TƯƠNG LAI GIÁO HỘI CA-TÔ RÔ-MA Ở VIỆT NAM

TRONG BỐI CẢNH SUY SỤP CỦA CA-TÔ GIÁO RÔ-MA HOÀN VŨ

Trần Chung Ngọc

17 tháng 1, 2008


Lời đầu của SH

 


 

Vài Lời Nói Đầu. Gần đây, Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Việt Nam đã phát động chiến dịch xách động giáo dân, hô hào giáo dân cuồng tín gây loạn ở Việt Nam qua sách lược tụ tập đông đảo, thắp nến cầu nguyện trước một số cơ sở của Ca-tô Giáo mà trước đây đã được thực dân Pháp thưởng công cho vì đã giúp Pháp để đưa Việt Nam vào vòng nô lệ Pháp, hoặc chiếm đoạt của nhân dân hay của Phật Giáo, gọi là để đòi lại những cơ sở đó mà họ coi như thuộc quyền sở hữu của Vatican. Đây là những hành động ngoan cố, coi thường luật pháp, làm cản trở lưu thông, gây khó khăn cho sự sinh hoạt bình thường của người dân xung quanh vùng. Mở đầu chiến dịch này là Giám mục Ngô Quang Kiệt và một số linh mục. Họ huy động giáo dân vác thánh giá, biểu tượng của sự tra tấn và một hình phạt dã man nhất của đế quốc La mã khi xưa, xuống đường khi chưa được phép, bất chấp luật pháp. Tại sao họ lại dám làm càn như vậy, chẳng lẽ Giám mục Ngô Quang Kiệt và những người trong giới chăn chiên không hiểu rằng chỗ để thắp nến và cầu nguyện là ở trong nhà, hoặc ở trong nhà thờ, không phải là ở ngoài đường là đất công cộng của mọi người dân, không thể xử dụng để thực hiện mưu đồ riêng của một tôn giáo vốn có tội với dân tộc là Ca Tô Giáo Rô ma ở Việt Nam. Tuyệt đại đa số người dân Việt Nam phi-Ca-Tô, vì bản tính hiền hòa và vì tình đồng loại, đã muốn quên đi quá khứ nhơ nhớp của giáo hội Ca-Tô Rô-ma tại Việt Nam, nhưng nếu Ca-Tô Giáo cứ tiếp tục làm càn thì không ai có thể biết trước được người dân sẽ phản ứng như thế nào. Người dân có thể có phản ứng rất ôn hòa bằng cách phá ngầm, mang những xe bán hàng với loa phóng thanh đến gần khu giáo dân cầu nguyện để rao bán các sản phẩm. Lẽ dĩ nhiên, những lời cầu nguyện không thể lớn hơn âm thanh phát ra từ các loa phóng thanh, và đây là một quyền rất hợp pháp của người dân. Họ cũng có thể mang những biểu ngữ đại loại như: “Xin hãy vào nhà thờ hay về nhà mà cầu nguyện” hay “Đừng có làm cản trở đường lối lưu thông của chúng tôi”. Người dân cũng có thể lên tiếng yêu cầu Nhà Nước can thiệp để Ca-Tô Giáo Rô-ma tại Việt Nam phải trả lại những cơ sở Ca-Tô như Tòa Khâm Sứ, nhà thờ La Vang v..v.. vốn là đất và Chùa của Phật Giáo mà trước đây Ca-Tô Giáo đã cướp đi dựa vào thế lực của thực dân Pháp. Và trong khi tranh chấp, Nhà Nước không thể có quyết định dứt khoát là đất thuộc về ai, và có thể quyết định xử dụng những đất đó cho lợi ích công cộng v..v.. Và tôi nghĩ cũng có nhiều cách khác, tùy theo sáng kiến của người dân, và người dân Việt Nam thì không thiếu sáng kiến.

Những hoạt động phi pháp của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma tại Việt Nam có tính cách phô trương một lực lượng giả tạo, và nếu được đằng chân thì sẽ lân đằng đầu. Nhưng tôi tin rằng chính quyền Việt Nam có thể giải quyết vấn đề gây rối của Ca-Tô Giáo Rô-ma tại Việt Nam này một cách ôn hòa và sáng suốt. Thật vậy, ngày 11 tháng 1 năm 2008, Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội đã gửi công văn cho Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Tòa Giám Mục Hà Nội một công văn mang số 273/UBND-VX, V/v vi phạm của Tòa Tổng Giám mục Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà. Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội lên án những hành động phi pháp của Ca-Tô Giáo Rô-ma tại Việt Nam như sau: “Tuy nhiên chúng tôi rất lấy làm tiếc là thời gian gần đây Tòa tổng Giám Mục Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà đã để xẩy ra các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng giáo dân, vi phạm các quy định hoạt động tôn giáo và pháp luật.” Công văn cũng còn viết:

“Mặc dù chính quyền địa phương đã có nhiều cuộc làm việc trực tiếp và đã có văn bản gửi ông Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt, Linh mục Trịnh Ngọc Hiên và một số giáo sỹ, song những việc làm trên vẫn tiếp diễn gây mất trật tự công cộng, làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa Hội đồng Giám mục Việt Nam, Tòa Tổng Giám mục và chính quyền địa phương; tạo cớ cho kẻ xấu kích động, tuyên truyền xuyên tạc, chia rẽ quan hệ giữa cộng đồng giáo dân với chính quyền; làm ảnh hưởng đến hình ảnh Đạo Thiên Chúa trong cộng đồng dân cư và ảnh hưởng đến mối quan hệ vốn đang được cải thiện giữa nhà nước Việt Nam với Tòa Thánh Vatican”.

Có lẽ vì còn có một chút tế nhị, cho nên Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội chưa nói đến vấn đề nguồn gốc của các cơ sở Ca-Tô Giáo, nhất là Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội, tính cách hợp pháp về sở hữu chủ v..v.. Tôi nghĩ Tòa Giám Mục nên khôn ngoan một chút, nhận định tình thế cho rõ ràng, đừng dồn chính quyền vào cảnh khó xử không những đối với Ca Tô Giáo mà còn đối với tuyệt đại đa số người dân phi Ca-tô ở trong nước cũng như ở hải ngoại, mà những sự kiện lịch sử về Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Việt Nam cũng như nguồn gốc các cơ sở của Ca-Tô giáo đã không còn xa lạ đối với họ.. Vậy tình thế ngày nay ra sao?

Ngày nay, thực dân Pháp đã không còn. Mỹ, với mục đích tạo thuận lợi kinh tế, có thể nếu cần cũng chỉ cho vài chính khách hạng hai ra ủng hộ trên đầu môi chót lưỡi. Thế lực của Vatican đang xuống dốc một cách thê thảm khắp nơi trên thế giới. Đã một thời, các vị mang chức vụ “Giám mục thành Rô-ma” [Giáo hoàng] ở Ý thường nắm quyền sinh sát từ vua chúa xuống tới người dân. Ngày nay họ chỉ có thể thu mình trong Vatican, một mảnh đất chỉ rộng bằng hai sân chơi football. Và mới đây, Giáo hoàng Benedict XVI phải hủy bỏ chuyến đến đại học Sapienza ở Rô-ma, Ý, để phát biểu trong lễ khánh thành, vì bị các giáo sư và sinh viên phản đối, theo tin của CNN. Tại sao các giáo sư và sinh viên ở đại học Sapienza ở Rome lại không cho Benedict XVI đến. Vì năm 1990, khi còn là Hồng y, cũng ở đại học này, Benedict XVI đã bình luận láo là cuộc lên án Galileo năm 1933 về cái tội dám nói ngược với Thánh Kinh, là trái đất quay xung quanh mặt trời chứ không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất, là “hợp lý và đúng.” (The astronomer [Galileo] had argued that the Earth revolved around the Sun, in contradiction to church teachings at the time, and he was forced to renounce his findings publicly…In comments made 15 years ago when he was still a cardinal, Pope Benedict is reported to have called the the 1633 trial and conviction of the scientist Galileo for heresy "reasonable and just."). Nhưng chỉ hai năm sau, ngày 29 tháng 10, 1992, Giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự cho Galileo. Ca-Tô Giáo luôn luôn có lá mặt lá trái.

[ROME, Italy (CNN) -- Pope Benedict XVI has canceled a planned visit to a prestigious Italian university after a protest by academics and students attacked his views on Galileo, the Vatican confirmed Tuesday.

 

 

A student walks past a banner reading: "Against the Papacy" and "No Pope" at La Sapienza University. [Một sinh viên đi qua tấm biểu ngữ viết: “Hãy Chống Chế Độ Giáo Hoàng” và “Không Chấp Nhận Giáo Hoàng” ở đại học Sapienza.]

