|
ngày 14 tháng 6, 2009 |
David Hume (1711-1776),
Triết gia Tô Cách Lan: * Những tín đồ Ca-Tô là một hệ phái trí thức?
Trong mọi tôn giáo, tôn giáo vô lý và vô nghĩa nhất là tôn giáo mà trong
đó những người hiến thân cho Chúa ăn thịt Chúa mình sau khi đã tạo ra
ông ấy (The Roman Catholics are a very learned sect?..Of all
religions, the most absurd and nonsensical is that whose votaries (người
hiến thân cho Chúa) eat, after having created, their deity).
Edgar Lee Masters
(1869-1950), Thi sĩ Mỹ: * Nhiều cuốn sách đã được viết ra để chứng tỏ
Ki Tô giáo đã làm suy yếu thế giới, rằng tôn giáo này đã gạt ra ngoài sự
khai sáng và trí tuệ của Hellas để nhường chỗ cho một giáo lý mê tín và
ngu xuẩn (Many books have been written to show that Christianity has
emasculated the world, that it shoved aside the enlightenment and wisdom
of Hellas for a doctrine of superstition and ignorance.)
Elbert Hubbard
(1856-1915), Văn hào Mỹ: Thần học là một sự toan tính giải thích một
chủ đề bởi những người không hiểu chủ đề đó (Theology is an attempt
to explain a subject by men who do not understand it).
H. L. Mencken
(1880-1956), Văn hào Mỹ: Thần học: một nỗ lực để giải thích cái
không thể biết được bằng những lời không đáng để biết (Theology: an
effort to explain the unknowable by putting it into terms of the not
worth knowing.)
Alfred North Whitehead
(1861-1947), Toán gia và Triết gia Mỹ: * Tôi coi nền thần học Ki Tô
Giáo như là một trong những tai họa lớn của nhân loại (I consider
Christian theology to be one of the great disasters of the human race)..
Trước Khi Vào Chuyện:
Tín đồ Công
Giáo cũng như Tin Lành được dạy và tin rằng mình thuộc một “hội Thánh”, và
Ki Tô Giáo là đạo tiến bộ văn minh nhất thế gian, hoàn toàn không có một
chút mê tín nào. Người Công giáo được dạy không tin vào chuyện thờ cúng tổ
tiên nhảm nhí, mà chỉ tin những điều nhảm nhí mà giáo hội bắt họ phải tin,
thí dụ như: Bà Maria, sau khi sinh nở ít ra là 7 lần, vẫn còn đồng trinh;
và Chúa Giê-su, sau khi bị đóng đinh chết trên cây thập giá lại sống lại,
sau 40 ngày bay lên Thiên đường (giả thử có đeo hỏa tiễn) ngồi bên phải Chúa
Cha, và đến ngày phán xét sẽ làm cho xác chết những người tin Chúa (giả thử
còn nguyên vẹn) sống lại hợp với linh hồn mà Chúa giữ trong một kho chứa
linh hồn, để có cuộc sống đời đời bên Chúa trên Thiên đường, và nhiều điều
tương tự khác trong đó có một phép lạ mà bất cứ một linh mục nào cũng có thể
làm được: biến một cái bánh bằng bột thường thành “bánh thánh”: thân thể
đích thực của Chúa Giê-su. Người Tin Lành cũng tin ở cái phép lạ này,
ngoài ra còn tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa, do
đó bất cứ điều gì trái ngược với Thánh Kinh đương nhiên là sai lầm. Chỉ có
điều, ngày nay, tuyệt đại đa số các học giả và những trí thức ở trong cũng
như ở ngoài Ki Tô Giáo đều đồng thuận ở một điểm: Thánh Kinh Ki Tô Giáo
có rất nhiều sai lầm về Thần học cũng như về khoa học, sản phẩm của những
người có trình độ hiểu biết thuộc thời bán khai ở Trung Đông..
Về từ
“thánh” thì phải nói rằng Công giáo “thánh” hơn Tin Lành nhiều, vì từ
“thánh” có vẻ như tràn ngập trong Công giáo. “Hội thánh Công giáo” có “đức
thánh cha” là vị chủ chăn, quyền uy hơn vua chúa ngày xưa, có riêng một
chiếc Popemobile để cho Ngài ngồi an toàn trên đó, đi các nơi dạy các con
chiên của Ngài “đừng sợ”, và dạy các giám mục Việt Nam hãy “ra khơi”, theo
gương các “thánh tử đạo”, chống Cộng chết bỏ.. Ngoài ra còn có nhiều người
đã được “phong Thánh” bởi những người chưa được phong thánh, còn xếp hàng
dài, chưa biết bao giờ mới đến lượt mình được “phong Thánh”. Trong số những
người được Vatican, mà chính một Hồng Y Công giáo, Silvio Oddi, đã gọi là
một “xưởng sản xuất Thánh” (a saint factory), phong Thánh, có cả các “thánh
tử đạo” trong nhiều quốc gia . Đặc biệt là trong số “thánh tử đạo” này có
cả những “thánh” mà tuyệt đại đa số người dân Việt Nam chúng ta thường gọi
là Việt gian, và người Tàu cũng gọi một số “thánh Công giáo Tàu” của họ là
Hán gian v..v... Ngoài ra Ki Tô Giáo còn có cả “nước thánh”, “dầu thánh”,
và “bánh thánh”, nghĩa là nước thường, dầu thường , và bánh bột thường, sau
khi được ông linh mục hay mục sư hoa tay làm phép, lẩm bẩm vài tiếng La Tinh
mà chính ông linh mục hay mục sư có khi cũng không hiểu hay không tin,
chúng liền “biến thể” và mang tính chất “thánh”, tuy rằng các khoa học gia
đã mang chúng đi phân tích và chứng minh rằng chúng hoàn toàn không có gì
khác biệt giữa “trước” và “sau” khi chúng được “thánh hóa”.
“Hội
thánh Công giáo” được thế giới biết đến nhiều nhất qua “thánh lễ xưng thú 7
núi tội ác” của “hội thánh” ngày 12 tháng 3 năm 2000 tại “thánh đường”
Phê-rô ở Vatican. Là một Phật tử, tôi cảm thấy hơi xấu hổ, vì thấy Phật
giáo quả thật thua xa Công giáo, không có một thánh nào (Bồ Đề Đạt Ma:
Quách nhiên vô thánh). Một sự thua kém khác của Phật Giáo đối với Công
Giáo là: Phật Giáo chưa từng gây ra một tội ác nào đối với nhân loại, cho
nên Phật giáo thiếu mất cái “thánh lễ xưng thú tội ác”.
Theo một số tín đồ có học cũng như vô học Công giáo được giáo hội dạy rằng,
đó là một hành động can đảm chưa từng thấy của “đức thánh cha”, của giáo
hội, để cho “hội thánh” thanh tẩy ký ức, trở nên “thánh thiện hơn”. Nghĩa là
từ trước tới nay, Công giáo, dù mang 7 núi tội ác trên vai, vẫn thánh thiện,
nay nhờ có vụ xưng thú 7 núi tội ác nên trở nên thánh thiện hơn, chứ không
phải là bỏ ác thành thiện.
“Hội thánh Công giáo” vẫn khoe rằng có nhiều tín
đồ nhất nhưng số nhiều nói lên được điều gì? Một ngàn người nô lệ, dù là nô
lệ tâm linh, cũng chẳng đáng giá hơn một người tự do. Phải chăng vì vậy mà
Phật giáo chủ trương mở mang trí tuệ để cho con người có thể ra khỏi vòng
ngu si, thoát khỏi vòng nô lệ tối tăm, do đó được tự do tự tại, sống như một
con người đúng nghĩa là một con người. Nhưng đây lại là một trọng tội trong
Công Giáo: tội dám sử dụng đến trí tuệ, trí thông minh và khả năng hiểu biết
của con người, vì theo nền thần học Ki Tô Giáo thì sự ngu si của Thượng đế
còn sáng suốt hơn trăm ngàn lần sự giỏi giang, thông minh của con người.
Chỉ có điều, Thượng đế là Đấng Sáng Tạo ra vũ trụ và loài người nhưng thực
sự lại ngu đần hơn con người rất nhiều, không biết rằng quả đất tròn và quay
xung quanh mặt trời, và Chúa Con, Giê-su, người con duy nhất của Thượng đế,
lại không biết rằng bệnh động kinh [epilepsy] là do trong người bị
nhiễu loạn thần kinh, có thể liên hệ đến chất anti-glutamic acid trong cơ
thể, cho nên cho rằng bệnh động kinh là do quỷ ám và trổ tài làm phép lạ,
chữa bệnh động kinh bằng cách đuổi quỷ ám ra khỏi thân thể người. Người
đời thường nói: “Làm đầy tớ người khôn còn hơn làm thầy người ngu”. Thế mà
trên cõi đời này lại có không thiếu gì người đi làm tôi tớ và thờ phụng kẻ
ngu. Thật là tội nghiệp.
