|
Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước Có Phải Là Nội Chiến Hay Không? Tuấn Anh Kinh Bắc http://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuN/NguyenTuanAnh_10.php Ngoài cái nhìn tăm tối, đớn hèn, tiêu cực khi viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống chống Mỹ cứu nước trong NBCT, Bảo Ninh còn trực tiếp khẳng định đó là cuộc nội chiến, không có người chiến thắng. Đó là đoạn trả lời phỏng vấn của Bảo Ninh trong tập 9 bộ phim The Vietnam war (Chiến tranh Việt Nam) của đạo diễn người Mỹ Ken Burns và Lyun Novick, nói về giai đoạn chiến tranh từ tháng 5-1970 đến tháng 3-1973, (được công chiếu lần đầu 17.9.2017) tại thời điểm 15 phút 42” đến 16 phút 05”. Dưới đây tôi xin giới thiệu bài viết về tấm gương chiến đấu và hy sinh anh dũng của anh hùng liệt sỹ Trần Lương với quân đội Mỹ trên chiến trường Liên khu 5, nơi Bảo Ninh từng sống, để bạn đọc thấy rõ phẩm chất anh hùng của người chiến sỹ cách mạng- anh bộ đội Cụ Hồ và tự rút ra kết luận về cuộc chiến tranh chính nghĩa chống đế quốc Mỹ xâm lược hay cuộc nội chiến. (Bài viết đã đạt giải thưởng cuộc thi viết quốc tế 2001 về người tình nguyện do Liên Hiệp Quốc tổ chức nhân Năm quốc tế về người tình nguyện và được NXB Thanh Niên chọn in trong sách Ngàn năm hạt gạo làng của tác giả Tuấn Anh Kinh Bắc.)
Trần Lương sinh tháng 7-1930 tại làng Sặt, xã Liên Sơn huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Làng quê anh cũng là căn cứ địa của nghĩa quân Yên Thế nổi tiếng một thời. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, anh tích cực tham gia công tác tại địa phương, tháng 4-1949 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 8-1949 anh tình nguyện nhập ngũ. Suốt những năm kháng chiến chống Pháp, Trần Lương có mặt trên khắp các chiến trường Việt Bắc, Tây Bắc, rồi Điện Biên Phủ. Từ chiến sĩ anh trở thành tiểu đội trưởng rồi trung đội trưởng, lập nhiều thành tích được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công và Huân chương Chiến thắng. Tháng 2-1958 anh được xuất ngũ trở về xây dựng quê hương. Từ giáo viên bình dân học vụ, kế toán hợp tác, anh đã làm chủ nhiệm HTX rồi xã đội trưởng xã Liên Sơn. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, một lần nữa anh lại tình nguyện tái ngũ 4-1965 tham gia thành lập tiểu đoàn 2, trung đoàn Hà Bắc (E21) có mật hiệu "xưởng 22, công trường 21, nông trường 2". Tháng 8-1965 anh nhận lệnh lên đường đi chiến đấu để lại quê hương mẹ già ngoài 60 tuổi, người vợ trẻ vùng đất quan họ Tam Sơn và 2 đứa con thơ mới lên 1 và 4 tuổi. Sau gần 3 tháng vượt Trường Sơn, đơn vị anh đứng chân hoạt động trên chiến trường Quảng Nam - Quảng Ngãi. Lúc này anh là chính trị viên phó đại đội 7, tiểu đoàn 22, trung đoàn 21, Sư đoàn 2, Quân khu 5. Trên chiến trường Trung Trung Bộ, Trần Lương cùng đơn vị đã chiến đấu nhiều trận đối đầu trực diện với những đơn vị lính Mỹ và Nam Hàn thiện chiến. Trận chiến đấu trên cao điểm Lạc Sơn (Quế Sơn - Quảng Nam), Trần Lương mưu trí dũng cảm chỉ huy đơn vị tiêu diệt địch thu nhiều vũ khí, giành thắng lợi hoàn toàn. Từ chiến công này anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất, được đề bạt làm chính trị viên trưởng đại đội. Đại đội 7 của anh cũng được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng 3. Ngày 3-3-1966, đơn vị Trần Lương được lệnh hành quân xuống xã Châu Ô (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) phục kích tiêu diệt trung đoàn cơ giới của Mỹ chuyển quân từ thị xã Quảng Ngãi về căn cứ quân sự Chu Lai. Đánh hơi thấy bộ đội chủ lực của ta xuất hiện, địch ngừng chuyển quân đi Chu Lai mà dùng trực thăng đổ bộ 11 tiểu đoàn lính Mỹ xuống xã Sơn