|
¿ trở ra mục lục
| bản in |
22 tháng 3, 2010
|
Chương IV
GIÁO HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN
1 ─
NGƯỜI CÔNG GIÁO YÊU NƯỚC VÀ NHỮNG NGƯỜI CÁCH MẠNG
Từ những năm 20-30, Cơ quan an ninh và Mật vụ trung
ương của Toàn quyền Đông Dương bắt đầu theo dõi sát người Công giáo, từ trước
tới giờ kể như hoàn toàn nhiệt tình với Pháp nhưng từ nay tình cảm yêu nước bắt
đầu lộ dạng. Các Linh mục Việt Nam đã gửi thư trình bày với Tòa thánh những nỗi
đau buồn của họ, vì tất cả các chức vụ cai quản Giáo hội đều nằm trong tay vị
thừa sai nước ngoài. Việc thông báo này được làm cách bí mật, không cho các Giám
mục người Âu hay biết.
Cơ quan an ninh trung ương nêu rõ mối nguy cơ của việc
này: một đàng, Hồng y Van Rossum, đứng đầu Thánh bộ Truyền bá Đức tin, tỏ ra
không thân với nước Pháp. Đàng khác, tình cảm yêu nước của người Công giáo có
thể đưa đẩy họ tham gia các phong trào nổi dậy nhằm cởi bỏ ách nô lệ. Trong một
tài liệu đề ngày 1 tháng 10 năm 1924, tình hình chưa phải là báo động: Dầu chính
sách của ta tại Đông Dương có thế nào chăng nữa, đều vô lý là tại sao không chịu
tiếp tục xử dụng lực lượng dể bảo và có năng lực (Công giáo) đó, nhất là vì lợi
ích của thuộc địa. Nhưng trong một tài liệu mật đề ngày 14.12.1934, nghĩa là một
năm sau khi phong chức cho Giám mục Việt Nam đầu tiên, chính phủ thuộc địa nhận
thấy rằng các linh mục trẻ trước tiên là hạng người yêu nước và hàng Giáo sĩ
Pháp không thể cả quyết được rằng mình «nắm họ chắc chắn trong tay». Bởi thế,
nhiệm vụ của chính quyền là phải coi chừng lòng yêu nước khiến họ vượt ra khỏi
giới hạn có thể cho phép.
Điều làm cho người Pháp lo lắng, là chương trình
Vatican dự tính lập thêm một địa phận mới tại Việt Nam và sẽ giao quyền cho một
Giám mục người Việt và có thể ngăn chặn sự bộc phát tinh thần yêu nước nơi đồng
bào của họ, tinh thần đó đã được gia tăng bởi những biến chuyển về tinh thần.
Dầu thế nào đi nữa, thì hoạt động của một Giám mục người Việt cũng không thể nào
được như điều chính phủ có thể hy vọng nơi một giám mục người Pháp. Chính quyền
thuộc địa bèn đề nghị chính phủ Pháp gây áp lực khiến Roma theo ý họ. «Tính cách
hiển hách của lịch sử nước ta tại mảnh đất này, quyền hành chúng ta đã thiết lập
được tại đó, trật tự lớp lang và sự yên ổn chúng ta đã đóng góp vào bằng quân
sự, tất cả những thứ đó phải cho phép chúng ta mong được thấy giới Công giáo
Pháp tỏ ra bớt nhắm mắt tuân thủ Roma chứ».
Chính quyền thuộc địa sợ rằng, Roma lấy lại cách làm
thời trung cổ là tạo lập ra một nước Công giáo tại các thuộc địa ─
«Nước Công giáo đã đẻ ra biết bao xáo trộn xã hội, ta đừng quên điều đó» -- rằng
Giáo hội Công giáo phát huy phong trào yêu nước đang nổi lên, nhất là từ sau vụ
Nhật Bản thắng trận thủy chiến. Trong số các nhà cách mạng nổi tiếng hồi đầu thế
kỷ, phải nhắc tới Linh mục Đậu Quang Lĩnh, bị đầy ra Côn Đảo do sự xúi bậy của
các cố thừa sai Pháp, rồi được tha về sống quản chế tại Sài Gòn cho tới chết.
