Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Thờ Chúa
Charlie Nguyễn
http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_TCCG/VNcanthuchien.php
¿ trở ra mục lục | 2-8-2013
Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống
Hồi Giáo Của Những Đoàn Quân Chữ Thập
Tiếng La-tinh CRUX có nghĩa là Thánh Giá hoặc Chữ Thập, biểu tượng
của đạo Ki-tô. Từ chữ Crux phát sinh ra danh từ CRUSADE, có nghĩa là
cuộc viễn chinh của đoàn quân Công giáo từ Âu Châu kéo qua các nước
lân cận để tấn công những người Hồi giáo trong thời Trung cổ. Những
người lính trong đoàn quân viễn chinh Công giaó này đều mang huy
hiệu chữ thập ở phía trước ngựcvà phía sau lưng nên được gọi là Thập
Tự Quân (Crusaders). Suốt trong hai thế kỷ 11 và 13 (1096- 1291)
những đoàn quân Thập tự này đã gieo rắc biết bao kinh hoàng tang tóc
cho những người Hồi giáo Ả-rập. Hình ảnh tàn bạo mang rợ của đoàn
quân Công giáo Âu châu đã in sâu vào tim óc của thế giới Hồi giáo
nói chung và của những người Hồi giáo Ả-rập nói riêng. Đến nỗi ngaỳ
nay, người Hồi giáo đã đồng hóa Công giáo với chủ nghĩa thực dân đế
quốc. Mỗi khi lên án hành động bành trướng bá quyền củaTây phương họ
thường tố cáo hành vi đó là “Tân chiến tranh Thập tự” (Néo-Crusade).
Cổ
nhân thường nói “ôn cố tri tân”, chúng ta hãy coi lại lịch sử của
hai thế kỷ chiến tranh đẩm máu do những đoàn quân chữ Thập Công giáo
La-mã phát động chống những người Hồi giáo ở Trung đông trong hai
thế kỳ 11 và 13. Những bài học lịch sử sẽ soi sáng cho chúng ta
trong nhiều vấn đề thời cuộc hôm nay và cũng để hiểu thêm thực chất
của một tôn giáo thường hay vỗ ngực tự xưng là đạo của “Công bằng
Bác ái”!. Để trình bày về đề tài này, chúng tôi tham khảo các tài
liệu sau đây:
1.
The Crusades, by Brenda Staleup, Green haven Press xuất bản 2000.
2.
The Oxford Illustrated History of Medieval Europe, by George Holmes,
Oxford University press 1986.
3.
The Cross and the Crescent, by Malcoms Billing Sterling Publication
1988.
Nguyên Nhân Chiến Tranh.
Có
hai nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thảm khốc giữa hai tôn giáo anh
em (fraternal faiths) kéo dài 195 năm và sự tranh chấp lãnh thổ giữa
hai tôn giáo (nhưng thực chất cả hai đều là đế quốc).
I.
Sự Xung Đột Về Giáo Lý
Mặc dầu kinh Koran là kinh thánh của đạo Hồi (Koran: The Muslim
Gospel) công nhận Jesus là vị tiên tri đứng hàng thứ hai sau
Muhammad, nhưng Koran phủ nhận tính cách thiêng liêng của Jesus.
Koran gọi các phép lạ của Jesus là những trò học mót ở Babylon
(magic and such things as come down at babylon) – Koran 2:102). Kinh
Koran hoàn toàn phủ nhận tội tổ tông , hoàn toàn phủ nhận cái chết
của Jesus trên thập giá. Koran khẳng định người Do thái không giết
và không đóng đinh Jesus (The Jews killed him not, nor cruxified him
– Koran 4:157).
Muhammad thù ghét Công giáo vì đạo này thờ ảnh tượng, vi phạm điều
răng thứ hai của Maisen. Một điều nữa mà Muhammad ghét cay ghét đắng
là thuyết Thiên Chúa ba ngôi của đạo Ki-tô. Đối với Muhammad, Ki-tô
là đạo Đa thần giáo, đi ngược là chủ thuyết độc thần của tổ phụ
Abraham. Hồi giáo và Do thái giáo là hai đạo độc thần đúng nghĩa vì
chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất (Monotheist Religion = Only-One-God
Religion). Công giáo La-mã thờ ảnh tượng, thờ ba Thiên Chúa, quá tôn
sùng bà Maria và các thánh do họ tự phong... do đó Công giáo là một
tà đạo đa thần chứ không phải là đạo Thiên Chúa đúng nghĩa.
Muhammad cũng ghét đạo Do thái vì Do thái gọi Thiên Chúa bằng số
nhiều Elohim (số nhiều của El), đạo Hồi gọi Thiên Chúa bằng số ít.
Danh từ El trong tiếng Ả-rập là Il. Đi liền với Il có chữ “ah” là
một mạo tự (article) trong ngôn ngữ Ả-rập. Vì thế Il thành Il-ah.
Khi chuyển sang Anh ngữ, các chữ I thành A, vì thế Il-ah thành ALLAH
(cũng như Ibrahim trong tiếng Ả-rập đổi thành Abraham trong tiếng
Anh).
