Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm
Charlie Nguyễn
http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_CGTBVT/CN_CGTBVT_3.php
¿ trở ra mục lục | 17 Aug 2007
Phần I : Ngày Tận Thế của Giáo Hội Satan
(tiếp theo)
3. TÍN ĐIỀU, HUYỀN THOẠI, ĐỨC MẸ,
VƯỜN ĐỊA ĐÀNG, THÁNH TÍCH.
Trước hết, tôi xin trình bày
sơ lược một số tín điều quan trọng về Đức
Mẹ:
Tín Điều Đức Mẹ Đồng
Trinh. Trong 300 năm đầu của kỷ nguyên,
chúng ta chưa có đạo Công Giáo mà chỉ có đạo Kitô nguyên thủy (Early
Christianity). Tín đồ Kitô Giáo nguyên
thủy không xây nhà thờ, không có ảnh tượng, không có hệ thống tu sĩ,
không tin Đức Mẹ đồng trinh. Họ tụ họp nhau trong các phòng
hội (sinagogues) để đọc Thánh Kinh và noi gương cuộc sống của Chúa
Jesus mà họ tin là Đấng Cứu Thế (Messiah/Christ). Kinh Thánh nói rõ
Chúa Jesus là con trai đầu của Đức Mẹ chứ không phải là con trai duy
nhất của Người. Trưởng nam Jesus có 4 em trai và
3 em gái. Em trai đầu của Chúa Jesus tên James làm giáo chủ
đạo Kitô tại Jerusalem vào giữa thế kỷ I. Đức Mẹ có tới 8 người con
làm sao còn đồng trinh được? Vì vậy tín điều Đức
Mẹ Đồng Trinh là một điều vừa phản tự nhiên vừa khôi hài quái đản.
Mọi vấn đề về đức tin Kitô trở nên phức tạp và gây ra các vụ tranh
cãi, thậm chí gây ra chiến tranh đẩm máu là do tham vọng của Đế Quốc
La Mã. Đứng đầu bởi Hoàng Đế Constantine The
Great.
Sau hơn 300 năm, các hoàng
đế La Mã ra sức diệt đạo Kitô nhưng đạo này vẫn bành trướng ra khắp
đế quốc. Điều nguy hiểm là những đoàn quân Hung Nô (Mông Cổ)
rất đông đảo và hùng mạnh đang đe dọa tràn ngập toàn đế quốc. Dân
chúng đa số theo đạo Kitô chẳng những
không chịu đi lính cho đế quốc La Mã mà còn sẵn sàng hợp tác với
địch. Do đó, năm 313, Constantine ra lệnh bãi bỏ việc cấm đạo và
chính thức công nhận đạo Kitô là đạo của toàn đế quốc. Ngày
20.5.325, Constantine ra lệnh triệu tập hội nghị các giám mục họp
tại Nicaea (Thổ Nhĩ Kỳ) để thống nhất các giáo phái Kitô bằng cách
buộc mọi người phải chấp nhận một bản tóm tắt các tín điều được gọi
là "Niềm Tin của các Tông Đồ" (The Creed of Apostles), sau gọi tắt
là Kinh Tin Kính. Trong đó có tín điều Thiên
Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ Đồng Trinh. Các
Giám mục và tín đồ Kitô nguyên thủy chống lại Công Đồng Nicaea đều
bị giết hoặc bị đưa đi đày. Riêng giáo
phái Arius bị giết tới 3000 người. Năm
340, đạo Kitô của Constantine được đổi tên thành Công Giáo
(Cattolica) nghĩa là Đạo Toàn Cầu (Universal Religion). Nhờ
quyết định cực kỳ khôn ngoan của Constantine, đế quốc La Mã đã tạo
lập được những đoàn quân thập tự (Crusaders) vừa đông đảo vừa cuồng
tín để bảo vệ đế quốc La Mã và có thể xử dụng để chinh phục toàn cầu
dưới khẩu hiệu "IN HOC SIGNO VINCES" (Dưới dấu hiệu thánh giá ta sẽ
chiến thắng toàn cầu!) Tự Điển Bách Khoa Công Giáo (The Catholic
Encyclopedia vol.4, p.300) đã viết rõ như sau: "Constantine ưu đãi
Kitô Giáo hoàn toàn vì lý do chính trị và ông ta đã được xem như là
một bạo chúa được ơn soi sáng để xử dụng tôn giáo vào mục tiêu thực
hiện chính sách của mình". (Constantine favored Christianity merely
from political motives and he has been regarded as an enlightened
despot who made use of religion only to advance his policy). Như vậy
rõ ràng một điều là các vua La Mã đã ra sức diệt đạo Kitô nguyên
thủy để lập ra đạo Công Giáo. Đạo Công Giáo là
Đạo của đế quốc La Mã nên danh từ Công Giáo La Mã thật là chính xác
(Roman Catholic). Đạo Công Giáo đã được lập nên trên nấm mồ
của Kitô Giáo nguyên thủy và hoàn toàn đi ngược lại giáo lý đạo Kitô
lúc ban đầu. Kitô giáo nguyên thủy là Độc Thần
Giáo đúng nghĩa vì chỉ thờ Một Thiên Chúa. Công Giáo La Mã thực sự là Đa Thần Giáo vì thờ
cả Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Maria và rất nhiều Thánh. Đây là một nhận định hết sức quan trọng về lịch
sử, nếu không chú ý đến những điều trình bày trên đây, ta sẽ dễ dàng
bị các sử gia Công Giáo lừa bịp.
Trong bài tựa cuốn Việt Nam Giáo Sử (trang
20), Linh Mục Phan Phát Huồn viết: "Máu – của các thánh tử đạo – đã
nhuộm đỏ đất nước Việt Nam yêu quí làm cho đất phì nhiêu tốt tươi.
Lấy võ lực đàn áp Công Giáo để tiêu diệt người Công Giáo thì chẳng
những Công Giáo không bị tiêu diệt mà còn sinh sản đông đúc
thêm...Các Hoàng đế La Mã muốn tiêu diệt đạo Công Giáo thì ngày nay
trên thủ đô Roma phất phới trước gió cách oai hùng quốc kỳ Vatican
tượng trưng cho quyền bính của giáo hội".
Sử gia Công Giáo Linh Mục Phan Phát Huồn đã
cao hứng ca ngợi những người cuồng tín tử đạo Việt Nam quá trớn mà
quên rằng các hoàng đế La Mã không thể nào tiêu diệt đạo Công Giáo!
Các hoàng đế La Mã chỉ tiêu diệt đạo Kitô nguyên
thủy để lập đạo Công Giáo mà thôi. Từ năm
313 trở đi, các hoàng đế La Mã chỉ lo củng cố chứ không bao giờ diệt
đạo Công Giáo cả. Xin đề nghị Linh Mục sử gia Phan Phát Huồn
hãy đọc kỹ lịch sử trước khi viết sách sử, dù là giáo sử thế giới
hay giáo sử Việt Nam!
Về việc "máu tử đạo làm cho đất phì nhiêu tốt
tươi" và làm cho "Công Giáo càng sinh sản đông đúc thêm" là do chính
sách diệt đạo của các vua chúa Việt Nam thiếu cương quyết và do thực
dân Pháp làm cho Công Giáo phát triển mạnh chứ chẳng phải máu tử đạo
có sức mạnh thiêng liêng nào. Nếu các vua chúa Việt Nam biết noi
gương như người Nhật đã làm vào năm 1638 thì liệu Công Giáo Việt Nam
có ngóc đầu lên nổi không? Nếu thực hiện được một chính sách diệt
đạo đúng đắn và khoa học thì máu tử đạo có "thiêng" đến mấy cũng
không cứu được sự tuyệt chủng nhục nhã của đạo Công Giáo!
Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam là con đẻ của thực dân Pháp. Các cố đạo thừa sai thường
nói: "Nước Pháp là trưởng nữ của Hội thánh và là Mẹ của giáo hội
Việt Nam". (France, fille ainée de L’Eglise et
Mère du Vietnam).
Đám trí thức Công Giáo mất gốc làm bộ yêu
thương tổ quốc Việt Nam ra tờ báo lấy tên là "Đất Mẹ", nhưng ai cũng
hiểu đó chẳng phải là đất Mẹ Việt Nam mà là đất "mẹ Tây" và của "bà
ngoại Vatican".
Công Giáo La Mã không còn
là Kitô giáo đúng nghĩa vì nó đã trở thành đa thần giáo. Việc
thờ kính Đức Mẹ Maria và việc bịa đặt các tín điều về Đức Mẹ hoàn
toàn do Công Giáo La Mã sáng tạo sau khi các hoàng đế La Mã đã diệt
gọn đạo Kitô nguyên thủy và xóa bỏ hầu hết các dấu vết của đạo này
vào đầu thế kỷ thứ tư. Các tín điều về Đức Mẹ
đều không có nền tảng thánh kinh, trái lại tất cả đều trắng trợn đi
ngược lại với chính các sách kinh Tân Ước là nền tảng của Kitô Giáo.
Suốt 16 thế kỷ, Công Giáo La Mã thống trị Âu Châu đã đưa lên dàn hỏa
tới 10 triệu người, đa số là giới trí thức, vì đã dám chỉ trích các
tín điều vô lý ấy. Giáo Hoàng Innocent III (1198-1216) sáng lập ra
hệ thống tòa án tôn giáo (Inquisition) để
xử tội mọi người chống đạo, bị ghép vào tội rối đạo (heretic) đều bị
đưa lên dàn hỏa thiêu sống. Trong lịch sử giáo hội Công Giáo có rất
nhiều giáo hoàng giết người, nhưng Giáo Hoàng Innocent III vượt trên
tất cả các giáo hoàng sát nhân khác vì tòa án dị giáo hiện diện khắp
Âu Châu trên 500 năm và sau này được đoàn quân xâm lược Tây Ban Nha
đưa sang áp dụng tại các quốc gia Trung Nam Mỹ thuộc địa của họ.