Vậy thì, thế lực của Ca-Tô Giáo Rô-ma tại Việt Nam, nếu có, chỉ là một sự hoang tưởng của những người không biết rõ thời thế, và chính quyền cũng như những người ngoại đạo không nên nhìn vào những cảnh hung hăng cuồng tín của Ca-Tô giáo mà đánh giá sai lầm thực lực của họ. Giáo hội Ca-Tô Rô-ma tại Việt Nam còn hoàn toàn lệ thuộc Vatican vì không biết đến thực chất Vatican là một tổ chức như thế nào, cho nên vẫn tưởng là mình ở trong một “Hội Thánh.” Trong khi thế giới bên ngoài đã tràn ngập những tác phẩm về bộ mặt thực của Vatican, thì ở trong nước, người Ca-tô vẫn mù mờ tin bướng tin càn. Thật vậy, sách viết về Ca-Tô Giáo Rô-ma thì có rất nhiều, nhưng riêng về Vatican thì tôi đề nghị Giám Mục Ngô Quang Kiệt cũng như giới chăn chiên ở Việt Nam hãy đọc ít nhất là những cuốn sau đây về Vatican để thấy mình đang ở dưới quyền của một tổ chức tôn giáo hay thế tục như thế nào. Quý vị “đừng sợ”, không có ai đọc sách mà phải xuống hỏa ngục đâu, vả chăng Giáo hoàng John Paul II của quý vị đã khẳng định trước thế giới là chẳng làm gì có hỏa ngục cả.

- “Vatican Mis À Nu” của Đức Ông Luigi Marinelli

- Những cuốn “The Vatican’s Mafia”; “Vatican Exposed: Money, Murder, and the Mafia”; “The Vatican’s Finances”; “The Antichrist in the Vatican”; “The Lies of Pope John Paul II” v..v.. của Đức Ông Rafael Rodríguez Guillén.

- “The Secret Archives of the Vatican” của Maria Luisa Ambrosini & Mary Willis

- “The Vatican and Zionism” của Sergio I. Minerbi.

- “The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of the Popes” của Dr. Angelo S. Rappoport

- “In the Vatican: The Politics and Organization of the Roman Catholic Church” của Thomas Reese

- “Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy” của Giám mục dòng Tên Peter de Rosa

- “The Vatican’s Holocaust” của Baron Avro Manhattan

- “In the Vatican” của Peter Hebblethwaite

- “The Vatican Empire”“The Incredible Book of Vatican Facts and Papal Curiosities” của Nino Lo Bello

- “O Vatican: A slightly wicked view of the Holy See” của Paul Hofmann

- “The Vatican Connection” của Richard Hammer

Tôi tin rằng quý vị không thể ngờ được là trong cuốn “The Vatican’s Mafia” của Đức Ông Rafael Rodríguez Guillén lại có những chương mục như sau, và xin quý vị biết rằng cuốn sách đã được phổ biến rộng rãi và quý vị có thể download hoặc mua cuốn này từ trên Internet để mà đọc. Tôi tin rằng, trong tương lai, bằng cách này hay cách khác, cuốn sách này sẽ được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam trong chiều hướng tiến bộ trí thức của người Việt, và quý vị không có cách nào có thể ngăn chận được chiều hướng này.

....

3 - PERSONAGES OF THE SACRED MAFIA OF THE VATICAN

4 - THE VATICAN MAFIA IN THE CATHOLIC CHURCHES

5 - THE GANGSTERS OR THE VATICAN'S SACRILEGIOUS MAFIA

6 - THE CONNECTION OF THE VATICAN IN THE COUNTERFEITING OF BILLIONS OF DOLLARS

7 - THE VATICAN AND HER CONNECTIONS WITH THE CRIME SYNDICATE

8 - THE ARCHBISHOP MARCINKUS AND THE VATICAN'S MAFIA

9 - THE VATICAN'S MURDEROUS MAFIA

11 - THE VATICANS ALLIANCES WITH THE INTERNATIONAL MAFIA

12 - THE HOLY MAFIA

13 - THE INTELLECTUAL, POLITICAL AND SACRED MAFIA

15 - THE TERRORIST MAFIA OF THE VATICAN

16 - THE VATICAN AND HER ROMAN LEGIONS CONNECTED WITH THE MAFIA

20 - THE HOLY MAFIA OR THE OPUS DEI

21 - WRITERS AND HISTORIANS WHO PROVE THE VATICAN'S MAFIA

Để giúp mọi người hiểu thêm về hiện trạng của Ca-Tô Giáo Rô-ma, tôi xin cống hiến một bài khảo cứu về tình trạng suy thoái của Ca-Tô Giáo Rô-ma trên hoàn cầu.

 

¨

ÂU CHÂU, TRONG NHIỀU THẾ KỶ LÀ CÁI NÔI CỦA CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIÁO KI TÔ ĐI KHẮP NƠI, NAY CHÍNH NÓ LẠI TRỞ THÀNH NƠI CẦN PHẢI ĐƯỢC TRUYỀN GIÁO. MỘT SỐ NGƯỜI NÓI RẰNG ĐÂY LÀ MỘT LỤC ĐỊA “HẬU-KITÔ”.

(Europe, for centuries the craddle of Christian Mission, had itself become a mission field… Some say it is a “post-Christian” continent.)

JULIAN PETTIFER & RICHARD BRADLEY

TRONG MỘT HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT VÀO NĂM 1999, CÁC GIÁM MỤC ÂU CHÂU TUYÊN BỐ RẰNG CÁC DÂN TỘC TRONG TOÀN LỤC ĐỊA ÂU CHÂU ĐẢ QUYẾT ĐỊNH SỐNG “NHƯ LÀ THIÊN CHÚA KHÔNG HỀ HIỆN HỮU.

(At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.)

JOHN CORNWELL

Năm 1983, Malichi Martin, một giáo sư dòng Tên tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh của Giáo hoàng, tiến sĩ về khoa ngôn ngữ Do Thái, Khảo Cổ và Lịch Sử Đông Phương, đã từng phục vụ ở Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, đã viết trong cuốn “Sự Suy Sụp Của Giáo Hội Ca-Tô Rô Ma” [The Decline and Fall of the Roman Church, Bantam Books, New York], như sau, trang 1:

“Tiến trình bất ngờ và làm cho người ta phân vân nhất trong 20 năm gần đây là sự suy thoái đột nhiên của giáo hội Ca-Tô Rô-ma trong tổ chức giáo quyền và trong lý tưởng đồng nhất của giáo hội.

Với tình trạng ngày nay, có vẻ như không có một hi vọng hợp lý nào để cho sự suy thoái đó ngưng lại.. [Phù hợp với NHIỀU LẦN THAN VÃN Của Benedict XVI ngày nay]

Những thống kê đáng tin cậy và những chi tiết khác thật là khủng khiếp cho đầu óc người Ca-Tô Rô-ma truyền thống. Khi vẽ trên một biểu đồ từ năm 1965 đến năm 1980, số linh mục, nữ tu (các sơ), huynh trưởng trong đạo, học sinh trung học, sinh viên đại học tư (của Ca Tô Giáo), số người rửa tội, vào đạo, lấy người cùng đạo, dự lễ ban thánh thể, xưng tội, thêm sức – mọi thống kê đáng kể hiện hữu - đều mô tả một sự suy giảm chúc đầu xuống không ngừng. Thêm vào những yếu tố chính trên là số tín đồ Ca Tô Rô-ma dứt khoát bác bỏ hoàn toàn giáo lý của Rô-ma về ly dị, ngừa thai, phá thai, đồng giống luyến ái, và Cộng sản.

Hơn nữa còn có một số yếu tố vô hình nhưng không kém phần quan trọng. Ví dụ, ngày nay không thể nào biết được là có bao nhiêu linh mục được phong một cách có giá trị [nghĩa là có đầy đủ giá trị về những quyền năng thần thánh mà nền thần học xảo quyệt của giáo hội đã tạo ra cho giới chăn chiên để nắm giữ đầu óc tín đồ, ví dụ như: có quyền gọi Thánh Linh bất cứ ở đâu đến phục vụ cho ông ta trong những màn pháp thuật được gọi là “bí tích”, có quyền rửa sạch cái tội tổ tông không hề có của một đứa bé mới sinh ra đời, có quyền tha tội cho ai thì người ấy được tha, có khả năng biến một mẩu bánh làm bằng bột thành thân thể thực sự của Chúa v..v..]. Vì chắc chắn là nhiều giám mục phong chức linh mục cho các ứng viên không hề có ý định là tạo ra những linh mục với quyền năng thiêng liêng là ban thánh thể và tha tội cho những kẻ xưng tội, và nhiều ứng viên cũng không hề có ý định là sẽ nhận được những quyền năng như vậy. Không có những quyền năng như vậy thì không có giới linh mục, không có lễ Mi-sa, và không có sự tha tội trong lễ xưng tội. Thiếu những quyền năng như vậy, dù vô giá trị đối với người ngoại đạo, đối với đầu óc của người Ca-Tô Rô-ma, có nghĩa là cái chết của giáo hội.”

