AMEN !

Là Như Thế Đó!

Trần Chung Ngọc

bản in ¿ Xem mục lục ngày 11 tháng 4, 2009

 

(tiếp theo và hết)

0  1  2

 

Bây giờ, chúng ta hãy trở lại cuốn AMEN của Sơ Jesme Raphael mới xuất bản vào tháng 1, 2009.

Cuốn AMEN của Sơ Jesme Raphael chỉ là cuốn mới nhất trong một chuỗi dài những xì-căng-đan trong giáo hội Công giáo ở Kerala. Sau đây là sơ lược một số phanh phui trong cuốn AMEN.

Khi Jesme Raphael là nữ tu (Sơ), Sơ khám phá ra là các linh mục thường cưỡng bách tình dục những thiếu nữ mới vào dòng tu. [Sister Jesme says when she became a nun she discovered priests were forcing novices to have sex with them]

Có những liên hệ tình dục đồng giống luyến ái giữa các Sơ với nhau và bản thân Sơ cũng bị ép vào liên hệ tình dục này với một Sơ khác, được Sơ kia giải thích là để tránh mang thai [There were also secret homosexual relationships among the nuns and at one point she was forced into such a relationship by another nun who told her she preferred this kind of arrangement as it ruled out the possibility of pregnancy.]

Sơ kể lại chuyện Sơ đi đến Bangalore để tu nghiệp về Anh ngữ, Sơ được một Sơ khác bảo hãy trú ngụ tại nhà một ông linh mục đạo đức. Nhưng khi Sơ đến nhà ga, ông linh mục đã chờ sẵn và ôm chặt lấy Sơ.  Đến buổi chiều, ông linh mục dẫn Sơ đến Lalbagh, nơi có những cặp trai gái hú hí với nhau sau những gốc cây và giảng đạo cho Sơ về sự cần thiết của làm tình.  Ông ta còn tả chân những chuyện có tính cách khiêu dâm của một số giám mục và linh mục với các nữ tu.  Sau đó ông linh mục đưa Sơ về nhà, định sờ soạng Sơ và khi Sơ chống cự thì giận dữ hỏi Sơ là đã ngủ với đàn ông chưa.  Khi Sơ trả lời là chưa thì ông ta tự cởi bỏ quần áo và ra lệnh cho Sơ cũng phải làm như vậy [In Bangalore for a refresher course in English, she writes, “I was told to stay at the office of a priest respected for his strong moral side. But when I reached the station, he was waiting there and hugged me tight on arrival.  Later in the day, he took me to Lalbagh and showed me several pairs cuddling behind trees. He also gave me a sermon on the necessity of physical love and described the illicit affairs that certain bishops and priests had with the nuns". Back in his room, he tried to fondle me and when I resisted, got up and asked angrily if I had seen a man.  When I said no, he stripped off his clothes and ordered me to do the same.]

Sơ Raphael có bằng tiến sĩ và là hiệu trưởng của một trường đại học Công giáo. Khi Sơ hỏi cấp trên lập trường của Giáo hội về các đại học tự túc (self-financing colleges) và một số điều khác thì họ cho là Sơ có bệnh tâm thần, và gửi Sơ đi chữa trị tâm thần và muốn giam Sơ vào nhà thương điên. Sơ kể vì những thắc mắc của Sơ mà cấp trên đã hai lần toan tính đưa Sơ vào nhà thương trị bệnh tâm thần. Sơ viết, các nữ tu viện [convents] đã trở thành các “ngôi nhà để hành hạ” (houses of torture).  Có nhiều Sơ bị ngược đãi nhưng sợ không dám nói lên.  Giáo hội là một pháo đài kiên cố. [There are many nuns undergoing ill-treatment from the order, but they are afraid of challenging it.  The Church is a formidable fortress]

Cuốn AMEN của Sơ Jesme Raphael đã bán hết ngay và chỉ nửa tháng sau ấn bản thứ nhì đã được xuất bản.  Cuốn sách đã được dịch ra vài thứ tiếng và có cả ấn bản bằng Anh ngữ. 

 

Phản ứng của Giáo hội Công Giáo trước cuốn AMEN ra sao? 

