Góp Ý Với “Đoan Hùng Tùy Bút” về Chữ Viết La Tinh.

FB Anh-Tuấn Lê

http://sachhiem.net//TONGIAO/FB/FBAnhTuanLe04.php

03-Dec-2019

... bạn lái đề tài sang câu hỏi "con dao có sắc bén, bền, tiện lợi có hữu ích hay không?" ... toàn bộ các khái niệm trong tiếng Việt như "quốc gia, hiến pháp, chính phủ, tôn giáo, khoa học, văn học, lan, mai, cúc, trúc, đông, tây, nam, bắc, xuân, hạ, thu, đông", mà theo tôi là của quý mà dân tộc ta vay mượn từ chữ Hán. Nếu chúng ta trả lại cho TQ toàn bộ các "tiếng nói" đó thử xem, chúng ta có giao tiếp với nhau được nữa không, chứ không nói là sáng tác văn chương, tiếp nối văn học nghệ thuật, phát triển văn hóa dân tộc...

GÓP Ý VỚI Đoan Hùng Tùy Bút về CHỮ VIẾT LA TINH.

Bạn Trần Đức Tâm giới thiệu cho tôi bài viết rất có giá trị khảo cứu ngữ học linguistics trên tường nhà của bạn, tôi có vào lướt qua chứ không đọc từng chữ từng câu như thường lệ, vì bài viết nặng phần phân tích "kỹ thuật" chuyên môn dành cho ai có trình độ về Nhật ngữ hoặc ký âm pháp. Bên tây âu, tiếng Trung được học nhiều hơn tiếng Nhật, nên người biết về tiếng Nhật, đa phần là người từng du học hoặc sinh sống ở Nhật. Rất tiếc tôi không thuộc thành phần này. Về phần phân tích chữ Hán và Nôm, tôi hiểu được rất nhiều điều bạn nói, nhưng đại loại, đó chỉ là kỹ thuật phiên âm, tựa như những nốt do, re, mi, fa, sol, la, si...hoặc hò, xị, xang, xê, cống phàn, liu trong âm nhạc. Ngày nay ta xài Piano, guitar, violon, rất ít xài hoặc gần như loại bỏ các cây đàn kìm, đàn tranh, đàn bầu, đàn độc huyền cầm...nhưng âm nhạc vẫn là của ta, diễn đạt tư tưởng và tâm hốn ta, chứ các nốt nhạc chỉ là công cụ hay phương tiện để ký âm cho các quãng âm khác nhau.

Tôi dám bảo đảm một điều rằng, người Trung Quốc hay Nhật Bản, hay bất kỳ một dân tộc nào có nền văn hóa khác với La Tinh như Ấn, Nga các các nước Hồi Giáo, với sức học và sự hội nhập văn hóa vào thế kỷ 21, họ đều có thể phiên âm chữ viết của họ ra La Tinh một cách dễ dàng, chỉ cần một nhóm chuyên viên cọng các chừng vài tháng là có thể hoàn thành các luật tắc ký âm bằng La Tinh cho bất kỳ ngôn ngữ nào. Nhưng không ai muốn hay dám làm điều này.

Vì sao ?

Họ cảm thấy khó có thể cắt đứt cuốn rốn của chính mình.

Tuy cha mẹ tổ tiên ta rất nghèo khó, ta có thể nhận kẻ khác làm cha nuôi giàu sang hiển hách, nhưng tình yêu mà ta dành cho cha mẹ ruột, văn hóa ruột, quê xưa, làng cũ không thể bỏ đi. Nên rất nhiều dân tộc thà giữ văn tự rắc rối do tổ tiên để lại hơn là chế ra cách viết bằng chữ La tinh để dễ hòa nhập vào đại dương media của thế kỷ 21, chứ đừng nghĩ là họ không làm được.

Cả một nền văn hóa mấy nghìn năm, không thể đánh đổi lấy cách phiên âm cho gọn, giản dị, dễ học, dễ phát triển qua sự uyển chuyển của ký âm bằng La Tinh.

Nói thực, nếu đã xem phương tìện quan trọng hơn cứu cánh, thì tôi đề nghị bỏ hết các ký tự đặc biệt hay các dấu như ?, ~, ., ă, â, ư, ơ luôn, thay vào có bằng cách viết biểu lộ các dấu ấy bằng một luật ký âm khác hoàn toàn trùng khớp với Anh ngữ, thí dụ có thể thay chữ "ư" thành "uw", chữ "ơ" thành "ow" (chỉ là thí dụ thôi), thì ta không cần có bàn phím khác, phần mềm khác, chỉ cần mua máy điện toán của bất kỳ xứ nào xài La Tinh là ta có thể viết được chữ Việt mà không cần bất kỳ phần mềm nào.

Ngay bây giờ mà đòi bỏ các dâu, các âm đặc biệt như ư, ơ thì tôi e là sẽ bị kẻ quá khích cho ăn dao găm hay súng, chứ nói gì là phá hủy cả một hệ thống chữ viết được truyền lại từ 2,3 nghìn năm !

