế nhưng, tất cả mọi người Việt Nam đều biết rằng những kẻ tự nhận là “người Việt Quốc Gia” chính là những kẻ trong suốt chiều dài lịch sử đã từng đứng trong hàng ngũ Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican (1858-1954) và sau này lại làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican (1954-1975) vừa qua.
10.- Chế biến ra lá cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu tượng cho chế độ bù nhìn do chính Giáo Hội La Mã dựng nên theo chính sách “chia để trị” “dùng người Việt đánh người Việt” cũng là Vatican. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 4 với tựa đề là “Đi Tìm Ý Nghĩa Thực Sự Của Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (sách Chân Dung Người Việt Quốc Gia):http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN04.php.
11.- Ngồi ở hậu trường, đạo diễn cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại ban hành Dụ số 10 vào ngày 6 tháng 8 năm 1950 để chuyển nhượng cho các tu sĩ áo đen người Việt đứng tên tất cả khối bất động sản khổng lồ đã cướp đoạt của dân ta trong những năm 1862-1950 do các giáo sĩ người Pháp đứng tên cũng là Vatican. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bầy đầy đủ trong Chương 60 có nhan đề là “Những Tính Toán Của Vatican trong năm 1950” (Phần VI, sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tộ Ác Của Giáo Hội La Mã.) Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH60-1.php. Khối tài sản khổng lồ này đã được nêu lên trong Mục 6 ở trên.
12.- Vận động Hoa Kỳ dùng bom nguyên tử để giải vây cho Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican bị khốn đốn tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trong mùa xuân năm 1954 cũng là Vatican. Vấn đề này đã được sử gia Avro Manhattan nói rất rõ ràng nơi trang 72, chapter 9 trong cuốn Vietnam why did we go? (Chino, CA: Chick Publixations, 1984). Chương sách này đã được ông Trần Thanh Lưu chuyển dịch sang tiếng Việt và đã được đưa lên trang nhà sachhiem.net. từ ngày 3/5/2009: http://sachhiem.net/LICHSU/AVRO/YdidwegoV_009.php
13.- Vận động Hoa Kỳ liên kết với Vatican đưa Ngô Đình Diêm về cầm quyền ở Việt Nam trong mưu đồ duy trì Việt Nam mãi mãi ở trong tình trạng chia đôi rồi biến miến Nam thành một quốc gia riêng biệt để tiến hành kế họach Kitô hóa nhân dân miền Nam bằng bạo lực cũng là Vatican. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 60, Mục XVIII, Phần VI, sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH60-1.php.
14.- Ngồi ở hậu trường, đạo diễn cho chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực theo chỉ tiêu trong muời năm sẽ cưỡng bách toàn thể nhân dân miền phải theo đạo Ki-tô hết cũng là Vatican. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày đầy đủ trong các trang 127-131, Chương 2, sách Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên 2004) và được nói lại một cách tổng quát trong Mục IX “Một Số Những Việc Làm Tàn Ngược của Ông Diệm”, Chương 63 có tựa đề là Ngô Đình Diệm: Con Người Và Tội Ác”, Phần VI, sách Lịch Sử Và Hồi Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.
15.- Khi chính quyền Hoa Kỳ đưa ra chương trình cải cách ruộng đất (đã được phác họa sẵn, trưng thu ruộng đất của các địa chủ lớn bán rẻ cho nông dân để tranh thủ nhân tâm) yêu cầu chính quyền Diệm thi hành bắt đầu vào tháng 7 năm 1956, thì Vatican ngồi ở hậu trường bày mưu cho chính quyền Ngô Đình Diệm tránh né không rớ tới 370 ngàn mẫu Anh mà Vatican đã cướp đoat của dân ta trong những năm 1862-1954. Vấn đề này đã được sử gia Joseph Buttinger nói rất rõ ràng trong hai trang 932-933, Chapter XII, Volume II, sách Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Frederick A Praeger, Publisherss, 1967), và cũng đã được trình bày rõ ràng ở trên.
16.- Ngồi ở hậu trường xúi giục con chiên Ngô Đình Diệm hồ hởi tán đồng quân đội Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hóa học gọi là chất độc Da Cam rải xuống rừng cây, đồng ruộng và xóm làng cư dân ở ngòai vùng kiểm soát chinh quyền Sàigòn cũng là Vatican. Hậu quả của việc làm dã man này đã gây nguy hại cho dân ta hết sức là ghê gớm. Vấn đề này đã được trình khá đầy đủ ở trên.