Châu dưới sự yểm trợ của 4 trận địa pháo Bình Sơn, Khu Cháy, Châu Ô và Hạm đội 7 hòng đẩy trung đoàn Hà Bắc (E21) ra biển Đông tiêu diệt. Chỉ huy sở của địch đóng trên điểm cao 62 khống chế một vùng chiến trường rộng lớn rất lợi hại. Đại đội 7 của Trần Lương được giao nhiệm vụ "mũi nhọn thọc sâu" tiêu diệt chỉ huy sở quân Mỹ trên cao điểm 62. Sau khi nhận nhiệm vụ, Trần Lương triệu tập cuộc họp chi uỷ chớp nhoáng trên trận địa, quán triệt quyết tâm của trên, nhiệm vụ của đơn vị và thông qua phương án tác chiến của ban chỉ huy đại đội. Khi triển khai nhiệm vụ và phổ biến nghị quyết của chi uỷ đến từng Đảng viên, đoàn viên, có chiến sĩ hỏi: - Địch ở trên cao, ta ở dưới thấp đánh thế nào cho thắng? Chính trị viên Trần Lương trả lời: - Địch ở trên cao, nhưng có 2 cái yếu: một là tinh thần bạc nhược lại bị ta đánh suốt ngày nên càng hoảng sợ, hai là địch mới đổ quân chưa có công sự kiên cố. Còn ta thì có quyết tâm cao, giữ được bí mật, bất ngờ, dùng lựu đạn, thủ pháo, xáp vào đánh gần và thọc sâu thì nhất định thắng. Quyết tâm của trên trong chốc lát đã được quán triệt và biến thành quyết tâm của toàn đơn vị. Cả đại đội 7 vào trận đánh với lời thề "Mang danh là đất cụ Đề, đã đánh là thắng quyết thề lập công". Trên ngực áo mỗi cán bộ chiến sĩ đều có khẩu hiệu "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Đúng 22 giờ ngày 4-3-1966, đơn vị được lệnh nổ súng tấn công. Pháo Mỹ từ Hạm đội 7 và các căn cứ cùng hàng chục máy bay H.U.1A xối xả nhả đạn xuống trận địa xung quanh cao điểm 62. Trần Lương luôn đi sát tiểu đội mũi nhọn lợi dụng địa hình địa vật đánh chiếm cao điểm. Ta và địch giành giật nhau từng gốc cây, mô đất, đến 4 giờ sáng 5-3-1966, đại đội 7 đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch, chiếm được chỉ huy sở tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ trên cao điểm 62. Lúc này, toàn đại đội và đơn vị phối thuộc chỉ còn 20 người, hầu hết đã bị thương kể cả Trần Lương. Đơn vị được lệnh giữ vững cao điểm đánh địch đổ bộ tái chiếm cao điểm trong ngày để ta có đủ thời gian chuyển quân... Lúc này chỉ huy trên cao điểm còn 3 người là: Trần Lương chính trị viên, Phạm Hồng Cẩm đại đội trưởng, Dương Văn Tụng chỉ huy đơn vị hoả lực phối thuộc và 17 cán bộ, chiến sĩ trung đội, tiểu đội. Tất cả đều quyết tâm giữ vững cao điểm. Với cương vị bí thư chi bộ, người chỉ huy trực tiếp cao nhất, Trần Lương yêu cầu đồng chí Cẩm và Tụng đưa 3 chiến sĩ bị thương nặng hơn trở về tuyến sau và báo cáo với tiểu đoàn quyết tâm của cán bộ chiến sĩ đại đội 7 dù còn 1 người cũng không để địch chiếm lại cao điểm. Suốt ngày hôm đó, địch điên cuồng nã pháo và xua quân tấn công tái chiếm cao điểm 62. Trần Lương bị thương lần thứ hai nhưng anh vẫn kiên cường chiến đấu, xử lý linh hoạt các tình huống, động viên cán bộ chiến sĩ ngoan cường đánh lui 8 đợt tấn công của địch giữ vững trận địa. Chiều gần tối, nhiệm vụ giữ chốt đã hoàn thành, Trần Lương nhận được lệnh rút quân khỏi cao điểm 62. Địch vẫn đang điên cuồng đánh lên, nếu tất cả cùng rút sẽ rất nguy hiểm. Trần Lương ra lệnh cho toàn đơn vị rút lui, riêng anh không rời trận địa, yểm trợ cho đồng đội rút lui an toàn. Những phút cuối cùng một số chiến sĩ muốn ở lại thay thế cho người chính trị viên thân yêu của mình. Trần Lương kiên quyết: "Tôi thay mặt đảng uỷ tiểu đoàn ra lệnh cho các đồng chí rút lui, tôi sẽ ở lại chặn địch. Hãy báo cáo với tiểu đoàn, Trần Lương sẽ chiến đấu đến cùng, xin gửi lời chào tất cả". Một mình anh với 3 cây súng cầm cự với địch đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ đồng đội. Trước khi hy sinh, anh đã kịp phá huỷ vũ khí và chia với địch quả lựu đạn cuối cùng. Trận