(Malachi Martin, a Jesuit Professor at the Pontifical Biblical Institute in Rome, doctorate in Semitic languages, archeology and Oriental history, The Decline and Fall of the Roman Church, a Bantam Book, NY, 1983, p.1: The most surprising and the most puzzling development in the last 20 years has been the sudden and undoubted decline of the Church of Rome in its ecclesiastical organization and ideological unity.. As things now stand, there appears to be no reasonable hope that this decline can be arrested…

The relevant statistics and other details are horrendous for the traditional Roman Catholic mind. When plotted on a graph covering the years 1965-1980, the number of priests, nuns, religious brothers, junior and senior high school students, private college students, baptisms, conversions, inter-Catholic marriages, communions, confessions, confirmations – every significant statistics available – describes a plummeting, non-stop, downward drop. Added to these key factors are the figures of those Roman Catholics who totally reject Roman teaching about divorce, contraception, abortion, homosexuality, and Communism.

There are, furthermore, some “invisible” but nonetheless potent factors. For instance, it is now impossible to reckon how many validly ordained priests are available. For, certainly, many bishops ordaining candidates for the priesthood have no intention of creating priests with the sacramental powers to offer the sacrifice of the Mass and to absolve penitents of sins, and many candidates do not have the intention of receiving such powers. Without such powers, there is no priesthood, no Mass, no absolution in confession. Such lack of validity, although unvalued outside the church, means the death of the church for the Roman Catholic mind.)

Malachi Martin viết không sai, giáo hội sống còn là nhờ vào mớ quyền năng tự tạo cho giới chăn chiên, khai thác sự yếu kém tinh thần và trình độ hiểu biết của đa số giáo dân. Ngày nay, mớ quyền năng đó đã trở thành những màn lừa dối để lùa con người vào vòng mê tín nên ngay cả một số không nhỏ những tín đồ Ca-Tô bình thường cũng như những người trí thức trong giáo hội cũng không còn tin, trừ số tín đồ thấp kém ở trong các địa phương chậm tiến, nên trên thực tế, giáo hội đã chết.

The Decline and Fall of the Roman Church là một cuốn sách mà bất cứ ai quan tâm đến vấn nạn Ca-Tô Giáo Rô-ma cần phải đọc nếu muốn biết về lịch sử của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma từ thời Peter (Phê-rô) đến thời Giáo hoàng John Paul II. Nơi trang 230, Malachi Martin viết:

Giáo Hoàng John XXIII, trong buổi khai mạc Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng 10, 1962, nói rằng: "những giáo lý và quan niệm sai lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại bỏ chúng... Nhưng nếu Roncalli (John XXIII) không thấy là điều giảng dạy mới của mình đi tới kết quả nào, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập niên 1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác.

(Pope John XXIII told the opening session of his council on October 11, 1962, that "false doctrines and opinions still abound," but that "today men spontaneously reject" them... But if Roncalli did not see where his new teaching was leading, hundreds of theologians and bishops did. In the sixties and the seventies after Roncalli's death, they drew these conclusions and abandoned belief in original sin, in the Devil, and in many other fundamental doctrines.)

Tại sao các nhà thần học và giám mục lại từ bỏ thuyết thần học về tội tổ tông, về quỷ Satan và về nhiều giáo lý căn bản khác như “ơn cứu chuộc của Chúa”, “Chúa sống lại”, hay “Đức Mẹ đồng trinh” v..v..? Vì, như chính Giáo hoàng John XXIII đã nhận xét, đó là những giáo lý và quan niệm sai lầm nhưng trong một thời gian lâu dài nhiều thế kỷ đã làm chủ lực tinh thần của Ca-Tô Giáo Rô-ma, và nay vẫn còn tồn tại trong đám tín đồ thấp kém. Các nhà thần học và giám mục hiển nhiên là những người có trình độ, không như đám giáo dân ở dưới, cho nên ngày nay, những giáo lý có tính mê hoặc của giáo hội trước đây đã không còn phù hợp với trình độ hiểu biết tiến bộ của nhân loại, hơn nữa lại còn chứa những mâu thuẫn mà không nhà thần học nào có thể biện minh được. Do đó, họ bắt buộc phải từ bỏ nếu không muốn đặt mình vào vị thế của những kẻ lạc hậu về kiến thức, về tư duy. Nhưng điều đáng nói là, sự từ bỏ những giáo lý và quan niệm sai lầm của giáo hội chỉ thu hẹp trong giới trí thức Ca-Tô, chưa hề được truyền xuống giới giáo dân, vì tuy giới chăn chiên cũng đã nhận ra những giáo lý và quan niệm sai lầm này, nhưng họ vẫn giữ chặt, không dám cho đám con chiên biết, sợ rằng đức tin của con chiên bị chao đảo, kéo theo sự mất đi quyền lực tinh thần cũng như vật chất của họ. Trong bài này, tôi không muốn đi vào những vấn đề trên, điều mà tôi đã trình bày trong một số bài khác, mà chỉ tìm hiểu tình trạng suy thoái của Giáo hội Ca-Tô Rô Ma nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung. Chúng ta hãy bắt đầu từ đầu.

Trái đất mà chúng ta sống trên đó là một hành tinh trong Thái Dương Hệ, và Thái Dương Hệ, gồm mặt trời và các hành tinh, về kích thước, chẳng qua chỉ là vài hạt bụi trong vũ trụ. Khoa học đã xác định là vũ trụ bắt nguồn từ sự nổ bùng, gọi là “Big Bang”, của một dị điểm (singularity) vô cùng đặc, vô cùng nóng, xảy ra cách đây khoảng 13.7 tỷ năm. Và sau đó Thái Dương Hệ thành hình trước đây khoảng 5 tỷ năm, và trái đất của chúng ta có tuổi khoảng ít ra là 4.5 tỷ năm. Đây là những sự kiện không ai có thể phủ bác trừ những người Ki Tô Giáo vẫn còn tin là Thượng đế của họ đã sáng tạo ra vũ trụ muôn loài cách đây mới có 6,7 ngàn năm.

Trong gần 2000 năm, Ki Tô Giáo tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thượng đế, nên không thể sai lầm. Dựa trên một số tài liệu lịch sử, về niên đại đúng của Vua Nebuchadnezzar II, và tuổi của các Thượng Phụ trong Thánh Kinh, Giám Mục James Ussher (1581-1656) ở Armagh, đã tính toán rất kỹ và khẳng định là Thượng đế đã sáng tạo ra thế giới này vào năm 4004 trước Tây Lịch. Tin vào chuyện vườn Eden, trái cây đã chín để Adam có thể ăn và phạm tội tổ tông, Ussher suy ra rằng sự sáng tạo phải xảy ra vào mùa Thu. Ussher cũng cho rằng ngày sáng tạo đầu tiên phải là ngày Chủ Nhật, vì Thượng đế đã sáng tạo ra thế giới trong 6 ngày rồi nghỉ ngày thứ bảy. Mà ngày thứ Bảy là ngày nghỉ của dân Do Thái. Từ đó, Ussher tính ra là sự sáng tạo của Thượng đế bắt đầu vào ngày 23 tháng 10, năm 4004 trước Tây Lịch. Và cái mốc “sáng tạo” này đã được toàn thể thế giới Ki Tô tin trong nhiều thế kỷ, và được ghi bên cạnh Chương Sáng Thế Ký trong Cựu ước cho đến thế kỷ 19. Cũng vì vậy mà cho đến ngày nay vẫn còn một số không nhỏ tín đồ Ki Tô Giáo, Mít cũng như Mỹ, tiếp tục tin rằng Chúa rất thông minh của họ, đã sáng tạo ra thế giới này cách đây khoảng trên dưới 6000 năm.