Vài Nét Về Các
Bí Tích Trong Công Giáo:
Trong
Ki Tô Giáo có những điều tín đồ phải tin mà giáo hội bí, không giải thích,
gọi đó là những “bí tích”, nghĩa là những lễ tiết thế tục nhưng lại tiềm ẩn
những sự huyền nhiệm mà tín đồ chỉ cần tin, không cần hiểu, những huyền
nhiệm chưa bao giờ, chưa có ai, chưa có cách nào có thể kiểm chứng được đó
là những sự thực có thể xảy ra. Công Giáo có tới 7 “bí tích” (Xin đọc Đức
Tin Công Giáo, Chương III: Bí Tích Công Giáo, hoặc bài “Bí Tích Công
Giáo” trên
www.giaodiem.com, hoặc
http://www.sachhiem. net/TCNtg/DuctinCG/DuctinCG03.php) trong khi Tin
Lành chỉ tin có 2: “Bí tích rửa tội”, và “bí tích ban thánh thể”, nôm na gọi
là ăn “bánh thánh” hay rõ ràng hơn, “ăn thịt Chúa”. Nhưng nếu các “bí
tích” thuộc loại không thể giải thích được, thì thực ra chúng là cái gì, và
giáo hội đưa chúng ra để làm cái gì? Không ai biết rõ hơn linh mục
Joseph McCabe, một người đã hành nghề linh mục hơn 20 năm, sau khi luận về
ý nghĩa thực sự của 7 bí tích trong Công Giáo, đã viết trong cuốn Sự Thật
Về Giáo Hội Công Giáo như sau:
Đó là... 7 bí tích, sự vinh
quang và bông hoa đặc thù của tín ngưỡng Công Giáo, hệ thống tỉ mỉ nhất về
ảo thuật mà xưa nay chưa hề có một tôn giáo văn minh nào phát minh ra được.
Từ bí tích đầu cho đến bí tích cuối, chúng được thiết kế để tăng thêm
quyền lực và uy tín của giới giáo sĩ.
“Bí tích”, lẽ dĩ
nhiên, chỉ là một phần của hệ thống nâng cao giới linh mục, cho họ những lợi
ích cá nhân to lớn trên đám tín đồ thông thường.
(Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, p. 70: These
are... the seven sacraments, the glory and distinctive flower of Catholic
belief, the most elaborate system of magic which any civilized religion ever
invented. From first to last they are designed to enhance the power and
prestige of the clergy.
The “sacrament” is, of course, merely a part of the system which raises a
priestly caste, to their great advantage, above the common crowd.)
Và Linh mục
Georges Las Vergnas cũng bàn về các bí tích trong Công Giáo trong cuốn
Tại Sao Tôi Bỏ Giáo Hội Rô-Ma và viết như sau:
Điều quan trọng là phải đọc đúng, không được sai lầm. Một linh mục có thể
đọc lên công thức thuộc loại bí tích này mà không cần hiểu nó, và ngay cả
không cần phải tin nó, nhưng để cho ảo thuật vận hành, ông ta phải làm cái
gì mà giáo hội làm. Tuy nhiên, nếu ông ta nói sai một chữ thì bí tích sẽ
không có tác dụng gì cả. Theo nguyên tắc, cái tinh thần của câu “Vừng ơi!
Hãy mở cửa đi” (Las Vergnas ví những câu làm phép của giới linh mục với
câu phù phép trong chuyện “A-li-ba-ba và 40 tên trộm cướp.” TCN) không
hề thay đổi.
Những bí tích không những chỉ vô nghĩa mà còn có tính cách phỉ báng.
Rabelais đã chẳng nói: Tôi gọi đó là “nhạo báng Thiên Chúa”.
Tôi còn cho rằng tất cả sự “mộ đạo” của Công giáo chỉ là tập hợp những trò
lừa bịp và cách thức để biến đổi linh mục thành một tên “lang băm” và tín đồ
thành kẻ ngu si đần độn.
Linh mục biết rõ sự ngu si đần độn của con người là vô tận: họ khai thác
điểm này.
[Những câu này nói rõ hơn gì
hết thực chất của giới chăn chiên và của con chiên]
(Georges Las Vergnas, Pourquoi J’ai Quitté L’Église Romaine, p. 51:
Ce qui importe, c’est de prononcer sans erreur. Un prêtre peut dire la
formule sacramentelle sans la comprendre, et même sans y croire, mais pour
que la magie opère, it doit vouloir faire ce que fait l’Eglise. Mais s’il
change une syllable rien ne va plus. Le “Sesame ouvre-toi” est, en
principle, invariable..
Les sacrements ne sont pas seulement absurdes mais blasphématoires;
j’appelle ca “moque-Dieu” dirait Rabelais.
J’en dis d’ailleurs autant de toute la “piété” catholique, assemblage de
trucs et de recettes qui transforment le prêtre en charlatan et le fidèle en
imbécile..
Le
prêtre sait que la bêtise humaine est inepuisable: il en profite.)
Đó là nhận
định tổng quát của 2 linh mục Công giáo về những cái gọi là “bí tích” trong
Ki Tô Giáo. Vì bí tích “ăn thịt Chúa” hay ăn “bánh thánh” là bí tích chung
cho Công Giáo và Tin Lành cho nên sau đây tôi xin đưa ra một số nhận định
của một số tín đồ Ki Tô Giáo tiến bộ về bản chất thực sự của cái “bí tích”
mà theo giáo hội Công giáo, do chính Chúa Giê-su thành lập. Để tránh bị
chụp mũ là gây chia rẽ tôn giáo, tôi sẽ không đưa ra những nhận định cá nhân
hay của người ngoại đạo, mà chỉ đưa ra nhận định của những người trong Ki Tô
Giáo gồm các linh mục, học giả và tín đồ Ki Tô Giáo. Người Công giáo viết
về Công giáo, người Tin Lành viết về Tin Lành, hiển nhiên đó không phải là
để chia rẽ tôn giáo này với tôn giáo khác.
Thật ra thì
Chúa Giê-su chẳng có thành lập bất cứ một “bí tích” nào vì Tân Ước đã viết
rõ, Chúa tin là ngày tận thế đã gần kề, sẽ xảy ra ngay trong thời mà một số
tông đồ của Chúa còn sống, vậy lập ra các “bí tích” cho các tín đồ tin mà
không cần hiểu cả ngàn năm sau để làm gì? Nhưng chúng ta
đã biết, các tín đồ Công giáo, nhất là Công giáo Việt Nam, phần lớn là những
người phát dị ứng trong việc sử dụng đầu óc, chỉ biết “quên mình trong vâng
phục”, vâng tin những gì mà “bề trên” của họ dạy, và thường là các “bề trên”
này bản chất cũng chẳng khác gì họ, chẳng qua cũng chỉ nhắc lại những gì mà
họ được dạy từ trước. Họ được dạy phải “Kính Chúa yêu người” nhưng họ chỉ
biết “sợ Chúa” chứ chẳng bao giờ “kính Chúa” cả, vì niềm sợ hãi “bị Chúa đọa
đầy hỏa ngục” đã reo rắc vào đầu tín đồ từ khi còn nhỏ. Thật vậy, nếu kính
Chúa thì họ đã không tiếp tục phỉ báng Chúa như linh mục Georges Las Vergnas
đã nhận định ở trên. Họ yêu người, nhưng đó là người đồng đạo, mà cũng chưa
chắc, vì ngay cả các giáo hoàng của họ cũng vì quyền lực mà giết nhau như
ngóe, chứ nếu khác đạo mà họ không khuyến dụ được thì nếu họ có quyền lực
như trong thời Trung Cổ, những hạng người bướng bỉnh này tất nhiên sẽ bị đưa
đi tra tấn hoặc thiêu sống, lẽ dĩ nhiên, gọi là để cứu vớt linh hồn những
người sẽ bị “Thiên Chúa lòng lành” (Le bon Dieu) của họ đày vĩnh viễn nơi
hỏa ngục.