Linh mục Đậu Quang Lĩnh là người Đức Thọ, Nghệ Tĩnh,
cùng với một người đồng hương Công giáo cách mạng khác là Mai Lão Bạng cũng đã
chia sẻ cảnh tù đầy tại Côn Đảo với nhà đại cách mạng Phan Bội Châu. Bị bắt vì
tham gia phong trào Duy Tân và đã tuyên truyền chống Pháp trong giới Công giáo
Việt Nam. Cụ Mai Lão Bạng lúc đầu phải chịu sự cải tạo của các cố Tây từng đe
dọa vạ tuyệt thông cho ông, nhưng ông trả lời: «Các linh mục Pháp được quyền yêu
nước Pháp và chiến đấu vì nước Pháp, tạo sao tôi lại bị vạ tuyệt thông chỉ vì
tôi yêu tổ quốc tôi?». Tiếp theo, cụ bị tra tấn, rối bị kết án tù chung thân tại Côn Đảo. Cụ thường
nói với những người có dịp gặp rằng: «Đức Kitô chống lại tội bóc lột, áp bức, đó
là tôi sống trung thành theo giáo huấn của Chúa. Người Công giáo và người không
Công giáo có khác nhau về tôn giáo, nhưng họ giống nhau một địa bàn, đó là lòng
yêu nước và làm cách mạng chống thực dân để cứu Quê Hương». Nhờ áp lực của dư
luận quần chúng, cụ Bạng được tha một lần với cụ Phan Bội Châu năm 1918 và phải
sống rất cơ cực với suốt chuỗi ngày còn lại dưới sự kiểm soát của cảnh sát. Cụ
Phan Bội Châu hết lời ca ngợi cụ Mai Lão Bang. «Cụ Mai Lão Bang đã phải chịu
trăm nghìn sự khốn khổ vì lòng yêu nhân dân và mặc dầu bị đàn áp mấy cụ vẫn
không hề thay đổi tư tưởng. Cụ thật là một đồ đệ xứng đáng của Đức Kitô».
Hồi những năm 30, đã có các cuộc nổi dậy của nhân
dân tại Yên Bái, Vinh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quãng Ngãi, Bình Định, Thái Bình
v.vv... trong số người bị cảnh sát Pháp bắt và đầy vào ngục thất Côn Đảo, Đắc
Tô, Sơn La, người ta thấy có hàng trăm người Công giáo. Trong số này, có linh
mục Nguyễn Thần Đồng, người gốc Nhân Hoa, tỉnh Nghệ An; Linh mục Nguyễn Văn
Tường đã chết trên tàu chở ra Côn Đảo với nhiều anh em khác bởi bị tra tấn đánh
đập quá dã man do bàn tay cảnh sát Pháp. Những người cách mạng này thường kết
hợp với các tổ chức yêu nước thời đó, hoặc đơn phương chống lại chính quyền thực
dân mà không qui chiếu gì đến vấn đề tôn giáo riêng của mình.
Mãi tới năm 1945, gần tới ngày cách mạng tháng Tám,
người ta mới nghe nói tới các tổ chức Công giáo đứng ra vủ trang đánh bọn thực
dân Pháp và Nhật. Những nhóm Công giáo này cũng tổ chức chiến khu tại Quỳnh Lưu,
Ninh Bình dùng chiến thuật du kích tấn công các đồn bót Pháp.
2 - NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÁNG CHIẾN Ở NAM BỘ
Ai cũng biết sự phấn khởi của các linh mục và giáo
dân Việt Nam sau ngày Cách mạng tháng Tám. Nhưng trời Việt Nam chẳng bao lâu đã
tối sầm lại. Tháng 9, 1945, các toán quân viển chinh của tướng Leclerc đổ bộ lên
Sài Gòn. Cụ Hồ Chí Minh lên tiếng ngày 26-8, kêu gọi toàn dân đứng lên kháng
chiến. Liên đoàn Công Giáo kháng chiến Nam bộ được thành lập. Nhờ hỏa lực mạnh,
bọn Pháp đánh chiếm khá dể dàng các thành phố và trục giao thông. Cùng những
nhóm kháng chiến khác, thành phần Công giáo kháng chiến phải rút vào bưng và
dùng chiến thuật du kích đánh lại quân chính qui.