Muhammad gọi chung những người thao đạo Do thái và Ki-tô giáo là
“những tín đồ của các sách Thánh kinh” (The people/ the followers of
the Books) hoặc gọi chung là “những kẻ không tin Thiên Chúa Allah”
(The unbelievers). Riêng với các tín đồ Công giáo, Muhammad gọi là
“những kẻ thời thần tượng” (The idolers).
Trong kinh Koran, Muhammad công khai kêu gọi các tín đồ Hồi giáo
phải chiến đấu chống lại những kẻ theo đạo Do thái, đạo Ki-tô và tất
cả những ai không tin theo đạo Hồi. Trong vùng kiểm soát của Hồi
giáo, bất cứ một ai ngoại đạo phải nạp thuế thân và phải chấp nhận
một địa vị thấp kém trong xã hội (Fight those who do not believe God
and His Messenger, those who among the People of the Books, fight
them until they personally pay tax on non-Muslims ackowledging their
inferiority – Koran, Sura 9).
Những người Công giáo thờ ảnh tượng bị coi là hạng người dơ bẩn và
bị cấm vào các đền thờ Hồi giáo (The idolers are nothing but
unclean, so they shall not approach the sacred mosque – Koran 9:28).
Các người Do thái và Ki-tô bị cấm không được xây nhà thờ mới hay sửa
chữa nhà thờ cũ, cấm đeo thánh giá trước ngực, không được đọc kinh
to tiếng và cấm ngặt rước kiệu trên đường phố. Người Ki-tô giáo bị
coi là đa thần giáo có thể bị sát hại bất cứ lúc nào. Kinh Koran
chương 9 câu 5 đã quy định: “Khi những tháng thánh qua đi, các ngươi
hãy giết những kẻ đa thần bất cứ nơi nào bắt gặp chúng, hãy phục
kích để bắt chúng” (When the sacred month have passed away then kill
the polytheists wherever you saw them, take them captives and wait
for them in every ambush – Koran Sura 9: verse 5).
Người Tây phương gọi những câu thơ nói trên là “những câu thơ của
đao binh” (The verse of the swords). Trong thực tế, những câu thơ
của kinh Koran đã tạo nên sự dũng mãnh của những đoàn quân Hồi giáo
trong công cuộc mở mang nước Chúa Allah (The Kingdom of Allah). Chỉ
trong một thế kỷ, đoàn quân Hồi giáo đã chiếm hết Bắc Phi, Trung
Đông, một phần Âu Châu và tràn tới Trung Á, tới tận biên giới Trung
Quốc. Nhưng đồng thời những câu thơ nói trên cũng đã gây hận thù sâu
sắt giữa các tôn giáo anh em và cũng là một trong những nguyên nhân
dẫn đến các cuộc thánh chiến.
II.
Sự Tranh Chấp Lãnh Thổ Giữa Hai Tôn Giáo
Từ
thế kỷ thứ nhất cho đến thế kỷ thứ 6, toàn vùng Bắc Phi và Trung
Đông thuộc về lãnh thổ của các giáo phái Ki-tô. Nhưng đến đầu thế kỷ
thứ 7, đạo Hồi xuất hiện với sự bành trướng với tốc độ vũ bão chưa
từng thấy khiến cả thế giới phải ngạc nhiên.
Chỉ trong 10 năm kể từ khi Muhammad qua đời, quân Hồi chiếm trọn bán
đảo Ả-rập bao la (bằng 4 lần tiểu bang Texas hoặc 8 lần Việt Nam)
chiếm các nước Iraq, Syria, Palestine, Ai-cập và phía tây của nước
Iran. Hai năm sau, quân Hồi chiếm Bắc Phi, Carthage và Hy-lạp.
Qua đầu thế kỷ thứ 8 (711-716) quân Hồi dám đánh chiếm một nước Âu
châu nổi tiếng sùng đạo Công giáo, đó là nước Tây-ban-nha. Trong
thời gian đó, kỵ binh Hồi giáo chiếm trọn Ba-tư (Iran) và từ đây
xuất quân chiếm trọn các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm
trọn vùng Bắc Ấn (tức Pakistan va Afghanistan ngày nay) đánh qua
biên giới Trung Quốc và đụng trận với quân nhà Đường trên sông Talas
năm 751.
Ki-tô giáo bị mất rất nhiều đất và đồng thời cũng mất rất nhiều tín
đồ. Tuy nhiên, trong thời gian đó đế quốc La-mã và Ki-tô giáo bị lâm
vào tình trạng chia rẽ và suy yếu nên không dám thực hiện một hành
vi trả đũa nào cả!
Qua đầu thế kỷ 11, Ki-tô giáo chia thành hai giáo phái vời hai giáo
đô thù nghịch nhau. Đó là Công giáo La-mã (Roman Catholic) đóng đô
tại Vatican và Giáo hội Chính thống giáo (The Eastern Orthodox
Church) đóng đô tại Byzantine, còn được gọi là Constantinople tức
Istambul, thủ đô của Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay.