Đài PBS tối
ngày 29 tháng 10, 2002, có chương trình 2 tiếng đồng hồ với đề tài
“Galileo’s Battle For The Heavens”, trong đó chúng ta biết được, giáo hội
Công Giáo quan niệm rằng những sự đau đớn của con người bị giáo hội tra tấn
với những hình cụ dã man nhất của loài người và mang đi thiêu sống thì không
thấm vào đâu so với sự đau đớn bị “Thiên Chúa lòng lành” (The Good God,
Le Bon Dieu) đày đọa vĩnh viễn nơi hỏa ngục. Bởi vậy giáo hội chọn
biện pháp nhân từ và thánh thiện hơn, như căng miệng, cắt lưỡi, banh ngực,
căng người, treo ngược người, xẻ đôi người từ háng trở lên v..v.. hoặc thiêu
sống người, để cứu vớt linh hồn các nạn nhân, thay vì để cho họ phải chịu
hình phạt đau đớn gấp bội của “Thiên Chúa lòng lành” ở dưới hỏa ngục. Trong
chương trình trên có vài cảnh tra tấn con người và thiêu sống Giordano
Bruno, một linh mục kiêm khoa học gia, chỉ vì ông ta không chịu rút lại niềm
tin vào thuyết trái đất quay xung quanh mặt trời của Copernicus mà giáo hội
cho là trái ngược với Thánh Kinh.
Giáo hội Công
giáo hoàn vũ rất khôn, biết rõ tâm lý “sợ Chúa” mà giáo hội đã cấy vào đầu
óc tín đồ từ khi còn là con nít, nên mọi sự cứ đổ lên đầu Chúa là xong. “Bí
tích” là do Chúa thành lập, ai dám không tin? Không tin “bí tích” là
không tin Chúa, tội này lớn lắm, phải đày vĩnh viễn nơi hỏa ngục, dù rằng
gần đây giáo hoàng John Paul II đã phải thú nhận là chẳng làm quái gì có hỏa
ngục với ngọn lửa vĩnh hằng để thiêu đốt những kẻ không tin Chúa. Ở
Việt Nam, giáo dân được dạy “Cha cũng như Chúa” cho nên hàng giám mục thường
mang Chúa ra hù dọa tín đồ, ngăn tín đồ không được nói động đến các linh mục
làm bậy với lời răn: “Các con đừng nói hành các Cha mà mang tội với Chúa”,
làm như các linh mục, kể cả những linh mục làm bậy, đều là Chúa thật cả.
Một sự phỉ báng Chúa như vậy mà các tín đồ vẫn cứ phải nghe theo, thực
hiện sát lời dạy của giáo hội: “Hãy quên mình trong vâng phục” trong “đức
vâng lời”. Thật là tội nghiệp.
Bí Tích Ăn
Bánh Thánh Hay Ăn Thịt Chúa:
Trước khi đi
vào chi tiết bí tích ăn thịt Chúa, chúng ta cần biết thế nào là “bánh
thánh”, và tác dụng của nó trên thân thể con người như thế nào? Đó là chiếc
bánh nhỏ, thường làm bằng bột lúa
mạch (wheat), hình tròn, mỏng, cỡ đồng 25 xu (quarter) của Mỹ, rất dễ tan
trong miệng. Bánh thánh cũng có thể làm thành những cái lớn rồi cắt ra
thành những mảnh nhỏ. Rồi Linh mục hoa tay đọc 5 tiếng phù phép bằng tiếng
La-Tinh – HOC EST ENIM CORPUS MEUM – thế là mẩu bánh biến thành thịt thật sự
của Chúa. Cái phép lạ này giáo hội gọi là sự “biến thể”
(Tran substantiation), nghĩa là bánh bột thường đã trở thành “bánh thánh”.
Cuối buổi lễ, tín đồ nào muốn ăn “bánh thánh” thường quỳ trước ông linh mục
để ông ta bỏ vào miệng một cái bánh thánh, bất kể là tay ông ta dơ hay sạch
hay đã sờ mó cái gì trước khi cầm lên mẩu bánh thánh. Cái nghi lễ văn minh
tiến bộ nhất thế giới của một tôn giáo văn minh tiến bộ nhất thế giới này
được gọi là lễ “ban Thánh thể”, hay “ban mình Thánh Chúa”, nghĩa là khi được
linh mục cho ăn “bánh thánh”, tín đồ đã thực sự “ăn thịt Chúa” và do đó có
thể hiệp thông với Chúa và được Chúa bảo đảm cho một cuộc sống đời đời bên
Chúa trên thiên đường. Và các tín đồ đều tin đó là thịt Chúa thật, ăn vào sẽ
được hòa đồng cùng Chúa, mang “mình Thánh Chúa” trên người, và chờ ngày lên
thiên đường.
Đã có lần tôi
đích thân thử nghiệm xem “mình Thánh Chúa” của Chúa Giê-su trong người tôi
ra sao. Sau buổi lễ, tôi thản nhiên xếp hàng lên ăn bánh thánh. Vì tôi là
người ngoại đạo, theo luật của Công giáo thì không được phép hiệp thông với
Chúa, nhưng ông linh mục làm lễ đâu có hỏi tôi là người theo đạo hay không,
nên vẫn thản nhiên đặt vào lưỡi tôi chiếc bánh thánh. Theo nguyên tắc,
chiếc bánh này là toàn thân của Chúa cho nên tín đồ phải để cho nó tan trong
miệng chứ không được nhai vụn ra. Vì tôi là người ngoại đạo nên tôi tự cho
phép bất tuân những luật lệ kỳ cục của Giáo hội và thản nhiên nhai chiếc
bánh thánh trong miệng xem vị thịt của Chúa ra sao và người tôi có khác gì
không. Bánh nhạt nhẽo vô vị và những mảnh vụn tan mau trong miệng. Tôi
chợt nghĩ tới một phần chiếc bánh này sẽ bị đào thải qua bộ máy tiêu hóa,
nói nôm na là theo đường đại tiện và tiểu tiện, và tôi cho rằng Thánh Thể
chẳng bao giờ có thể hoàn toàn hòa đồng trong người tôi. Đó là tôi dùng lý
trí để đưa ra một kết luận, dựa vào những điều tôi biết về bộ máy tiêu hóa
của con người mà tôi đã học ở những lớp Trung học.
Bây giờ
chúng ta hãy thử duyệt qua vài nhận định về cái lễ tiết “ban Thánh thể” này,
một lễ tiết quan trọng bậc nhất của Ki Tô Giáo. Để tránh bị lên án là “vọng
ngoại”, trước hết là nhận định của một tín đồ Công giáo Việt Nam, ông
Charlie Nguyễn. Trong cuốn Công Giáo: Huyền Thoại & Tội Ác, ông
Nguyễn viết, trang 9 – 11:
Cũng như tại các nhà thờ Công giáo ngày nay, các linh mục làm lễ MISA, có
nghĩa bữa tiệc tế thần Jehovah (Đức Chúa Cha) bằng thân xác của Đức Chúa Con
(Jesus). Sau khi Chúa Cha ăn thịt Chúa Con xong thì đến phiên các cha cố và
giáo dân cùng chia nhau ăn bánh thánh và uống rượu nho mà họ gọi là “rước
lễ” hoặc “Phép Mình Thánh Chúa” (Corpus Christi). Giáo lý Công giáo buộc
mọi tín đồ phải tin rằng lúc rước lễ là lúc họ đang ăn thịt thật và uống máu
thật của Jesus đã chết thối cách đây gần 2000 năm! Đó là nghi lễ tôn giáo
trọng đại của những người tự hào là “văn minh” đang sống trong một nước “mọi
rợ” phương Đông là nước Việt Nam! Nhờ phúc đức của ông bà tổ tiên nhân hậu
để lại nên dân tộc Việt Nam chỉ có khoảng 8% dân số hồ hởi phấn khởi chạy
theo nền văn minh khoái khẩu món thịt người (Cannibal). Số còn lại 92% dân
số Việt Nam may mắn đều là dân “mọi rợ” (theo nghĩa “mọi rợ” của sách
kinh Công giáo dưới cặp mắt cú vọ của các cố đạo thừa sai cũng như dưới cặp
mắt mơ huyền của các cố đạo bản xứ mất gốc.)
Theo sử gia Hislop thì cái ý nghĩ quái đản về sự ăn thịt Chúa của người Công
giáo là học đòi tục lệ của tà giáo mọi rợ ăn thịt người...
(The idea of eating the flesh of God was of cannibalistic inception)..
Sử gia trứ danh Durant, với những bộ sử lớn lao của ông đã được dịch ra rất
nhiều thứ tiếng trên thế giới, đã viết: “Niềm tin về sự biến thể của
bánh và rượu thành thịt và máu của Chúa Jesus trong nghi lễ Công giáo La mã
là một trong những nghi lễ cổ xưa nhất của những tôn giáo thời ăn lông ở lỗ”
(The belief in transubstantiation as practiced in the Roman Catholic Church
is one of the oldest ceremonies of primitive religion. – The Story of
Civilization: The Reformation, p. 749)
Có thể có một
số người Công Giáo Việt Nam, vốn không bao giờ sử dụng đến đầu óc, cho rằng
Charlie Nguyễn chẳng qua chỉ là một “phản đồ” tầm thường, không đáng kể.