Hồi đó, Nam bộ được chia ra ba vùng chiến khu, là
khu 7, 8, và 9 (khu 1, 2, 3 ở Bắc -- khu 4, 5, 6 ở Trung). Tại mỗi khu, kháng
chiến Công giáo có khoảng 400-600 chiến sĩ, được trang bị những súng cũ, nhưng
tinh thần rất cao, nhất là nhờ sự cổ vũ của đồng bào Công giáo tuy không có vũ
khí, mà cũng quyết tâm đánh đuổi quân thù. Về mặt thiêng liêng, họ được các linh
mục yêu nước giúp đỡ, như ba anh em linh mục Nguyễn Bá Luật, Nguyễn Bá Sang và
Nguyễn Bá Kinh. Cha Luật bị bắt, bị giam lâu ngày trong một quân lao ở Hòa Hưng.
Linh mục Lê Đình Hiền đã bị chết trong một trận không kích của máy bay. Trong số
linh mục kháng chiến còn sống sót sau 8 năm vào bưng, phải kể các cha Hồ Thành
Biên, Lương Minh Ký, Nguyễn Bá Kính, Võ Thành Trinh.
Đời sống trong bưng rất cực khổ. Bị máy bay ném bom
đánh phá liên tục, bị các đoàn xe lội nước càn quét, quân kháng chiến không
những chống cự lại và công địch, mà còn phải lo việc bảo vệ các thôn lương và
giáo khỏi bị giặc đánh phá càn quét. Giữa Kháng chiến Công giáo và Việt Minh
luôn luôn cò sự đoàn kết chặt chẽ. Một người Công giáo cựu kháng chiến thời đó
thuật lại: «Nhờ các Linh mục lãnh đạo tổ chức khéo léo và hoàn chỉnh, Ủy ban
Kháng chiến Nam bộ đã tin tưởng chúng tôi và chấp nhận cho chúng tôi hợp tác
chặc chẽ. Cha Luật trở thành ủy viên trong Ủy ban Kháng chiến và từ tháng 5 năm
1946, nhiều người Công giáo kháng chiến các Khu như ông Nguyễn văn Trương, Công
giáo Kháng chiến khu 8 và Trịnh khánh Vàng, chủ tịch Công giáo Kháng chiến khu
9, được cử làm Phó chủ tịch các Ủy ban Kháng chiến hai khu 8 và 9.
Ngoài các khó khăn của chiến tranh du kích, người
Công giáo kháng chiến còn phải đương đầu với những gian khổ khác nữa nhằm đánh
mạnh vào Công giáo kháng chiến. Phòng Nhì của quân viễn chinh Pháp đã lập ra các
«Đơn vị lao động bảo vệ Công giáo», tập họp thành phần Công giáo bảo thủ dưới
một ngọn cờ riêng - hình Thánh giá trên nền trắng và xanh (màu cờ Đức Mẹ) và
phương châm «Vì Chúa Vì Tổ Quốc». Mục tiêu của họ là các làng Công giáo còn nằm
trong tay kháng chiến kiểm soát. May thay, đám «lính Chúa» này tại Nam bộ không
được hàng giáo phẩm chúc lành và không gây tác hại cho danh nghĩa Công giáo bằng
Lính Công giáo ở Đồng bằng sông Hồng.
Nhưng cái đe dọa làm nhụt đi năng lực của Công giáo
kháng chiến, không phải là cuộc tấn công của các đoàn «lính chúa», nhưng chính
là khoa tâm lý chiến của đạo quân viễn chinh, triển khai nhân danh Vatican từ
năm 1950. Máy bay Pháp đã mưa xuống các vùng Kháng chiến kiểm soát hàng loạt
truyền đơn, có hình đức Piơ XII kèm theo những lời kết án Cộng sản, hoặc sắc chỉ
ra vạ tuyệt thông Cộng sản.
Người ta bảo rằng chung sống với Việt minh tức là bỏ
đạo, là phản bội đức tin. Ngược lại, để làm mất uy tín của Kháng chiến, bộ tâm
lý chiến lại tung ra những tin tức nói rằng nhiều linh mục và lãnh tụ Công giáo
đã bị Cộng sản giết hại, hoặc đã bỏ đạo hàng loạt nơi xứ nọ xứ kia trong vùng
kháng chiến. Cha Trinh đã nói lại với chúng tôi rằng, cha đã cười muốn chết khi
cha và giáo dân của cha lượm được các tờ rơi nói rằng chính cha đã chết rồi!