Năm 1091, quân Hồi tấn công Byzantine. Hoàng đế Alexius Comnenus
đứng đầu giáo hội Chính thống giáo tuy không ưa Công giáo nhưng cũng
đành phải văn thư chính thức yêu cầu Giáo hoàng La-mã đem quân đến
cứu giúp. Vatican lúc đó muốn giúp Vatican thì ít nhưng điều quan
tâm hàng đầu là tái chiếm thánh địa Jerusalem để giáo dân toàn Âu
Châu được tự do đến đó hành hương. Mối thù lớn nhất của dân Công
giáo Âu Châu đối với đạo Hồi là trong thời gian chiếm đóng
Jerusalem, quân Hồi đã triệt phá Nhà thờ Kính Mộ Chúa (Church of the
Holy Sepulchure). Tội triệt phá nhà thờ Kính Mộ Chúa đã trở thành lý
do chính cho cuộc thánh chiến trả thù của Công giáo. Lý do thứ hai
được nêu lên là vụ người Hồi giáo hành hạ những người Công giáo Âu
châu đi hành hương ở Jerusalem năm 1076. Những người di hành hương
sống sót trở về Âu châu đã kể nhiều chuyện về sự ngược đãi của người
Hồi khiến cho dân Âu châu rất phẩn nộ.
Tu
sĩ Peter Hermit là người hết sức cuồng nhiệt vận động quần chúng tín
đồ Công giáo ở các nước Âu châu tham gia cuộc thánh chiến chống Hồi
giáo. Các giáo dân Âu châu đa số thời đó đa số là những nông dân
thất học và cuồng tín nhất là giới thanh thiếu niên, trong số đó có
rất nhiều trẻ vị thành niên đã mù quáng ghi tên tham gia vào đoàn
quân chữ thập. Lịch sử Âu châu đã gọi đoàn quân chữ thập này là
“Đoàn quân nông dân” hoặc “Đoàn quân con nít” (Popular Crusade – The
Children’s Crusade). Vào thời kỳ đó, Âu châu đang ở trong bóng tối
tinh thần (The Dark Age) nên từ vua tới dân, từ tu sĩ đến các bổn
đạo, tất cả đều không có một sự hiểu biết nào về Hồi giáo, không có
một chút kiến thức nào về tình hình chính trị xã hội và địa thế của
các nước phương Đông. Sự thiển cận về kiến thức và tinh thần cuồng
tín tôn giáo đã mau chóng biến việc tái chiếm Jerusalem khỏi tay
quân Hồi thành một khát vọng thiêng liêng vô cùng cuồng nhiệt. Chẳng
mấy chốc đã có hàng trăm ngàn nông dân ghi tên, trong số đó có ít
nhất là 60.000 trẻ vị thành niên !
Cuộc Thập Tự Chiến Thứ Nhất (1096-1099)
Như trên đã trình bày, sự vận động cho cuộc viễn chinh đầu tiên của
đoàn quân Thập tự khởi đầu từ những năm 1091 do sự cầu viện của
hoàng đế Byzantine, nhưng mãi tới năm 1096, tức 5 năm sau mới thực
hiện được.
Đoàn quân Thập tự gồm hàng trăm ngàn người được điều khiển bởi các
hiệp sĩ chuyên nghiệp, xuất phát từ hai nước Ý và Pháp. Đoàng quân
của Pháp chia làm hai nhánh: nhánh quân ở miền Bắc tập trung tại
Normandie, nhánh quân ở miền Nam tập trung tại Toulouse. Cả hai
nhánh này tiến quân thẳng tới Constantinople.
Trên đường hành quân, khi đi ngang qua đồng bằng sông Rhin, đoàn
quân Thập tự của Pháp đã lùng bắt những người Do thái rồi đưa họ ra
bãi hoang chém giết tập thể. Hiện nay tại những vùng đồng bằng sông
Rhin thuộc nước Đức có nhiều nơi vẫn còn ghi dấu bằng những bia đá
ghi tên những người Do thái bị sát hại trong dịp này.
Vào mùa thu năm 1096, một đạo quân thứ ba của Pháp tập trung tại
Clairmont đi thẳng đến Rome để kết hợp với 50.000 quân Ý. Sau đó
liên quân Pháp-Ý cũng kéo đến Constantinople. Vua và triều đình
Byzantine vô cùng ngạc nhiên khi thấy đoàn quân Thập tự chỉ là một
đám nông dân rách rưới bẩn thỉu và có quá nhiều trẻ vị thành niên
ngơ ngác. Vua Byzantine lập tức ra lệnh cho quân đội ngăn chận không
cho đoàn quân ô hợp này vào thành phố. Tuy nhiên, nhà vua cung cấp
cho đoàn quân này số lương thực, lương thực và cho quân đội áp tống
đám Thập tự quân này đến Boporus thuộc miền Nam Thổ-nhĩ-kỳ.