Sách Babylon Mystery Religion của Hội Nghiên
Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow Evanlistic Association, P.O. Box 124
Riverside, CA 92502) trang 86 viết: "Một số giáo hoàng can tội sát
nhân nhưng Innocent III vượt trên mọi giáo hoàng tiền nhiệm về tội
giết người... Trong hơn 500 năm, các giáo hoàng dùng tòa
án tôn giáo để duy trì quyền lực chống
lại bất cứ ai tỏ ra không đồng ý với các giáo điều của giáo hội La
Mã" (A number of the popes had committed murders, but Innocent III
surpassed all of his predecessors in killing... For over five
hundred years, popes used the Inquisition to maintain power against
those who did not agree with the teachings of the Roman Church).
Cũng chính Innocent III xúi giục vua Pháp xâm
lược nước Anh vì tại nước này đang có mầm mống chống giáo hoàng.
Điều này do sử gia Loyd M. Graham viết trong tác phẩm Deceptions and
Myths of the Bible như sau: Innocent III even urged the king of
France to invade England because something had happened there that
threaten the divine right of popes". Graham viết tiếp: "Đế quốc Công
Giáo luôn luôn là mục tiêu của giáo hội Công Giáo, một đế quốc bao
gồm toàn Âu Châu và Bắc Phi. Sự kiện này khởi đầu từ Constantine"
(Ever and always a Catholic Empire was the objective of the Catholic
Church, an empire with all Europe and Northern Africa for its
domain. It began under Constantine - page 469). Nhân tiện cũng xin
nói thêm về một điều mỉa mai của lịch sử là giáo dân Ái Nhĩ Lan đã
mấy thế kỷ chống nước Anh và Tin Lành để khôi phục lãnh thổ và cũng
để giữ vững lòng trung thành với Tòa Thánh La Mã.
Họ đâu có ngờ kẻ bán đứng nước họ cho Anh quốc
chính là Giáo Hoàng Adrian IV. Ngày nay các sử gia đã tìm
được thư của Giáo Hoàng Adrian IV viết
cho vua Anh, Henry II như sau: "Ái Nhĩ Lan và các đảo thuộc về nó
nay đã trở lại đạo, như vậy đã thuộc về giáo hội La Mã. Nếu nhà vua
muốn vào Ái Nhĩ Lan thiết lập luật pháp
để buộc mọi người tuân phục và bắt mọi người đóng thuế cho Tòa Thánh
thì ta sẵn sàng chuyển nhượng nước đó cho nhà vua" (Ireland and all
those Islands which have received the faith belong to the Church of
Rome. If you wish to enter that island to cause law to be obeyed and
Saint Peter Pence to be paid by every house, it will be pleased to
us to assign it to you – page 470).
Lịch sử thế giới đã có đầy đủ mọi tài liệu
chứng tích thống kê tội ác giết người thật khủng khiếp của giáo hội
La Mã do Constantine lập ra từ thế kỷ thứ tư. Trong 16 thế kỷ, số
người bị giết dưới bàn tay của những người nhân danh Chúa như sau: 3
triệu tín đồ Hồi Giáo, 10 triệu tín đồ Công Giáo bị giết do tòa án
tôn giáo, 14 triệu tín đồ Kitô ngoài Công Giáo (Tin Lành, Chính
Thống, Anh Giáo v.v...) 30 triệu chết trong các cuộc chiến tranh
giữa các vua chúa Công Giáo Âu Châu tranh chấp quyền lợi với nhau
hoặc với giáo hoàng (page 463).
Điều đáng đau buồn là các cuộc tranh chấp đẫm
máu trên phần lớn là do sự bất đồng với nhau giữa các giáo phái Kitô
về các tín điều có liên quan đến Đức Mẹ Maria. Đức Mẹ là hiện thân
của tình mẫu tử đã bị giáo hội Công Giáo biến thành một nguyên nhân
của biết bao vụ thảm sát đẫm máu giữa những người anh em cùng thờ
một Chúa và cùng yêu một Mẹ. Thật không có gì đau xót và vô lý cho
bằng!
NGUỒN GỐC VỀ THẦN THOẠI ĐỨC MẸ
ĐỒNG TRINH
Một trong những điều dị biệt nhất giữa Công
Giáo và Tin Lành là vấn đề đồng trinh của Đức Mẹ. Sách Babylon
Mystery Religion dành ra 2 chương để nói về điều này p. 7-22), tôi
xin tóm lược như sau:
Việc tôn thờ ảnh tượng Mẹ
Bồng Con xuất phát từ Babylon cách đây 6000 năm. Dân Babylon đã có huyền thoại Chúa Cứu Thế
(Kitô/Messiah/Savior) từ thời đó. Chúa
Cứu Thế của họ là Tammuz và mẹ là nữ thần Semiramis. Cho đến
nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều tượng Mẹ bồng con ở Babylon
(phía Iraq) cũng như tại Ai Cập. Hiện ở Ai Cập còn tồn tại nhiều đền
thờ cổ với tượng Mẹ bồng con. Đó là tượng thần
nhi đồng Horus ngồi trên đùi của mẹ là nữ thần Isis. Người Ai
Cập đã nhập cảng tục lệ này từ Babylon và họ sáng tác ra thần thoại
về tượng mẹ bồng con như sau: Bà Isis thụ thai
do phép của Thần Mặt Trời (Sun God) sinh ra một người con thần thánh
(a divine son) đặt tên là Horus. Lúc Horus còn là hài
nhi, bị thần Bão Tố Typhoon rượt bắt nên
bà Isis phải mang con chạy trốn và bị thất lạc con mình. Về sau bà
gặp lại đứa con mới biết chính con mình là Thần Mặt Trời!
Vào thế kỷ đầu Công Nguyên, các tu sĩ lập đạo
Kitô đã ăn cắp thần thoại Ai Cập này để phóng tác ra chuyện Bà Maria
thụ thai do phép Đức Chúa Thánh Thần sinh ra con trai của Thiên Chúa
(Son of God) được ít ngày thì bị vua Herod rượt đuổi nên phải chạy
trốn sang Ai Cập. Đến khi Jesus lên 12 tuổi thì bị lạc tại Đền
Thánh. Nhưng bà Maria vẫn tin tưởng con mình là Đức Chúa Trời và
đồng thời cũng là chồng của mình, còn ông Joseph chỉ là chồng hờ để
che mặt thế gian. Các tu sĩ lập đạo Kitô cũng như tu sĩ Ai Cập đều
là những kẻ bệnh hoạn mang mặc cảm loạn luân với mẹ như chuyệp
Odipus của Hy Lạp loạn luân với mẹ là Jocasta. Kinh Thánh Tân Ước
của Luca viết: "Thiên Thần nói với bà Maria là Chúa Thánh Thần sẽ
đến cùng Người và Thiên Chúa Tối Cao sẽ "phủ" người, cho nên vật
thánh thiện sẽ được sinh ra bởi Người được gọi là Thiên Chúa". (And
the Angel answered and said to her: The Holy Spirit shall come upon
thee and the power of the Highest shall overshadow thee, therefore
also that holy thing which shall be born of thee shall be called the
Son of God – Luke I:35).
Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng thực ra là một ngôi,
Jesus cũng chính là Đức Chúa Thánh Thần. Nếu Đức Chúa Thánh Thần
"phủ" bà Maria thì cũng chính là Jesus đã "phủ" mẹ mình chẳng khác
gì chuyện thần thoại Ai Cập: Bà Isis được thần Mặt Trời "phủ" sinh
ra Horus và chính Horus là Thần Mặt Trời! Xin
đọc thêm Deceptions and Myths of The Bible, p. 377).
Những tín đồ Kitô Giáo
nguyên thủy không để ý đến chuyện loạn luân nói trên vì họ không tin
bà Maria đồng trinh.
Kinh thánh Tân Ước kể rõ
tên 4 em trai của Jesus là James, Joses, Simon và Judas (không phải
Judas Escariot) và 3 cô em gái nhưng không nêu tên (Matt 13:55-56).
Kinh Thánh cũng ghi rõ Jesus là con trưởng của bà Maria chứ không
phải con duy nhất (first born son – Matt 1:25). Kẻ duy nhất viết Tân
Ước đã xuyên tạc nữ tính của bà Maria thành "đồng trinh" là ông
Matthew [ Matthew là tên tác giả viết
cuốn Tân Ước, vì vậy người ta đặt tên cuốn kinh nầy là Matthew.]
Và y đã trích dẫn
kinh Cựu Ước nói tiên tri: "Chúa Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi người
mẹ Đồng Trinh". Sự gian trá của Matthew đã bị
các học giả nghiên cứu thánh kinh vạch mặt. Các học giả đã
tìm khắp Thánh Kinh Cựu Ước không hề có một chữ "Đồng Trinh" nào cả
vì dân tộc Do Thái từ xưa đến nay không có ý niệm này. Họ chỉ phân
biệt người đàn bà có chồng (married) và chưa chồng (unwed) mà thôi.
Chỉ có một câu duy nhất của tiên tri Isaiah nói rằng: "Chúa Cứu Thế
sẽ được sinh ra bởi một người mẹ trẻ". Nguyên văn tiếng Hebrew là
ALMAH nghĩa là trẻ (young) chứ không phải là đồng trinh (virgin)!
Sau khi tiêu diệt đạo Kitô nguyên thủy, các tu
sĩ ở Vatican triệu tập công đồng Ephesus năm 431 để thiết lập giáo
lý về Đức Mẹ. Tại Ephesus có đền thờ nữ thần Diana của La Mã vốn
được mệnh danh là nữ thần Đồng Trinh (Goddess of Virginity). Tại
cuộc họp này, các lãnh đạo giáo hội chủ trương biến Đức Mẹ Maria
thành nữ thần Diana đồng trinh, mục đích là để
thu hút các tín đồ của Đa Thần Giáo La Mã.
(Babylon Mystery Religion – p.11).
Tín điều Đức Mẹ Chúa Trời
(Master Dei/Mother of God). Danh hiệu
"Đức Mẹ Chúa Trời" bắt nguồn từ Babylon. Dân Babylon tôn thờ
thần Nimrod và tin rằng chính Nimrod là đức Chúa Trời (Baal) và mẹ
của Nimrod được tuyên xưng là "mẹ Chúa Trời", tiếng Babylon là "Mea
Domina". Theo sử gia Ý Hislop thì danh hiệu này được chuyển sang
tiếng Ý là "Madonna". Các lãnh đạo giáo hội Công Giáo đồng hóa La Mã
không ngoài mục đích thu hút tín đồ đông
đảo vì họ đễ dàng cải đạo sang niềm tin tương tự.