Trước những khám phá khoa học bất khả phủ bác về tuổi của vũ trụ và trái đất, Ki Tô Giáo tìm cách đưa ra nhiều lý luận để giải thích rất ngớ ngẩn, nhưng đám con chiên rất hồ hởi, mang những lý luận này ra để chứng minh thuyết sáng tạo của Ki Tô giáo. Thuyết thứ nhất là thuyết “ngày không phải là ngày”, hay là “ngày rất dài”, có thể là cả một kỷ nguyên (epoch), tiếng Mỹ gọi là “day-age theory”. Thuyết này chỉ có thể mê hoặc được những người chưa từng đọc Thánh Kinh. Vì Thượng đế “sáng tạo” ra cây cỏ trong “ngày thứ ba” [Genesis 1: 11-13] (Genesis 1: 13: So the evening and the morning were the third day). Nếu ngày của Thượng đế là cả một kỷ nguyên thì cái gọi là “evening” và “morning” có ý nghĩa gì?, kể cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Nhưng không phải chỉ có vậy. Ngày hôm sau, nghĩa là ngày thứ tư, nghĩa là sau một kỷ nguyên, Thượng đế mới “sáng tạo” ra mặt trời để soi sáng ban ngày, và mặt trăng để soi sáng ban đêm [Genesis 1: 16: Then God made two great lights: the greater light to rule the day, and the lesser light to rule the night. He made the stars also.] Nhưng có vẻ như sự hiểu biết của Thiên Chúa chẳng qua cũng chì là sự hiểu biết của một số người trong thời bán khai, vì mặt trăng là một hành tinh, tự nó không phát ra ánh sáng để soi sáng ban đêm, mà là trong ngày rằm, chúng ta thấy mặt trăng sáng là do ánh sáng của mặt trời chiếu vào. Đêm 30 Tết, the “lesser light” nào soi sáng ban đêm? Nhưng cũng không phải chỉ có vậy. Trong cả một kỷ nguyên, mà cây cỏ không có ánh sáng mặt trời thì cây cỏ sống cách nào? Giải thích điển hình cho các con chiên ngu ngơ là “Chúa toàn năng, làm gì chẳng được.” Thuyết thứ hai là thuyết “có một thời gian vô cùng dài Thiên Chúa ngồi chơi sơi nước”, nghĩa là, rất có thể có một khoảng thời gian vô cùng dài từ lúc sáng tạo đầu tiên trong Genesis 1:1 đến lúc sáng tạo ra vũ trụ và thế giới trong 6 ngày. Thuyết này gọi là “gap-theory”. Nhưng lúc đầu Thượng đế đã tạo ra “trời” và “đất” rồi [Genesis 1:1 In the beginning God created the heavens and the earth]. Và một câu hỏi được đặt ra: “Thế trong khoảng thời gian vô cùng dài đó (vào khoảng 8.7 tỷ năm: từ lúc Big Bang sinh ra vũ trụ cho đến khi Thái Dương Hệ thành hình) thì God ngồi làm gì? Ngồi uống rượu đế, hay ngồi dự kiến thiết kế thông minh là “13 tỷ 699 triệu 998 ngàn năm” sau sẽ xâm phạm tiết hạnh của bà Maria? Câu trả lời để hù dọa các con chiên là: “God ngồi sửa soạn hỏa ngục cho đứa nào dám đặt ra câu hỏi này.”

Đó là chuyện vũ trụ. Còn về loài người thì không còn nghi ngờ gì nữa là con người đã tiến hóa từ những dạng sống thấp hơn. Tiến hóa là một qui luật tự nhiên của thiên nhiên. Loài người chúng ta đã trải qua những thời đại đồ đá, đồ đồng, đồ sắt v..v.. cho tới thời đại điện tử ngày nay. Và hiển nhiên là qua các thời đại này, trí tuệ con người cũng đã phát triển. Thánh Kinh Cựu Ước của Ki Tô Giáo viết rằng Thượng đế đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài trong 6 ngày, và tác phẩm tuyệt vời nhất của Thượng đế trong ngày thứ sáu là làm ra loài người theo hình ảnh của Thượng đế. Sau khi hoàn thành tác phẩm này, Thánh Kinh viết: “Rồi God thấy mọi thứ “Ông ta” đã làm ra, và đúng vậy, chúng thật là rất tốt đẹp” [Genesis 1: 31: Then God saw everything that He has made, and indeed it was very good] . Đọc đoạn trên, tôi thắc mắc không hiểu ai ở đó lúc sáng tạo mà viết như vậy. Ki Tô Giáo cho rằng Moses đã được Thượng đế mạc khải cho mà viết như vậy. Nhưng làm sao tin được đó chính là những lời mạc khải của Thượng đế cho Moses vì ngoài Moses ra có ai biết là Thượng đế đã mạc khải cho Moses cái gì? Ngày nay cũng có nhiều nhà truyền đạo tuyên bố rằng Chúa đã mạc khải cho họ điều này điều nọ, nhưng tất cả chỉ là những lời bịp bợm để quyến rũ nhưng người cả tin. Nhưng vấn đề rắc rối là, nền học thuật về Thánh Kinh trong 200 năm nay đã chứng minh rằng, Ngũ Kinh, 5 sách đầu của Cựu Ước, lại không phải là do Moses viết, mà là do nhiều tác giả trong nhiều phái khác nhau viết trong nhiều thời gian khác nhau. Thật là chuyện rối mù [hay đoán mò, theo Ngô triệu Lịch] của nền thần học Ki Tô Giáo. Nhưng vấn đề ở trong Thánh Kinh là, nếu sự sáng tạo ra loài người của Thượng đế đã rất tốt đẹp rồi thì không cần gì phải thay đổi để tốt hơn, bởi vì đó là kết quả thiết kế thông minh [hay ngu đần?] của một Thượng đế toàn năng, toàn trí. Những sự thực ngay trước mắt chứng tỏ không phải như vậy. Bởi vì con người mà Thượng đế tạo ra theo hình ảnh của chính Thượng đế, nếu chúng ta có thể tin được chuyện sáng tạo rất tốt đẹp này, như các tín đồ Ki Tô Giáo tin, là một con người mới đầu đi bằng 4 chân rồi mới dần dần tiến hóa để đi bằng hai chân, và ngay cả khi bắt đầu đi bằng hai chân, hình ảnh của Thượng đế cũng chỉ là những con người ăn lông ở lỗ, man rợ. Có người nào muốn phủ nhận điều này, xin mời lên tiếng. Ngày nay, người Ki-Tô đang cố gắng ngụy biện với một luận cứ vô cùng mâu thuẫn và vô lý là: Tất cả đều nằm trong kế hoạch của Thượng đế, kể cả thuyết Tiến Hóa của Darwin. Nhưng khi thuyết Tiến Hóa mới ra đời thì những đại diện của Chúa và nhiều giám mục, linh mục “cha cũng như Chúa” đã là nhưng người chống thuyết Tiến Hóa năng nổ nhất, không biết đó là kế hoạch của Thượng đế. Và ngày nay sau bao cố gắng chống đối nhưng thất bại, tất cả đã phải đầu hàng trước khoa học, kể cả vị chủ chăn nổi tiếng là John Paul II. Lý do?

Khoa học ngày nay đã chôn vùi thuyết Sáng Tạo của Ki Tô Giáo. Thật vậy, tìm hiểu về nguồn gốc con người, các khoa học gia đã phối hợp kết quả nghiên cứu trong ít nhất là 7 ngành khoa học có liên hệ với nhau và hỗ trợ nhau: Cổ Sinh Vật và Nhân Chủng Học (Paleoanthropology), Khảo Cổ (Archaeology), Di Truyền Dân Số Học (Population genetics), Lịch Sử Ngôn Ngữ Học (Historical linguistics), ngành khảo cứu về các Động Vật Linh Trưởng (Primatology), Nhân Chủng Xã Hội (Social Anthropology), và Tiến Hóa Tâm Lý (Evolutionary Psychology). Từ những kết quả nghiên cứu này, điều rõ ràng là, cũng như mọi vấn đề khác trong sinh học, quá khứ và hiện tại của giống người chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của Tiến Hóa. [Like everything else in biology, the human past and present are incomprehensible except in the light of evolution.]

Sự kiện là, những kết quả nghiên cứu về “bộ gen “ (genome) của các loài khỉ như khỉ không đuôi có dạng giống người (ape), khỉ đột (gorilla), đười ươi (orangutan), vượn (chimpanzee), và “bộ gen” của người cho thấy giữa người và vượn, 99% của “bộ gen” y hệt nhau (identical). Và từ những kết quả này, đi ngược thời gian, các khoa học gia đã biết được là khoảng 5 triệu năm trước, nhánh loài người đã tách ra khỏi nhánh những con khỉ không đuôi trên cái cây tiến hóa. Sau khi tách ra thành một nhánh riêng, loài người nguyên thủy tiến hóa dần dần thành động vật đi hai chân và phát triển thành da đen [bắt đầu ở Phi Châu], mất đi lông trên người, và bộ óc lớn dần cho đến kích thước ngày nay. Rồi cách đây khoảng 50000 năm, ngôn ngữ bắt đầu phát triển, giúp cho loài người sống thành những bộ lạc, cộng đồng v..v.., và bắt đầu di dân ra ngoài Phi Châu tới các lục địa khác. Đó là đại khái về nguồn gốc con người.