Cho nên tôi tin rằng các dân tộc như Hàn, Nhật, Hoa, Ấn, Miên, Thái, Ả rập họ không thể La Tinh hóa vì họ bất tài không thể làm được, mà vì họ hãnh diện về tổ tiên, gìòng giống của họ, không muốn đánh đổi cả một chiều dày lịch sử của mình để đổi lấy một chiếc xe biết bay.

Tôi không tin rằng, nếu không có Albert Sarraut hay Martial Merlin áp đặt lên đầu lên cổ nhân dân ta phải dùng chữ viết La Tinh, mà cho đến ngày nay ta vẫn còn xài chữ Nôm hay Hán, nếu có một cuộc trưng cầu dân ý đòi thay chữ Nôm, Hán bằng chữ La Tinh của Francisco de Pina, thì chưa chắc người Viêt Nam sẽ bỏ phiếu thuận. Họ không dễ thay đổi thói quen như vậy, dù rằng học chữ Hán và Nôm rất khó.

- Đơn cử một trường hợp như sau:

Một số bạn thuộc lòng hai câu thơ sau đây, được cho là của Không Lộ Thiền Sư, bằng âm Hán Việt :

Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh

Trường Khiếu nhất thanh hàn thái hư.

有時直上孤峰頂,

長叫一聲寒太虛

Người đã thích thi ca, thì đọc và thuộc như vậy, chả ai muốn dịch ra tiếng việt làm gì, vì dịch ra, nó mất sự hùng tráng, mất đi văn phong cổ điển đượm mùi thiền và mùi thoát tục trên ngọn cô phong.

- Một thí dụ khác:

Người VN cuốn chả giò (người Bắc gọi là Nem) bằng bánh tráng gạo, một số người TQ bắt chước chả giò VN làm, rồi họ nảy ý thay bánh tráng gạo bằng bánh tráng mì, dễ chiên và giòn hơn. Lúc đầu mới ăn, tôi cũng thấy thích, vì lạ, cắn vào nghe giòn rụm và thơm mùi lúa mì, nhưng chỉ vài lần cho lạ miệng. Về sau, tôi thấy chả giò cuốn bánh tráng mì thì không bao giờ động đũa, vì nó không ký thác toàn bộ hương vị quê hương Việt của tôi vào miếng cắn như với bánh tráng gạo quê hương, dù chiên khó hơn, quấn khó hơn.

Cái thời buổi bỏ Nôm sang La Tinh đã gần 100 năm, người thời nay bàn lại, chỉ nhìn thấy cái lợi ích chứ không thấy cái tình cảm văn hóa lưu luyến trong nét bút của người xưa.

Theo tôi, bài của bạn chủ yếu dẫn dắt độc giả đi vào cánh rừng ngữ học hơn là bàn thảo về việc có nên vinh danh hay không nên vinh danh Alexandre de Rhodes, tức là bạn lái đề tài sang câu hỏi "con dao có sắc bén, bền, tiện lợi có hữu ích hay không?" Trong khi chúng ta đang bàn về việc có nên hay không nên đưa lên bàn thờ kẻ cướp đã dùng con dao ấy, vào nhà, lật bàn thờ tiên tổ chúng ta, hãm hiếp con em nhà chúng ta, mưu toan bắt cả nhà làm nô lệ, nhưng không được tên cướp trốn đi.

Đại khái cũng tương tự như Pháp vào xâm lăng Việt Nam, tạo ra quốc lộ I đường xá, trường học, nhà thương, cầu cống và đường xe lửa Bắc nam...

Ta vẫn xử dụng đến ngày nay những gì Pháp xây dưng và để lại, hoàn toàn chả ai chống đối hay đòi hủy bỏ các "công cụ xâm lăng" kinh tế và văn hóa của Pháp, nhưng không vì vậy mà đất nước VN phải treo cờ Pháp, hát quốc ca Pháp, hay học lịch sử Pháp rằng chúng ta là con cháu của người Gaulois như trẻ con bên Pháp.

Biết phân biệt hai sự kiện như vậy đi, rồi bàn tiếp, nêu không, ông nói gà, bà nói vịt, cho đến vô tận vẫn không thể kết thúc được tranh luận.

Chúng ta không hô hào bỏ chữ La Tinh, nên sự bàn luận của bài này, tuy rất có giá trị ngữ học, lại đi quá xa đề.

Việc trở về với chữ Nôm là irreversible (bất khả vãn hồi), nên bàn về sự tiện ích của chữ việt La tinh là dư thừa, nó cũng tựa như ngày nay bảo người Việt ném bỏ hết điện thoại di động thì sẽ ăn dép ném vào mặt. Tôi không hề có ý ném bỏ chữ Việt La Tinh, cũng như không có ý khuyên mọi người không sử dụng điện thoại di động. Nhưng tôi cũng chả thấy cần phải tìm ra kẻ chế ra chiếc điện thoại di động đầu tiên mà đưa vào văn miếu tôn thờ, đúc tượng, đặt tên đường và ca hát nào là thánh tổ, nào là văn hóa vĩ đại...