Hơn nữa, mục tiêu của chúng là biến Jesus thành
Thiên Chúa cho nên một khi đọc kinh, tuyên xưng bà Maria là Mẹ Chúa
Trời, đương nhiên tín đồ sẽ tự kỷ ám thị để tin rằng Jesus là Thiên
Chúa.
Danh hiệu Đức Mẹ Mân Côi.
Tháng năm là tháng hoa hồng, còn được gọi là tháng Mân Côi dâng hoa
kính Đức Mẹ. Chuổi hạt dùng để đếm số lần đọc kinh Kính Mừng được
gọi là Chuỗi hạt Mân Côi. Đức Mẹ Mân Côi là Đức
Mẹ chuyên việc lắng nghe những lời cầu kinh được nhắc đi nhắc lại
nhiều lần. Việc lần hạt Mân Côi dựa trên
giáo lý Công Giáo cho rằng Đức Mẹ là trung gian (Mediator) giữa
Thiên Chúa và loài người. Thiên Chúa được mô tả là một vị
thần khó tính, dễ nỗi giận, rất hung dữ và hình phạt của Ngài rất
khủng khiếp. Các tu sĩ lập đạo cố tạo ra một
Thiên Chúa ghê gớm buộc mọi người phải sợ. Tín đồ đồng nghĩa với "kẻ biết kính sợ Chúa"
(God fearer). Tín đồ muốn được ơn cứu
chuộc và được bênh vực cần phải chạy đến cầu cứu các tu sĩ.
Bên cạnh Thiên Chúa hung dữ, các tu sĩ lập đạo
tạo ra một bà mẹ nhân từ biết lắng nghe và sẵn sàng làm trung gian
can thiệp để Thiên Chúa bớt giận và chấp thuận ban cho kẻ cầu nguyện
những ơn này ơn nọ. Các tu sĩ lãnh đạo Công Giáo
đã chọn Mẹ Maria làm đấng trung gian thần thánh đó. Linh Mục
Greeley, Giáo sư Đại học Dublin mới đây tuyên bố: "Bởi sống trong
một thế giới bị đòi hỏi phải sợ Chúa, nhân loại cần phải có ai đó
giúp đỡ chúng ta chống lại sự sợ hãi" (Because in a world asked to
be God-fearing, humankind requires someone to help us fight the
fear). Đức Mẹ trở thành một trung gian đắc lực của Vatican: Trong
thời chiến, Vatican biến Đức Mẹ thành vị tướng quân sự thúc quân ra
trận. Trong những đoàn thập tự quân thường có
những lá cờ về hình Đức Mẹ với dòng chữ "Hãy tiến lên, những người
lính của Chúa Kitô" (onward Christian soldiers!). Trong thời
bình, Đức Mẹ biến thành Nữ Vương Hòa Bình (Regina Pacis), các tu sĩ
vẫn hốt bạc bằng những thùng tiền đặt bên cạnh các tượng ảnh của
"Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp", bằng "Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ" với những bản
liệt kê in sẵn chỉ cần đánh dấu (X) vào những ô vuông bên cạnh: Xin
được khỏi bệnh, xin được khỏe mạnh, xin được thành công trong việc
làm ăn, xin cho tìm thấy người yêu lý tưởng... gửi về "Đền Thánh"
bằng "Bussiness Reply Mail" [Thư hồi báo. Tem sẽ
được trả bởi ngươi nhận.] với ghi chú "Postage will be paid
by addressee", tất nhiên trong thư phải kèm theo chi phiếu vô hạn
định!
Tuy được tuyên xưng là Đấng Trung Gian giữa
Thiên Chúa và loài người, trong thực tế, Đức Mẹ đã trở thành một món
hàng hấp dẫn hốt bạc cho các dòng tu và cha cố. Giáo lý dạy Đức Mẹ
là Đấng Trung Gian hoàn toàn đi ngược với Thánh Kinh vì Thánh kinh
đã xác định chỉ có một mình Chúa Jesus là trung gian duy nhất giữa
Thiên Chúa và con người. (There is one mediator between God and men,
the man Christ Jesus – I Thimothy 2:5). Giáo Hội
Công Giáo khuyến khích giáo dân lần chuỗi Mân Côi và được giáo dân
ngoan ngoãn hưởng ứng. Người ta tính ra
có tới 46.296 lời kinh Kính Mừng được đọc trong một giây. Đến Thiên Chúa cũng không nghe kịp chứ đừng nói
tới Đức Mẹ. (Babylon Mystery Religion P.18). Việc lần hạt cầu kinh là một thói quen trong tôn
giáo của Ai Cập từ nhiều ngàn năm trước Công Nguyên. Người Do
Thái cũng bắt chước làm theo.
Trong thời gian giảng đạo tại Jerusalem, Chúa
Jesus đã công khai ngăn cấm việc đọc kinh nhắc lại bằng cách lần
hạt. Ngài nói: "Khi cầu nguyện, anh em đừng nhắc đi nhắc lại
vô ích như những người ngoại giáo vì họ tưởng rằng lời cầu nguyện
của họ sẽ được lắng nghe chỉ vì nói nhiều. (When ye pray, use not
vain repetitions as the heathen do: for they think that they shall
be heard do: for they think that they shall be heard for their much
speaking – Matthew 6:7). Những kẻ cầu nguyện
Chúa qua trung gian Đức Mẹ bằng những chuỗi hạt Mân Côi chỉ có thể
làm cho Chúa nổi giận. Chúa không thể chấp nhận các lời cầu
nguyện được vì chính họ đã làm những điều Chúa ngăn cấm!
Tín điều Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội. (The dogma of Immaculate
Conception). Tín điều này bắt đầu từ chuyện Vườn Địa Đàng
(Garden of Eden) do các tu sĩ lập đạo Do Thái viết Cựu Ước sao chép
từ chuyện thần thoại Babylon là chuyện "Gan Eden", tiếng Babylon có
nghĩa là "Khu Vườn Phương Đông".
Babylon là xứ sở văn minh
nhất ở vùng Cận Đông từ 5500 năm trước Công Nguyên. Đến thế
kỷ 4 trước Công Nguyên, do sự đổi dòng bất ngờ của con sông Euphrate
gây trận lụt lớn chưa từng thấy, chôn vùi toàn vùng Babylon xuống
dưới những lớp cát sa mạc.
Từ đó, loài người ít ai biết tới Babylon và kho
thần thoại của nó. Mãi đến giữa thế kỷ
19, các nhà khảo cổ mới tìm thấy Babylon (cách thủ đô Baghdad cuả
Iraq 80 dặm về phía Nam đến biên giới Kuweit ngày nay). Sau
hơn một thế kỷ đào xới, các nhà khảo cổ đã tìm thấy hàng trăm ngàn
tấm đất sét nung khô với chữ viết giống như những cái nêm cối
(cuneiform) và người ta đã đọc được những chuyện thần thoại giống
như những chuyện kể trong kinh Thánh Cựu Ước Do Thái với những tên
nhân vật hao hao giống nhau. Những chuyện thần thoại của Babylon đã
lan tràn ra khắp các vùng Cận Đông. Đến
thế kỷ 3 trước Công Nguyên, Alexander The Great (A-lịch-sơn Đại đế)
chiếm Cận Đông thì ngôn ngữ Hy Lạp trở thành ngôn ngữ chính của vùng
này. Các chuyện thần thoại đó được dịch sang Hy Lạp và truyền sang
Âu Châu. Có nhiều danh từ của Babylon trở thành căn ngữ trong nhiều
ngôn ngữ ở Âu Châu, nhưng vì Công Giáo La Mã tiêu diệt Kitô Giáo
nguyên thủy, tiêu diệt luôn văn hóa Hy Lạp và các dấu vết thật về
Chúa Jesus trong thế kỷ 4 nên sau này người ta đã không biết nguồn
gốc của các chuyện kể trong Thánh Kinh Cựu Ước cũng như Tân Ước. Các
công trình lớn lao của ngành khảo cổ đã là chiếc chìa khóa vạn năng
mở toang cánh cửa bí mật của quá khứ đen tối do Công Giáo La Mã đã
tạo ra để che dấu sự lừa dối. Trước đây, ai cũng tưởng nhân vật
Abraham là có thật trong lịch sử lập quốc Do Thái, nhưng nhờ khoa
khảo cổ, người ta mới biết Abraham chỉ là nhân vật thần thoại của
Babylon.
THẦN THOẠI JESUS CHÚA CỨU THẾ
Thần thoại Babylon kể rằng: Thần Đất Terah
sinh ra một "vị thần con" tại thành phố UR (có nghĩa là Ánh Sáng)
tên là Abarama (a god) và thần Abarama lấy em gái mình là Sarai làm
vợ.
Các tu sĩ lập đạo Do Thái vớ lấy chuyện này để
viết Cựu Ước Sáng Thế Ký (Genesis) phịa chuyện lập quốc Do Thái: Cha
của Abraham (hoặc Abrama), là Terah vốn sinh sống tại thành phố UR.
Sau này Abraham lớn lên đã lấy em gái mình là Sarah làm vợ và được
các tộc trưởng Do Thái tại Babylon bầu làm lãnh tụ dẫn dân Do Thái
rời Babylon về vùng đất hứa là Canaan [Nước Palestine bây giờ.] để
lập quốc. Chuyện thần Đất Terah truyền tới Âu Châu vào thế kỷ 3
trước Công Nguyên và trở thành căn ngữ của tiếng La Tinh "Terra" và
tiếng Pháp "Terre" nghĩa là Đất.
Thần thoại Kitô cũng xuất
phát từ Babylon từ nhiều ngàn năm trước khi có đạo Do Thái.
Ta có thể tìm thấy dấu vết của thần thoại này ngay trong sách Sáng
Thế Ký (Genesis) của Cựu Ước.