Trong
lúc đoàn quân này trú đóng tại Boporus thì bị quân Hồi giáo
Thổ-nhĩ-kỳ bất thần tấn công giết chết rất nhiều. Đoàn quân còn laị
thì tiếp tục đi tới Anatolia, một thành phố thuộc phần đất Á châu
của Thổ-nhĩ-kỳ rồi đến bao vây thành phố Hồi giáo Antioch ở phía cực
nam nước Thổ. Trong lúc đang bao vây thành Antioch, đoàn Thập tự
quân bất ngờ bị quân Hồi giáo Iraq kéo đến bao vây vòng ngoài từ
ngày 21-10-1097 đến ngày 3-6-1098. Đoàn Thập tự quân bị kẹt ở giữa
vì thành Antioch quá kiên cố không thể xâm nhập, trong khi đó đoàn
quân Iraq lại quá hùng hậu nên Thập tự quân không thể phá được vòng
vây. Sau hơn 5 tháng bị vây hãm quá chặt, Thập tự quân bị cạn hết
lương thực nên bị chết đói rất nhiều. Cuối cùng, ngày 3-6-1098, đoàn
quân Thập tự buộc lòng phải chấp nhận một trận quyết tử để mở đường
máu phá vỡ vòng vây của quân Hồi giáo Iraq.
Đoàn quân chữ Thập tiếp tục lên đường trong hơn một năm mới tới được
Jerusalem. tại thành phố thánh địa này lúc đó có rất ít quân Hồi
phòng thủ nên đoàn quân Thập tự quân đã chiếm thành phố thánh địa
một cách dễ dàng vào ngày 15-7-1099. Sau khi chiếm Jerusalem, Thập
tự quân ra lệnh cấm người Hồi giáo không được leo lên tháp cao ở đền
thờ để kêu gọi mọi người đọc kinh, không được ăn chay trong thánh
Ramadan, không được xây đền thờ mới và cấm sửa chữa đền thờ cũ. Tất
cả những tín đồ Công giáo cải sang đạo Hồi đều bị tử hình.
Chỉ trong vòng vài tuần lễ đầu chiếm đóng Jerusalem, đoàn Thập tự
quân tàn sát những đàn ông Do thái và ngưởi Hồi giáo Ả-rập tổng cộng
lên đến 30.000 người. Thánh địa của cả ba tôn giáo lớn biến thành
một nhà xác khổng lồ. Lý do là số người chết nhiều hơn số quân số
của Thập tự quân tại Jerusalem, và không có ai lo chuyện chôn người
chết cả. Cho tới 5 tháng sau, các cống rãnh và các thung lũng ở
jerusalem vẫn còn sặc mùi hôi thối của các xác chết.
Cuộc chiến tranh thứ nhất của Thập tự quân Công giáo La-mã (The
First Crusade) là một ấn tượng ghê tởm nhất đối với người Hồi giáo
và Do thái giáo, và là một bài học kinh nghiệm nhớ đời cho toàn thế
giới Hồi giáo về sự man rợ khủng khiếp của bọn tín đồ Công giáo
cuồng tín.
Tuy nhiên, cũng do cuộc chiến tranh này mà người Âu châu đã có cơ
hội hiểu biết về thế giới Ả-rập và Hồi giáo. Họ không ngờ thế giới
Hồi giáo quá rộng lớn, bao trùm một vùng lãnh thổ từ Bắc Phi qua Âu
châu tới tận Viễn Đông. Họ không ngờ Hồi giáo cũng là một nền văn
minh, trong đó có nhiều bộ môn khoa học, toán học, triết học tiến bộ
vượt xa Âu châu. Cũng từ đó, người Âu châu đã dần dần tự giác ngộ để
tự giải thoát ra khỏi Thời đại Đen tối (The Dark Age).
Về
thành tích giết người tàn bạo của Thập tự quân tại jerusalem trong
những ngày đầu của cuộc thánh chiến hiện nay vẫn còn một chứng tích
lịch sử độc đáo. Đó là bức thư của vị tướng tổng chỉ huy Thập tự
quân gửi từ Jerusalem về Vatican để báo cáo các tin mừng chiến thắng
lên Giáo hoàng Urban II. Bức thư này hiện được lưu trữ tại Văn khố
của Tòa thánh. Trong thư có đoạn viết như sau: “Đức thánh cha có
biết chúng con đã đối xử với kẻ thù của chúng ta ở Jerusalem ra sao
không? Tại cổng thành Solomon và trong Đền thánh, đoàn kỵ binh của
chúng con phải đi qua những cũng máu dơ bẩn của quân Hồi giáo
Saracenes ngập cao đến đầu gối của những con ngựa”. (‘Deceptions and
Myths of the Bible’, by Lloyd Graham, trang 462).
Kết quả lớn nhất của cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân chữ thập
là sự hình thành một vương quốc trực thuộc Vatican. Vương quốc này
trải dài 800km dọc theo bờ biển Địa Trung Hải mang tên “Vương quốc
La-tinh Jerusalem” (Latin Kingdom of Jerusalem) bao gồm: Hai tỉnh
Antioch và Edessa ở phía đông nam Thổ-nhĩ-kỳ, nước Syria, nước
Liban, xứ Judea và xứ Gallilee, trong đó có thành phố thánh địa
Jerusalem.