Mà cho dù có cần vinh danh kẻ từng tạo ra Việt ngữ La Tinh, thì phải kể ra nhiều việc như sau:

1 => Rhodes không phải là Inventor của "quoc ngu", mà cũng chỉ là kẻ học "chữ annamite" được La tinh hóa từ Francesco de Pina, một giáo sĩ Bồ đi trước Rhodes và ít có nợ máu nếu không nói ra không có nợ máu với dân tộc VN, vậy cái tượng đài vinh quang của Rhodes nên nhường chỗ cho Francesco de Pina.

2 = > Nếu Rhodes không có tư cách của một tên vô lại, vô giáo dục, chỉ truyền giáo như Francesco de Pina thì ta cũng có thể cho Rhodes một chiếc ghế ngồi bên cạnh, nhưng với thái độ mắng Thích Ca là thằng hay dối, Lão giáo và Khổng Tử là đạo ma quỷ, lừa gạt và tất cả ba nhân vật trên đều được xưng hô là "nó, thằng", Rhodes còn dạy rằng thờ cúng ông bà tổ tiên là tà vạy, thì chúng ta có nên đưa lên bàn thờ văn hóa (ngày xưa là văn miếu) một tên vô văn hóa như vậy không ?

Giả thiết cùng lúc mà de Rhodes hoặc de Pina sang Việt Nam truyền giáo, bạn hãy tự tìm hiểu xem, một nhà Nho, một tu sĩ Phật giáo sang truyền đạo bên Âu châu, cho rằng Tử Bất Ngữ Quái Lực Loạn Thần (Không Tử không nói chuyện quái dị, bạo lực, loạn động hay thần linh) thì có bị đưa ra tòa án inquisition (toà dị giáo) thiêu sống hay không ?

3 => Một người cho ta kỹ thuật phiên âm tiếng Việt, ta lại muốn đưa lên bàn thờ, văn miếu, thế thì kẻ cho ta hầu hết các từ và toàn bộ các khái niệm trong Việt ngữ như "quốc gia, hiến pháp, chính phủ, tôn giáo, khoa học, văn học, lan, mai, cúc, trúc, đông, tây, nam, bắc, xuân, hạ, thu, đông", mà theo tôi là của quý mà dân tộc ta vay mượn từ chữ Hán. Có thể nói rằng, nếu TQ đòi chúng ta trả lại cho họ toàn bộ các "tiếng nói" (chứ không phải chữ viết), mà ta vay mượn từ nền văn minh của họ, rồi đưa Francesco de Pina, hoặc Aleandre de Rhodes lên thờ văn miếu, đừng xài các từ Hán Việt, thử xem, chúng ta có giao tiếp với nhau được nữa không chứ không nói là sáng tác văn chương, tiếp nối văn học nghệ thuật, phát triển văn hóa dân tộc (tất cả những từ bác học của VN đề có căn ngữ từ chữ Hán). Thiếu các khái niệm như tổ quốc, dân tộc, nguồn cội, văn minh, văn hóa, khoa học, xã hội, chính trị...thì tôi tin rằng chúng ta chả khác nào người thực vật, có cái đầu, nhưng thiếu hoàn toàn chất liệu để suy tư.

Vậy món ăn về khái niệm, triết học, lịch sử từ mấy nghìn năm ấy, ta có cần mang ơn không ? Tôi không hề có ý khiến dân tộc biến thành lũ Hán nô nhé (khoan chụp mũ). Người ta cho mình cả bình lẫn rượu, mình không cám ơn, có thằng khác cho minh cái lọ mới, mình sang rượu vàp bình mới, rồi bèn hô to lên rằng đây là đỉnh cao văn hóa, trong khi rượu vẫn chả ai khen hay "đòi nhớ kẻ trồng cây". Tôi thực sự không còn hiểu nổi người VN chúng ta nữa, bình qúy, hay rượu quý ?

4 => Bạn viết một vở kịch rất hay. Nhưng nếu không có đạo diễn, diễn viên, sân khấu, và nhất là người bỏ tiền đầu tư hay còn gọi là nhà sản xuất, thì vở kịch của bạn có được lưu truyền không ?

De Pina, hoặc De Rhodes chế ra chữ viết La Tinh, nhưng nếu không có hai quan toàn quyền Pháp, một là Albert Sarraut, hai là Martial Merin; Sarraut đầu tư vào tạp chí Nam Phong của Phạm Quỳnh và nhóm Pétrus Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Hùynh Tịnh Của tùy theo vùng vào năm 1017, Merlin ký sắc lệnh đưa chữ La Tinh vào trường học ngày 18 tháng 9 năm 1924. Không có hai viên toàn quyền này, thì chữ viết La Tinh ngày nay chỉ là đống giấy vụn trong bảo tàng viện, chưa chắc được ai biết tới cái tên.

Vậy theo tôi, nếu ta đặt cho một con đường nhỏ mang tên của De Rhodes, thì nên có hai đại lộ lớn, một cho Albert Sarraut và một cho Martial Merlin.