Sách Sáng Thế Ký kể rằng: " Những đoàn người
du mục đến định cư tại Shinar và lập nên thành phố Babylon (có nghĩa
là Cổng Trời: Gate of God). Babylon về sau trở
thành đế quốc (Gen 11:2). Tại đây có hai con sông lớn là
Euphrate và Tigris. Vùng đồng bằng của hai sông này rất phì nhiêu
nhưng có rất nhiều thú dữ ăn thịt người
(Exodus 23:29-30). Một người thợ săn rất hùng mạnh tên là Nimrod
(the mighty hunter before God – Gen 10:8-9) diệt thú dữ cứu dân. Về
sau lên làm vua cai trị rất anh minh.
Vương quốc của Người gồm có Erech, Accad và Calneh (Gen 10:10).
Khi Nimrod chết, dân Babylon vì quá yêu thương
đã khóc lóc thảm thiết. Bà vợ của Nimrod là Semeramis chặt
xác Nimrod thành những miếng nhỏ đem nướng chín gửi đi khắp nơi cho
dân chúng ăn cho bớt đau khổ (Judges
19:29, Sam 11:17). Bà Semeramis lúc đó đang mang
thai đã hứa với dân chúng rằng bà sẽ sinh một con trai đặt
tên là Tamuz. Con trai này sẽ là Chúa Cứu Thế và là Nimrod tái sinh.
Từ đó, Tamuz được dân chúng mong mỏi ra đời cứu
thế. Đó là ý niệm đầu tiên về Chúa Cứu
Thế (Savior) mà người Do Thái dịch ra là Messiah. Đến thế kỷ
3 trước Công Nguyên, do đế quốc Hy Lạp chiếm toàn Cận Đông và Âu
Châu nên thần thoại Babylon về Chúa Cứu Thế được dịch sang tiếng Hy
Lạp là CHRISTOS (Savior) người Hán phiên âm là Cơ Đốc. Babylon nằm
giữa hai dòng sông Euphrate và Tigris được người Hy Lạp đặt tên là
Meso-Potamia (Meso: Middle, Potamia: Rivers).
Người Hán dịch thành Lưỡng Hà Châu.
Từ huyền thoại Chúa Cứu Thế Nimrod và Talmuz,
người Babylon lập ra đạo thờ Thiên Chúa mà họ gọi là BAAL hoặc BAL
vì họ tin rằng Nimrod chính là Bal. Cũng tương tự như người Công
Giáo thờ Jesus vì tin rằng Jesus là Chúa Kitô và Kitô là Ngôi Hai
Thiên Chúa, cũng chính là Thiên Chúa Toàn Năng!
Đạo thờ Thiên Chúa BAL thường bắt con nít hoặc
các thiếu nữ làm vật hy sinh tế thần. Tượng thần rất lớn, cao cỡ 10
mét, hai bàn tay thần to bằng hai cái
chảo lớn được đun nóng từ cái lò trong tượng thần. Các tu sĩ tế thần
(được gọi là CAHNA) ném các nạn nhân trần truồng vào hai bàn
tay của thần. Trong lúc đó các tu sĩ nhảy
múa, đánh trống và phèng la inh ỏi để
khỏa lấp tiếng thét ghê hồn của các nạn nhân đang bị nướng sống và
tiếng khóc thảm thiết của thân nhân các nạn nhân. Từ đó phát sinh ra
danh từ CAHNA-BAL (Priest of Bal) có nghĩa là "Những kẻ ăn thịt đồng
loại" vì sau khi tế thần, các tu sĩ đạo thờ thần Bal chặt nhỏ xác
các nạn nhân lúc đó đã chín để chia nhau ăn.
Tục lệ dã man này của Babylon du nhập vào đạo
Công Giáo La Mã thành "Phép Mình Thánh Chúa" mà ta thấy trong các lễ
Mi-sa ở nhà thờ hiện nay. Giáo dân lên rước lễ tưởng tượng được
ăn thịt uống máu thật của Jesus. Họ đã
trở thành một lũ mọi ăn thịt người mà Tây Phương gọi là CANNIBAL
(Anh Ngữ) hoặc CANNIBALE (Pháp Ngữ) là danh từ có xuất xứ từ
CAHNA-BAL của Babylon mà ra.
Việt Nam là một dân tộc có tinh thần nhân bản,
ai cũng phải rùng mình ghê sợ khi nghe chuyện tế thần bằng người
sống như đạo thờ thần Bal của Babylon.
Chúng ta chưa từng nghe thấy những chuyện dã man tương tự trong lịch
sử dân tộc. Tổ tiên chúng ta chỉ cúng Trời bằng bông hoa, trái cây
hoặc bánh chưng bánh dầy được làm ra từ
các sản phẩm nông nghiệp.
Cách thờ cúng của dân tộc ta và cách thờ cúng
của Babylon (hoặc Công Giáo) phản ảnh hai nền văn hóa khác hẳn nhau.
Một bên là nền văn hóa nông nghiệp nhân bản, còn bên
kia là nền văn hóa du mục phi nhân bản.
Người Việt Nam từ bỏ đạo của ông bà tổ tiên đi
theo đạo Công Giáo là đã từ bỏ cái nguồn
gốc nhân bản của mình để trở thành kẻ mọi ăn thịt người (cannibal)
của nền văn hóa du mục phi nhân bản. Họ cứ tưởng đi
theo đạo của Tây Phương là đã trở thành
kẻ văn minh, rồi lên mặt khinh rẻ dân tộc và nền văn hóa nhân bản
của tổ tiên. Họ đâu có ngờ họ đã trở thành những kẻ mọi rợ
ăn thịt người, dù chỉ là tưởng tượng. Từ
tâm linh văn minh biến thành tâm linh bán khai mọi rợ mà vẫn không
biết mình đã biến thành bán khai mọi rợ từ lúc nào và do đâu!
Cũng từ cái thần thoại Chúa Cứu Thế Nimrod mới
phát sinh danh từ MESSIAH của Do Thái có nghĩa là Chúa Cứu Thế
(Savior) ngụ ý "Vua Nimrod mới hoặc "vua David mới" (Messiah means a
new King David). Người Do Thái định nghĩa
MESSIAH (tiếng hy Lạp là Christos – Anh Pháp Christ) phải là "đấng
giải thoát mọi kẻ bị áp bức" (to let the oppressed go free – Isaiah
58:6). Họ không tin Jesus là
Messiah/Christ vì Jesus chẳng cứu được ai.
Người Công Giáo đã lầm lẫn
đồng hóa Jesus với Kitô. Jesus là người thật, sinh khoảng năm
thứ 4 trước Công Nguyên, bị đóng đinh năm 29 lúc 33 tuổi, cao 1m82
và cân nặng 79 kí. Kitô là huyền thoại xuất phát
từ Babylon và được nhập cảng từ đạo Do Thái. Các tu sĩ lưu manh lập đạo Kitô đã viết Tân Ước
bằng cách dẫn chứng bậy bạ những điều nói trong Cựu Ước liên quan
đến Messiah để biến Jesus thành Kitô. Sự việc Jesus được Kitô
hóa (Jesus was Christed) đã được các nhà khoa học, các học giả và
nhất là các nhà khảo cổ vạch mặt. Kẻ viết Tân Ước cố ý gán ghép mọi
dẫn chứng giả tạo để người đọc nghĩ rằng Jesus thuộc dòng dõi vua
David vì người Do Thái định nghĩa Messiah (Kitô) là vua David Mới sẽ
được sinh ra để cứu dân tộc Do Thái. Về sau, các tu sĩ đạo Kitô đã
biến ý nghĩa Messiah lúc ban đầu chỉ có nghĩa là anh hùng dân tộc
(Savior of the People) trở thành Đấng Cứu Chuộc toàn thể loài người
(The Redeemer). Nền văn hóa du mục phi nhân bản
Babylon là linh hồn của đạo Công Giáo đã làm cho người Công Giáo
Việt Nam mất hết dân tộc tính. Nước rửa tội là một thứ a-xít
đã hủy diệt cái ánh hào quang dân tộc trên đầu của mọi người Công
Giáo Việt Nam! Vào năm 40, hai bà Trưng đã cứu
dân tộc ta chống quân xâm lược phương Bắc để dành độc lập cho tổ
quốc. Hai Bà Trưng là hai Chúa Cứu Thế
của dân tộc ta. Hai Bà Trưng xấp xỉ bằng tuổi Jesus, là những
vị anh hùng đích thực của dân tộc thì người Công Giáo Việt Nam lại
coi thường và khinh rẻ. Trái lại, cũng vào thời điểm của Jesus thì
dân tộc ta bị Tàu đô hộ, một phần vì Jesus thất học chẳng biết nước
Giao Chỉ nằm ở nơi nào trên thế giới, phần khác Jesus còn mãi đi
giảng đạo ở Jerusalem, đâu có giúp ích gì cho đất nước Việt Nam?
Và giả sử có muốn cứu Việt Nam cũng chẳng cứu
nỗi vì chính Jesus cũng không cứu nỗi bản thân và dân tộc Do Thái. Vậy hà cớ gì mà Công Giáo Việt Nam phải tôn thờ
Jesus làm Chúa Cứu Thế của mình? Sự ngu
dốt chứ không phải Đức tin đã là nguyên nhân chính yếu dẫn đến cái
chết của những người tử đạo Việt Nam. Vinh danh tử đạo Việt Nam là
vinh danh sự ngu dốt và tôn vinh tinh
thần phản dân tộc. Người Công Giáo Việt nam hãy tỉnh ngộ để sớm
rũ bỏ cái độc chất văn hóa Babylon trong
người ngõ hầu sớm biết từ bỏ kiếp sống con chiên (con lừa) để làm
người đứng thẳng (homo-erectus) trước khi trở lại làm người Việt
Nam. Tổ quốc Việt Nam có những người công dân đích thực Việt Nam anh
hùng bất khuất dám hiên ngang tiêu diệt mọi kẻ thù xâm lược, bảo tồn
lãnh thổ và danh dự làm người với truyền thống văn hóa cao không kém
gì ai trên trái đất này.