Không hẳn vậy, nhận định của Charlie Nguyễn rất sát với những nhận định của
một số linh mục và học giả Công giáo như chúng ta sẽ thấy sau đây.
Học giả
Công giáo Joseph L. Daleiden, sau khi nghiên cứu về những niềm tin trong dân
gian cổ xưa, đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng như sau:
Đã có
một thời tôi tin vào cái tục lệ sơ khai mà Cicero đã viết trong thế kỷ thứ
nhất trước thời đại thông thường (thật lâu trước khi Ki-Tô Giáo thực
hành tục lệ này): “Làm sao mà một người có thể đần độn đến độ có thể
tưởng tượng được rằng cái mình ăn đúng là Thiên Chúa?” Điều biện bạch
duy nhất của tôi là, đó là trước khi tôi phát triển khả năng suy lý mà ngày
nay tôi có. Hơn nữa, tôi không có cách nào để biết rằng (vì nền giáo
dục đặc biệt Ca-Tô.
TCN) những nhà nhân chủng học và các sử gia đã truy nguyên ra rằng, sự
thực hành cái lễ tiết ăn thịt Thiên Chúa đã là tín ngưỡng của con người
trong buổi sơ khai, tin rằng mình có thể có được những uy lực của những vật
mà mình ăn.
Sau cùng,
tôi đã bị lừa bởi trò bịp trong môn nghĩa ngữ học rất thịnh hành trong bộ
môn giả khoa học là siêu hình học. Từ “biến thể”
(trong lễ ban
thánh thể, cho rằng bánh và rượu sẽ biến thành thịt và máu Chúa do sự phù
phép của linh mục. TCN) gây nên sự khá kinh sợ cho những đầu óc chất
phác. Khi từ này lại do một người có thẩm quyền như một linh mục, mô tả tại
sao bánh và rượu có thể đổi cái “thể” mà không đổi “tính chất” thì rất dễ
làm cho người ta tin. Hơn nữa, ai mà chẳng thích trò ảo thuật. Nó chắc
chắn là hấp dẫn hơn là đi đào sâu vào triết lý thực nghiệm của David Hume
hay sự phân tích sắc xảo của Ludwig Feuerbach. Chính hai người này đã là
những người đầu tiên vạch rõ điều hiển nhiên như sau: cho rằng một vật (thể)
hiện hữu mà không có thuộc tính (tính chất) thì cũng ngớ ngẩn như là cho
rằng ngược lại, nghĩa là có “tính chất” mà không có “thể”. (hãy chỉ cho tôi
một cái “không có gì (nothing) mà lại dài”, hoặc “không có gì mà lại xanh
hay cứng). Do đó, không có những vật thể hiện hữu riêng biệt nào có thể
“biến thể” một cách có tính cách ảo thuật.
(Tác
giả viết đoạn này quá ngắn gọn nên hơi khó hiểu. Vấn đề tác giả muốn nói
là: bánh và rượu có những tính chất riêng của nó, thí dụ như bánh thánh thì
có vị của bột, và rượu thì có vị ngọt hoặc hơi chát của rượu. Tín đồ ăn bánh
và uống rượu chỉ thấy vị (tính chất) của bánh và rượu, chứ không thấy vị của
thịt và máu Chúa, cho nên chuyện “biến thể” là chuyện không tưởng. TCN).
Một lần nữa, các nhà thần học đã thành công trong việc làm mê mẩn đầu óc
con người bằng những từ vô nghĩa. Tất cả những bí tích, giống như
những ngày lễ, biểu tượng của Ki Tô Giáo, chỉ là những toan tính đơn giản để
thích nghi với những tín ngưỡng dân gian. Đối với những người không có
thiên kiến, có đầu óc suy lý, thì chúng ta có tràn ngập những bằng chứng để
đi tới kết luận này.
(Joseph L. Daleiden, The Final Superstition, p. 131: I once believe
in that primitive custom of which Cicero wrote in the first century B.C.E
(long before Christianity adopted the practice): “How can a man be so stupid
as to imagine that which he eats to be a god?” My only excuse is that it
was before I had developed what slight powers of critical reasoning I now
possess. Also, I had no way of knowing that anthropologists and historians
had traced the practice of the ritualistic eating of a god to the primitive
belief that we acquire the powers of the creatures we eat.
Finally, I was fooled by the semantic trick so prevalent in the
pseudoscience of metaphysics: the confusion of words with things. The word
“transubstantiation” is pretty awe-inspiring to an unsophisticated mind.
When it is backed by the weight of an authority figure, such as a priest who
describes how the “substance” of the bread and wine can change without a
change in “properties”, it is easy to be taken in. Besides, everyone likes
a magic show. It is certainly more entertaining than plowing through the
empiricist philisophy of David Hume or the critical analysis of Ludwig
Feuerbach. It was these two men who first pointed out the obvious: for a
thing (substance) to exist without its attributes (properties) is as silly
an idea as the opposite notion - a property without a thing. (Show me along
nothing, or a hard, green nothing.) Therefore, there are no separately
existing substances that could undergo a magical transubstantiation. Once
again theologians successfully bewitched minds with meaningless words. All
the sacraments, like the feasts and symbols of Christianity, were simple
attempts to accommodate pagan beliefs. The evidence for this conclusion is
overwhelming to unbiased, rational minds.)
Linh mục
Joseph McCabe cũng có cái nhìn khác về lễ ban Thánh Thể vì trong thời gian
trên 20 năm, ông ta đã làm lễ này không biết bao nhiêu lần trong các nhà
thờ. Trong cuốn Sự Thực Về Giáo Hội La Mã ông viết như sau:
Bí tích ban Thánh Thể - nghĩa là, giáo
điều về sự "hiện diện thực" của Chúa Ki Tô trong bánh và rượu đã được Thánh
hóa - đích thực là niềm tin chính của Giáo Hội Công Giáo ...Vì trên cái sở
hữu vô gíá về một đời sống thực của Thượng đế trong họ, và trên cái bản chất
kỳ lạ của chế độ giáo hoàng, mà các tín đồ Công Giáo có thái độ ưu việt nực
cười đối với tất cả phần còn lại của nhân loại. Và bí tích này là một
trong những niềm tin ấu trĩ và điên rồ nhất được duy trì trong một tôn giáo
văn minh.
Giáo điều về lễ ban Thánh Thể của Giáo Hội thường không được rõ ràng. Không
phải vì Giáo hội trình bày sai nhưng vì sự kiện là: một người ngoại đạo
không tin được rằng bất cứ một con người hiện đại có học thức nào lại có thể
tin được những điều như vậy. Họ biết Giáo hội dạy rằng có sự hiện diện
đích thực của Thiên Chúa trong bí tích ban Thánh Thể. Đã quen thuộc với
niềm tin rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, họ không thấy một ý nghĩa trí thức
to lớn nào trong bí tích này. Họ không biết, và không thể bị thuyết phục,
rằng những tín đồ Công Giáo tin, và giáo hội của họ đoan chắc một cách giáo
điều rằng, cái ở trước mắt họ rõ ràng là bánh và rượu, sau vài lời Thánh
hóa, lại không phải là bánh và rượu, mà là chính nhục thân sống của Chúa
Giê-su Ki-Tô, từ đầu tới chân.
Trong buổi đầu của thời Trung Cổ, cũng như trong nhiều triệu tín đồ Công
Giáo vô học ngày nay, giáo hội không cần tới một sự giải thích nào về sự
biểu hiện của bánh và rượu, cũng như không cần tới một toan tính giải
thích nào về tại sao nhục thân của Chúa Ki Tô cùng lúc ở trên thiên đường và
hàng triệu nơi khác trên trái đất. Đối với những đầu óc như vậy, họ có thể
tin bất cứ điều gì. Mọi giải thích cũng rườm rà như mọi lý luận.
Thật là rất thuận tiện. Bằng một hoạt động siêu nhiên, trong buổi lễ, cái
"thể" vô hình của bánh và rượu được thay thế bằng cái "thể" của nhục thân
thực, sống động của Chúa Ki Tô. Còn về tại sao nhục thân của Chúa Ki Tô
có thể cùng lúc ở hàng triệu nơi khác nhau, và toàn bộ nhục thân này hiện
hữu trong một mẩu bánh, thì câu trả lời là - hãy cúi đầu tuân phục bí nhiệm
của sự "biến thể".