Mặc dầu bị tấn công bởi Pháp về mặt quân sự, cũng
như tâm lý, tinh thần Công giáo kháng chiến vẫn cương quyết vững vàng không lay
chuyển. Theo hiệp định Giơnevơ năm 1954, Quân đội Việt minh phải tập trung trên
vĩ tuyến 17. Chừng 500 người Công giáo kháng chiến đã phải chan hòa nước mắt từ
giã vợ con, để tập kết ra Bắc với các vị mục tử của mình, là cha Hồ thanh Biên,
Lương minh Ký, Võ thành Trinh, Nguyễn bá Lễ.
3 ─
CÔNG GIÁO KHÁNG CHIẾN BẮC BỘ
Cuộc kháng chiến của người Công giáo miền Bắc trong
những năm 1946 - 1954, cũng quan trọng không kém trong Nam. Một trong những
khuôn mặt nổi bật nhất là linh mục Phạm Bá Trực, địa phận Hà Nội. Trước cách
mạng tháng Tám 1945, cha nổi tiếng là một ngườu yêu nước chống Pháp kiên quyết
nhất. Sau khi học xong tại Roma - đã đậu tiến sĩ triết và thần học - trở về
nước, cha càng thấy rõ hơn ai hết những cảnh bất công đồng bào mình phải chịu
cũng như cả Giáo hội Việt Nam phải chịu. Được bầu vào Quốc hội tháng giêng năm
1946, rồi cha được bầu vào Ủy ban Thường trực Quốc hội trong thời kháng chiến.
Cuộc sống vất vả trong chiến khu làm cha kiệt sức và đã từ trần ít lâu sau Hiệp
định Giơnevơ. Cụ Hồ Chí Minh đã đích thân đọc bài điếu văn để tưởng nhớ công lao
con người mà cụ gọi là đại yêu nước và «bạn chí cốt» của cụ. Cụ tuyên bố: «trong
tất cả những việc làm, Cụ Trực đã biết kết hợp nhân đức và lòng ái Kitô giáo
theo giáo huấn của đức Kitô với lòng yêu nước nồng nàn của cụ, nói tắt rằng cụ
Trực là một người đại diện đáng kính trọng của nhân dân Việt Nam. Hôm nay, cụ từ
trần, chính phủ và nhân dân hết lòng khóc thương cụ. Trong khi cụ bị đau liệt
giường, cụ sẳn sàng đổ máu mình ra vì sự chiến thắng sau cùng của Kháng chiến... »
Như anh chị đồng đạo miền Nam, người Công giáo kháng
chiến miền Bắc cảm thấy rất đau lòng khi các Giám mục tung ra cuộc kháng chiến
chống cộng, từ tháng 11 năm 1951, nhất là vào lúc quân lính Công giáo do hàng
Giáo sĩ vùng đồng bằng sông Hồng chỉ huy, ngày càng phạm nhiều điều gian ác nhân
danh Thánh giá. Linh mục Nguyễn thế Vịnh nói với chúng tôi về tâm trạng của các
chiến sĩ. «Chúng tôi cảm thấy một nỗi buồn tê tái trước việc Giáo hội chạy theo
cơ đồ của Pháp, nhưng sau khi cùng nhau nghiên cứu kỹ lưỡng tài liệu của hàng
Giáo phẩm, chúng tôi đã tuyên bố rằng, hàng giáo phẩm đã tỏ rõ một lập trường
chính trị hơn là tôn giáo, rằng lập trường đó đi ngược lại điều răn của Chúa dạy
phải yêu mến Tổ quốc - điều răn thừ tư, và cũng đã thiệt hại cho chính Giáo hội
Việt Nam, lẽ ra phải đoàn kết cùng toàn dân Việt Nam để giải phóng đất nước khỏi
ách nô lệ. Để đáp lại bản tuyên bố của các Giám mục theo cách của chúng tôi,
chúng tôi đã tăng cường cuộc chiến đấu vì nền độc lập của Tổ quốc Việt Nam».