Không phải đến bây giờ người ta mới nhận ra
cái độc hại của nền văn hóa du mục Babylon, mà ngay trong sách Mặc
Khải (Tân Ước của Gioan) cũng đã nguyền rủa cái nền văn hóa này
"Huyền thoại, Babylon vĩ đại, là mẹ của các con điếm và các chuyện
kinh khủng trên trái đất này". (Mystery, Babylon the great, the
mother of harlots and abdominations of the earth – Rev. 17:1-6).
Sách Mặc Khải Tân Ước muốn ám chỉ "mẹ của các
con điếm" đó là ai; nếu không phải là cái giáo hội thối nát hư hỏng
được xây dựng trên những huyền thoại của Babylon?
HUYỀN THOẠI VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
Lịch sử nhân loại đã nhận
ra cái hậu quả ghê gớm của huyền thoại "Gan Eden" kể chuyện Adam và
Eva phạm tội. Chỉ vì dám ăn trái
táo trị giá mấy chục cents (xu) mà cả loài người phải chết, đàn ông
phải vất vả cực khổ mới kiếm được miếng ăn và đàn bà phải mang nặng
đẻ đau mới sinh được đứa con của mình! Cái lỗi nhẹ đó của Adam đã
đưa đến hậu quả là Con một của Thiên Chúa phải mất công xuống thế
gian đầu thai làm người, phải chịu đánh đòn nhục nhã và chết trần
truồng trên thập giá chỉ để "Chuộc tội tổ tông"? Nhưng cái chết thảm
của Jesus cũng hóa thành vô ích vì tất cả cái hậu quả của tội tổ
tông trên số phận của loài người vẫn còn nguyên vẹn: Con người vẫn
phải chết, đàn ông vẫn phải vất vả kiếm ăn
và đàn bà vẫn mang nặng đẻ đau như lúc Jesus chưa "cứu chuộc".
Thật là xảo trá bịp bợm, Jesus chẳng cứu được
ai, vậy tại sao lại cứ tôn vinh y là "Chúa Cứu Thế"? Khoa học khảo cổ đã chứng minh chuyện Vườn Địa
Đàng chỉ là chuyện thần thoại bịa đặt, vậy làm gì có tội tổ tông
thật đâu mà phải cứu chuộc? Ngay cả trường hợp chuyện Vườn
Địa Đàng là thật chăng nữa thì hành vi
của Adam cũng không phải là tội. Triết gia Baruch Spinoza
(1632-1677) bậc thầy tư tưởng Tây Phương được xếp ngang hàng với Lão
Tử của Đông Phương đã viết: "Ý muốn hay quyết định của Adam chẳng
phải là xấu và cũng chẳng chống lại ý muốn của Chúa vì Chúa là
nguyên nhân của điều đó... Chúa muốn kẻ ác hối
hận tại sao Ngài cấm Adam ăn trái táo khi Ngài Phú cho ông ta ý muốn
trái ngược?" (Adam’s will or decision was
neither evil, properly speaking, contrary to God’s will, it
follows that God can be its cause... God wants the wicked to repent,
why did he forbid Adam to eat of the tree when he ordained the
opposite – The Enlighten Minds by Stephen, p.142-143).
Một phần lớn cái trách nhiệm về tội ác của
Kitô Giáo nói chung, của giáo hội Công
Giáo nói riêng, có thể qui vào cho St. Augustine. Y là cha đẻ ra
thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi với tác phẩm "De Trinitate", Cha đẻ ra
thuyết "Tội Tổ Tông" và thuyết "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Y xác lập thuyết thần quyền cho giáo hội để buộc
mọi chính phủ thế quyền phải thần phục giáo hội bằng tác phẩm "De
Civitas Dei". Augustine sinh tại Algeria
năm 354 (chết năm 430, 76 tuổi). Y được coi là người sáng lập
đạo Kitô đứng hàng thứ hai sau Saint Paul (Phao lồ) và là tác giả
của toàn bộ hệ thống tư tưởng Tây Phương thời Trung Cổ. Năm 396, y
làm giám mục địa phận Hippo tại Algeria. [Trong suốt 6 thế kỷ đầu
Công Nguyên, toàn vùng Bắc Phi, Cận Đông và Âu Châu đều là các nước
theo Kitô Giáo. Sự xuất hiện và bành trướng mau chóng của Hồi Giáo
thời Trung Cổ đã biến toàn Bắc Phi, Cận Đông và Nam Âu Châu kéo tới
Ấn Độ trở thành các nước Hồi Giáo. Sự kiện này
đã chặn đứng âm mưu xâm lược toàn cầu bằng chiêu bài Công Giáo của
Đế quốc La Mã.]
Augustine say mê
nghiên cứu và viết sách suốt trong 34 năm. Công trình của Augustine
thật khá vĩ đại, chỉ tiếc cái vĩ đại đó
là ông ta đã xây dựng cả một tòa lâu đài đồ sộ trên nền tảng thần
thoại Vườn Địa Đàng của Babylon!
Augustine giải thích mọi đau khổ của loài
người đều do tội lỗi nguyên thủy của Adam-Eva, gọi là tội tổ tông
(the Origin Sin). Tội này di truyền cho con cháu muôn đời do sự giao
cấu của cha mẹ. Giao cấu là tội lỗi. (God
had condemned humanity to an eternal damnation simply because of
Adam’s sin. The inherited guilt was passed on to all his descendants
through the sexual act which was polluted by what is called
concupiscence). Dựa vào lý luận này, Augustine
viết thêm cuốn On Female Dress nhục mạ phụ nữ và tạo ra hệ thống nam
tu sĩ của giáo hội Công Giáo và việc phụ nữ bị từ chối phong chức
linh mục.
Augustin gọi mỗi phụ nữ là
một Eva, đồng lõa với ma quỉ, xúi giục đàn ông chống lại Thiên Chúa. Vì tội lỗi xấu xa của phụ nữ mà Con Thiên Chúa
phải chết. Đàn bà là kẻ đào ngũ
khỏi luật của Chúa. Đàn bà phá hoại đàn ông là hình ảnh của Thiên
Chúa... (You are each an Eve. You are the devil’s gateway. You are
the unsealer of that forbidden tree. You are the first deserter of
the divine law. You so carelessly destroyed man, God’s image. On
account of your desertion, even the Son of God had to die).
Tuy nhiên, chỉ có một phụ nữ duy nhất trên thế
gian không bị Augustine nguyền rủa là Đức Mẹ Maria. Augustine
lý luận: Đức Mẹ không giao cấu với Joseph. Đức
Mẹ sinh ra Chúa Jesus vẫn còn đồng trinh nên Mẹ là đấng Vô Nhiễm
Nguyên tội (The Immaculate Conception).
Những lý luận trên của Augustine thống trị
linh hồn Âu Châu suốt trong hơn 1000 năm! Mãi
đến giữa thế kỷ 16, bỗng nhiên xảy ra một cuộc bút chiến giữa hai
phe thần học Công Giáo. Phe cấp tiến cho rằng Chúa Jesus cũng
mắc tội tổ tông vì bà Maria sinh ra do sự giao cấu của cha mẹ, Jesus
chỉ được miễn 50% vì cha là Đức Chúa Tinh Thần. Cuộc bút chiến kéo
dài lai rai trong 30 năm và bị tòa án Dị Giáo đàn áp dữ dội nên
không thể bùng lên được. Biết bao sinh mạng đã phải lên dàn hỏa vì
cái chuyện lẩm cẩm này! Đó là cái gọi là "nền
văn minh Kitô Giáo" (The Christian civilization).
Đến giữa thế kỷ 19, khi nền dân chủ Tây Phương
đã khá lớn mạnh và uy quyền của Vatican đã bị giảm sút, cuộc bút
chiến về cái trinh của Đức Mẹ lại bùng lên. Giáo
Hoàng Piô IX dùng mọi biện pháp dập tắt cuộc bút chiến. Đến năm 1854, y công bố tín điều "Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội". Để cho giáo dân thêm tin tưởng vào tín
điều này, giáo hoàng âm mưu với giáo hội Pháp phịa ra vụ Đức Mẹ hiện
ra ở hang núi hẻo lánh Massabielle thuộc tỉnh Lourdes (Tây Nam nước
Pháp). Đức Mẹ tiếp xúc với một cô gái quê tên Bernadette và Mẹ tự
xưng là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội (I am The Immaculate Conception).
Nhiều giáo dân tiến bộ không tin phép lạ ở
Lourdes (Lộ Đức) và đặt vấn đề về thẩm quyền tuyên bố tín điều của
giáo hoàng. Do đó, giáo hoàng Pio IX phải triệu tập Công Đồng
Vatican I vào năm 1869. Kết quả Công Đồng I chấp
thuận tín điều "Giáo Hoàng Bất Khả Ngộ" [Không thể sai lầm.]
(The dogma of Papal
Infallibility). Nhờ có tín điều này, năm 1950, Giáo Hoàng Pio
XII công bố thêm một điều nữa về Đức Mẹ. Đó là Tín điều "Đức Mẹ Hồn
Xác Lên Trời" còn gọi là "Đức Mẹ Mông Triệu (The Assumption).
Tổng giáo phận Sài Gòn sáng tác một bài kinh
để mừng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (Nhựt khóa trang 499) nghe rất
cải lương như sau: "Thung thăng chân bước thang mây, tay chắp mặt
vui áo tỏa. Hớn hở gót nương cung nguyệt. Khí
thanh gió mát trời quang. Xuân Thu bà đã
quá sáu tuần về chầu Chúa bởi lòng kính mến. Môn đệ Chúa họp gần đủ mặt Ba Ngôi thảy yêu
đương, xưa đời giữ phận khiêm nhường xưng mình là tôi tớ Chúa. Nay rời khỏi thế gian nên vì cao trọng. Bà đáng chức Nữ Vương. Xưa, Ngôi Hai ngự trong
lòng Bà dư chín tháng ơn thiêng gồm đủ. Rày Chúa Cả thưởng
công Mẹ quyền cai trị chín trời, chức đặt
chủ bầu bốn biển. Sang quá đỗi sang. Nay xin Ơn Thánh hằng giúp
con, sau nguyện đặng lên trời với Mẹ.
Amen".