(McCabe, Joseph, The Truth About The Catholic Church, pp. 66-68: The
sacrament of the Eucharist - that is, the doctrine of the "real presence" of
Christ in the consecrated bread and wine - is quite the central belief of
the Catholic Church...It is on this priceless possession of a real live god
in their midst, and on the miraculous nature of their papacy, that Catholics
affect their amusing air of superiority to all the rest of mankind. And it
is one of the most childish and foolish beliefs that was ever preserved in a
civilized religion.
The doctrine of the Church is not generally understood. This is not due to
"misrepresentation" but to the fact that a non-Catholic does not find it
credible that any educated modern man or woman should believe such
things... He is aware that Catholics profess the "real presence" of God in
the Eucharist. Being accustomed to the belief that God is everywhere, he
sees no intellectual enormity in this. He does not know, and can hardly
convinced, that Catholics believe, and their Church sternly and dogmatically
insists, that in what seems to the eye to be bread and wine, there is, after
the words of consecration, no bread and wine at all, but the living body of
Jesus Christ down to the last eye-lash and toe-nail.
In
the earlier Middle Ages, as among the uneducated Catholic millions today, no
explanation of the appearance of bread and wine was needed; nor was it
necessary to attempt any explanation how the human body of Christ could be
simultaneously in heaven and in a million places on the earth. To such
minds anything is possible. Explanation is as superfluous as argument.
This was very convenient. By a supernatural operation, in the mass, the
invisible "substance" of the bread and wine is replaced by the "substance"
of the real, living body of Christ...As to how the body of Christ could be
in a million places at once, and could exist in its full proportions in a
crumb of bread, the answer was - bow to the mystery of
"transubstantiation.".)
Trong đoạn
trên, Linh mục Joseph McCabe đã chứng tỏ đức tin Công giáo về "bí tích ban
Thánh Thể" là phi lý trí, vì nếu dùng lý trí để suy luận thì không ai còn có
thể tin vào những điều hoang đường kỳ quặc như vậy. Cũng vì vậy mà chúng ta
thấy trong cuốn " Huyền Thoại Về Những Thiên Chúa Cuối Cùng: GiaVê và
Giêsu" ("Mythology's Last Gods: Yahweh and Jesus", p. 16), Tiến sĩ
William Harwood, một tín đồ Công giáo phải mất ba năm mới tỉnh ngộ và bỏ
được những niềm tin phi lý sau khi nghiên cứu lịch sử các tôn giáo trong đế
quốc La Mã và khám phá ra rằng "bí tích" ăn thịt uống máu Chúa
(Eucharist) mà ông đã tin và thọ hưởng bí tích này hàng tuần và trong nhiều
năm, đã có từ 3000 năm trước khi Giêsu ra đời, và rằng các Thiên Chúa hay
Thượng Đế (Gods) chỉ là những chuyện tưởng tượng y như những chuyện
thần tiên kể cho trẻ con nghe. (Dr. Harwood..discovered that the
"god-eating" ritual in which he participated weekly as a believing Christian
had existed three thousand years before Jesus' birth. Not for three years,
however, could he fully abandon the disproved beliefs to which he had been
emotionally committed, and acknowledge that gods are as imaginary as
fairies)
Học giả
Công Giáo người Pháp Henri Guillemin cho bí tích này là một trò ảo thuật của
giáo hội bày đặt ra và viết trong cuốn Cái Giáo Hội Khốn Nạn
(Malheureuse Église, 1992) như sau:
"Bằng vài lời lẩm bẩm, giáo hội gài vào trong một mẩu bánh thân thể, thân
thể thực sự bằng xương bắng thịt của Giê-su Ki Tô để cho tín đồ dùng qua
đường ăn uống (tác giả muốn nói đến bí tích "ban thánh thể". TCN)". (Au
moyen de quelques syllabes, elle insère, dans un fragment de pain, le corps,
le corps physique de Jésus-Christ voué à une consommation buccale et
stomacale...)
Vài Suy Tư
Của Linh Mục Charles Chiniquy:
Đặc biệt
hơn cả có lẽ là những suy tư sâu thẳm từ nội tâm của Linh mục Charles
Chiniquy trong cuốn 50 Năm Trong “Giáo Hội” Rô-Ma (50 Years in
the “Church” of Rome, Chick Publications, 1985) về tín điều “biến thể” của
giáo hội Công Giáo, hay lễ “ban mình Thánh Chúa” hay “ban Thánh thể” .
Chúng ta hãy đọc vài đoạn của ông trong cuốn sách trên, nội dung kể lại cuộc
đời của ông trong giáo hội Công Giáo. Khi được phong chức Linh Mục ông cảm
thấy hãnh diện hơn ai hết. Ông viết, trang 70:
Tôi được phong chức Linh
Mục trong nhà thờ Quebec, bởi Tổng Giám Mục Signaie ở Canada. Vị sứ giả này
của giáo hoàng, bằng cách đặt tay lên đầu tôi, ban cho tôi quyền năng biến
cải một mẩu bánh thành thân thể, máu, linh hồn và thần tính thực sự của đức
Giê-su Ki Tô! Giáo hội không thể sai lầm của tôi đã đặt tôi lên địa vị,
không chỉ ngang bằng với Thiên Chúa Cứu Thế của tôi, mà thực ra còn trên cả
Ngài! Từ nay về sau, không những tôi chỉ ra lệnh cho Ngài, mà còn tạo
ra Ngài, không phải là bằng đường lối tâm linh hay huyền nhiệm, mà
là thực sự tạo ra con người Ngài bằng một cách không thể cưỡng lại được.
Cái tước vị tôi vừa nhận được thì cao hơn mọi tước vị và ngai vàng của
thế giới này..
Ngày hôm
sau làm chủ cái lễ Misa đầu tiên trong đời tôi, và thực hiện cái phép lạ bất
khả so sánh mà giáo hội Rô-ma gọi là BIẾN THỂ. Trước khi trời sáng lâu tôi
đã quần án sẵn sàng và quỳ cầu nguyện. Đây là ngày thánh thiện và vinh
quang nhất trong đời tôi! Ngày hôm trước, được nâng lên một chức vị vĩ đại,
ngày hôm nay, lần đầu tiên, tôi thực hiện một phép lạ nơi bàn thờ Chúa mà
không thiên thần hay thiên thần tổng quản nào có thể làm được.
Nhờ có hàng tá
lần tập tành trong tuần trước và nhờ sự chỉ dẫn của những người bạn tốt, tôi
làm lễ một cách suông sẻ hơn là tôi mong đợi. Cuộc lễ lâu khoảng một tiếng
đồng hồ. Nhưng khi cuộc lễ chấm dứt, tôi cảm thấy thật mệt lả vì đã cố gắng
giữ cho đầu óc và tim tôi hòa điệu với sự vĩ đại vô cùng tận của những huyền
nhiệm mà tôi đã hoàn thành.
Tự bắt
mình phải tin rằng mình có thể biến đổi một mẩu bánh thành Thiên Chúa đòi
hỏi một cố gắng siêu đẳng về ý chí, và sự hủy diệt hoàn toàn khả năng hiểu
biết, đến độ là, sau sự cố gắng đó, trạng thái linh hồn giống như là chết
hơn là sống.
Tôi đã từng tự
thuyết phục là tôi đã làm một việc thánh thiện và siêu phàm nhất trong cuộc
đời của tôi trong khi, thực ra tôi đã mang tội có tính cách xúc phạm nhất là
thờ hình tượng. Mắt tôi, tay và môi tôi, miệng và lưỡi tôi, tất cả mọi giác
quan và khả năng hiểu biết của tôi đều nói với tôi rằng cái mà tôi thấy, cầm
trong tay và ăn, không gì khác hơn là một mẩu bánh, nhưng những tiếng nói
của giáo hoàng và giáo hội của ông ta lại bảo tôi rằng đó chính là thân thể,
máu, linh hồn, và thần tính thực sự của Giê-su Ki Tô. Tôi đã từng tự
thuyết phục là tiếng nói của những giác quan và của khả năng hiểu biết của
tôi là tiếng nói của Satan, và tiếng nói dối trá của giáo hoàng là tiếng nói
của Thượng đế của Chân lý. Hàng ngày trong cuộc đời của mình,
mọi linh mục của giáo hội Rô Ma đều phải đối diện với sự lầm lạc điên rồ kỳ
lạ đó, nếu muốn tiếp tục làm linh mục của giáo hội Rô Ma.”