Ki Tô Giáo thường cố ý hiểu lầm thuyết Tiến Hóa để bài bác, rằng con người không phải là tiến hóa từ loài khỉ. Thuyết Tiến Hóa không hề nói loài người là hậu thân của loài khỉ mà là, khỉ và người có cùng một nguồn gốc tổ tiên xa trên cây tiến hóa. Và điều này đã được khoa học kiểm chứng. Thật vậy, những công cuộc khảo cứu mới nhất về những con bọ (fruit flies), chương trình khảo cứu “evo devo” [evolutionary development biology] trong sinh học về quá trình phát triển tạo ra cơ thể sinh vật và thay đổi chúng qua thời gian [đại học Wisconsin-Madison] đã chứng tỏ rõ ràng là loài người có cùng họ hàng không chỉ với những loại khỉ mà còn với những con bọ, con sâu trong quá khứ xa nữa (Analysis of the genes that build our bodies show our clear skinship not just to the apes but all the way back to bugs, worms and beyond). Không những vậy mà con người còn liên hệ tới tất cả vũ trụ. Điều này được Giáo sư Trịnh Xuân Thuận nhận định như sau trong cuốn “L'Infini Dans La Paume de la Main”: "Tiến hóa từ những cát bụi của những ngôi sao, chúng ta chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ với những con sư tử trong những vùng hoang mạc và những bông hoa tỏa mùi thơm" (Poussières d'étoiles, nous partageons la même histoire cosmique avec les lions des savanes et les fleurs de lavande).

Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Ca-Tô Rô-ma không còn cách nào khác là phải lên tiếng chấp nhận một số sự kiện khoa học trước thế giới văn minh tiến bộ, nhưng vẫn bưng bít dấu kín trước đám tín đồ thấp kém. Giáo hội biết rõ trình độ giáo dân của mình và do đó, một mặt vẫn áp dụng sách lược bưng bít thông tin, nghĩa là “ngu dân dễ trị”, một mặt vẫn rao giảng nhồi nhét vào đầu tín đồ những điều hoang đường mà chính giáo hội đã bác bỏ để duy trì quyền lực tinh thần và vật chất của giới chăn chiên. Sau đây là một vài sự kiện để chứng minh.

Từ năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời một số chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các chuyên gia được giáo hoàng John Paul II tiếp kiến. Ông ta nói với các khoa học gia là cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ bùng (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thượng đế.” (Stephen Hawking, A Brief History of Time, p. 116: He told us that it was all right to study the evolution of the universe after the big bang, but we should not inquire into the big bang itself because that was the moment of Creation and therefore the work of God). Chúng ta nên để ý, Giáo hoàng nói câu trên chẳng qua chỉ để vớt vát phần nào mặt mũi của Thượng đế, một mặt mũi đã không còn chỗ đứng trong thế giới tiến bộ trí thức và khoa học của nhân loại. Vì Big Bang là hiện tượng nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng đặc, vô cùng nóng, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và đã xảy ra cách đây khoảng 13.7 tỷ năm chứ không phải là chỉ có 6000 năm do sự “sáng tạo” (sic) của Thượng đế Ki-tô giáo như được viết trong Kinh Thánh, được coi như những lời không thể sai lầm của Thượng đế.

Năm 1992, giáo hoàng đã công khai nhìn nhận là giáo hội đã sai lầm trong vụ án Galileo Galilei. 359 năm về trước, Giáo hội bắt Galilei phải sửa lại kết quả nghiên cứu khoa học của ông ta (rằng trái đất quay xung quanh mặt trời) cho đúng với những lời “mạc khải không thể sai lầm trong Thánh Kinh” (rằng trái đất đứng yên và mặt trời quay xung quanh trái đất), rồi giam ông ta tại gia cho đến khi chết. Sự nhìn nhận sai lầm của Tòa Thánh trong vụ Galilei cho thấy thánh kinh sai và kéo theo vấn đề: nếu thánh kinh đã sai về vũ trụ thì rất có thể cũng sai về nhiều điều khác nữa. Ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu thánh kinh đều đồng thuận ở điểm là thánh kinh có rất nhiều sai lầm cả về thần học lẫn khoa học. Do đó, thánh kinh không phải là những lời “mạc khải” không thể sai lầm của một vị thần toàn năng toàn trí, như lời giáo hội vẫn thường dạy cho những tín đồ bảo sao nghe vậy. Thực tế cũng cho thấy rằng, trí tuệ của con người ngày nay đã vượt xa trí tuệ của bậc “toàn năng, toàn trí” trong Thánh Kinh Ki-Tô giáo rất nhiều. Ây thế mà người ta vẫn đi thờ phụng một “đấng” mà trí tuệ kém cỏi hơn người đời rất nhiều. Thật là kỳ lạ.

Năm 1996, giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới là “thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn chỉ là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis”).

Chấp nhận thuyết Big Bang, thuyết tiến hóa, chấp nhận con người không phải là do Thượng đế tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, giáo hoàng đã phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực.

Tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: "thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life). Như vậy là Giáo Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo hội Ca-Tô: “người nào tin Chúa thì sẽ được Chúa cho lên thiên đường sống cuộc sống đời đời bên ngài, kẻ nào không tin sẽ bị Chúa phán xét đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục ở trong lòng đất”. Nhưng chắc chẳng có ai buồn nhớ là, trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, xuất bản năm 1995, trang 76, để trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần cứu rỗi?”, giáo hoàng John Paul II đã trích dẫn một câu hoàn toàn vô nghĩa, vô nghĩa vì chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giê-su, trong Phúc Âm John làm luận điểm giải thích: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài [nghĩa là Giê-su], để những ai tin vào Người [Giê-su] sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.” Chúng ta thấy rõ thủ đoạn nhồi sọ của Giáo hội đối với đám con chiên là như thế nào, luôn luôn rao giảng những điều hoang đường mà chính Giáo hoàng cũng như giới chăn chiên không còn tin để mê hoặc và duy trì “đức tin” trong đám tín đồ. Tôi cho đó là sự bất lương trí thức.

Tôi tự hỏi, có bao nhiêu tín đồ Ki-tô, Ca-tô cũng như Tin Lành, biết đến những thay đổi trong nội bộ các giáo hội Ki-tô về căn bản tín ngưỡng trong Ki-tô Giáo, biết đến những sự kiện lịch sử này, và biết đến những quan niệm sai lầm bắt nguồn từ Kinh Thánh? Tôi nghĩ đa số chưa bao giờ nghe đến tên Copernicus hay Galileo, chưa bao giờ nghe đến những lời tuyên bố trước thế giới của giáo hoàng John Paul II. Tôi cũng nghĩ tuyệt đại đa số tín đồ Ki-tô chưa từng đọc đến Kinh Thánh và lẽ dĩ nhiên không có một kiến thức nào, dù là tối thiểu, về những tiến bộ của khoa học và đầu óc con người trên thế giới. Nhưng thế giới không phải chỉ gồm có những con chiên mà phần lớn còn là những con người. Và đã là con người thì qui luật tiến hóa bắt tri thức con người phải mở mang, tiến bộ với thời gian, và tất nhiên phải đào thải những gì không còn thích hợp với thời đại. Và đây chính là lý do chính mà Ca-Tô Giáo Rô Ma nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung, bắt buộc phải suy thoái. Một số yếu tố không kém quan trọng góp phần làm cho Ca-Tô Giáo Rô-ma bắt buộc phải suy thoái là vì cái lịch sử ô nhục, đẫm máu của một số “đức thánh cha” và của giáo hội, cộng với với những xì căng đan hiện đại như Vatican dính líu đến Mafia, đến tổ chức tội ác, rửa tiền v..v.., và các vụ linh mục hiếp dâm các sơ trong 23 quốc gia, 4392 linh mục (cho đến ngày nay) đã bị truy tố vì tội cưỡng bức tình dục trẻ em và nữ tín đồ mà Giáo hội đã phải bỏ ra hơn 2 tỷ đô la để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “cha cũng như Chúa” v..v…

Tại sao một tôn giáo lại có thể có những bậc chủ chăn phi đạo đức và một lịch sử nhem nhuốc như vậy? Thật ra không có gì khó hiểu. Vì Ca Tô Giáo bắt nguồn từ những huyền thoại của một sắc dân du mục trong thời bán khai là dân Do Thái, và trong Thánh Kinh của Do Thái có đầy những chuyện giết người tàn bạo, loạn luân, đĩ điếm và hoang đường mà không một người nào trong thế giới ngày nay có thể chấp nhận... Ảnh hưởng của Thánh Kinh trên đầu óc con người là điều không ai có thể chối cãi, và những hành động của Giáo hội cũng như của những cá nhân trong Giáo hội phần lớn là vì những ảnh hưởng này, và vì tin vào những điều tàn bạo man rợ trong Thánh Kinh. Điều này đã chứng tỏ rõ ràng nhất trong chính bản văn xưng tội trước thế giới của Vatican.