Tòa thánh Vatican trực tiếp cai trị bằng cách phong vương cho người
đứng đầu vương quốc này. Nhưng thay vì gọi là “vua” của vương quôc,
toà thánh gọi là “Người bảo vệ Mộ Chúa” (Protector of the Holy
Sepulchere). Vương quốc La-tinh Jerusalem tồn tại được 88 năm (từ
1099 đến 1187) qua 7 đời vua do Vatican chọn lựa và tấn phong. Trong
88 năm cai trị vương quốc Jerusalem, quân Thập tự đã tàn sát rất
nhiều người Hồi giáo và Do thái giáo, bất kể họ là người già, phụ nữ
hay trẻ em. Quân Thập tự cũng xây cất rất nhiều phaó đài và lâu đài
phòng thủ kiên cố để bảo vệ vương quốc, đến nay vẫn còn những di
tích lịch sử để lại tại các nước Trung Đông dọc theo bờ biển Địa
Trung Hải.
Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Hai (1147-1149)
Nguyên nhân dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ hai (The Second Crusade)
là do biến cố quân Hồi giáo thuộc giáo phái Sunni từ các nước Ả-rập
và Thổ-nhĩ-kỳ tấn công tái chiếm tỉnh Edessa thuộc Vương quốc
La-tinh Jerusalem. Để thực hiện quyết tâm phục thù, Vatican ra lệnh
cho vua Pháp là Louis VII và vua Ý là Conrad III phối hợp với nhau
tổ chức cuộc Thập tự chinh thứ hai. Năm 1147, Liên quân Pháp-Ý trong
đoàn quân chữ thập lên đướng đến Thổ-nhĩ-kỳ để chiếm lại Edessa
nhưng đã hoàn toàn bị đánh bại. Tàn quân rút chạy về phía nam thuộc
lãnh thổ Liban và Syria. Đến năm 1149, toàn bộ đám tàn quân này bị
quân Hồi tiêu diệt tại Damacus (thủ đô Syria ngày nay).
Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Ba (1190-1192)
Đối với Do thái giáo và Ki-tô giáo thì Jerusalem là thánh địa duy
nhất củahọ. Đối với người Hồi giáo thì thánh địa quan trọng nhất là
Mecca (thủ đô của nước Ả-rập Saudi). Thánh địa thứ hai là Medina,
một thành phố cách thủ đô Mecca 250 dặm về phía bắc. Và Jerusalem là
thánh địa thứ ba của Hồi giáo vì tương truyền rằng Muhammad đã lên
trời từ thành phố này.
Quân Thập tự của Vatican chiếm Jerusalem năm 1096 là một kỷ niệm ô
nhục và đau đớn cho thế giới Hồi giáo. Người Hồi giáo đã phải nuốt
hận chịu đựng trong gần một thế kỷ mới có cơ hội phục thù. Cái nhân
của cơ hội phục thù là sự xuất hiện của một nhân vật lừng danh thế
giới, đó là vị tướng bách chiến bách thắng Saladin (1137-1193) gốc
người Kurd theo giáo phái Sunni. Ông được dân Ai-cập và Syria tôn
lên làm vua (Sultan). Nhân vật Saladin trở nên một nhân vật huyền
thoại trong nhiều tác phẩm văn chương của các nước Âu châu thời đó.
Quả thật, Saladin đã thu phục được nhân tâm của nhiều dân tộc theo
đạo Hồi. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân Hồi đã tái chiếm Jerusalem
và nhiều phần đất khác của vương quốc La-tinh vào năm 1187. Toàn thế
giới Hồi giáo Ả-rập vui mừng vì thánh địa thứ ba đã được tái chiếm
và danh dự của Hồi giáo đã được phục hồi.
Nỗi vui mừng chiến thắng của Hồi giáo càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau
của Vatcian và Giáo hội Công giáo cáng thấm thía và ê chề bấy nhiêu.
Do rút tỉa của những kinh nghiệm thất bại trước đây, lần này Vatican
chuẩn bị chu đáo hơn với sự hội ý của ba ông vua đầy quyền lực tại
Âu châu là vua Pháp, vua Đức và đặc biệt là vua Anh Richard I –
người được mệnh danh là “Richard Trái tim Sư tử” (Richard The
Lion-Hearted). Cũng xin nói thêm đây là Giáo hội Công giáo Anh tách
rời khỏi giáo quyền Vatican do vua Henri VIII chủ xướng vào năm
1534. Trước đó, các vua Anh đều thần phục giáo quyền Vatican như hầu
hết các vua khác ở Âu châu.