17.- Ngồi ở hậu trường bày mưu cho chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức buôn thuốc phiện lậu, biến Tòa Đại Sử Miền Nam tại thủ đô Lào thành cơ sở thâu mua thuốc phiện sống, dùng nhân viên và phương tiện của chính quyền chuyển vận hàng hóa lậu này về Sàigon, rồi (1) biến chế thảnh thuốc phiện chín đem phân phối cho 2,500 (hai ngàn năm trăm) tiệm hút ở Sàigòn – Chợ Lớn, và (2) cung cấp cho tổ chức tội ác quốc tế biến chế thuốc phiện sống này thành bạch phiến có cơ sở tại Marsaille (Pháp) cũng là Vatican. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 91 có tựa đề là “Vấn Nạn Buôn Bán Ma Túy”, Mục XXIII, Phần VI, sach Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net: http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php.
Nhờ có dịch vụ kinh tài bất chính này và nhiều dịch vụ kinh tài bất chính khác mà anh em ông Ngô Đình Diệm mới có thể chuyển 18 tỉ Mỹ kim gửi các nhà ngân hàng nước ngoài. Sử gia William J. Lederer viết trong sách Our Worst Enemy như sau:
“Ngoài sự tăng lên rõ rệt về số vàng dự trữ của Sàigòn, theo các mật báo viên người Thụy Sĩ và người Trung Hoa của tôi, từ năm 1956, một số người Việt Nam (quyên thế) đã chuyển 18 tỉ Mỹ kim vào các nhà ngân hàng ngoại quốc. Sau đó không bao lâu, qua một người hùn vốn kín miệng, tôi được biết bà Ngô Đình Nhu đã mua một ngân hàng lớn hàng thứ nhì tại kinh thành Paris, trả bằng tiền mặt[34]
Ấy là chưa kể những khỏan tiền kếch sù khác mà chính quyền Ngô Đình Diệm trao cho Trần Đình Trường đem sang La Mã nộp cho Vatican hàng năm.[35]
Ngoài ra, còn nhiều khoản tiền và tài sản kếch sù khác mà chúng tôi đã trình bày trong Chương 19, sách Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954 -1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000).
18.- Ngồi ở hậu trường đạo diễn cái trò hề “Phong Trào Phục Hưng Tinh Thần Ngô Đình Diệm” vào năm 1967 để biến thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm thành “nhà ái quốc đã chết vì dân” cũng là Vatican.
19.- Phong thánh cho 117 tên tội đồ chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam vào ngày 19/6/1988 để khích lệ nhóm thiểu số con chiên người Việt hăng say nhắm mắt tuân hành lệnh truyền của Giáo Hội La Mã chống lại nhân dân và chính quyền ta hiện nay cũng là Vatican.
Ôn cố tri tân. Thiết tưởng rằng 19 việc làm chống lại đất nước ta trên đây của Vatican trong quá khứ cũng đủ cho chúng ta suy nghĩ và nhìn ra được âm mưu và thủ đoạn của Giáo Hội La Mã trong dã tâm sử dụng bọn giáo sĩ và tín đồ Ca-tô người Việt từ ngày 30/4/1975 đến nay và trong tương lai.
Vấn đề này cũng đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Mục B có tựa đề là “Những Âm Mưu Của Vatican Đã Và Đang Đánh Phá Việt Nam Từ Ngày 30/4/1975” Phần III, Chương 21, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem: http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_21.php
Trong PHẦN III ở dưới, người viết sẽ lần lượt đưa ra những sai lầm, những gì được coi là “bất minh” và những gì được coi là “gian dối” trong cuốn Công Và Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Và Đảng Cộng Sản Việt Nam của tác giả Hoàng Ngọc Thành.
CHÚ THÍCH
[1] Nhiều tác giả, Ki Tô Giáo: Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại (Wesminster, California, Văn Nghệ, 1996), tr 331 và 334.
[2] Cao Huy Thuần, Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam (Los Angeles, CA: Hương Quê, 1988), tr. 61.
[3] Cao Huy Thuần Sđd., tr. 63-64.
[4] Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Một Số Vấn Đề Lịch Sử Đạo Thiên Chúa Trong Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam (Thành Phố Hồ Chí Minh: Ban Tôn Giáo, 1988), tr 179-180.
[5] Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, (Saigon: TXB, 1970), tr. 255-256.
[6] Phòng 5 - Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong Giai Đoạn Hình thành 1946-1955 - Quân Sử 4 (Sàigon: Cơ Sở Đại Nam, 1972), tr 191.
[7] Đoàn Thêm, 1945-1965: Hai Mươi Năm Qua (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1980?), tr. 44.
[8] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu (Houston, TX: Văn Hóa 1996), tr. 295.
[9] Nigel Cawthorrn, Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004), p. 68.
[10] Phòng 5 (Bộ Tổng Tham Mưu), Sđd., tr..194.