Các bạn thấy đề nghị của tôi có hữu lý không ? Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây, mà lại là hai nhân vật đưa chữ Việt La Tinh vào hành chánh, vào giáo dục, mới đúng là hai đại ân nhân của dân Việt chứ !

Ngoài ra tôi thú thật chả hiểu làm sao mà Luận Ngữ hay Khoá Hư Lục lại có thể được đọc bằng quốc ngữ như bạn nói ?

Bạn thử đưa luận ngữ phiên âm sang quốc ngữ mà không dịch, xem người Việt có đọc được không mà bạn đại khẩu hoa ngôn đến vậy ?

Vài hàng thô thiển để góp ý vào sự ca tụng cho văn hóa La Tinh mà bạn đã dày công nghiên cứu.

Dưới đây là bài biết của bạn Đoan Hùng, mà Trần Đức Tâm nửa đêm đã để vào MSG cho tôi.

Nhân dịp, xin cám ơn Trần Đức Tâm, không có Trần Đức Tâm, tương đương với toàn quyền Albert Sarraut, thì thú thật, tôi cũng chả biết Đoan Hùng có hiện diện trên trần gian này hay không ?

 

Trần Trọng Sỹ (Paris 2019)

Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=519726388579871

__________________

PHỤ LỤC

Đoan Hùng Tùy Bút

Yesterday at 1:38 AM

CHỮ NÔM, QUỐC NGỮ VÀ VĂN TỰ Ở CÁC NƯỚC “ĐỒNG VĂN” TRUNG HOA, NHẬT, HÀN

ĐÔI LỜI NÓI ĐẦU

Trong những ngày qua, lại một “cuộc chiến” nổ ra! Tranh luận về việc vinh danh các nhà tiên phong chữ quốc ngữ. Trong tranh luận, thậm chí “tranh cãi”, ngoài những lập luận đúng mực, khó tránh khỏi những cách nhìn cực đoan, chẳng hạn như hoặc

1- Chê bỏ quá khứ một cách tuyệt đối! như “nếu không có quốc ngữ, chúng ta ngày nay mù chữ rồi!”.vv . Điều hẳn không đúng, bới vì dân TQ, Nhật, Hàn .. ngày nay có mù chữ đâu?

2- Viễn mơ vào quá khứ! Như “Thực dân Pháp tiêu diệt Hán Nôm”, “Mất Hán Nôm là mất hồn dân tộc”..

Trong các “lý lẽ” đó, tôi cảm nhận một điều, hoặc là do “nóng đầu” hay là do không rõ “Hán Nôm” thực sự ra sao. Chẳng hạn như

- Nêu gương Nhật Bản, Hàn Quốc nhưng bỏ qua thực tế là chữ “nôm” của hai nước này như Hiranaga, Katanaka, Hangul khác xa chữ Nôm của Việt Nam, về mặt cấu tạo. Dẫn tới tính khó phát triển của chữ Nôm...vv

- Ca ngợi tính “tượng hình”,”tượng ý” của chữ hán, vẻ đẹp của nó vv. Như thể có cái gì “thiêng liêng”, “cao đạo”,”thâm trầm”,”minh triết đông phương”. Bỏ qua thực tế là phần lớn chữ Hán chỉ dùng phép “hình thanh”, một phép ký âm lạc hậu và không chính xác..vv

Điều đó, cũng bình thường. Từ đầu thế kỷ 20, chính các nhà nho thức thòi đã nhận thức sức mạnh của “quốc ngữ”, tự giải ảo. Cổ động, lập trường dạy quốc ngữ. Trải qua dăm thế hệ, đến nay thì cả nhưng “cụ” 80 tuổi cũng chằng mấy ai đọc được chữ Hán, huống hồ là chữ Nôm.

Vì thế, trong tinh thần “cùng học”, tôi cố gắng viết lại những gì mình đã tìm hiểu, không phải là để “bảo vệ quốc ngữ”!

Vì quốc ngữ có sức sống mãnh liệt, chả cần ai bênh vực! Bài sẽ chia thành nhiều kỳ, bởi vì vấn đề phức tạp, vả lại trên mạng khó ai có thời giờ đọc một bài dài .. đại cà sa! Nó bao gồm các phần:

1/ Tổng quan

2/ Chữ "Nôm" tại Nhật Bản và Triều Tiên

3/ Chữ Hán,

4/ Chữ Nôm,

5/ Quốc Ngữ

6/ Kết luận.

Phần “Tổng quan” cố tóm tắt nội dung, ý chính, và sẽ được khai triển chi tiết trong các chương sau.

Với sự hiểu biết “không chuyên”, mong các bạn cùng chia sẻ, góp ý.

-----------------------------------------------------

TỔNG QUAN

Trong tranh cãi về Quốc Ngữ-hán nôm tôi thường hay nghe người ta .. mơ và ta thán.