Tháng 3 năm 2000, trong một cuộc gọi là “thánh lễ” công cộng tại một nơi gọi là “thánh đường” Phê-rô, Giáo hoàng cùng một số hồng y, tổng giám mục, trong đó có tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận, đại diện cho cái gọi là “hội thánh” Ca-Tô, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội ác” đối với nhân loại của Ca-Tô giáo Rô-ma. 7 núi tội ác này, qua gần 20 thế kỷ, đã đưa đến những thảm họa to lớn cho nhân loại như “thập tự chinh” (thường được gọi một cách sai lầm là “thánh chiến” vì bản chất những cuộc chiến này rất man rợ, bạo tàn chứ chẳng có gì là “thánh” cả), tòa hình án xử dị giáo, những cuộc săn lùng và thiêu sống “phù thủy”, bách hại dân Do Thái, kỳ thị phái nữ, liên kết với thực dân để truyền đạo với sách lược xâm lăng văn hóa, mưu toan thống trị hoàn cầu, và có thái độ thù nghịch với các tôn giáo khác v..v.. (Xin đọc chi tiết những tội ác của Ca-Tô giáo đối với nhân loại trong cuốn VATICAN: Thú Tội Và Xin Lỗi? của 6 tác giả, Giao Điểm xuất bản năm 2000). Hành động “xưng thú 7 núi tội lỗi” này đã làm cho những lời tự nhận của giáo hội mà giáo hội thường cấy vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, rằng Ca-Tô giáo là tôn giáo “thiên khải duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “hôn thê của Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại”, bác ái”, “dân chủ” v..v.., trở thành những lời nói láo vĩ đại nhất trong lịch sử các tôn giáo của loài người. Một khi mà những lời nói láo không còn có hiệu lực và không còn thuyết phục được ai, thì tất nhiên con người sẽ không còn tin vào chúng nữa. Và sự kiện tín đồ bỏ đạo hàng loạt là vì họ không còn muốn dính dáng gì đến một giáo hội đầy tội lỗi thế gian, và trình độ người dân ngày nay đã cao, không còn có thể tin vào những điều thuộc loại hoang đường mê tín nữa. Chính các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô đã khai sáng cho họ qua những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về Ca Tô Giáo. Những người còn ở lại trong Giáo hội, dù muốn dù không, không thể nói rằng mình chỉ tin Chúa, không liên can gì đến cái lịch sử nhem nhuốc của giáo hội, cũng không liên quan gì đến những hành động vô đạo đức tràn ngập trong giới chăn chiên. Tại sao? Vì họ không thể tách mình ra khỏi cái hệ thống toàn trị của Giáo hội, một hệ thống đã dạy họ, và họ đã tin, Giáo hoàng là “đại diện của Chúa trên trần” và các linh mục đều là các “Cha cũng như Chúa” cả. Thật vậy, một Giám mục Việt Nam đã từng khuyên các con chiên là: “Các con đừng nói hành các Cha mà mang tội với Chúa”. Giáo hội nắm trong tay những chìa khóa của thiên đường, nên các con chiên không thể trực tiếp đến với Chúa mà phải qua trung gian của Giáo hội, vì giáo hội có quyền tuyệt thông họ, không cho họ đến gần Chúa. Đó là cái vòng kim cô xiết chặt trên đầu họ.

Luận điệu chạy tội của Giáo hội Ca-tô ngày nay là đổ tội cho các xã hội thế tục và chủ nghĩa vật chất v..v.. đã làm cho Ki Tô Giáo nói chung suy thoái. Các con chiên Việt Nam cũng hùa theo lên án chủ nghĩa vật chất và thế tục. Họ quên rằng Giáo hội là một tổ chức thế tục và vật chất vào bậc nhất thiên hạ. Họ không biết rằng tài sản của Giáo hội lên đến cả ngàn tỷ đô-la. Họ cũng không biết rằng Giáo hội đã đầu tư vào những dịch vụ vô đạo đức như chế tạo vũ khí, làm thuốc ngừa thai mà Giáo hội cấm v..v.. Họ cũng quên rằng trong gần 2000 năm Giáo hội đã là chủ lực tinh thần ở Âu Châu, nhưng ngày nay Âu Châu đã từ bỏ Ca-Tô Giáo. Nước Mỹ là nước bậc nhất thờ chủ nghĩa vật chất nhưng Mỹ vẫn là nước mà Ki Tô Giáo vẫn là chủ lực tinh thần và tỷ lệ giáo dân trên dân số vẫn cao nhất. Vấn đề chính là, Ki Tô Giáo nói chung, với những cấu trúc quyền lực toàn trị của ca-Tô Giáo Rô-ma, với những giáo lý Tin Lành dựa trên sự không thể sai lầm của Thánh Kinh, đã không còn hợp với thế giới văn minh tiến bộ ngày nay. Thật vậy, nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy thật ra sự suy thoái của Ki Tô Giáo không phải trong thời đại này mới xảy ra mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người ít ra là từ cuộc Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, từ Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại Khai Sáng (The Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, và Thời Đại Phân Tích (The Age of Analysis) vào thế kỷ 20. Những thời đại này đã kéo con người Tây phương ra khỏi Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà sự thống trị của Ca-Tô Giáo Rô-ma đã đưa Âu Châu vào 1000 tăm tối được biết dưới tên Thời Đại Trung Cổ (The Middle Ages) hay Thời Đại Hắc Ám (The Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức (The age of barbarism and intellectual darkness).

Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Ki Tô Giáo bắt buộc phải suy thoái, vì căn bản Ki Tô Giáo là một tôn giáo thuộc loại mê tín nhất thế gian, nhốt tuyệt đại đa số tín đồ vào một “đức tin” (faith) không cần biết không cần hiểu. Sự tiến bộ trí thức của nhân loại đã khiến cho không ít tín đồ và một số các vị lãnh đạo Ki Tô Giáo nhận ra sự thật cay đắng này. Những niềm tin căn bản của Ki Tô Giáo nói chung, ví dụ như chuyện Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ trong 6 ngày cách đây khoảng 6000 năm, chuyện vườn địa đàng Eden, Adam và Eve sa ngã tạo nên tội tổ tông, Chúa Giê-su sinh ra từ một nữ trinh, bị đóng đinh trên thập giá chết đi rồi sống lại sau ba ngày và rồi 40 ngày sau đó bay lên trời ngồi bên phải của Chúa Cha, khả năng chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su v..v.., tất cả đều không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết và trí thức ngày nay. Bởi vậy nên một số các bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cũng như một số học giả trí thức Ki Tô Giáo đã cố gắng nghiên cứu, viết sách, trình bày sự thật để giáo dục những tín đồ Ki Tô Giáo đáng thương của họ. Điều này đã góp phần lớn trong sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới. Sau đây là vài kết quả nghiên cứu điển hình của họ.

Trên đây tôi đã trình bày sơ lược về một số nguyên nhân khiến cho Ca-Tô Giáo Rô Ma không thể nào thoát khỏi đà suy thoái. Tới đây chúng ta hãy đi vào việc tìm hiểu hiện trạng suy thoái của Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng, Ki-Tô Giáo nói chung, trên thế giới.

Sự suy thoái của Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Tây phương, cái nôi của Ca-Tô Giáo trước đây, là một sự kiện. Giáo hoàng Ca-Tô Giáo Rô-ma tiền nhiệm, John Paul II, đã có trên 100 chuyến công du đến các nước trong thế giới thứ ba để mong vớt vát niềm tin trong đám tín đồ. Nhưng ở một số địa phương, ông đã bị dân chúng la ó phản đối, không cho ông nói khiến cho ông phải lớn tiếng quát trong máy vi âm: “Hãy im đi” [Silencio] nhưng vô hiệu. Ông cũng toan tính thăm viếng Việt Nam, ra lệnh cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên tiếng chính thức mời, và ông ấy nhận lời mời ngay, coi như chuyện đã rồi, để ông ấy có thể tới Việt Nam, ngồi trong xe Popemobile có lồng kính chắn đạn, đẩy mạnh lòng tin của giáo dân Việt Nam và dạy họ “đừng sợ”, nhưng mánh mưu này có vẻ như không qua mắt được Việt Nam, nên chính quyền Việt Nam đã từ chối, không cho phép ông đặt chân lên đất nước Việt Nam. Mất thế đứng ở Tây phương, ông ra “Tông Huấn”, hô hào giáo dân thuộc hạ đi cải đạo Á Châu, hi vọng có mùa gặt mới ở vùng đất phì nhiêu này, nhưng mùa gặt mới của ông ở Á Châu cho đến nay chỉ gặt được lơ thơ phần lớn là cỏ dại trên những cánh đồng hoang vu ít mầu mỡ..