(I was ordained in
the Cathedral of Quebec by the Right Reverend Signaie, Archbishop of
Canada. This delegate of the pope, by imposing his hands on my head, gave
me the power of converting a real wafer into the real substantial body,
blood, soul and divinity of Jesus Christ!..My infallible Church placed me,
not only in equal terms with my Saviour and God, but in reality above Him!
Hereafter I would not only command, but create Him, not in a spiritual and
mystical, but in a real, personal and most irresistible way.
The dignity which I just received was above all the dighities and thrones
of this world...
The next day I was to say my first Mass, and work that incomparable
miracle which the Church of Rome calls TRANSUBSTANTIATION. Long before dawn
I was dressed and on my knees. This was to be the most holy and glorious
day of my life! Raised the day before to great dignity, I was now, for the
first time, to work a miracle at the altar which no angel or seraph could
do...
Thanks to a dozen exercises the previous week, and to the kind friends
who guided me, I went through the performances much more easily than I
expected. It lasted about an hour. But when it was over, I was really
exhausted by the effort made to keep my mind and heart in unison with the
infitite greatness of the mysteries accomplished by me.
To make one’s self believe that he can convert a piece of bread into God
requires such a supreme effort of the will, and complete annihilation of
intelligence, that the state of the soul, after the effort is over, is more
like death than alive.
I had persuaded myself that I had done the most holy and sublime action of
my life, when, in fact I had been guilty of the most outrageous act of
idolatry! My eyes, my hands and lips, my mouth and tongue, and all my
senses and intelligence, were telling me that what I had seen, touched,
eaten, was nothing but a wafer; but the voices of the pope and his Church
were telling me that it was the real body, blood, soul and divinity of Jesus
Christ. I had persuaded myself that the voices of my senses and
intelligence were the voices of Satan, and that the deceitful voice of the
pope was the voice of the God of Truth! Every priest of Rome must come to
that strange folly and perversity, every day of his life, to remain a priest
of Rome.)
Cuốn 50 Năm Trong Giáo Hội Rô-Ma dày 366 trang của Linh mục
Charles Chiniquy cho chúng ta biết khá nhiều về Giáo hội Công Giáo, đặc biệt
là nền thần học Công giáo do giáo hội dựng ra, cướp quyền Chúa, để tạo ra
quyền hành cho giáo hoàng và cho giới chăn chiên như tổng giám mục, giám
mục, linh mục ngự trị trên đám tín đồ thấp kém ở dưới. Theo Linh mục
Chiniquy, định chế Công giáo (the Catholic institution) là một định chế
trong đó giáo dân chỉ là một đám nô lệ, phải tuân phục vô điều kiện giáo
hoàng và các bề trên (submission without any condition). Điều này
thật là rõ ràng đối với giáo dân Việt Nam, vì gần đây ở Việt Nam TGM Ngô
Quang Kiệt đã chẳng theo lệnh của Hồng Y Bertone ở Vatican, cùng giáo dân
cum cúp cuốn gói cờ quạt, thập giá, tượng Maria v..v.. dẹp màn cầu nguyện
làm loạn ở Tòa Khâm Sứ hay sao?
Nhưng một trong những điều làm cho Linh mục Chiniquy tỉnh ngộ sau bao
nhiêu năm ở trong giáo hội Rô Ma là câu chuyện ông kể trong chương XXXIII,
từ trang 151 đến trang 154, với đầu đề Thiên Chúa của Rô-Ma [Giê-su]
Bị Chuột Ăn (The God of Rome Eaten by Rats). Câu chuyện này sẽ cho
chúng ta thấy thực chất của cái gọi là “bánh thánh”, và do đó, ý nghĩa thực
sự của tín điều “biến thể” trong Công giáo cũng như trong Tin Lành. Chuyện
có thể tóm tắt như sau:
⊙⊙⊙
Vào Chuyện:
Chúa Giê-su Bị Chuột Hẩu Sực:
[The God Of Rome Eaten By Rats, By Fr. Charles Chiniquy]
Có một linh mục già tên là Daule, đã về hưu, và mù, trú ngụ ở “La Jeune
Lorette”, Quebec, Canada. Những giáo xứ trong vùng Quebec thay phiên nhau
giúp đỡ ông ta. Theo nguyên tắc, linh mục mù không được phép làm lễ. Nhưng
vì linh mục Daule là người rất sùng tín nên giáo hoàng đặc biệt cho phép ông
ta làm chủ một lễ ngắn về Đức mẹ Đồng Trinh (celebrating the short mass of
the Virgin) mà ông ta đã thuộc lòng.
Một buổi sáng, người linh mục già đang sửa soạn làm lễ, và tôi (linh mục
Chiniquy) đang nghe một giáo dân xưng tội. Bỗng nhiên một em phụ tế đến gọi
tôi: “Cha Daule gọi Cha, xin Cha đến ngay.” Sợ rằng có chuyện gì xảy
ra cho người bạn già, tôi vội chạy tới ông ta. Tôi thấy ông ta đang bồn
chồn, tay mò mẫm trên bàn thờ như tìm kiếm một cái gì rất quý báu. Tôi tới
gần và hỏi: “Cha muốn gì vậy?” Ông ta trả lời: “Chúa lòng lành
đã biến mất trên bàn thờ. Người đi đâu mất rồi” (The good God has
disappeared from the altar. He is lost). Cho rằng ông ta đã vô ý đánh rơi
“Chúa lòng lành” (Le bon Dieu) xuống sàn, chúng tôi tìm kiếm thật kỹ nhưng
không thấy.
Nhớ lại hàng ngàn phép lạ mà tôi đã đọc về sự biến mất và biến đổi hình
dạng của cái “bánh mà là Chúa” (wafer God), tôi cho rằng chúng tôi đang đứng
trước một phép lạ vĩ đại nào đó. Nhưng tôi đổi ý nghĩ ngay. Nhà thờ ở
Beauport có những con chuột bạo dạn và hỗn hào nhất tôi chưa từng thấy. Đã
nhiều lần, khi làm lễ, tôi trông thấy chúng thập thò, quyến rũ bởi mùi bánh
mới, muốn ăn sáng với thân thể, máu, linh hồn, và thần tính của Chúa tôi.
(...attracted by the smell of the fresh wafer, wanted to make their
breakfast with the body, blood, soul, and divinity of my Christ). Nhưng vì
tôi luôn luôn chuyển động, hoặc to tiếng cầu nguyện, nên chúng sợ hãi chạy
trở về hang của chúng.
Linh mục Daule thành thực tin điều mà tất cả các linh mục của giáo hội
Rô-ma tin, rằng ông ta có khả năng biến mẩu bánh thành Chúa. Tôi ghé vào
tai ông hỏi: “Có phải là Cha thường đứng yên một lúc lâu sau khi thánh
hóa mẩu bánh, để tôn trọng “Chúa lòng lành?”” Ông ta trả lời: “Đúng
vậy! Nhưng điều này có liên quan gì đến chuyện “Chúa lòng lành” biến mất?”
Tôi trả lời: “ Chuột đã tha đi và ăn “Chúa lòng lành” đấy”
(Some rats have dragged away and eaten the good God.)
Cha Daule hỏi: “Cha nói gì vậy? Chuột đã tha đi và ăn mất “Chúa lòng
lành” rồi?
Tôi trả lời: “Đúng vậy. Con không còn nghi ngờ gì nữa.”
Ông linh mục già giơ hai tay và ngẩng mặt lên trời than: “Lạy Chúa
tôi! Lạy Chúa tôi! Thật là một điều bất hạnh khủng khiếp giáng lên đầu tôi!”
(My God! My God! What a dreadful calamity upon me!) Ông ta không còn nói
lên lời nữa; giọng nói nghẹn ngào qua những tiếng nấc. Người linh mục già
khóc như một đứa trẻ con. (The old priest was weeping as a child). Ông ta
hỏi tôi qua những tiếng nấc: “Bây giờ tôi phải làm gì?”. Tôi trả
lời: “Giáo hội đã tiên liệu những trường hợp như vậy. Điều duy nhất Cha
làm bây giờ là lấy một cái bánh mới, thánh hóa nó, và coi như không có
chuyện gì xảy ra. Con sẽ đi lấy cho Cha một cái bánh mới.” [Trong Công
Giáo, Cha trẻ gọi Cha già là Cha và xưng con; Cha già cũng gọi Cha trẻ là
Cha và xưng con, nghe cứ loạn xì ngầu, tuy rằng Chúa Giê-su đã cấm không
được gọi ai là Cha trên cõi đời này vì chỉ có một Cha trên trời. TCN].
Tôi bèn đi lấy cho ông ta một cái bánh mới, và ông thánh hóa cái bánh đó, và
hoàn tất buổi lễ như tôi đã bảo ông.