Để củng cố và nhắc nhở các tín đồ Công Giáo về
các tín điều mới này về Đức Mẹ cũng như tín điều "Giáo Hoàng không
thể sai lầm.", Vatican ra lệnh cho các giáo hội phải xây thêm trong
khuôn viên nhà thờ một hang đá Lộ Đức. Lệnh của Tòa Thánh ban ra chỉ
được vài nước Âu Châu như Pháp, Ý, Tây Ban Nha thi hành còn toàn Bắc
Mỹ đa số theo phe cấp tiến không chịu tuân lệnh. Do đó, ta thấy ở Mỹ
và Canada gần như không có nhà thờ nào xây hang đá Lộ Đức. Ở Việt
Nam thì ngược lại, nhà thờ nào cũng xây thêm hang đá Lộ Đức. Đó là
một bằng chứng cụ thể về tinh thần nô lệ của giáo hội Công Giáo Việt
Nam. Bất cứ một lệnh nào được ban ra từ Vatican cũng đều được các tu
sĩ Việt Nam tuân hành răm rắp!
Tuyệt đại đa số giáo dân
trình độ tâm linh quá thấp đâu ngờ khi họ xếp hàng đi xưng tội,
chính họ còn ít tội hơn kẻ ngồi ở phía sau tòa giải tội.
Hầu hết các tu sĩ là những
kẻ đại gian ác ngụy trang dưới những lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng
đóng vai đạo đức giả để phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra
vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị tranh
đua nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ
thủ đoạn để bòn rút tiền bạc xương máu của giáo dân, để xây nhà thờ
nguy nga đồ sộ chỉ cốt để họ được vênh vang với
đời . [Một số tu sĩ của tôn giáo khác
cũng thế.]
Mái nhà thờ của họ càng lớn rộng bao nhiêu,
càng che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường
của nhà thờ càng cao bao nhiêu càng ngăn cách giữa con người với
nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa
ăn bám, vừa phá hoại xã hội.
Họ tội lỗi cùng mình lại nắm quyền tha tội cho
đám tín đồ vô tội hoặc ít tội hơn họ. Họ
thực sự là một bọn cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ
cướp thường đều bị luật pháp trừng trị.
Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, đi
lại tự do vênh váo và được xã hội tâng bốc là "những vị lãnh đạo
tinh thần". Tất cả các tệ nạn này đều
xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của đại đa số giáo dân. Do
vậy, việc giáo dục khai sáng tâm linh là vô cùng cần thiết để cứu
nước và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao đẹp của dân tộc ta mà
tuyệt đối đa số giáo dân không hề biết tới.
Trong giáo lý Công Giáo có rất nhiều điều sơ
hở của những kẻ sáng lập đạo có thể khiến cho những người có óc tò
mò tìm hiểu dễ dàng phát giác ra sự lừa bịp dối trá của giáo hội.
Nhưng vì trình độ thấp kém của giáo dân, giáo
hội vẫn tìm cách che lấp các sơ hở đó của giáo lý và qua mặt giáo
dân dễ dàng. Khi tôi còn rất nhỏ, tôi
thường được cô tôi là một dì phước dạy giáo lý. Bài giáo lý đầu tiên trong đời tôi được cô tôi
hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần. Bà biết tôi
đã thuộc như cháo nhưng bà vẫn hỏi để có cớ cho tôi quà. Mỗi
lần có dịp đến thăm gia đình tôi, bà thường ôm tôi vào lòng âu yếm
hỏi và tôi đáp như máy:
- Cháu con ai?
- Con Đức Chúa Giời.
- Cháu ai?
- Cháu ông Adong.
- Dòng dõi ai?
- Dòng dõi vua David.
Cả tới nửa thế kỷ sau, tôi
không hề thắc mắc về những điều đó, nhưng rồi sau đó, tôi mới thấy
cái vai trò quan trọng của vua David trong giáo lý Công Giáo. Đó là vì dân Do Thái quan niệm Chúa Cứu Thế
(Christ-Messiah) là "vua David mới" phải là người thuộc dòng dõi của
vua David, cũng tương tự như người Babylon quan niệm Chúa Cứu Thế
(Savior of People) phải là con của vua Nimrod. Do đó, kẻ lập
đạo Kitô phải viết sách làm sao để người đọc tin rằng Jesus là người
thuộc dòng dõi của David thì Jesus mới có thể là Messiah (Kitô) đã
được Cựu Ước Do Thái tiên tri. Tân Ước kể tiểu
sử Jesus được viết trong thế kỷ I đã chứng minh mối tình tội lỗi của
David với bà Bathseba đã sinh ra tổ tiên nhiều đời của Joseph là cha
của Jesus. Do đó, Jesus đã thuộc dòng dõi vua David bởi cha
mình là Joseph và đích thị là Chúa Kitô theo đúng Cựu Ước. Đến thế
kỷ 3 và 4, lý thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi mới thành hình. Bọn lập
đạo Công Giáo (Hoàng đế Constantine, Irenacuss, giám mục địa phận
Lyon ở Pháp và Augustine là tác giả Kinh Tin Kính) chủ trương biến
Joseph thành cha nuôi và Đức Mẹ phải là đồng trinh, cha của Jesus
phải là đức Chúa Thánh Thần. Nhưng họ đã quên khuấy một điều là Tân
Ước và Cựu Ước không có một điều nào nói về Đức Mẹ Maria thuộc dòng
dõi của vua David. Thành ra, nếu Jesus là con của Đức Chúa Thánh
Thần và bà Maria đồng trinh thì Jesus không thể là Kitô vì không
thuộc dòng dõi vua David! Ngược lại, nếu chấp nhận Jesus thuộc dòng
dõi vua David do cha mình là Joseph thì Đức Mẹ không còn đồng trinh!
Để gỡ thế bí này, Vatican đã phịa ra những bài
kinh cầu Đức Bà, kinh cầu Ông Thánh Gioakim và kinh cầu bà thánh
Anna (là cha mẹ của bà Maria) để che lấp sơ hở nói trên của kẻ lập
đạo Công Giáo.
- Kinh cầu Đức Bà có câu "Đức Bà là lâu đài
David".
- Kinh cầu Ông Thánh Gioakim (Toàn niên Kinh
Nguyện Bùi Chu do cơ sở Dân Chúa xuất bản. P.O
Box 1419 Gretna LA 70053. Đại diện là LM Việt Châu – trang
189): "Lạy ông Thánh Gioakim là đấng rất sang trọng về dòng dõi vua David. Đức Chúa Trời đã chọn mà ban mọi sự lành cho cả và loài người ta vì đã dùng Người cho được làm nên những sự mầu nhiệm Đức Chúa Trời truyền ở thế gian này..."
- Kinh cầu Bà Thánh Anna (Toàn niên kinh
Nguyện tr. 212): "Lạy bà Thánh Anna là mẹ Nữ Vương, Bà làm sáng
thiên hạ vì sinh được con thanh sạch, sáng láng hơn mặt trời mặt
trăng. Bà là đấng sang trọng bởi dòng vua David..."
Từ nhỏ đi nhà thờ đọc kinh
cầu Đức Bà, tôi vẫn tưởng tượng cái "Lâu Đài David" chắc phải là cái
gì thánh thiện cao cả. Nay tôi Lấy Sách
Cựu Ước ra đọc để tìm hiểu cái lâu đài này như thế nào. Té ra Lâu Đài David là Harems chứa cả ngàn cung
nữ để phụng sự cái tật dâm dật vô độ của David. Khi David về già, vẫn ham chơi với các thiếu nữ
trẻ măng. Tôi ngạc nhiên thấy cái gọi là Kinh Thánh Cựu Ước
mô tả các cuộc truy hoan của nhà vua thật chi tiết như một dâm
thư: "Bây giờ vua David đã già và bị bệnh
nhiều năm, đắp mền cho Người bao nhiêu cũng không ấm. Các đầy tớ
mang đến cho Người một cô gái trẻ đứng trước mặt Người và hãy để cho
cô ta kích thích làm cho Người khoái, sau đó đặt cô ta nằm trong
lòng Người thì Người mới ấm..." (Now king
David was old and stricken in many years. They covered him with
clothes but he got no heat. Wherefore, the servants sought for the
king a young girl and let her stand before the king and let her
cherish him and let her lie in his bosom that the king may get heat
– The Third Book of the King I:1-12).
MỘT SỐ CÂU CHUYỆN NGỤY TẠO ĐỂ
LỪA BỊP CỦA CÔNG GIÁO LA MÃ
Tất cả các bài kinh nói trên đều không có căn
bản Thánh Kinh. Các học giả Âu Mỹ gọi là
"Un-Scriptural Prayers". Đó chỉ là những
sản phẩm ngụy tạo để lừa bịp. Nói đến các
chuyện bịp của Công Giáo La Mã thì nhiều không kể xiết. Chỉ
xin kể vài chuyện tiêu biểu:
Vatican rêu rao đã lưu giữ
cái ghế ngồi của Thánh Phêrô trong nhiều thế kỷ. Vào tháng 7.1968, các nhà khoa học quốc tế đã
đến làm cuộc giảo nghiệm và đồng xác nhận chiếc ghế này được ngụy
tạo vào thế kỷ 9.
Các nhà khảo cổ xác nhận: Bức tượng Thánh
Phêrô rất lớn bằng đồng đen đặt tại Đền Thánh La Mã được khoác áo
giáo hoàng và đội nón cao tầng để đóng vai "giáo hoàng đầu tiên" của
giáo hội là tượng thần Jupiter của Cổ La Mã trước Công Nguyên
(Babylon Mystery Religion p.18-79). Cựu Linh Mục dòng Tên Pete de
Rosa, tác giả cuốn sách best-seller "Vicars of Christ" đã phải kết
luận: "Vatican là xưởng chế tạo đồ giả lớn nhất thế giới".
Các sử gia chuyên nghiên cứu lịch sử giáo hội
Công Giáo xác nhận Phêrô không phải là giáo hoàng vì ông ta hoàn
toàn thất học, có vợ con (Matt 8:14) nên Phêrô không chấp nhận cho
người khác quì lạy mình để hôn tay.
(Stand up! I am a man – Act 10: 25-26).