Stephen Alathara, Phó Tổng Thư Ký hội đồng Giám mục (Deputy Secretary of the Bishops council), nói: “Không thiếu gì những người chống tôn giáo trong xã hội Kerala.  Họ dùng cuốn sách này cho những hoạt động “chống xã hội”, “chống giáo hội”. [There is no dearth of antireligion people in Kerala society.  They are using this for their anti-social, anti-church activities.]  Và Linh mục Paul Thelakkat, phát ngôn viên dòng tu Syro-Malaba của Công giáo, phát biểu: “Sơ Raphael nên đặt vấn đề với giáo hội thay vì “phỉ báng các nữ tu sùng tín”.  Ông ta nói thêm rằng “Những tố cáo của Sơ Raphael không có gì đặc biệt nghiêm trọng.  Giáo hội không bao giờ tuyên bố là không có tội lỗi trong giáo hội.  Chúng tôi không phải là những thiên thần.  Chúng tôi là những con người bằng thịt và máu – do đó một vài sơ xuất hay thất bại có thể xảy ra.” [Raphael should have raised with the church instead of “maligning the life of religious nuns.”  He added that Raphael’s allegations are “not especially serious”.  “The church never claims there’s no sin within the church,” he said.  “We’re not angels – we’re human beings of flesh and blood – so some omissions and failures can happen.”]

Chúng ta thấy ngay những luận điệu xảo quyệt của Công giáo thường dùng để bào chữa cho những tội ác của giới chăn chiên trong Công giáo. 

Thứ nhất, cái mũ đầu tiên là “chống giáo hội” và “chống xã hội” làm như chống giáo hội là một tội ác tương đương với chống xã hội. 

Thứ nhì, đặt vấn đề với giáo hội để giáo hội giải quyết thì cũng như không đặt, vì kinh nghiệm cho thấy, Giáo hội sẽ có biện pháp để trừng trị những người dám đặt vấn đề với giáo hội. 

Và thứ ba, khi muốn bịp đám con chiên ngu dốt thì giáo hội tuyên dạy linh mục là những “Chúa thứ hai” có quyền tha tội cho con chiên và cho con chiên lên thiên đường.  Nhưng khi các “Chúa thứ hai” làm bậy thì đó chỉ là những người thường như mọi người với máu và thịt, cho nên tội lỗi chỉ là chuyện bình thường. 

Chúng ta nên để ý là Giáo hội không dám phủ nhận nội dung cuốn AMEN của Sơ Raphael vì tất cả những gì Sơ Raphael viết trong cuốn sách đều là sự thật, chỉ đưa ra những luận điệu lắt léo để bào chữa.

Chúng ta hãy kể thêm vài chuyện ở Kerala. 

Ngày 11 tháng 2, người ta thấy Sơ Josephine, 38 tuổi, chết ở trong phòng có vẻ là đã tự sát.  Giáo hội nói Sơ đang được chữa trị vì suy sụp tinh thần (under treatment for depression).  Nhưng dư luận quần chúng cho rằng Sơ tự sát vì không chịu nổi những sự hành hạ ở trong tu viện bởi các bề trên, và một nhóm dân đã tụ họp trước nhà, hét lên những lời tố cáo là sự ngược đãi đã làm cho Sơ phải tự sát. [shouted slogans alleging that harassment had led Sister Josephine to kill herself.]

Ngày 11 tháng 8 năm 2008, Sơ Anupama Mary, 23 tuổi, treo cổ tự tử.  Trong di thư để lại, Sơ nói không thể chịu đựng được những sự quấy nhiễu của sơ bề trên [In what was her suicide note, she had said she could no longer withstand the senior nun’s harassment]

Tháng 12 năm 2008, cảnh sát đã bắt giữ hai linh mục và một nữ tu liên can đến một vụ hiếp dâm và giết Sơ Abhaya vào năm 1992 mà Giáo hội đã tranh đấu để ếm nhẹm trong suốt 16 năm trời [In December 2008, Police arrested two priests and one nun in the Sister Abhaya rape-cum-murder case, which the Catholic church struggled to suppress for 16 long years]

Giáo hoàng Benedict mới treo giò một Giám mục vì xì-căng-đan nuôi một phụ nữ 26 tuổi làm con nuôi ở trong nhà.