Nào là bỏ Hán Nôm làm mất cái “hồn dân tộc”, “thực dân Pháp” tiêu diệt Hán Nôm... và mơ về “quá khứ cha ông”. Mơ, giá được như người Nhật, Hàn.

Tất nhiên, nếu không có chữ quốc ngữ, thì người Việt vẫn tiếp tục Hán Nôm, và không “mù chữ”!

Trong xã hội cổ truyền, với truyền thống “biết dăm chữ bỏ bụng”, mang ước mơ “võng anh đi trước võng nàng theo sau”, nho sĩ là “tiên chỉ” trong làng, “thầy đồ” được trong vọng, xã hội VN thủa xưa, cũng như các nước “đồng văn” không hoàn toàn “thất học”. Thế nhưng phải giải quyết các khó khăn của nó. Phải giải quyết thực sự! Không đơn giản như khi có loại chữ cái, an-pha-bê.

Chữ Hán có độ 50.000 chữ. Chả ai có thể nhớ hết.

Nhưng muốn thoát “mù” thì cũng ... dễ!

“Biết dăm chữ” như bà mẹ quê dẫn con đến thầy đồ, thì cũng không gọi là mù.

Thế nhưng, thế thì chẳng đủ. Thoát “mù chữ” chưa phải là có “học”.

Muốn đọc báo, phải biết cỡ 2000-3000 chữ.

Muốn gọi là có “học vấn”, phải biết cỡ 8000 chữ.

Muốn đọc cổ văn? Thì .. vô hạn! Chỉ còn nước tra tự điển, và có đào tạo tử tế.

Có lần, tôi đưa cho bạn tôi, một kỹ sư người Bắc Kinh, bản “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” và hỏi

- Thứ này mày đọc được không?

- Tao chịu!

Nó thế! Bạn tôi cũng “chữ nghĩa”, trình độ đại học. Thành thử, người Việt mơ “bỏ bụng” vài trăm chữ, mà nghĩ mình có thể đọc câu đối, văn chương, lịch sử .. để “giữ hồn dân tộc” thì là.. mơ! Người Hoa phải học, phải dùng thường ngày nên đành học và nhớ. Nếu không dùng thường ngày, sẽ quên ngay. Các nhà giáo dục đừng mơ dạy học sinh vài trăm chữ Hán.

“NÔM” NHẬT, HÀN – Hiragana, Katanaka – Hangul

Khi mơ giống như Nhật, Hàn thì cần biết rằng “nôm” Nhật khác xa “nôm” Việt.

Ở các nước này, thí dụ như Nhật, khác Việt Nam, từ thời xa xưa, đã tự tao ra “nôm” của họ như Hiragana(TK 5), Katanaka (TK 10), Hangul (TK 15) để bổ sung cho Hán tự Kanji (Nhật), Hancha(Hàn).

Khác với chữ Nôm, phần lớn dựa trên “ghép hai chữ hán, một chỉ nghĩa, một gợi âm”, các thứ chữ này là hoàn toàn “ký âm”, một loại “alphabet” như ở Tây Phương.

Thí dụ như số ký tự trong các loại “nôm” này là:

Katanaka - 48

Hiragana - 46

Hangul- 28

Để tạo chữ “nôm” người Nhật dùng chữ một số chữ Hán, bỏ ý nghĩa, giản hóa để ký âm. Chằng hạn như lấy chữ Hán để tạo Hiragana:

安 (Hán Việt:“An”), viết thành あ để ghi âm “A”

宇 (Hán Việt:”Vũ”), viết thành う để ghi âm “U”

Với hệ thống ký tự đơn giản đó, để thoát mù chữ, rất đơn giản.

Người ta chỉ cần đến chữ Hán khi học cao hơn. Trẻ con không cần chữ Hán đã có thể đọc sách.

Và muốn học Hán Tự thì phải có lộ trình. Như ở Nhật bản phải chia ra như sau: Tiếu học 1006 chữ, Trung học 950 chữ. Các chữ này là chữ “thường dụng”. Như thế tổng cộng chừng 2000 chữ.

Và không phải là dễ cho học trò. Nếu ở Mỹ, số ngày học trong năm của học sinh trung bình là 178 ngày thì ở Nhật là 240 ngày.

Thế thì ta có thể hỏi, tại sao người Nhật “khổ” thế với chữ viết, phải chăng họ chỉ muốn giữ “hồn Nhật”?

Không hẳn thế, tuy đó là một lý do, mà chủ yếu là khó có chọn lựa khác.

Hệ thống ký âm Nhật Bản đã có quá trinh phát triển đến 15 thế kỷ (khác chữ Nôm VN nhiều lắm!), nhưng có giới hạn của nó, khiến cho nhiều lúc dùng kèm Hán Tự (Kanji) lại tiện lợi hơn, viết ngắn hơn, dễ hiẻu hơn.