Cuộc Thập tự chinh thứ ba có tới 3 hoàng đế Âu châu điều khiển nên
các sử gia thường gọi cuộc Thập tự chinh này là “Cuộc Thập tự chinh
của các vua” (The Crusade of the Kings). Vua Anh đích thân điều
khiển cuộc viễn chinh từ 1190 cho đến khi chiến dịch kết thúc vào
năm 1191. Trong hai năm chinh chiến, đoàn quân chữ thập tái chiếm
hầu hết lãnh thổ của Vương quốc La-tinh Jerusalem. Nhưng thành phố
quan trọng nhất là thánh địa Jerusalem thì lại không chiếm được.
Quân Hồi chận đứng đoàn quân chữ thập của Richard I tại thành phố
Acre ở phía bắc Jerusalem. Trong thời gian trú đóng tại Acre
(1191-1192) vua Anh Richard ‘The Lion-Hearted’ đã ra lệnh chém đầu
tập thể trên 3000 người Hồi giáo Ả-rập. Vụ này đã đi vào lịch sử Hồi
giáo như một bằng chứng về tội ác diệt chủng của Giáo hội Công giáo
La-mã (The Cross and the Crescent, by Malcom Billing, trang 116).
Hiện nay, tại thư viện Quốc gia của Pháp có lưu trữ một bức họa thời
Trung Cổ vẽ cảnh vua Richard I ngồi trên khán đài chứng kiến đoàn
quân thập tự chém đầu tập thể những người Hồi giáo.
Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Tư (1201-1204)
Giáo hội Công giáo La-mã rất thù ghét Giáo hội Chính thống giáo là
một giáo hội Ki-tô tách rời khỏi giáo quyền Vatican vào giữa thế kỷ
11. Trong thời gian thập tự quân chiếm đóng Jerusalem, các tín đồ
đạo Chính thống ở Âu châu bị cấm không được hành hương đến thánh
địa. Các giáo dân và tu sĩ đạo Chính thống tại Jerusalem đều bị
ngược đãi tàn tệ. Đó chính là những lý do khiến cho hoàng đế
Byzantine và Giáo hội Chính thống không thể ngồi yên trước sự lộng
hành của Vatican. Để tránh bị lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”,
hoàng đế Byzantine và Giáo hội Chính thống thương thuyết với vua Hồi
giáo Thổ-nhĩ-kỳ, kết quả hai bên đạt tới việc ký kết hòa ước cam kết
không gây chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau.
Hòa ước Byzantine – Thổ-nhĩ-kỳ làm cho mối bất hòa giữa Vatican và
Chính thống giáo càng trở nên sâu sắc. Bọn diều hâu ở Âu châu lúc đó
là các hiệp sĩ (Knights) trong những nước Công giáo cuồng tín đã lập
những kiến nghị yêu cầu tòa thánh Vatican phát động cuộc Thập tự
chinh thứ tư để tiêu diệt đế quốc Byzantine và Chính thông giáo.
Cuộc viễn chinh lần này được Vatican uỷ nhiệm cho các thủ lãnh hiệp
sĩ Ý và Đức thực hiện.
Trên danh nghĩa, cuộc Thập tự chinh thứ tư nhằm trừng phạt Byzantine
và Chính thống giáo nhưng mục tiêu chính là để tiêu diệt một đồng
minh tương lai của Hồi giáo. Cuộc chiến kéo dài trong 3 năm từ 1201
đến 1204, đoàn quân thập tự chiếm trọn lãnh thổ đế quốc Byzantine.
Vatican đặt tên cho lãnh thổ này là “Đế quốc La-tinh
Constantinople”. Vatican chia đế quốc này thành nhiều thái ấp
(feuds) và phong chức lãnh chúa cho các hiệp sĩ có công để cai trị
các thái ấp đó. Vatican đã biến toàn vùng đế quốc Byzantine xưa
thành một xã hội phong kiến. Các lãnh chúa thu thuế của dân và trích
ra một phần để nộp cho Vatican. Đế quốc La-tinh Constantinople tồn
tại được 57 năm (1204-1261).
Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Năm (1217-1221)
Cuộc Thập tự chinh thứ năm không có một nguyên nhân chính trị hay
tôn giáo nào mà hoàn toàn do sự bốc đồng của vua Andrew nước
Hungary. Hungary chì là một nước nhỏ nằm ở giữa châu Âu. Vua Andrew
là người cuồng tín cà có quá nhiều ảo vọng quyền lực. Ông ta đã
không lượng trước sức của mình, tự ý thành lập một đạo quân thập tự
rồi kéo quân đến tấn công một nước xa xôi là Ai-cập. ông ta may mắn
thành công trong việc chiếm thành phố Dannietta của Ai-cập. Người
Ai-cập nhân danh Hồi giáo thương thuyết với Andrew là nếu nhà vua
chịu trả lại thành phố Dannietta cho Ai-cập thì Hồi giáo sẽ trả lại
Jerusalem cho Giáo hội Công giáo. Vua Andrew đã kiêu hãnh bác bỏ đề
nghị này và kéo quân tiến đánh thủ đô Cairo của Ai-cập. Quân Hồi
giáo Ai-cập hết sức phẩn nộ đã mãnh liệt phản công tiêu diệt hoàn
toàn quân xâm lược của Andrew vào năm 1221.