Phêrô chưa từng đến Rome vì không có điều nào
trong Tân Ước nói về việc này. Trong 3
thế kỷ đầu của Kitô giáo nguyên thủy không có giáo hoàng mà chỉ có
giám mục (bishop). Giáo Hoàng là sản phẩm
của Công Giáo La Mã. Bắt đầu từ năm 378
mới có chức Giáo Hoàng. Giáo hoàng đầu tiên là Demasus được
tôn xưng Pontifex Maximus: Đấng Đứng Đầu giáo hội (head of Church)
tức là Giáo Hoàng.
Giáo hoàng đầu tiên tuyên
bố ngôi vị giáo hoàng là "thừa kế của Thánh Phêrô". (Successor of Peter) là một nữ giáo hoàng
(popess). Tên thật của nữ giáo hoàng là
Catherine de Sierra. Từ thuở nhỏ, Catherine thích mặc đồ con
trai và sau đó giả làm con trai đi tu dòng nam vào đầu thế kỷ
thư 9. Bà là một phụ
nữ thông minh, ham mê hoạt động và có tham vọng khuynh đảo cả thế
giới. Bà có tài hùng biện và đã để lại nhiều bài diễn văn rất
nổi tiếng hiện còn được lưu trữ tại văn khố Tòa Thánh.
Nhiều sử gia Ý như Petrarch và Boccacio đã viết
sách ca ngợi tài năng học giả uyên bác của bà. Vào năm 855, giáo hoàng Leo IV qua đời. Hội Thánh lúc đó nhận thấy chỉ có tu sĩ Gioan
(tên giả) là xứng đáng kế vị giáo hoàng. Kết quả, tu sĩ Gioan
được bầu làm giáo hoàng và là người tuyên bố: "The pope is the
successor of Saint Peter". Giáo Hoàng Gioan cai
trị giáo hội được 3 năm thì chẳng may một tai biến xảy ra.
Trong năm 858, Tòa Thánh tổ chức một cuộc rước
kiệu lớn tại Rome. Giáo hoàng đi theo
đoàn kiệu bỗng nhiên té xỉu, máu me chảy lênh láng vì bị sẩy thai!
Cả giáo hội lúc đó mới phát giác giáo hoàng là
phụ nữ. Ngay sau đó, giáo hoàng Gioan bị
lột trần truồng và bị đám tu sĩ cuồng nộ lôi ra công trường
Colossium để cho dân chúng ném đá chết tại chỗ. (The Pope Encyclopedia. Matthew Bunson.
Crown Trade Paperbacks NY. 1995). Truyền thống của Công Giáo khinh
rẻ phụ nữ do triết thuyết của Augustine. Giáo hội coi phụ nữ không
xứng đáng chịu chức thấp nhất là linh mục huống hồ là chức giáo
hoàng! Mặc dầu Giáo Hoàng Gioan rất giỏi và
không có tội gì khác ngoài tội chỉ là một phụ nữ nên phải chết thảm.
Truyền thống khinh rẻ phụ
nữ đó ngày nay đã trở thành một mối nguy hiểm có thể đưa đến sự sụp
đổ của giáo hội. Tại Hoa Kỳ và Âu Châu,
phụ nữ Công Giáo bỏ đạo đã biến thành phong trào lớn. Năm
1995, nữ giáo sư Joan Meehl là bổn đạo gốc lâu đời tại Mỹ đã mở một
cuộc phỏng vấn qua nhiều tờ báo toàn quốc để thu thập ý kiến của phụ
nữ Công Giáo Hoa Kỳ thuộc mọi thành phần và thuộc mọi lứa tuổi. Bà
Joan Meehl đúc kết lại để viết tác phẩm Người Công Giáo Tỉnh Ngộ hay
Cuộc Hành Trình Của Phụ Nữ Bỏ Đạo (The Recovering Catholics.
Personal Journeys of Women Who Left The
Church, 228 trang. Prometheus USA 1995). Phụ nữ
Mỹ đồng loạt kết tội St. Augustine và coi y là một tên bệnh hoạn về
giới tính. Hệ thống triết học và thần học của Augustine là
Xương Sống của Công Giáo La Mã hoàn toàn dựa trên thần thoại Vườn
Địa Đàng, sản phẩm bịa đặt của Do Thái ăn cắp từ thần thoại Babylon.
Sự nhục mạ phụ nữ của Augustine và giáo hội La
Mã làm cho phụ nữ cảm thấy tủi hổ về thân phận đàn bà của họ. Bà Joan cũng như các phụ nữ Công Giáo tiến bộ
phẫn nộ gọi Thiên Chúa là "Đấng Toàn năng Đực Rựa" (The Male
Almighty) gọi giáo hội Công Giáo là giáo hội "đàn ông trị"
(man-dominated church). Họ cho rằng "Thiên Chúa chỉ là tấm
màn che quyền lực của Đàn Ông chứ không phải quyền lực của Chúa tồn
tại trên trái đất này" (The power of man, not God, still exist on
earth. God is merely a backdrop to man’s ruling). Bà Joan phát biểu:
"Công Giáo La Mã đang trở thành đồ phế thải của các nước phát triển
và đang có khuynh hướng chuyển đồ phế thải đó sang các nước chậm
tiến! Đặc tính của Công Giáo là chỉ có thể phát triển được tại nơi
có kẻ ngu dốt và nghèo khổ. (Catholicism
only thrives and grows among the poor and ignorant). Giáo hội Công
Giáo là một chế độ độc tài ngụy trang tôn giáo, một đường dây Mafia
và là những con buôn đội lốt tôn giáo (A dictatorship claiming to be
a religion, a Mafia Connection, a business masquering a religion).
Song song với phong trào chống Công Giáo của
phụ nữ trên thế giới, giáo hội La Mã còn bị tấn công tới tấp bởi các
phong trào đòi quyền sống của người da đen, phong trào Cộng Sản quốc
tế... Vatican tìm cách làm giảm bớt tính chất
đàn ông của Thiên Chúa bằng cách đề cao vai trò Đức Mẹ Maria.
Ba Ngôi Thiên Chúa, theo
giáo lý Công Giáo, là một bộ ba gồm có một ông già rậm râu xuất thân
từ Jehovah (tức là con bò El của Do Thái) một thanh niên đóng khố
máu me đầy mình và một con chim bồ câu đực. Rõ ràng giáo hội Công
Giáo là một tà giáo đa thần (paganism) vì nó không thờ Thiên Chúa mà
là thờ người (Jesus) và cầm thú (bò, chim). Bà Karen Amstrong,
nguyên là nữ tu Công Giáo, hiện là một sử gia hàng đầu thế giới về
tôn giáo và là tác giả nhiều tác phẩm Bestsellers.
Trong tác phẩm nổi tiếng A History of God, bà
gọi Thiên Chúa của Công Giáo là một ông thần lắm điều (a talkative
God). Giáo Lý Thiên Chúa Ba Ngôi là giáo
lý rắc rối và phỉ báng Thiên Chúa (puzzling and blasphemous).
Giáo hội Công Giáo biết
tâm lý phụ nữ không ưa Thiên Chúa Ba Ngôi vì đều là giống đực nên đã
lôi Đức Mẹ vào để biến chế thành "Thiên Chúa Bốn Ngôi". Nhưng
giáo hội lại lâm vào tình trạng... kẻ gian mắc nạn! Lý do là: Càng
làm nổi bật vai trò của Đức Mẹ bên cạnh Thiên Chúa Ba Ngôi bao nhiêu
lại càng làm nổi bật cái tính loạn luân mất dạy của giáo lý Thiên
Chúa Ba Ngôi bấy nhiêu.
Tờ Newsweek số ra ngày 25.8.1997 (trang 19)
viết "Thay vì Thiên Chúa Ba Ngôi, ngày nay xuất hiện một loại Thiên
Chúa Bốn Ngôi với vai trò phức tạp của bà Maria: Con gái của Chúa
Cha, Mẹ của Chúa Con và vợ của Chúa Thánh Thần". (In place of the
Holy Trinity, there would be a kind of Holy Quartet with Mary
playing the multiple roles: daughter of the Father, mother of the
Son and spouse of the Holy Spirit). Vì chỉ có một Thiên Chúa, nên
cùng một lúc Bà Maria vừa là con, vừa là mẹ và vừa là vợ của Jesus.
Ngược lại, Jesus cùng lúc là cha, là con và là chồng của chính mẹ
mình! Giáo hội Công Giáo tôn thờ Thiên Chúa lắm
điều, ác độc và loạn luân. Vua "thánh"
David dâm dật vô độ, tổ phụ Abraham cũng loạn luân. Do đó
Giáo Hội Công Giáo đã hiện ra nguyên hình là một giáo hội vô luân vô
địch. Toàn bộ hàng giáo phẩm Công Giáo Việt nam
kém cỏi, tới nay vẫn cứ cắm đầu cắm cổ tụng niệm đề cao Thiên Chúa
Các Đạo Binh (Thần Bạo Lực) trong các buổi lễ. Giáo dân vẫn
rỉ rả cầu xin: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông
chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua
David" (Nhựt khóa 707), và cầu cho linh hồn người chết: "Xin các
Thánh thiên thần đem linh hồn ... (Maria, Giêsu, Phanxicô Gioan
Baotixita...) lên nơi vui vẻ cùng ông Thánh Abraham" (Nhựt khóa
330), hoặc "Xin Chúa đoái thương dân nước Việt Nam đang còn ngồi
trong bóng tối tăm ngoại giáo... Chúa đã phán
rằng ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi Đông Tây đến nghỉ ngơi cùng Thánh
Abraham trên nước Thiên Đàng". (Nhựt khóa
144-145). Giáo Hội Công Giáo tỏ ra thương xót dân tộc Việt
nam không phải vì hay bị bão lụt hạn hán, chiến tranh liên miên
chống xâm lược... mà thương dân nước Việt còn ngồi chồm hổm trong
bóng tối tăm ngoại giáo vì chưa biết ăn thịt người, và chưa biết
Thiên Chúa Ba Ngôi mất dạy và loại luân đến cở nào?
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã lộ nguyên hình là
một đám cỏ dại phá hoại cánh đồng mang hình chữ S của tổ quốc Việt
Nam chúng ta.