Nếu tiếng Việt có nhiều thanh điệu (6 thanh) thì tiếng Nhật (và Hàn) lại ít hơn. Ít thanh điệu tất phải là đa âm, phải nói dài hơn! Thí dụ người Việt nói “TÔI”, vỏn vẹn một âm, thì người Nhật phải dùng đến ba âm tiết WA-TA-SHI. Bởi nhiều thanh điệu nên một từ Hán chuyển sang Hán Việt khó bị lẫn lộn như khi chuyển sang tiếng Nhật. Ngoài việc dễ lẫn lộn, gây hiểu lầm, do tính đa-âm độ dài của chữ khiến phải viết dài dòng. Viết bằng chữ Hán đâm ra nhanh hơn.

Thí dụ ta muốn dùng từ “chí” để nói “có CHÍ thì nên”, từ CHÍ là Hán Việt của 志. Viết quốc ngữ rất gọn. Người Nhật “khổ” hơn. Họ phải nói “chí” thành ko-ko-ro-za-shi. Dùng Hiragana こころざし hay Katakana ココロザシ, rất phiền. Nếu viết “tắt” bằng Kanji 志, thì lại gọn hơn!

NÔM VIỆT

Bây giờ chúng ta thử .. vất bỏ thứ chữ “thực dân”, hãy trở lại chữ Nôm để “giữ hồn dân tộc” xem sao nhé! Thay vì viết

“CÓ CHÍ THÌ NÊN” hãy thử viết chữ Nôm:

固志旹揇

Xem ra rất Dân Tộc. Nếu dùng bút lông mà viểt một bức “thi pháp” thì thật tuyệt vời. Thế nhưng .. đọc ra sao? Thế này:

Chữ 固, vốn là chữ Hán, âm Hán Viêt là “CỐ”, có nghĩa là “bền chắc...”, nghe giống “CÓ”, nên đọc “nôm” thanh “CÓ”.

Chữ 志, là chữ Hán, âm Hán Việt là “CHÍ”.

Chữ 旹, là chữ Hán, âm Hán Việt là “THỜI”, “THÌ”, có nghĩa là “thời gian, thời giờ”, nên đọc thành “THÌ”.

Chữ 揇 thì.. phiền hơn. Nếu tra từ điển Hán sẽ không có. Đó là từ Nôm, được ghép bởi hai chữ Hán:

南 : Nam nghĩa là "phương nam", và

扌thủ, nghĩa là "tay" .

"NAM" âm gần giống "NÊN" . "Tay" hàm nghĩa là "làm". Bởi thế đọc là "NÊN".

Kể ra, ngoài phải biết chữ Hán cũng cần phải thêm chút .. suy luận để hiểu nhỉ?

Chưa hết! Chữ Nôm không có chuẩn, nguyên tắc quy định, mỗi người có thể viết một kiểu, tùy ý. Nên nó có thể rất .. nhiều cách.

Để viết “CÓ” ta có thể dùng 固, 箇, 𣎏 . Để viết “THÌ” ta có thể dùng 旹, 时, 時. Để viết “NÊN” ta có thể dùng 揇, 年, 𢧚.

Qua ví dụ trên, ta có thể thấy, khác với hai nước “đồng văn” đã phân tích ngữ âm của họ, chuẩn hóa thành bộ chữ cái, Việt Nam đã không thoát khỏi chữ Hán với sự phức tạp của nó. Để hiểu tính phúc tạp này, thiết tưởng cũng nên hiểu sơ lược về chữ Hán.

CHỮ HÁN

Trước hết, để tạo chữ, chữ Hán dùng sáu cách, gọi là “lục thư”:

Tượng hình, Chỉ sự, Hình thanh, Hội ý, Chuyển chú và Giả tá.

-Tượng hình- Đây là cách đơn giản nhất mà loài người đã dùng đầu tiên từ thủa sơ khai khi chữ viết nảy sinh, như chữ Ai Cập thủa đầu tiên. Nó không có gì là “huyền bí”, “thâm sâu”. Đơn giản là người ta muốn viết “con bò” thì vẽ con bò, “con ngựa” thì vẽ con ngựa. Người Trung Hoa “vẽ” hình người, có hai chân - 人 đọc là “nhân”. Con ngựa, có bờm, bốn chân - 馬 – “Mã” . Người đàn bà - 女 – “Nữ” .

- Chỉ sự- Không thể nào “vẽ” mọi sự! Nên người ta cần mô tả, chắng hạn như vẽ một gạch ngang, thêm một thanh đứng, thêm một vạch ngắn ở trên thành chữ “Thượng” 上, ở dưới thành chữ “Hạ” 下.

- Hội ý. Chẳng thể “tương hình”,”chỉ sự” mọi sự vật. Người ta phải gom các chữ lại để gợi ý. Chằng hạn như dùng “mái nhà” 宀 che trên “đàn bà” 女 thành chữ 安, “An”. Người phụ nữ được che chở bởi mái nhà, thế chằng phải là An toàn sao? Trên là mái nhà 宀, dưới là con lợn 豕thì thành chữ 家, “gia”.