Cuộc
Thập Tự Chinh Thứ Sáu (1228-1229)
Cuộc Thập tự chinh lần này do Vatican giao cho vua Đức Frederic II
thực hiện để trả thù cho Andrew. vatican đã cấp cho vua Frederic một
ngân khoản rất lớn để võ trang thật hùng hậu cho đoàn quân thập tự.
Tuy nhiên, vua Frederic là một nhà quân sự bất tài, đã phạm phải
những lỗi lầm nghiêm trọng về chiến thuật nên toàn bộ đoàn quân chữ
thập mới đặt chân lên đất Ai-cập đã bị tiêu diệt. Riêng bản thân vua
Frederic II bị quân Hồi giáo Ai-cập bắt sống. Vatican đã phải trả
một số tiền rất lớn để chuộc mạng cho Frederic, y được quân Hồi
phóng thích cho về nước an toàn.
Cuộc Thập Tự Chinh Cuối Cùng (1248-1254)
Lý
do dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ 7 là vụ quân Hồi định chiếm thánh
địa Jerusalem vào năm 1244. Vatican trao nhiệm vụ tổ chức cuộc thánh
chiến cho vua Pháp Louis IX. Nhà vua tuân lệnh và nhận tiền của
Vatican chuẩn bị tổ chức cuộc viễn chinh thập tự lần thứ 7 trong
vòng 4 năm.
Năm 1248, vua Louis IX đích thân chỉ huy cuộc viễn chinh , kéo quân
qua các nước Syria, Liban, Palestine... đi tới đâu đều bị quân Hồi
phục kích tấn công đến đó. Cuộc chiến dai dẳng không phân thắng bại,
khiến binh sĩ vô cùng chán nản. Sáu năm sau, đoàn quân thập tự vẫn
không tời được Jerusalem. Đến năm 1254, quân Hồi tổng phản công khắp
nơi khiến cho đoàn quân thập tự của Louis IX phải bỏ chạy, những kẻ
sống sót tìm đường trở lại Âu châu.
Đến năm 1291, quân Hồi chiếm lại tất cả những phần đất đã mất về tay
đoàn quân chữ thập trước đây, chấm dứt hoàn toàn Vương quốc La-tinh
Jerusalem sau 195 năm tồn tại. Cũng xin nói thêm ở đây là trong lịch
sử các cuộc viễn chinh thập tự có hai vua Pháp tên Louis tham dự.
Vua Louis VII bị thất bại nhục nhã trong cuộc thập tự chinh lần thứ
hai (1147-1149) và vua Louis IX bị thất bại trong cuộc thập tự chinh
cuối cùng (1248-1254). Tuy nhiên, Louis IX đã được lòng Vatican nên
ông này đã được Vatican phong thánh. Vì thế, người Pháp không còn
gọi Louis IX là vua nữa mà gọi là Saint Louis. Tên của ông đã được
dùng để đặt tên cho một thành phố lớn tại Hoa Kỳ vì thành phố này có
nhiều người Mỹ gốc Pháp.
Những Điều Đáng Ghi Nhớ Về Các Cuộc Thập Tự Chinh
1. Vấn đề
có bao nhiêu cuộc Thập tự chinh?
Khi nghiên cứu về những cuộc viễn chinh của đoàn quân chữ thập thời
Trung cổ, chúng ta sẽ gặp nhiều tài liệu sử học đưa ra những con số
khác nhau về những cuộc chiến tranh của thập tự quân. Có tài liệu
nói là 6 trận, có tài liệu nói 7, 8 hoặc nhiều hơn. Lý do chính yếu
làm cho các sử gia bối rối không thể nêu lên con số chính xác về
cuộc chiến của thập tự quân kéo dài gần 2 thế kỷ (195 năm). Trong
thời gian dài dằng dặc đó đã xảy ra nhiều cuộc chuyển quân của thập
tự quân giả dạng làm những đoàn người đi hành hương hoặc đoàn người
đi buôn bán... nhưng sau đó vẫn có thể thực hiện được những cuộc tấn
công vào quân Hồi giáo. Một điều phức tạp hơn nữa là sau thế kỷ II,
nhiều giáo hội Công giáo Âu châu tách rời khỏi giáo quyền Vatican
như Chính thống, Anh giáo và Tin Lành. Vatican tổ chức những đoàn
quân cũng mang danh là Thập tự quân đi đàn áp những kẻ ly khai đó.
Trường hợp rõ nét nhất là cuộc Thập tự chinh lần thứ tư (1201-1204)
Vatican đánh chiếm hoàn toàn lãnh thổ đế quốc Byzantine của Chính
thống giáo. vậy có nên coi cuộc Thập tự chinh này là một trong những
cuộc thập tự chinh chống Hồi giáo hay không ? Nhiều sử gia trả lời
là có vì mục tiêu chính của Vatican là triệt hạ một đồng minh mới
của Hồi giáo.