Tôi hi vọng với sự hiểu biết thông thường về những lời của tôi nói với
ông sẽ làm ông an tâm, nhưng tôi đã lầm. Sau buổi lễ, ông tiếp tục than vãn
về điều bất hạnh đã xảy ra cho ông. Sau cùng, tôi không còn đủ kiên nhẫn
nữa và nói: “Cha Daule thân quý của con! Thiên Chúa vĩ đại và công bằng
của chúng ta không thể ưa thích sự đau buồn và hối hận quá độ của Cha vì một
chuyện thật ra là hoàn toàn thuộc quyền năng kiểm soát và sự sáng suốt vĩnh
hằng của Thiên Chúa... Chúng ta hãy nhìn sự kiện trên trong ánh sáng đúng
của nó. Nó không tùy thuộc vào ý muốn của chúng ta. Thiên Chúa của chúng
ta là bậc duy nhất có thể tiên đoán điều gì sẽ xảy ra và ngăn chận nó. Và,
con xin nói thẳng với Cha, nếu con là Thiên Chúa toàn năng, và một con chuột
khốn khổ đến ăn con, thì con sẽ đánh nó chết ngay trước khi nó có thể đụng
đến con.” (My dear Father Daule! Our great and just God cannot like an
excess of sorrow and regret about a thing which was only, and entirely,
under the control of His power and eternal wisdom... Let us look at that
fact in its proper light. It did not depend on our will. Our God is the
only one who could foresee and prevent it. And, to give you plainly my own
mind, if I were God Almighty, and a miserable rat would come to eat me, I
would strike him dead before he could touch me.)
Như quý độc giả có thể thấy, niểm tin vững chắc của tôi về quyền năng
của một linh mục có thể biến đổi một mẩu bánh thành ra Thiên Chúa của tôi đã
hầu như tan thành mây khói. Hiển nhiên là Thiên Chúa đã muốn mở mắt tôi
ra để tôi thấy rõ những sự vô nghĩa kinh khủng của một tôn giáo mà Thiên
Chúa của nó có thể bị chuột tha đi và ăn mất.
Khả năng hiểu biết của tôi đã nói với tôi bằng một giọng to như tiếng
sấm: “Đừng có tiếp tục làm linh mục của một Thiên Chúa mà nhà ngươi có
thể làm ra hàng ngày, và chuột có thể tha Thiên Chúa đi và ăn mất.”
Tuy mù nhưng Cha Daule hiểu rõ, qua
những lời tôi nói, là niềm tin của tôi đã bị chao đảo. Ông ta bèn thuyết
cho tôi một hồi về vai trò của những đức thánh cha, của các công đồng, và
thuộc tính không thể sai lầm của các giáo hoàng khi dạy cho thế giới tín đều
về sự “biến thể”. Tôi có thể bác bỏ từng điểm một. Nhưng làm sao mà khả
năng hiểu biết của tôi có thể chống lại giáo hội Rô-ma. Tôi bị cấm không
được dùng đến khả năng ấy vì nó không có một ki-lô nào để chống lại những
khả năng hiểu biết thông thái, thánh thiện và không thể sai lầm
[của các bề trên như giáo hoàng, tổng giám mục...TCN].
Một giờ sau, với những dòng nước mắt hối hận, tôi quỳ trước Cha Daule trong
phòng xưng tội, xưng cái tội to lớn của tôi là trong một lúc, tôi đã nghi
ngờ khả năng của các linh mục có thể biến một mẩu bánh thành thân thể của
Thiên Chúa. Ông ta đã tha tội cho tôi, và để trừng phạt tôi, ông cấm tôi
không được nói một lời nào về số phận đáng buồn của Thiên Chúa [bị chuột tha
đi và ăn mất] mà ông ta đã tạo ra sáng nay; vì, ông ta nói: “Chuyện này
sẽ hủy diệt đức tin của những tín đồ công giáo Rô-ma chân thành nhất.”
(This would destroy the faith of the most sincere Roman Catholics.)
Vài Lời Kết:
Câu chuyện
rút gọn của linh mục Chiniquy chỉ có vậy nhưng tôi cho rằng như vậy kể cũng
đủ để cho chúng ta thấy rõ bản chất đức tin trong Ki Tô Giáo là như thế nào,
có thuộc loại mê tín hoang đường hay không, hay là một đức tin bắt nguồn từ
sự hiểu biết chân thật về các vấn đề? Tôi xin để quý độc giả tự mình nhận
định. Tuy nhiên, viết lên chuyện “Chúa Giê-su bị chuột tha đi và ăn” của
Linh mục Charles Chiniquy, tôi không hề có hi vọng là đức tin của các tín đồ
Công Giáo Rô-ma người Việt Nam sẽ bị hủy diệt vì đầu óc của họ đã bị hủy
diệt từ lâu rồi, phần lớn từ khi còn nhỏ, qua sự phối hợp của các linh mục
xứ và các bậc cha mẹ mà đầu óc cũng đã bị hủy diệt như họ.
Riêng đối
với tôi, sau khi tìm hiểu về vấn đề “bánh thánh” và đọc câu chuyện “chuột ăn
Chúa” ở trên của linh mục Charles Chiniquy, tôi không khỏi không có vài suy
nghĩ cá nhân. Tôi tự hỏi, khi một con chuột tha đi và ăn một cái bánh
thánh, và khi những con kiến tha đi và ăn những mảnh vụn của bánh thánh rơi
xuống đất, thì “mình thánh Chúa”, nghĩa là, theo Linh Mục Charles Chiniquy,
thân thể, máu, linh hồn, và thần tính của Chúa
[the body, blood, soul, and divinity of Christ]
trong thân thể chúng sẽ có tác dụng gì, có giống như đối với những tín đồ Ki
Tô Giáo hay không, và khi chúng chết đi thì “mình Thánh Chúa” trong chúng sẽ
trở thành cái gì? Bánh thánh mà chúng tha đi và ăn có gì khác biệt với bánh
thánh mà các tín đồ Ki Tô Giáo ăn? Bánh thánh mà chúng tự tha đi và ăn lấy
có gì khác biệt với bánh thánh mà vị linh mục bỏ vào miệng tín đồ? Vì đã
mang “mình Thánh Chúa” trong cơ thể, sau khi chết, chúng có được lên thiên
đường hay không? Nếu không thì tại sao? Phải chăng vì chúng chưa được “rửa
tội”? Nhưng Adam và Eve đâu có phải là “tổ tông” của loài người hay của
chuột và kiến? Vậy chúng đâu có mắc phải cái gọi là “tội tổ tông” mà
cần phải rửa tội? Hay vì chúng cần phải có đức tin giống như những tín đồ
Ki Tô Giáo cộng với “bí tích” ăn bánh thánh mới có thể lên được thiên
đường. Nhưng làm sao mà biết được chúng tin hay là không tin? Nếu không
tin tại sao chúng lại thích ăn điểm tâm bằng bánh thánh như linh mục
Chiniquy đã mô tả ở trên, biết rằng các Linh mục không bao giờ bỏ bánh thánh
vào miệng chúng? Tôi hi vọng ai đó, ít ra là thuộc giới chăn chiên thượng
thặng công giáo cỡ TGM Ngô Quang Kiệt, LM Đinh Xuân Minh hay Nguyễn Hữu Lễ
v..v.., hoặc giới trí thức Công giáo như Đỗ Mạnh Tri, Tú Gàn, Phan Thiết
v..v.., hay mấy ông mục sư A-na-mít trong mucsu.net có thể soi sáng cho tôi
những thắc mắc trên. Nếu sự soi sáng sáng thật và thỏa đáng thì tôi xin cúi
đầu đa tạ và do đó, rất có thể tôi sẽ bỏ thân phận làm người tự do, tự tu,
tự chứng trong Phật Giáo để đi làm tôi tớ hèn hạ cho Chúa như mấy ông mục sư
mít vẫn thường hãnh diện khoe như vậy trong trang nhà mucsu.net. Việc cải
đạo của tôi có xác suất vào khoảng 1 trên 25 triệu như mua vé số. Nhưng lâu lâu cũng
có người trúng số, vậy biết đâu một ngày nào đó tôi chẳng được ơn kêu gọi
của Chúa trực tiếp đến với tôi, và tôi sẽ bỏ đi đầu óc của mình để trở thành
một con chiên ngoan ngoãn, không phải của Chúa, mà của vị đại diện Chúa
(Vicar of Christ) trên trần và các linh mục của ông trong đó có các linh mục
mít ta chỉ lo truyền giống chứ không lo truyền giáo. Who knows! Just wait
and see!