Cũng cần nhắc qua nỗi khốn khó về tâm lý của những
người Công giáo kháng chiến này. Sau Thư chung của các Giám mục năm 1951, họ bị
anh em đồng đạo của mình kết án là «giáo gian», xua đuổi không tiếp rước và nếu
rủi họ bị đám «lính Công giáo» bắt được, thì bị tra tấn chẳng khác gì Tòa án tôn
giáo ngày xưa. Nhiều lần, những giáo dân bảo thủ cực đoan đã đóng sập cửa nhà
thờ ngay trước mũi các linh mục kháng chiến, cấm không cho họ dự thánh lễ, thậm
chí lượm đá ném vào họ với những lời chửi rủa thậm tệ lá «đồng minh của Xatan».
Họ là ai? Là những vị linh mục và giáo dân, trí
thức, công nhân và nông dân. Về các Linh mục kháng chiến, ông Dương Văn Đàm, một
luật gia Công giáo Hà Nội viết: «Phải thú thật rằng, những phần tử Công giáo
chọn con đường kháng chiến vì nền độc lập và tự do của dân tộc, đã chứng tỏ một
tinh thần hy sinh và dũng cảm đáng ca ngợi. Họ đã ra đi kháng chiến chẳng phải
để được một vị trí nào trong xã hội, hay là được tiền bạc gì, chẳng qua họ đã
tìm trở lại đứng về phía nhân dân bằng những việc làm cụ thể, sống đức tin và
rao giảng đức tin không chỉ trên tòa giảng ở giữa tiếng hát và chuông reo, nhưng
là trên đường mòn Hồ Chí Minh, ống quần xắn cao, lưng mang ba lô, nhằm thực hiện
«thần học xả thân», «thần học thực tế của nhân dân» (Chính nghĩa, 21.3.1974).
Mặc dầu thế, sấm sét của hàng Giáo phẩm vẫn tiếp tục
giáng xuống đầu họ. Linh mục này hay linh mục nọ đã bị treo chén vì những hoạt
động yêu nước, linh mục này hay linh mục khác bị phạt vạ vì đã bí mật ủng hộ
kháng chiến.
Ngày 11 tháng 3 năm 1955, tại Hà Nội, đã tổ chức
Đại hội toàn quốc lần thứ nhất những người Công giáo kháng chiến, gồm các
đại biểu linh mục và giáo dân từ nhiều địa phận và xứ đạo về tổng kết tình hình
và tìm cách đối phó hợp tác hình thức hoạt động yêu nước của đồng bào Công giáo.
Tại đây, họ không hề nhắc tới chuyện Giáo hội tự trị hay Giáo hội ly khai: Tuy
nhiên, do sự xúi giục của Khâm sứ Đulây, Hồng y Fumasoni Bionđi, chủ tịch Thánh
bộ Truyền bá Đức tin, đã gửi cho các linh mục yêu nước một bức thư lời lẽ rất
nghiêm khắc, tố cáo họ là kẻ cổ vũ và bảo trợ cho một phong trào rất nguy hại
cho sự hiệp nhất. Giáo hội tại Đông Dương là một nhánh nho lìa khỏi gốc nho. Bức
thư còn tiếp tục đưa những suy nghĩ thần học. Chỉ có Giáo hội mới là «cột trụ
của chân lý». Và chỉ ở bên trong sự hiệp nhất và đồng tâm đó thì việc cứu rỗi
đất nước thân yêu của các cha mới có thể thực hiện về mặt tinh thần cũng như về
mặt vật chất, lời sau đây của Chúa Giêsu và sẽ mãi mãi một chân lý không thể
chối bỏ? «mọi quốc gia mà chia rẽ nội bộ thì sẽ sập đổ»
Giám mục Hoàng văn Đoàn, lúc đó là giám mục Bắc
Ninh, đã gởi cho Đại hội một thư chúc mừng ủng hộ. Ít tháng sau, ngài rời xa đất
nước với giấy phép đi Hồng Công điều trị một vết thương do tai nạn. Theo một
người từng quen biết đức cha và đã gặp đức cha nhiều lần trước ngày ra đi, thì
Đức cha phải ra đi vì vâng lệnh đức Khâm sứ Đulây đã không bằng lòng với kiểu
lập trường của đức cha đối với những người Công giáo yêu nước. Ông này là một
ông biện nhà thờ chính tòa Hải phòng. Khi tôi gặp đức cha Đoàn tại tòa Giám mục
Hải phòng, tôi có hỏi ngài: «Khi các Linh mục Hải phòng còn đông, cha Nghiệm đã
tuyên bố trước mặt họ và trước mặt chúng con rằng Việt minh đã đánh gãy một giò
của đức cha, có đúng thế không? Ngài trả lời đó là một câu nói láo của họ, tôi
bị té xe đạp gãy một chân, trong lúc đi thăm kẻ liệt, đâu phải Việt minh đánh
gãy chân tôi.»