- Chuyển Chú và Giả tá: đây là hai phép “dùng đỡ”. Ở một số chữ, người ta dùng “chuyển chú”, nghĩa là “dùng tạm” thanh âm một chữ để viết chữ khác có nghĩa gần giống, thí dụ như, dùng chữ “trường” 長 là dài để viết chữ “trưởng” nghĩa là lớn lên; thậm chí có nghĩa khác hằn như dùng chữ “vạn” 萬nghĩa là “con bò cạp” để “giả tá” thành chữ “vạn” nghĩa là 10.000.

- Hình thanh: Ý tưởng con người là vô hạn! ngôn ngữ do đó cứ phát triển, từ ngữ cứ thế mà phát sinh. Ta không thể nào “vẽ” mãi, “miêu tả” hoài, cho dù là . họa sĩ! Chữ Hán cũng phát triển giống như mọi thứ chữ trên thế giới, tiến tới “ghi âm” tiếng nói! Và đó là phép “hình thanh”, nghĩa là ghép các chữ có sẵn, phần “hình” gợi ý, phần “thanh” gợi âm thanh. Chỉ “gợi” gần gần mà thôi. Ý gần gần đâu đó! Âm nghe giông giống. Chằng hạn như:

- Đã có chữ “thành” 成, nghĩa là [trở] thành, cần viết chữ “thành” nghĩa là thành [trì], thì ghép thêm bộ “thổ” 土, nghĩa là “đất” để gợi ý, trở nên chữ 城.

- Đã có chữ “mã” 馬, là con ngựa, cần viết chữ “ma” có nghĩa là người mẹ, ghép thêm bộ “nữ”, nghĩa là đàn bà để gợi ý, trở nên chữ 媽. Đàn bà + Con Ngựa thành .. Mẹ !

Ấy là “hình thanh”!

Và đó là phép cấu tạo chính của chũ Hán, theo nhiều nghiên cứu, nó chiếm khoảng 80-90% số từ Hán.

Trên thế giới, từ thủa xa xưa, khoảng ba ngàn năm trước, các hệ thống chữ viết đã phát triển lên thành chữ ký âm, đơn giản. Ngay cả chữ Ai Cập thời kỳ sau, vẫn trông tưởng như “tượng hình”. Không phải! Người ta có thê “đánh vần”, bởi nó đã phát triển thành “ký âm”. Nó chả có gì là “huyền bí”. Ngay cả mẫu tự “A” mà chúng ta ngay nay dùng, cũng có “tiền thân tượng hình” là .. con bò! Con bò gọi là “aleph”, người xưa vẽ đầu bò có hai sừng. Dần dà, lấy đó ghi âm “a”, lộn ngược đầu lại mà thành A.

Trung hoa, quẩn quanh trong qua khứ ngàn nãm. Không phân tích thành “mẫu tự”. Mà chỉ dùng âm “giông giống”, nghĩa “đâu đó”, tùy tiện, đại khái, nhang nhác!

Chữ nôm, bị trói chặt trong chữ Hán, “thừa hưởng” tất cả nhưng thứ phức tạp, luộm thuộm của nó.

Thê nhưng nó vẫn là di sản quý báu của cha ông, qua nó các cụ truyền tải, lưu lại được biết bao thơ văn, tác phẩm bằng tiếng mẹ đẻ .

“Tiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi”.

Thế nhưng, do điều kiện lịch sử, nó không có cơ hội để phát triển, hệ thống hóa, hợp lý hóa.. Mãi cho đến đầu thế kỷ 20 nó vẫn là một thứ chữ “tùy tiện” và đành phải nhường bước cho “quốc ngữ”.

Chữ Nôm tự đào thải, không phải do ai “áp đặt”, “giết” nó. Chữ “quốc ngữ” phát triển chẳng phải do một ai “ép buộc”. Chính các nhà nho “thức thời” và các nhà “tân học” đã cổ súy và tiếp tục phát triển nó. Chủ yếu là do tính hợp lý của quốc ngữ.

Nhưng ai hay so sánh Việt Nam và Nhật Bản, Triều Tiên chớ nên quên rằng lịch sử hai nước này khác xa Việt Nam, khác rất lớn.

Nếu như Việt Nam chỉ dành được độc lập từ thế kỷ thứ 10 thì Nhật Bản chưa hề mất đọc lập, Triều Tiên tuy có lúc bị Trung Hoa lấn chiếm nhưng chưa hề hoàn toàn bị thôn tính, nhưng vương quốc Triều Tiên như Bắc Tế, Tân La, Cao [câu] Ly vẫn tồn tại. Nếu Việt Nam chỉ có 1 thế kỷ phát triển trong độc lập, văn hóa bị phủ bởi Trung Hoa như bị bóng cây phủ rợp thì ở Nhật Bản, Triều Tiên có điều kiện phát triẻn văn hóa độc lập, nếu có ảnh hưởng Trung Hoa, thì đó là do “tự nguyện”.