Ngày nay, Giáo Hoàng đương nhiệm, Benedict XVI, cũng vừa mới công du Nam Mỹ, tuyên bố mục đích chuyến đi là để “chiếm lại lòng tin của những tín đồ Ca-Tô” [To win back Catholics]. Ngài chú trọng đến Ba Tây (Brazil) vì nơi đây mỗi năm có tới 600000 [sáu trăm ngàn] tín đồ Ca-Tô bỏ đạo, theo sự thú nhận của các giám mục Ba Tây, ghi bởi John Cornwell, một trí thức Ca-Tô, trong cuốn Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Ca Tô Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism). Giống như Giáo hoàng tiền nhiệm John Paul II, phong thánh bừa bãi cho các Việt Gian và Hán Gian, Ngài cũng phong thánh cho một người Ba Tây, hi vọng với thủ đoạn mê hoặc cố hữu của Vatican này, thì tín đồ Ca-Tô bỏ đạo sẽ hồ hởi trở lại đạo. Nhưng Ngài có lẽ không để ý rằng, với sự hiểu biết và kiến thức của nhân loại ngày nay, thì chức “thánh” trong Ca Tô Giáo Rô Ma chẳng còn mấy ý nghĩa.

Thật vậy, chúng ta còn nhớ, Hồng Y Silvio Oddi, dưới triều của giáo hoàng John Paul II, đã than phiền về thủ đoạn phong thánh của Vatican như sau: “Vatican đã trở thành cái xưởng sản xuất thánh” (Vatican has become a saint factory). Ngoài ra, đi ngược thời gian, thời buổi này mà Benedict XVI còn dạy đạo đức cho giới buôn ma túy ở Nam Mỹ bằng cách mang Chúa ra hù dọa: “Chúa sẽ tính sổ với các người” (God will call you to account for your deeds), trong khi ông ta đã thấy rõ và thường than phiền là Âu Châu ngày nay không hề biết đến Thiên Chúa là ai. Mục đích chuyến đi Nam Mỹ của Benedict XVI, như trên đã nói, là để kéo tín đồ bỏ đạo trở lại đạo. Nhưng thay vì làm sao để cho các tín đồ Ca-Tô “lấy lại niềm tin và trở lại đạo” Ngài lại dùng một sách lược ngu xuẩn của các thừa sai khi xưa, phê bình hạ thấp các tín ngưỡng địa phương và huênh hoang cho rằng Ca-Tô Giáo đã đến Nam Mỹ để văn minh hóa người dân ở đây.

Thật vậy, trước đây, Benedict XVI, khi còn là Hồng Y Ratzinger, đã phê bình Phật Giáo bằng một câu vô đạo đức tôn giáo nếu không muốn nói là vô giáo dục. Ngày nay, ở Ba Tây (Brazil), với tư cách là giáo hoàng, đạo đức và giáo dục của ông ta vẫn không tiến bộ được chút nào, vẫn dậm chân tại chỗ.

Theo tin của hãng Reuters thì lãnh tụ những thổ dân Brazil cảm thấy xúc phạm vì những lời bình luận “kiêu căng và vô lễ” của Benedict XVI là Giáo hội Ca-Tô Rô-ma đã đến Nam Mỹ để thanh tẩy họ, và [nếu họ] làm sống lại những tôn giáo của họ thì đó là một bước đi giật lùi. [Trong khi sự thật trái ngược hẳn: trước tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo khắp nơi, nghĩa là con người đã tiến bộ, bỏ lại đàng sau Ki Tô Giáo, thì làm sống lại Ki Tô Giáo mới đích thực là một bước đi giật lùi, Giáo hoàng không nhận ra điều này hay sao? Điều này sẽ được chứng minh trong một phần sau, qua một số tài liệu về tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo mà chính Giáo hoàng cũng đã phải thú nhận nhiều lần] (BRASILIA (Reuters) - Outraged Indian leaders in Brazil said on Monday they were offended by Pope Benedict's "arrogant and disrespectful" comments that the Roman Catholic Church had purified them and a revival of their religions would be a backward step.)

Gần đây, Benedict XVI, trong thông điệp “Spe Salvi”, còn nói một câu rất láo lếu và hỗn xược đối với mấy tỷ người không theo Ca-Tô Giáo như sau: “Dù có bao nhiêu thần minh đi nữa, họ sống “không có Thiên Chúa” và hệ quả là họ thấy mình sống trong một thế giới tối tăm, đối diện với tương lai mịt mù.”

Nếu ông ta được phép đến Việt Nam để đẩy mạnh sự cuồng tín của đám giáo dân Việt Nam thì rất có thể ông ta cũng nói láo lếu như trên đối với hơn 90% người dân Việt Nam không theo Ki-Tô Giáo. Nhà Nước Việt Nam nên coi chừng cái con người vô đạo đức không đáng để ai kính trọng này và không đáng để Nhà Nước phải đón tiếp này, đừng vì lẽ gì mà cho phép ông ta đặt chân lên đất nước Việt Nam, vì qua kinh nghiệm vừa qua ở Brazil, ông ta có tới Việt Nam cũng không phải vì thiện chí ngoại giao, mà chỉ để khích động sự cuồng tín trong đám tín đồ thấp kém, và rất có thể ông ta sẽ lập lại sách lược của các thừa sai Ca-Tô trong thế kỷ 17-19, xuyên tạc lịch sử và nói bậy giống như ở Brazil, mạ lỵ truyền thống tín ngưỡng của người Việt Nam như ông ta đã nói về tín ngưỡng của các thổ dân Nam Mỹ ở Brazil. Ông ta biết rằng vì ông ta là Giáo hoàng nên ông ta muốn nói gì cũng được, không ai có thể làm gì được ông, nhiều nhất là chỉ có thể lên tiếng phê bình, nhưng ông không quan tâm vì mục đích của ông là “phương tiện biện minh cho cứu cánh.” Thủ đoạn của ông ta là cố tình nói ngược cho mục đích đã định rồi nếu cần thì sẽ nói suôi để làm dịu sự chống đối. Nhưng ảnh hưởng tác hại của những lời nói láo lếu này đã gây ra rồi, vài lời nói suôi đãi bôi không thể vớt vát lại bao nhiêu. Và đó là thủ đoạn mà các vị chủ chăn Công Giáo Giáo thường áp dụng. Mà không phải chỉ có Benedict XVI. Giáo hoàng tiền nhiệm, John Paul II, cũng đã nhiều lần sử dụng thủ đoạn bất chính này. Bằng chứng là viết láo lếu về Phật Giáo trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, rồi khi Phật Giáo phản đối thì sai một thuộc hạ ra nói vài lời xin lỗi đãi bôi và coi như không có chuyện gì xảy ra, vì mục đích đen tối đã đạt.

Tôi nghĩ những tín đồ Ca-Tô Việt Nam nào còn có chút đầu óc và liêm sỉ thì cũng phải cảm thấy xấu hổ vì có một chủ chăn vô đạo đức như Benedict XVI mà mình vẫn được dạy phải cúi đầu “quên mình trong vâng phục”, và phải gọi là “đức thánh cha”. Nhưng điều bất hạnh là trên một số diễn đàn truyền thông Ca-Tô ở hải ngoại, chúng ta vẫn thấy các con chiên ngoan đạo tiếp tục tâng bốc ca tụng “Đức Thánh Cha” của họ, khoe nhắng nhít chuyện phong thánh ở Ba Tây, theo truyền thống “mẹ Ca Tô hát thì con Ca-Tô phải khen hay” từ nhiều đời cha truyền con nối của giáo dân Việt Nam, và vẫn huênh hoang tin rằng mình đang ở trong một “hội thánh”..

Trở lại vấn đề suy thoái của Ki Tô Giáo, hàm ý con người Ki Tô trên khắp thế giới đang dần dần từ bỏ niềm tin vào vai trò cứu thế của Giê-su, Benedict XVI đã nhiều lần thú nhận về sự suy thoái không cơ cứu vãn của Ca-Tô giáo Rô-ma và Tin Lành ở Tây phương. Theo những tin tức trên báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Benedict XVI đã lên tiếng phàn nàn như sau:

Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo] có vẻ đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến Thiên Chúa nữa.

Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và rầu rĩ hơn Gíáo Hoàng tiền nhiệm là John Paul II, người đã than phiền về sự suy thoái của đức tin trong các quốc gia phát triển và nói rằng điều này giải thích sự vật lộn của Giáo Hội Ca Tô đối với vấn đề số người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong những năm gần đây.”