4 - CỤ HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI GIÁO HỘI
Để mô tả tình hình Giáo hội tại miền Bắc sau khi
quân đội Pháp rút đi, báo Missi đã viết trong số tháng 2-1956 như sau: «Sự im
lặng nặng nề của một bức màn vô hình. Trong cảnh im lặng nặng nề đó, được giăng
ra giữa Công giáo và Cộng sản chủ nghĩa vô thần, cơ bản là chiến đấu ở bên này
và đức tin tôn giáo ở bên kia. Bức màn này, chưa có một thiện chí nào thành
công. Cái máy ép của Cộng sản không hề nghĩ ngơi, nó ép cho mọi người sa vào đó
phải theo một tiêu chuẩn vô thần chung». Phan phát Huồn, linh mục Dòng Chúa Cứu
thế, tác giả của một cuốn sách lớn về lịch sử Giáo hội Việt Nam, xuất bản tại
Sài Gòn năm 1962, cả quyết rằng: Kế hoạch của Cộng sản đã rõ, là sử dụng các tổ
chức Công giáo cấp tiến để tiêu diệt Công giáo. Ngoài ông Ngô tứ Hạ, do Cộng sản
đặt lên đứng đầu tổ chức, người ta thấy một ít người ngày xưa có lòng đạo và từng
là thành phần của những hội từ thiện, nhưng ngày nay đã hoàn toàn theo Cộng sản.
Họ vịn vào một vài nguyên tắc tự họ đặt ra để che đậy hành động của mình, họ
tuyên bố rằng: «người công Giáo chỉ phải vâng lời các Giám mục và hàng Giáo phẩm
trong lĩnh vực đức tin mà thôi». Một nguyên tắc bao gồm nhiều ý tưởng mâu thuẩn!
Điều họ chủ tâm thật, là giới hạn các hoạt động của hàng Giáo phẩm lại trong bốn
bức tường nhà thờ, không hơn không kém!”
Nhà sử gia giáo hội đó còn quở trách những người
Công giáo tiến bộ là đã theo đường lối chính trị chống Mỹ và chống Diệm của
chính phủ Hồ Chí Minh (!). Tác giả cũng nhấn mạnh ý đồ «ma quỉ» của Cộng sản, là
không để tạo ra những vị Thánh tử đạo, mà để cho Giáo hội chết mòn dần dần.
Thực tế xảy ra như thế nào?
Hôm lễ Giáng sinh 1954, Cụ Hồ Chí Minh đã gởi một
thư chúc mừng bà con Công giáo: «Trong 8 năm chiến tranh, máy bay và xe tăng của
Pháp đã tàn phá nhiều ngôi nhà thờ, giết hại nhiều tín đồ. Năm nay là lần đầu
tiên chúng ta được ăn mừng lễ Giáng sinh trong hòa bình... Lợi dụng dịp này, tôi
muốn nói lại với đồng bào giáo hữu cho rõ, rằng chính phủ của tôi thành thật tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng. Còn những người Công giáo đã đi di cư vào Nam,
chính phủ đã ra lệnh cho chính quyền địa phương, phải lo giữ gìn cẩn thận tài
sản của họ và nếu họ trở về thì sẽ hoàn lại cho họ».
Bức thư mừng Giáng sinh 1955 cũng có lời lẽ tương
tự: «Miền Bắc chúng ta đã hoàn toàn được giải phóng. Nhân dân ta sống trong phần
đất nước đó ngày nay được hưởng tự do thật sự. Họ được yên ổn lao động sản xuất.
Người Công giáo, về phần mình, được tự do thờ phượng Chúa. Họ không phải khổ tâm
nhìn thấy các nhà thờ bị chiếm đóng bởi kẻ địch tàn sát những người vô tội, gieo
rắc khắp nhân dân những điều nhục nhã và đau khổ. Tiếng chuông hòa bình, tự do,
hạnh phúc; tình cảm thân ái trong lòng của tất cả người Công giáo miền Bắc Việt
Nam...