Ở Mexico, vì chán ngấy với sự thường xuyên xúc phạm nhân quyền, linh mục coi nữ tu như là các đầy tớ và là đối tượng tình dục khi cần, một số nữ tu đã gây nên một phong trào quốc tế để phản đối những sự lạm dụng tình dục của các linh mục đối với các nữ tu, không những chỉ đòi hỏi giáo hội phải trừng phạt những linh mục hiếp dâm nữ tu, mà còn đòi hỏi ở trong giáo hội phụ nữ phải được bình đẳng như phái nam. [Fed up with the constant abuses to human rights – that run from being utilized as simple “maids” up to suffering sexual violations from their religious superiors – the Mexican nuns started to integrate in a big international movement of protest that not only demands punishment for the rapist priests, but also demands that within the church, womwn have equal rights as men]

Những chuyện tình dục bậy bạ của giới linh mục đi đến độ mà Quốc Hội Âu Châu phải lên tiếng lên án Vatican về những vụ Linh mục cưỡng bách tình dục các nữ tu.  Kiến nghị của Quốc Hội Âu Châu nói đến “trách nhiệm của Vatican đối với vấn đề vi phạm nhân quyền của các linh mục Công giáo.”

[STRASBOURG, France - The European Parliament made an unprecedented attack on the Vatican, approving a motion blaming it for the rapes suffered by nuns in Africa in the 1990s. Some observers saw the nonbinding measure as an attempt to impede John Paul II's visit to this institution.

The parliamentary motion, on the "Responsibility of the Vatican in Regard to the Violation of Human Rights by Catholic Priests," has no executive character but rather is intended as a "moral judgment."]

Những tài liệu trên về vấn nạn loạn dâm của một số linh mục và vô đạo đức tôn giáo của một số nữ tu đã đánh thẳng vào thực chất quyền lực và đạo đức của giới chăn chiên Công Giáo, cùng lúc cho thấy chính sách tẩy não của Giáo hội Công Giáo.  Vì sách lược tẩy não của Giáo hội, tạo cho tín đồ tâm cảnh hoàn toàn tuân phục bề trên (các giám mục, linh mục), chỉ vì mơ tưởng một cái bánh vẽ trên trời, và coi “linh mục là những Chúa thứ hai” nên mới có thể xảy ra hàng ngàn vụ linh mục cưỡng bách tình dục trẻ con và các nữ tu. 

Theo thống kê năm ngoái thì đã có hơn 5000 (5 ngàn) linh mục bị truy tố về tội cưỡng bách tình dục trẻ em vị thành niên, và đây mới chỉ là con số khiêm tốn bắt đầu, vì ngày nào trên báo chí chúng ta cũng thấy những vụ mới bị phanh phui ra.  Trong số trên 11000 nạn nhân tình dục của linh mục Công giáo thì 78% trong lớp tuổi từ 11 đến 17, 16% từ 8 đến 10 tuổi, và 6%  là 7 tuổi hay nhỏ hơn.  Người ta không biết rõ số nữ tu bị linh mục cưỡng dâm là bao nhiêu, chỉ biết rằng đã xẩy ra trên 24 quốc gia, nghiêm trọng nhất là ở Phi Châu, vì ở đây các nữ tu an toàn hơn để tránh bệnh AIDS.

 

◎◎◎

 

Người Mỹ đặt vấn đề: những linh mục trên là những kẻ cuồng dâm (sadists) hay là “Cha cũng như Chúa”?  Chúng ta nên nhớ, trong “bí tích” truyền chức Linh mục, Chúa Thánh Thần đã vào ngự trong người của Linh Mục và hướng dẫn mọi hành động của ông ta, và Linh mục Vũ Đức ở Detroit gần đây cũng vẫn còn khẳng định trước đám con chiên đã bị tẩy não: Linh mục chính là “Chúa thứ hai”.

 Như vậy thì ai chịu trách nhiệm về những hành động xấu xa, ác độc, vô luân v..v.. của một số giáo hoàng, alias “đại diện của Chúa”, giám mục, linh mục, alias “Chúa thứ hai”,  Sơ, alias “hôn thê của Chúa”, và vô số con chiên sau khi tất cả những người này đã rửa tội và được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn?  Đổ tội cho Sa Tăng chăng?  Nhưng như vậy thì rõ ràng là cả ba Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần họp lại cũng không chống nổi Sa Tăng, vậy bày đặt ra chuyện "toàn năng" với "cứu rỗi", với "ban cho đời sống đời đời" v...v... làm gì?  Có phải chỉ là để lừa dối những kẻ nhẹ dạ, cả tin, không có đầu óc suy luận hay không? 

Thật vậy, sự thật là chẳng có Chúa nào tới ngự trong tâm hồn người Ki Tô, vì nếu thực sự như vậy thì không làm gì có những chuyện tàn bạo, độc ác, vô luân, loạn luân trong giới chăn chiên và trong tín đồ.  Chẳng lẽ cả ba Chúa đã ngự trong người tín đồ mà lại xui khiến tín đồ làm ra những chuyện vô đạo đức để “vinh danh Thiên Chúa trên trời” hay sao?