Nhận định
sau đây của David Hume, một triết gia nổi tiếng của Tô Cách Lan (Scotland),
thay cho lời kết của bài khảo luận về “bánh thánh” này:
Trong tất cả các tôn giáo
thì tôn giáo vô lý và vô nghĩa nhất là tôn giáo mà những người hiến thân cho
Chúa, sau khi đã tạo ra Chúa, lại đi ăn thịt Chúa của họ.
(Of all religions, the most absurd and nonsensical is that whose votaries
eat, after having created, their deity.)
NHƯNG, tại
sao các bậc thông thái trong Ki Tô Giáo nói chung, vẫn duy trì cái trò bịp
bợm quái gở này? Để làm gì? Chắc các vị đó biết rõ hơn tôi và lẽ dĩ nhiên,
các tín đồ ở dưới thì chẳng biết gì.
Phụ Lục:
Fifty Years in the Church of Rome
By Father CHARLES CHINIQUY
http://www.biblebelievers.com/chiniquy/index.html
Chapter 8 : The First Communion
For the Roman
Catholic child, how beautiful and yet how sad is the day of his first
communion! How many joys and anxieties by turn rise in his soul when for
the first time he is about to eat what he has been taught to believe to be
his God! How many efforts has he to make, in order to destroy the
manifest teachings of his own rational faculties! I confess with deep
regret that I had almost destroyed my reason, in order to prepare myself for
my first communion. Yes, I was almost exhausted when the day came that
I had to eat what the priest has assured us was the true body, the true
blood, soul and divinity of Jesus Christ. I was about to eat Him, not in
a symbolical or commemorative, but in a literal way. I was to eat His flesh,
His bones, His hands, His feet, His head, His whole body! I had to
believe this or be cast for ever into hell, while, all the time, my eyes, my
hands, my mouth, my tongue, my reason told me that what I was eating was
only bread!
Has there
ever been, or will there ever be, a priest or a layman to believe what the
Church of Rome teaches on this dreadful mystery of the Real Presence? Shall
I say that I believed in the real presence of Jesus Christ in the communion?
I believed in it as all those who are good Roman Catholics believe. I
believed as a perfect idiot or a corpse believes. Whatever is essential
to a reasonable act of faith had been destroyed in me on that point, as it
is destroyed in every priest and layman in the Church of Rome. My reason as
well as my external senses had been, as much as possible, sacrificed at the
feet of that terrible modern god, the Pope! I had been guilty of the
incredibility foolish act, of which all good Roman Catholics are guilty I
had said to my intellectual faculties, and to all my senses, "Hush, you are
liars! I had believed to this day that you had been given to me by God in
order to enable me to walk in the dark paths of life, but, behold! the
holy Pope teaches me that you are only instruments of the devil to deceive
me!"
What is a man
who resigns his intellectual liberty, and who cares not to believe in the
testimony of his senses? Is he not acting the part of one who has no gift or
power of intelligence? A good Roman Catholic must reach that point! That was
my own condition on the day of my first communion.
When Jesus said, "If I had not come and spoken unto them they had not had
sin; but now they have no cloke for their sin....If I had not done among
them the works which none other man did, they had not had sin; but now have
they both seen and hated both Me and My Father" (John xv.22,24). He showed
that the sin of the Jews consisted in not having believed in what their eyes
had seen and their ears had heard. But behold, the Pope says to Roman
Catholics that they must not believe in what their hands undoubtedly handle
and their eyes most clearly see! The Pope sets aside the testimony most
approved by Jesus. The very witnesses invoked by the Son of God are
ignominiously turned out of court by the Pope as false witnesses!
As the moment
of taking the communion drew near, two feelings were at war in my mind, each
struggling for victory. I rejoiced in the thought that I would soon have
full possession of Jesus Christ, but at the same time I was troubled and
humbled by the absurdity which I had to believe before receiving that
sacrament. Though scarcely twelve years old, I had sufficiently accustomed
myself to reflect on the profound darkness which covered that dogma. I had
been also greatly in the habit of trusting my eyes, and I thought that I
could easily distinguish between a small piece of bread and a full-grown
man!
Besides, I
extremely abhorred the idea of eating human flesh and drinking human blood,
even when they assured me that they were the flesh and blood of Jesus Christ
Himself. But what troubled me most was the idea of that God, who was
represented to me as being so great, so glorious, so holy, being eaten by me
like a piece of common bread! Terrible then was the struggle in my young
heart, were joy and dread, trust and fear, faith and unbelief by turns had
the upper hand.
While that
secret struggle, known only to God and to myself, was going on, I had often
to wipe off the cold perspiration which came on my brow. With all the
strength of my soul I prayed to God and the Holy Virgin to be merciful unto
me, to help, and give me sufficient strength and light to pass over these
hours of anguish.
The Church of
Rome is evidently the most skillful human machine the world has ever seen.
Those who guide her in the dark paths which she follows are often men of
deep thought. They understand how difficult it would be to get calm, honest
and thinking minds to receive that monstrous dogma of the real corporal
presence of Jesus Christ in the communion. They well foresaw the struggle
which would take place even in the minds of children at the supreme moment
when they would have to sacrifice their reason on the altar of Rome. In
order to prevent those struggles, always so dangerous to the Church, nothing
has been neglected to distract the mind and draw the attention to other
subjects than that of the communion itself.
First, at the
request of the parish priest, helped by the vanity of the parents
themselves, the children are dressed as elegantly as possible. The young
communicant is clothed in every way best calculated to flatter his own
vanity also. The church building is pompously decorated. The charms of
choice vocal and instrumental music form a part of the fete. The most
odorous incense burns around the altar and ascends in a sweetsmelling cloud
towards heaven. The whole parish is invited, and people come from every
direction to enjoy a most beautiful spectacle. Priests from the neighbouring
churches are called, in order to add to the solemnity of the day. The
officiating priest is dressed in the most costly attire. This is the day on
which silver and gold altar cloths are displayed before the eyes of the
wondering spectators. Often a lighted wax taper is placed in the hand of
each young communicant, which itself would be sufficient to draw his whole
attention; for a single false motion would be sufficient to set fire to the
clothes of his neighbour, or his own, a misfortune which has happened more
than once in my presence.
Now, in the midst of that new and wonderful spectacle of singing Latin
Psalms, not a word of which he understands; in view of gold and silver
ornaments, which glitter everywhere before his dazzled eyes; busy with the
holding of the lighted taper, which keeps him constantly in fear of being
burned alive can the young communicant think for a moment of what he is
about to do?
Poor child!
his mind, ears, eyes, nostrils are so much taken up with those new, striking
and wonderful things that, while his imagination is wandering from one
object to another, the moment of communion arrives, without leaving him time
to think of what he is about to do! He opens his mouth, and the priest puts
upon his tongue a flat thin cake of unleavened bread, which either firmly
sticks to his palate or otherwise melts in his mouth, soon to go down into
his stomach just like the food he takes three times a day!
The first feeling of the child, then, is that of surprise at the thought
that the Creator of heaven and earth, the upholder of the universe, the
Saviour of the world, could so easily pass down his throat!
Now, follow those children to their homes after that great and monstrous
comedy. See their gait! Listen to their conversation and their bursts of
laughter! Study their manners, their coming in, their going out, their
glances of satisfaction on their fine clothes, and the vanity which they
manifest in return for the congratulations they receive on their fine
dresses. Notice the lightness of their actions and conversation immediately
after their communion, and tell me if you find anything indicating that they
believed in the terrible dogma they have been taught.
No, they have
not believed in it, neither will they ever do so with the firmness of faith
which is accomplished by intelligence. The poor child thinks he believes,
and he sincerely tries to do so. He believes in it as much as it is possible
to believe in a most monstrous and ridiculous story, opposed to the simplest
notions of truth and common sense. He believes as Roman Catholics
believe. He believes as an idiot believes!!
That first
communion has made of him, for the rest of his life, a real machine in the
hands of the Pope. It is the first but most powerful link of that
long chain of slavery which the priest and the Church pass around his neck.
The Pope holds the end of that chain, and with it he will make his victim
go right or left at his pleasure, in the same way that we govern the lower
animals. If those children have made a good first communion they will be
submissive to the Pope, according to the energetic word of Loyola. They will
be in the hands of the traveler they will have no will, no thought of their
own!
And if God
does not work a miracle to bring them out from that bondage which is a
thousand times worse than the Egyptian, they will remain in that state
during the rest of their lives.
My soul
has known the weight of those chains. It has felt the ignominy of that
slavery! But the great Conqueror of souls has cast down a merciful eye
upon me. He has broken my chains, and with His holy Word He has made me
free. May His name be for ever blessed.