Tôi yêu cầu đồng bào Công giáo miền Bắc, cũng như
toàn thể nhân dân, hãy đem hết sức mình góp phần xây dựng một đất nước ngày càn
phồn vinh và bền vững. Hãy tham gia tích cực vào các cố gắng của cả nước về sản
xuất, trong các ngành sinh hoạt quốc dân. Tôi hết lòng gởi đến đồng bào Công
giáo những lời chúc mừng nồng nhiệt. Tôi chúc cho năm tới sẽ là năm đầu phúc
lành cho bà con tín đồ, cũng như toàn thể đất nước ta».
Để cụ thể hóa chính sách tôn giáo của chính phủ,
quốc hội đã thông qua hồi tháng 3 năm 1955, bốn nghị quyết về sau được thể hiện
qua Sắc lệnh ngày 14-6-1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Sắc lệnh đó gồm 3 chương
và 15 điều.
ĐIỀU 1 ─ Chính phủ bảo đảm quyền tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm
phạm quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều được quyền tự do theo một tôn giáo,
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các
cơ sở tôn giáo (như nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý v.v...)
Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ
giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn
trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
ĐIỀU 2 ─ Các nhà tu hành và các tín đồ được hưởng mọi quyền lợi của công dân và
phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân.
ĐIỀU 4 ─ Các tôn giáo được mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn
giáo của mình.
ĐIỀU 5 ─ Các tôn giáo được xuất bản và phổ biến các sách giáo lý, các sách và
tạp chí mang tính chất tôn giáo, nhưng phải tuân giữ nghiêm chỉnh các pháp luật
của chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về vấn đề xuất bản.
ĐIỀU 6 ─ Các nhà thờ, đền chùa, miếu, thánh thất và các đồ thờ, các trường giáo
lý của tôn giáo được luật pháp bảo hộ.
ĐIỀU 7 ─ Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào mượn danh nghĩa tôn giáo để phá
hoại hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến tranh phá hoại
đoàn kết, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng
và tự do không tín ngưỡng của người khác, hoặc làm những việc trái pháp luật.
ĐIỀU 10 ─ Trong cải cách ruộng đất, khi chính phủ trưng thu hoặc trưng mua ruộng
đất của các tôn giáo để chia cho nông dân, thì sẽ để lại cho nhà thờ, nhà chùa,
thánh thất, một số ruộng đất đủ lo cho việc thờ cúng và nhà tu hành có điều kiện
sinh sống để làm việc tôn giáo. Số ruộng đất là bao nhiêu, sẽ do nông dân tại
địa phương (nơi có nhà thờ, nhà chùa, thánh thất) bình nghị và do chính quyền
cấp tỉnh chuẩn y.
ĐIỀU 13 ─ Chính quyền không can thiệp vào nội bộ tôn giáo. Riêng về Công Giáo,
quan hệ về tôn giáo giữa Giáo Hội Việt Nam với Tòa Thánh La Mã là vấn đề của nội
bộ Công Giáo».
Đó là những tuyên bố về ý hướng, hay là những biện
pháp của chính sach rộng rãi?
Một số phê bình, luôn luôn có thói quen chẻ sợi tóc
làm tư khi đứng trước những sự việc không ăn khớp với tư tưởng thành kiến của
họ, thì ngần ngại tìm thấy trong luật tôn giáo vừa kể những điều sơ hở. Chẳng
hạn báo Missi (2-1956) viết: «Quyền tự do được qui định rộng rãi như thế, nhưng
vẫn hàm chứa nhiều điều phài dè dặt như lưỡi gươm của Đamokles treo trên đầu
«những kẻ nào lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để... ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ
công dân». Những điểm hạn chế như vậy là xằng bậy, bởi vì nó giả thiết là có một
loại tội ác về tôn giáo. Một hành vi phạm tội bị xét xử không phải tự nó thôi,
mà trong quan hệ giữa hành vi đó với tôn giáo. Như thế, một pháp luật mang từ
ngữ rất rộng rãi cởi mở, có thể thành vô hiệu bởi những hình thức hạn chế nhằm
xét xử không phải chỉ các hành vi thôi, mà cả ý tứ bên trong nữa!”
(xem tiếp mục số 5)...>>>