Nhưng không phải bây giờ người ta mới biết bộ mặt thực của giới linh mục.  Từ xưa, các học giả đã nhận định khá chính xác về các linh mục.  Xin nhắc lại ở đây nhận định về linh mục của một số danh nhân trên thế giới.

 Hugo Grotius (1583-1645), Học giả Hòa Lan:  Người nào đọc lịch sử giới linh mục không đọc gì khác ngoài sự gian giảo và điên rồ của các giám mục và linh mục. (He who reads eccleciastical history reads nothing but the roguery and folly of bishops and churchmen.)

John Milton (1608-1674), Thi sĩ Anh:  Công Giáo La Mã  là một tôn giáo không gì hơn là  sự chuyên chế của giới linh mục, những người trang bị với những bổng lộc của quyền lực dân sự, với chiêu bài tôn giáo, đã chiếm lấy quyền của Chúa (Romanism is less a religion than a priestly tyranny armed with the spoils of civil power which, on the pretext of religion, it hath seized against the command of Christ himself.)

Daniel Defoe (1660-1731), Tiểu thuyết gia AnhTrong tất cả những tai họa mà nhân loại phải chịu đựng, sự độc đoán của giới Linh mục là tệ hại nhất (Of all the plagues with which mankind are cursed, Ecclesiastic tyranny’s the worst.)

Lady Mary Wortley Montagu (1689-1762), Văn sĩ Anh:  Trên khắp thế giới, các linh mục có thể nói láo, và các tín đồ tin, (Priests can lie, and the mob believe, all over the world).

Đại Văn Hào Voltaire (1694-1778):  Lời của Chúa là lời của các linh mục; sự vinh quang của Chúa là sự hãnh diện của các linh mục; ý của Chúa là ý của các linh mục; xúc phạm Chúa là xúc phạm các linh mục; tin vào Chúa là tin vào mọi điều linh mục nói (The word of God is the word of the priests; the glory of god is the pride of the priests; the will of god is the will of the priests; to offend god is to offend the priests; to believe in god is to believe in all that the priests tell us.)

Edward Gibbon (1737-1794), Sử gia Anh: Đối với cái nhìn triết lý, những thói xấu của các Linh Mục thì ít nguy hại hơn những đức tính của họ rất nhiều (To a philosophic eye, the vices of the clergy are far less dangerous than their virtues.)

Thomas Jefferson (1743-1826), Tổng Thống Mỹ:  Trong mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch đối với tự do.(In every country and in every age, the priest has been hostile to liberty).

James Madison (1751-1836), Tổng Thống Mỹ:  Trong gần 15 thế kỷ, cơ sở hợp pháp của Ki Tô giáo đã được phán xét.  Hoa trái của Ki Tô giáo là gì?  Ở khắp nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và hãnh diện của giới Linh mục, sự ngu tối và quỵ lụy của giới tín đồ; sự mê tín, cố chấp và bạo hành trong cả hai giới (During almost 15 centuries has the legal establishment of Christianity been on trial.  What has been its fruits?  More or less in all places, pride and indolence in the clergy; ignorance and servility in the laity; in both, superstition, bigotry, and persecution.)

Napoleon Bonaparte (1769-1821), Hoàng đế Pháp:  Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm (Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood)

Arthur Schopenhauer (1788-1860), Triết gia Đức:  Công giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự mình đạt được.  Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường (The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too troublesome to earn it.  The priest are the brokers for it)

Victor Hugo (1802-1885), Văn hào Pháp: Trong mỗi làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc đó: ông linh mục xứ (There is in every village a torch: the schoolmaster - and an extinguisher: the parson.) 

Giuseppe Garibaldi (1807-1882),  Nhà lãnh đạo Ý (Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Công Giáo, chỉ còn lại Vatican ngày nay):  Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the personification of falsehood.) 

Robert G. Ingersoll (1833-1899), Học giả Mỹ:  Một thầy giáo giỏi có giá trị bằng1000 linh mục (One good schoolmaster is worth a thousand priests.)

William E. H. Lecky (1838-1903), Sử gia Ai Nhĩ Lan: Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Linh mục Công Giáo hay Mục sư Tin Lành,  đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the result.)

Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp: Nền văn minh sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi đè lên tên linh mục cuối cùng (Civilization will not attain to its perfection until the last stone from the last church falls on the last priest.)

 

Trần Chung Ngọc

4/2009

 

 

Trang Trần Chung Ngọc