đánh cao điểm 62 là trận quyết chiến quan trọng nhất trong chiến dịch mùa khô 1966 của Sư đoàn 2, Quân khu 5. Trong trận này, Trần Lương đã chỉ huy đơn vị cùng trung đoàn 21 tiêu diệt 900 tên Mỹ, xoá sổ 1 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ. Sau trận chiến trên cao điểm 62, hành động anh hùng của người chính trị viên đại đội 7 đã được nêu gương cho cán bộ chiến sĩ toàn Sư đoàn 2 học tập. Cuộc đời chiến đấu của Trần Lương là lòng dũng cảm, tinh thần cách mạng tiến công, là tấm lòng thương yêu đồng đội sẵn sàng nhận hy sinh về mình. Đó là phẩm chất của người anh hùng và anh đã được đơn vị đề nghị Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang. Các nhạc sĩ Tô Hải, Văn Trường, Thanh Anh đã sáng tác bài hát ca ngợi Trần Lương và đã trở thành những bài ca truyền thống của trung đoàn 21. Trần Lương hy sinh từ tháng 3.1966, hồ sơ đề nghị phong anh hùng cho Trần Lương do đơn vị làm đã bị thất lạc trong những ngày chiến tranh ác liệt. Đồng đội anh người đã hy sinh, người chuyển đơn vị, người phục viên, xuất ngũ... Dù vậy, trong tâm hồn những người đồng đội còn sống từ lâu Trần Lương đã thực sự là một người anh hùng. Và câu chuyện cảm động về người anh hùng tình nguyện trên cao điểm 62 được kể từ người này sang người khác dù một phần ba thế kỷ đã trôi qua. Ngày Trần Lương đi chiến đấu con gái anh mới 4 tuổi, nay đã là một cô giáo, là vợ một sỹ quan quân đội và đã có hai con trai. Cô đã thay mặt mẹ viết đơn cho cha gửi lên Chủ tịch Nước. Mấy chục đồng chí đồng đội cũ của Trần Lương, từ trung tướng Nguyễn Năng, thiếu tướng Nguyễn Ngọc Tiến cùng nhiều sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ đã nghỉ hưu hoặc đang công tác trên khắp mọi miền đất nước đã cùng xác nhận thành tích và làm đơn đề nghị lên các cấp. Các đồng chí chỉ huy đương nhiệm của Sư đoàn 2 Quân khu 5 đơn vị cũ của Trần Lương cũng lập hồ sơ đề nghị gửi lên Nhà nước. Ngày 30.8.1995 Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định số 557 phong tặng liệt sỹ Trần Lương danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân. Cuối tháng 12.1995 tại UBND xã Liên Sơn, chính quyền huyện Tân Yên đã làm lễ đón nhận và trao bằng công nhận anh hùng của Nhà nước cho vợ Anh hùng liệt sỹ Trần Lương. Hiện nay bà Nguyễn Thị Bẩy, vợ người chiến sỹ tình nguyện anh hùng đã chuyển về thị xã cùng con cháu. Tôi rất vui khi được biết dù bà mới nhập khẩu về nhưng các cơ quan chính quyền, đoàn thể, bà con ở khối phố, phường Lê Lợi, thị xã Bắc Giang luôn quan tâm, thăm hỏi động viên giúp đỡ. Ban Thi đua tỉnh, Sở lao động TB-XH tỉnh cũng đã phối hợp giải quyết quyền lợi chế độ về vật chất cho gia đình bà Bẩy. Tâm sự với tôi bà Bẩy rất cảm động, cảm ơn các cấp lãnh đạo, các cơ quan chức năng và nhân dân địa phương đã quan tâm giúp đỡ gia đình bà cũng như nhiều gia đình thương binh, liệt sỹ, bà mẹ Việt Nam anh hùng khác. Những việc làm tình nghĩa của Nhân Dân Bắc Giang cũng như những đồng đội cũ của Trần Lương chính là thực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc đối với người chiến sỹ tình nguyện anh hùng đã hy sinh vì độc lập tự do cho Tổ quốc. (Đăng: Báo Hà Bắc thứ Bẩy số 102 – 16.12.1995 với tên “Người anh hùng trên quê hương Hoàng Hoa Thám”; Nguyệt san Báo Đại đoàn kết số 75 – 7.1997 với tên: “Chuyện một anh hùng”; Báo Giáo dục và Thời đại số 3.8.1997 với tên “Chuyện liên quan đến người anh hùng”; Sách “Gương sáng những người tình nguyện” Ủy ban TWMTTQ Việt Nam xuất bản năm 2001.) * Đạt giải Ba cuộc thi viết Quốc tế nhân Năm Quốc tế những người tình nguyện của Liên Hiệp quốc Nguyễn Tuấn Anh Nguồn FB TA Kinh Bắc, 24 tháng 12, 2025 ________________ Trang Thời Sự |