Công Giáo La Mã luôn luôn
tự xưng là giáo hội chính thống của Thánh Phêrô (Peter) nhưng chính
Jesus đã gọi Phêrô là Satan nên Công Giáo La Mã là đạo chính thống
của Satan gian ác. Đó là điều đã được xác
nhận trong Thánh Kinh Tân Ước chứ không phải tôi dùng chữ thiếu văn
hóa. (But he turned and said unto Peter: Get thee behind
me, thou art an offence unto me – Matt
16:23). Trong năm 1917, Đức Mẹ Maria đã hiện ra
tại Fatima liên tục mỗi tháng một lần vào ngày 13, từ tháng 5 đến
tháng 10.1917. Đức mẹ đã phán: "Vatican đã biến thành kinh đô
của quỉ Satan. Khói của Satan nồng nặc trong
giáo hội. Vatican đã phá hoại trên nền
tảng Công Ơn Cứu Chuộc của Chúa Jesus".
Trong Thánh Kinh Cựu Ước, Satan được mô tả là một con rắn, là vật
chất và là ông hoàng của thế giới (the Prince of this world).
Người Ai Cập coi con rắn là biểu tượng của sự khôn ngoan hiểu biết
(an exemplar of the wisdom – knowledge). Chúa Jesus khuyên mọi người
hãy trở nên khôn ngoan như con rắn (Be ye wise as serpents).
Vatican đã trở nên ông hoàng của thế giới trong
nhiều thế kỷ. Nó đã trở nên trung tâm
quyền lực của quỉ (Satanic power).
Vatican khôn như rắn và gắn bó với vật chất (clinging to matter).
Chính nó là Satan, là vật chất (Satan means Matter).
Giáo Hội Công Giáo là giáo hội của quỉ đã quấy
phá nhân loại trong gần 2000 năm qua và nó đang đi tới rất gần đến
ngày tận thế của nó!
Ngày 13.5.1982, người đứng
đầu giáo hội của Satan là Jean Paul II đã đến làm lễ tại Vương Cung
thánh đường Fatima và cầu xin cho cái giáo hội đó khỏi bị hủy diệt.
Giáo hoàng cầu xin như sau: "Xin Chúa cứu chúng con khỏi trận chiến
tranh nguyên tử và tránh khỏi sự hủy diệt không thể lường được".
Linh Mục Alonso Fatima, người có nhiệm vụ giữ hồ
sơ về các bí mật cho biết: "Bí mật Fatima có liên quan đến
một cuộc khủng hoảng ghê gớm trong nội bộ giáo hội Công Giáo gây nên
bởi sự tranh giành thế lực giữa những phẩm trật cao nhất trong giáo
hội". (Công Giáo Thời Luận, số 4 tháng 8.1986). Linh Mục Alonso cho
biết thêm: Kẻ giết giáo hội Công Giáo không phải là Cộng Sản, cũng
chẳng phải là Judas tái sinh mà là các tu sĩ hư hỏng. Ngày nay, rất
nhiều linh mục đã mất đức tin nhưng vẫn giả vờ đạo đức để đóng vai
lãnh đạo tinh thần của giáo hội, không có mục đích nào khác hơn là
để bòn rút tiền bạc của giáo dân để ăn, để sống và thỏa mãn những
dục vọng thấp hèn của họ. Nhiều linh mục giả vờ
nghiêm trang làm lễ ở nhà thờ, nhưng sau đó họ gian dâm với vợ con
của đám giáo dân khờ khạo của mình.
Số báo Thời Luận nói trên,
nơi trang 10-11, có thuật chuyện "Đức Mẹ khóc tại La Salette".
Đức Mẹ đã nghiêm khắc lên án các linh mục Công Giáo hư hỏng như sau:
"Vì đời sống xấu xa tội lỗi của họ, và vì lòng vô nhân đạo của họ
khi cử hành các phép bí tích mầu nhiệm, vì lòng ham mê tiền bạc thế
gian và ham mê danh vọng hão huyền, nhất là vì lòng ham mê những thú
vui xác thịt tội lỗi... các linh mục đã trở thành những hố phân chứa
đầy dòi bọ dơ bẩn. Cuộc sống xấu xa tội lỗi của họ đòi hỏi sự trả
thù của Thiên Chúa và sự trả thù đang lơ lửng trên đầu họ..."
Theo báo Newsweek ra ngày
26.8.1997 thì trong 19 thế kỷ qua, Vatican loan báo Đức Mẹ hiện ra
chỉ có vài lần. Nhưng trong thế kỷ 20,
Vatican cho biết có tới 400 lần Đức Mẹ hiện ra hầu như tại khắp nơi
trên thế giới. Những vụ Đức Mẹ hiện ra dồn dập cho loài người
thấy tình hình rất là khẩn trương và là điềm báo cho thấy ngày tận
thế của giáo hội Satan đang trong tầm tay
(The Doomsday is at hand). Năm 1917 là năm giáo hội bị đe dọa nặng
nề bởi hiểm họa Cộng Sản. Nhưng hiện nay giáo hội Công Giáo mới thực
sự đang trên miệng hố diệt vong.
Trong cuộc hiện ra tại Fatima năm 1917, Đức Mẹ
hứa Trái Tim Mẹ sẽ chiến thắng Cộng Sản và nước Nga sẽ ăn
năn trở lại với mẹ. Quả thật, chủ nghĩa
Cộng Sản đã sụp đổ, nhưng người Nga đã trở lại với Mẹ trong Chính
Thống Giáo chứ không trở lại với giáo hội Satan là Vatican.
Trong tháng 8.1997, quốc hội Nga đã biểu quyết
đạo luật và Tổng Thống Yelsin ban hành xác nhận quyền tự do tôn giáo
trên nước Nga. Mọi tôn giáo, kể cả đạo Phật và đạo Hồi, đều được tự
do truyền giáo và hành đạo tại Nga, ngoại trừ Công Giáo La Mã và Tin
Lành. Người Nga coi Công Giáo La Mã là một giáo hội thù địch vì Công
Giáo là kẻ phản bội Chúa và Đức Mẹ. Tại Fatima năm 1917, Đức Mẹ đã
cho 3 em nhỏ được thấy cảnh hỏa ngục. Trong hỏa
ngục đầy dẫy các giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục và linh mục Công
Giáo. Các tu sĩ Công Giáo trong hỏa ngục nhiều lúc nhúc như
dòi trong các hố phân lộ thiên! Chắc chắn không thể thiếu mặt Lê Hữu
Từ, Phạm Ngọc Chi, Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục,
Nguyễn Văn Bình... Toàn bộ Hội đồng Giám Mục Việt Nam cũng đều đang
ở trong thế chờ để nhào xuống hố phân Địa Ngục. Còn các linh mục
gian ác như Hoàng Quỳnh, Thanh Lãng, Lương Kim Định, Cao Văn Luận
thì khỏi phải bàn tới.
Chúa đã phán: "Kẻ giầu vào nước thiên đàng,
còn khó hơn lạc đà chui qua lổ kim". Toàn
bộ giáo hội Vatican giầu tới hàng trăm ngàn tỷ đô la còn to hơn
khổng long làm sao chui qua lỗ kim cho
nổi! Cho nên, nếu lời Chúa là chân lý thì toàn
bộ cái giáo hội Công Giáo phải xuống hỏa ngục. Nếu cả cái
giáo hội ấy vì một lý do nào đó mà không phải xuống hỏa ngục thì lời
Chúa chỉ là lời nói tào lao.
Năm 1917, tại Fatima, Đức
Mẹ nói khá nhiều về Cộng Sản, nhất là nói về Cộng Sản Nga. Còn tại La Vang (Quảng Trị) thì Đức Mẹ hoàn toàn
không đề cập đến Cộng Sản Việt Nam nên ngày nay chúng ta khó có thể
đoán biết được quan điểm của Đức Mẹ về vấn đề này. Trong thế kỷ 20, Đức Mẹ hiện ra tới 400 lần tại
nhiều quốc gia. Như vậy Đức Mẹ biết đủ các thứ tiếng trên thế
giới! Tại La Vang năm 1798, dưới thời vua Cảnh
Thịnh, hàng trăm giáo dân Huế và Quảng Trị đã vào đây lánh nạn cấm
đạo trong khu rừng "Lá Vằng" này. Đức Mẹ
chỉ hiện ra để nói vài điều chứ không có một chương trình nào cụ thể
để cứu trợ cả. Đức Mẹ hứa: "Từ nay về sau, bất cứ ai đến khẩn
cầu Mẹ tại nơi đây sẽ được Mẹ ban ơn phù trợ" Chắc ý của Mẹ là muốn
La Vang sẽ trở thành một trung tâm hành hương lớn tương tự như Trung
Tâm hành Hương của Dòng Tu Đồng Công tại Missouri? Tôi tin rằng Đức
Mẹ đã nói với giáo dân tại La Vang năm 1798 bằng tiếng Việt, không
cần thông dịch viên từ tiếng Aramic sang Việt Ngữ. Có lẽ tiếng nói
của Người hơi nặng theo giọng Huế hoặc Quảng Trị!
Các chương khác
trong sách:
Vài lời tâm huyết - Sách Kinh Công Giáo (Charlie Nguyễn)
Bầy Quạ Trên Xác Người Đàn Bà Do Thái (Charlie Nguyễn)
Cha Con Giáo Hoàng Alex VI (Charlie Nguyễn)
Cách Làm Tiền của Vatican (Charlie Nguyễn)
Công Giáo Và Thánh Tử Đạo (Charlie Nguyễn)
Giáo Hội Gian Ác (Charlie Nguyễn)
Kinh Nguyện Và Kinh Thánh (Charlie Nguyễn)
Những Tác Hại Của Các Kinh Sách Công Giáo (Charlie Nguyễn)
Phụ Lục: Tấm Vải Liệm (Charlie Nguyễn)
Sách Kinh Công Giáo - Dòng Tu Đồng Công (Charlie Nguyễn)
Tín Điều Huyền Thoại (Charlie Nguyễn)
Vatican, Xưởng Sản Xuất Phép Lạ (Charlie Nguyễn)
Đoạn Kết - Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Charlie)
Trang Charlie Nguyễn
Trang Tôn Giáo