2. Nhiều con cháu của Thập tự quân trở thành Hồi giáo
Những thập tự quân Âu châu đến Jerusalem trong cuộc viễn chinh đầu
tiên năm 1096, sau mấy chục năm định cư tại đây họ dần dần hiểu được
thực tại và tĩnh ngộ chứ không còn cuồng tín như trước. Vì tại
Jerusalem không có phụ nữ Âu châu nên lính thập tự đều lấy vợ Ả-rập
Hồi giáo. Từ thế hậ thứ hai, thứ ba trở đi, hầu hết con cháu của
thập tự quân đều thành người Hồi giáo. Do đó, khi xảy ra cuộc thập
tự chinh lần thứ hai (1147 tức 51 năm) và thập tự chinh lần thứ ba
(1190, tức sau lần thứ nhất gần một thế kỷ) những con cháu của thập
tự quân đợt đầu đã trở thành những người Âu lai Ả-rập Hồi giáo rất
thù ghét những người Âu đến sau. Họ là những chiến sĩ Hồi giáo chống
đối mãnh liệt nhất những đợt thập tự chinh 2 và 3.
3. Nạn buôn nô lệ
Các cuộc chiến tranh của thập tự quân tại Trung Đông đã làm cho tệ
nạn buôn bán nộ lệ trở thành một kỹ nghệ phát đạt. cả hai phe Hồi
giáo cũng như thập tự quân đều chú tâm bắt sống tù binh và bắt
thường dân ở các vùng chiếm đóng để đem bán tại các chợ ở khắp miền
Trung Đông. Các thiếu nữ đẹp luôn luôn là món hàng đắt giá nhất được
các nhà giàu hoặc các quan quyền mua về làm tì thiếp hay nô lệ tình
dục.
4. Giá máu quá đắt cho một chuyện hoang đường
Trong suốt năm 1095, Giáo hoàng Urban II đi khắp các nước Công giáo
Âu châu kích động quần chúng tín đồ đầu quân tham gia đoàn quân thập
tự hoặc đóng góp tiền bạc để tài trợ cho cuộc chiến thần thánh nhằm
bảo vệ ngôi mộ của Chúa. Những “ngôi mộ của Chúa” chỉ là chuyện hão
huyền vì nó chẳng bao giờ có. Nếu Chúa đã sống lại và lên trời thì
làm gì có mộ của Chúa? Còn nếu Chúa đã bị quân La-mã đóng đinh trên
thập giá thì theo luật của La-mã là mọi tử tội đã chết trên thấp giá
phải bị vứt xác ra bãi hoang cho kên kên và chó hoang ăn thịt. Trong
lịch sử La-mã tuyệt đối không có chuyện xác tử tội được trao cho
người nhà đem về chôn cất tử tế ở trong mồ. Jesus bị quân La-mã xếp
vào loại tử tội nguy hiểm chẳng lẽ lại được La-mã dành cho một đặc
ân ngoại lệ duy nhất là trao cho người nhà đem về chôn trong mồ hay
sao? Chuyện ngôi mộ của Jesus là một chuyện hão huyền của bọn đại
bịp. Nhưng câu chuyện hão huyền ấy đã làm đổ máu của ba triệu người,
trong số đó có ít nhất là 60 ngàn trẻ em.
Sử
gia Lloyd M. Graham đã viết về vấn đề này như sau: “Chúng ta hãy
quan tâm đến những cuộc chiến tranh của thập tự quân, đó là những
cuộc chiến tranh khủng khiếp nhằm bảo vệ “ngôi mộ thánh của Chúa” mà
nó chẳng bao giờ có, thế mà ba triệu người đã bị giết một cách vô
ích, trong số đó có sáu mươi ngàn trẻ em” (‘Deceptions and Myths
of the Bible’, trang 350).
Ba
triệu sinh mạng là giá máu quá đắt mà nhân loại đã phải trả cho một
chuyện hoang đường của tà đạo đa thần Công giáo La-mã. Ba triệu
người đã tức tưởi chui xuống những nấm mồ có thật chỉ vì một nấm mồ
không có thật của một người được mệnh danh là Chúa Cứu Thế !
Charlie Nguyễn
Thu 2002
Các chương khác trong sách:
- Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống Hồi Giáo ...
- Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo
- Hỏa Giáo Ba Tư là Tiền Thân ...
- JESUS dưới cái nhìn của Do Thái Giáo và Hồi Giáo
- Những tước hiệu bịp bợm của Giáo Hoàng
- Thiên Chúa Đang Được Động Viên ...
- Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine
- Truyền Thống Abraham Dưới Ánh Sáng ..
- Vai trò của chính quyền (Charlie Nguyễn)
- Việt Nam Cần Thưc Hiện Những Biện Pháp Mạnh.. (Charlie Nguyễn)
- Đạo Hồi là Đức Tin của Chiến Tranh và Bạo Lực
- Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến
- Ảnh Hưởng Thần Học Do Thái Giáo và Kitô Giáo ...
Trang Charlie Nguyễn
Trang Tôn Giáo