Với hai thiên niên kỷ phát triển độc lập, với những trièu đại vững bền, với nền học thuật vững mạnh, với những học giả có chiều sâu, hai nước Nhật Bản, Triều Tiên đã tự xây dựng hệ thóng chữ viết khá hoàn chỉnh của họ. Vua Sejong (Thế Tông) ở Triều Tiên, thế kỷ 15, khi sáng chế ra Hangul, chắc chắn không phải do ông, mà do rất nhiều học giả tinh thông về ngữ âm. Họ phân tích âm tiếng Hàn kỹ lưỡng, tinh vi mới quy ra được ký tự. Nhật Bản cũng thế, Hiragana là công trình của các nhà quý tộc, Katanaka của các thiền sư. Họ là các người có điều kiện học rộng biết nhiều, các nhà sư sang Ấn Độ học chữ Phạn, vốn là một thú chữ “ký âm”. Thu nhập văn hóa Trung Hoa, Ẫn Độ một cách tường tận. Trên cơ sở đó hệ thống chữ viết phát triển, và trên cơ sở đó, văn học, triết học.. cùng phát triển.

Việt Nam, thiếu các điều kiện đó. Không phải do lỗi riêng ai, hay một vị vua nào mà một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh không được hình thành. Không chỉ riêng Hồ Quý Ly hay vua Quang Trung mà nhiều vua chúa khác như chúa Trịnh cũng muốn phát triển chữ Nôm. Nhưng các vị đó làm được gì khi không có một tập thể đông đảo học giả, một nền học thuật thâm hậu? Ra một mệnh lệnh, một chiếu chỉ chả ăn thua gì. Các nhà nho như Ngô Thời Nhậm cũng biết thực trạng đó. Ông từng viết “Chữ nước ta khó hơn chữ Trung Quốc” (Ngã quốc tự giảo nan ư Trung Quốc). Biết thế, nhưng một học giả như Ngô Thì Nhậm cũng không làm gì khác hơn được, trong cả nền học thuật thời đại ông, ông đành dùng chữ Hán là chủ yếu.

Ở đầu thế kỷ 17, trong khung cảnh như thế, các nhà truyền giáo tây phương xuất hiện, Franscisco de Pina, Alexandre de Rhodes, Christophoro Borri.. họ đến truyền đạo trong lén lút. Địa vị họ thật nhỏ bé, mang quà cáp biếu xén cho Chúa, năn nỉ xin được tạm trú, dùng kiến thức vượt trội như thiên văn để lấy uy tín với nhà cầm quyền, sống trong dân, thậm chí bỏ giầy đi đất như Christopho Borri, sống đơn giản, đạo hạnh để truyền đạo. Họ bị bắt lên bắt xuống, tùy ý nhà cầm quyền. Giáo dân lúc có thể hành đạo, lúc bị bách hại. AD Rhodes bị bắt nhiều lần, khi trở về Âu Châu, ông mang theo hài cốt của thầy giảng người Việt , An Rê Phú Yên, bị xử tử vì không bỏ đạo. Trong hoàn cảnh bất an, bị bắt bớ, ngoài thời gian giảng đạo, tổ chức giáo hội, các tu sĩ dòng Tên này vẫn còn thì giờ, đam mê để, dỏng tai “Tây” lên mà nghe tiếng việt với sáu thanh âm, suy nghĩ, phân tích ngữ âm v.v. Từ đó mới ra sắc huyền hỏi ngã nặng!

Tại sao họ làm được nhưng gì mà ở nước Đại Việt, không nhà nho nào, không thiền sư nào, cho dù triêu đại nào làm được? Chẳng phải chỉ do sự cần cù của họ, mà chủ yếu do họ không bị cột vào một nền văn minh lỗi thời lạc hậu. Họ được đào tạo chuyên nghiệp, trong nền học thuật thâm hậu, với nền tảng khoa học về ngôn ngữ, ngữ âm. Một nền học thuật nảy sinh trên một nền văn minh tiên tiến hơn.

Với điều kiện đó, họ đã tặng cho dân tộc ta, đất nước ta một món quà vô giá.

Với chữ “Quốc Ngữ” không những là phương tiện để người Việt hội nhập vào nền vãn minh hiện đại của thế giới, không những “Tây” mà cả “Đông”, mà còn giữ gìn di sản cha ông.

Ngày nay.

Ai cũng có thể đọc “Kiều”,”Lục Vân Tiên” ai cũng có thể có một bản Kiều quốc ngữ trong nhà.

Ai cũng có thể đọc từ “Khóa Hư Lục” thời Trần, “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” thời Lê .. cho đến “Khâm định Việt Sử” thời Nguyễn bằng “quốc ngữ”.

Ai cũng có thể đọc “Luận Ngữ” của Khổng Tử, “Nam Hoa Kinh” của Trang Tử... bằng “quốc ngữ”!

Có nhà nho nào thủa xưa, có điều kiện “thiên kinh vạn quyển” như thế?

Thế chẳng phải “QUỐC NGỮ” đang GIỮ HỒN NƯỚC hay sao?

Đoan Hùng – 12-2-2019

https://www.facebook.com/ permalink.php? story_fbid= 105770280907202& id=105309667619930& __tn__=-R

Trang Tôn giáo