[11] Nguyễn Văn Châu, Ngô Đình Diệm: Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở (Nguyễn Vy Khanh dịch). Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989, trang 213-214.
[12] Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan – Tập I (Fall Church, VA: Alpha, 1991), tr 313.
[13] Vũ Đình Hoạt, Sđ d., tr. 566.
[14] Trần Tam Tình, Thập Giá và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), tr. 138.
[15] Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 145-146.
[16] Hoàng Ngọc Thành, Công Và Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006 (San Jose, VCA: Nghĩa Phú Xuất Bản, 2009), tr. 602.
[17] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập I-C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 16-17.
[18] Lê Hữu Dản, Sự Thật – Đặc San Sự Thật Xuân Đinh Sửu 1997 ( Fremont, CA” TXB, 1997), tr.27.
[19] Chính Đạo, Sđd., tr. 86.
[20] Lữ Giang lugiang2003@yahoo.com viết ngày 30/11/2010 và phổ biến rộng rãi trên các diễn đàn điên tử ngày 2/12/2010.
[21] Chính Đạo, Sđd., tr.98.
[22] Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Frederick A. Praeger, 1967), pp 932-933. [Nguyên văn:"Furthermore, the plight of hundreds of thousands of peasants was eased by the National Agrarian Credit Office, which was created in April, to supply peasants in temporary needs funds with loans previously obtainable only at usurious rates. But the absence of any kind of democratic representation of the peasnts meant that the rural masses continued to be victimized by landlords and government officials. The legal rent of 25% of crop was widely disregarded - tenants considered themselves lucky if their rent was no more 30 per cent. Even after 1960, when insurrection made the struggle for peasant loyalty the overriding political issue, abusive treatemt of peasants remained widespread. Landlords, returning with the army to former guerrilla-held regions, extracted rents far above the legal limit. Since this was possible only with the help or acquiescence of the Saigon appointed local officials, the peasants more often than not regretted having returned to government control. The peasants also resented not getting the ownership of formerly unocuppied land, but instead being settled on it as tenants. This was true even of land which the refugees, largely through their own efforts, had opened for cultivation. "At the Cái Sắn development in southwestern Vietnam, for example there was so much resistance to tenancy contracts by the 43.000 resettled refugees that the government cut off daily subsistence payment in order to bring the refugees around."
The narrow scope and the fragmentary execution of the agrarian reform, so fateful for the country's political evolution, reveal a great deal about Diem's political philosophy and the hollowness of his claim that his was a revolutionary regime. Diem was unable to see that Vietnam's national revolution could be completed and all remenants of colonialism wiped out only through radical economic and social reforms. For the peasant masses, exploitation under feudal land regime had been the dominant reality of colonialism. Colonialism, therefore, would not end for them until landlordism was abolished.
Far form being eliminated by a thorough agrarian reform, the landlords, for decades the associates of the colonial regime, were in fact the group that, more than any other, succeeded in asserting its interests under Diem. A maximum of 6,300 persons (most of them absenteee landlords) owned 45 per cent of all rice land in the South. The vast majority of them were not at all affected by the land-transfer program, since they owned less than the approximately 300 acres the law permitted them to retain. But even of the 2,500 who owned 40 per cent of the Southern rice land, only 1,584 had been partly expropriated by late 1962.”
[23] Joseph Buttinger, Ibid., p. 933.
[24] Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam b (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 35-37.
[25] Nguyễn Văn Tuấn, Sđd., tr 171.
[26] Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân – Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt Nam, 1989, tr.428.
[27] Vũ Đình Hoạt, Sđd,. tr 1013-1014.
[28] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 126-127.
[29] Nguyễn Hiến Lê, Đời Viết Văn Của Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1986), tr. 99-101.
[30] “Sự Trống Rỗng Của Thần Học Richard Dawkins (Lê Dọn Bàn Dịch”. Nguồn: http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN100.php
[31] Nguyễn Mạnh Quang, Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004), tr. 127-131.
[32] Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 399-432.
[33] Nigel Cawthorne, Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004) p. 167-168.
[34] .” William J. Lederer, Our Worst Enemy (New York: W.W. Norton & Company, Inc., 1968, tr 165. Nguyện văn: “In addition to the visible increase in Saigon’s gold reserve, approximately $18 billion, according to my Swiss and Chinese informants, has been sent to foreign banks by private Vietnamese individuals since 1956. Not so long ago, Madame Nhu, through a silent partner, purchased outright the second largest private bank in Paris. For cash.”
[35] Xin xem các trang 98-99, sách Tường Trình Cùng Đồng Bào Trong Nước (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1998).
Trang Nguyễn Mạnh Quang
Trang Lịch Sử