(ROME (Reuters, July 27, 2005) - Mainstream churches in the West appear to be dying as societies that are increasingly secular see less need for God, Pope Benedict said in comments published on Wednesday.

His outlook was even glummer than that of his predecessor John Paul, who lamented the decline of faith in the developed world and said it explained the Catholic Church's struggle with falling attendance in the West in recent years.)

Cũng theo tin hãng Reuters ở Rome thì Giáo hoàng Benedict XVI đã phải đau lòng mà chấp nhận một sự thực: Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa. Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết dần.”

Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát triển, Giáo dân đi lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên không phải chỉ có đạo Ca-Tô Rô-ma bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không thấy có giải pháp nào mau chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả.

(It is different in the Western world, a world which is tired of its own culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence for a need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the Italian Alps.

"The so-called traditional churches look like they are dying," he said, according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.

Participation at Sunday Mass in some developed countries was as low as 5 percent, a recent Vatican report said.

"The Catholic Church is not doing as badly as the big Protestant Churches but naturally it shares the problem of this moment in historỵ" "There’s no system for a rapid change.”)

Giáo hoàng không còn cách nào khác là van xin các tín đồ Ca Tô, nhắm vào khối tín đồ Ca Tô lạc hậu ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân, và Việt Nam, hãy kiên trì giữ vững đức tin, tiếp tục tiến bước trong đường hầm [keep walking in the tunnel], có thể ánh sáng le lói của Chúa Ki-Tô sẽ xuất hiện ở cuối đường hầm [Christ light would appear at the end]

Ngày 9 tháng 4, 2007, Giáo hoàng Benedict XVI lại cảnh báo là Âu Châu có vẻ như sẽ mất đức tin trong tương lai, và gọi những người Âu Châu chỉ muốn có ít con là theo “chủ nghĩa cá nhân nguy hiểm” [trong khi cả thế giới đang lo nạn nhân mãn và cổ súy hạn chế sinh đẻ] Giáo hoàng nói: “Bất hạnh thay, chúng ta phải ghi nhận là Âu Châu có vẻ như đang tuột xuống một con đường có thể đưa Âu Châu đến sự giã từ lịch sử” [Ki Tô Giáo vẫn cho rằng lịch sử Âu Châu là lịch sử Ki Tô Giáo]

(Time, April 9, 2007: “One must unfortunately note that Europe seems to be going down a road which could lead it to take its leave from history” Pope Benedict XVI, warning that Europe appears to be losing faith in its future, calling some Europeans’ desire to have fewer children “dangerous individualism”.)

Các giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI than phiền về sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca Tô Giáo Rô Ma nói riêng, kể ra là đã quá muộn. Sự suy thoái của Ki Tô Giáo không chỉ mới xẩy ra trong triều chính của mấy ông này mà đã xẩy ra từ lâu, từ nhiều thập niên trước, nếu không muốn nói là nhiều thế kỷ trước.

Thật vậy, chúng ta còn nhớ: trong cuộc Cách Mạng 1789, “Pháp, trưởng nữ của giáo hội Ca-Tô đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu [sơ] và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Ca Tô, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v.. [Xin đọc The Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France, “eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”]

Trong vòng 200 năm nay, thực chất của Ki Tô Giáo đã được các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô nghiên cứu kỹ với kết quả là bác bỏ mọi huyền thoại mà Ki Tô Giáo dựng lên, những chuyện thuộc loại hoang đường, mê tín cổ xưa đó bắt buộc phải ra khỏi đầu óc của con người, nhường chỗ cho những sự kiện khoa học và những thực tế xã hội.. Một cuốn sách điển hình về hiện tượng giải hoặc Ki Tô Giáo này là của Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ duy nhất trên thế giới chiếm được ngôi vị giáo sư thần học Ca-Tô của giáo gội Ca-Tô [the first woman in the world to hold a chair of Catholic theology], cuốn “Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con” (Putting Away Childish Things, HarperCollins, 1995). Những chuyện trẻ con nào? Đó là những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo: “Tư cách thần thánh của Chúa Ki Tô”; “Sinh ra từ một nữ trinh”; “ngôi mộ trống”; “Ngày Thứ Sáu tốt đẹp”; “Phục sinh”; “Thăng Thiên”; “Bị hành quyết để chuộc tội”; “Hỏa ngục” [The divinity of Christ, The Virgin mother, Good Friday, Easter, Resurrection, Ascension, Redemption by execution, Hell].

Khi mà một giáo sư thần học Ca-Tô như Uta Ranke-Heinemann, và nhiều nhà thần học nổi danh khác như Hans Kung, Leonardo Boff v..v.., cùng bậc lãnh đạo khác trong Ki Tô Giáo như các Giám mục James A. Pike, Peter de Rosa, các Linh mục John Dominic Crossan, Joseph McCabe, James Kavanaugh, Emmet McLoughlin, Giám mục John Shelby Spong, Mục sư Ernie Bringas v..v.. và các học giả Ca-Tô như Joseph L. Daleiden, Paul Blanshard, Gary Wills, John Cornwell v..v.. đã nhận thức được rằng, những tín lý mà nền thần học Ki Tô Giáo tạo ra về Giê-su chỉ là những chuyện để cho trẻ con tin, hoặc cho những người lớn có đầu óc ở trình độ của trẻ con, thì tất nhiên Ki Tô Giáo phải suy thoái.

Có thể những tín đồ Ca-Tô Việt Nam ngày ngày ca tụng “Đức Thánh Cha” vô đạo đức của họ không tin là cái đạo cao quý của mình lại có thể suy thoái một cách trầm trọng như vậy, và họ rất hãnh diện là tín đồ Ca-Tô Việt Nam vẫn giữ vững đức tin, kiên trì đi trong đường hầm để bảo tồn những niềm tin đã bị phế thải ở Âu Mỹ. Do đó, các “cha nhà thờ” Việt Nam vẫn nườm nượp xuất ngoại, mở tiệc ăn mừng quyên tiền giáo dân để về xây nhà thờ, hay để làm những chuyện mà giáo dân không hề biết, nơi quê nhà. Nhưng không tin là một chuyện, còn tình trạng suy thoái thực sự của giáo hội Ca-Tô hoàn vũ lại là một chuyện khác.

Sau đây là một số tài liệu điển hình nói về tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng, trên khắp thế giới. Đây là những tài liệu nghiên cứu, thống kê của các tác giả Tây Phương trong đó có một số linh mục và tín đồ Ki Tô Giáo. Không có một tài liệu nào của Cộng Sản hay của Phật Giáo Việt Nam. Tôi chỉ trình bày những tài liệu sau đây với tư cách của một người đã nghiên cứu về tôn giáo và trong lãnh vực học thuật (scholarship), những tài liệu mà tôi cho rằng trong thời đại ngày nay, không có lý do gì người dân Việt Nam, nhất là những tín đồ Ca-Tô ở Việt Nam, không được quyền biết, mà trái lại vì tương lai dân tộc, người dân cần phải biết như là một phần quan trọng của bộ kiến thức thời đại. Trước hết, chúng ta hãy điểm vài tài liệu trên vài cuốn sách đã xuất bản và trên báo chí.

Năm 2001, John Cornwell, một tín đồ Ca Tô Giáo và cũng là một chuyên gia về Ca Tô Giáo Rô-ma và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the Night Hitler’s Pope, đã xuất bản một tác phẩm về Ca Tô Giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Ca Tô Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Ca Tô Giáo (A Catholic Dark Age). Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Ca Tô Giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp như sau:

- Số tín đồ mang con đi rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa; [Rửa tội là một “bí tích” Giáo hội đặt ra để tạo quyền lực thần thánh cho linh mục]

- Đám cưới tổ chức không cần đến linh mục, vì hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa; [Không mấy người còn tin là trong bí tích hôn phối ông linh mục có thể thay Chúa kết hợp cho lứa đôi. Ở Mỹ, tới 50% lứa đôi được các linh mục gọi Chúa đến kết hợp đã đi đến ly dị]

- Giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; [Những chuyện hoang đường cổ xưa như Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ trong 6 ngày, Chúa sinh ra từ một nữ trinh, chết rồi lại sống lại bay lên trời, Thiên Chúa là tình yêu v..v.. ngày nay đã không còn chỗ trong đầu óc giới trẻ quen thuộc với vũ trụ học, sinh học, thuyết tiến hóa v..v.. hiện đại, và trước những cảnh khổ ải của nhân loại rất hiển nhiên trên thế giới]

- Số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng;

- Từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v..

- Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Ca Tô giáo, thật là thê thảm.

- Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục.

- Ở Ý, 90% theo Ca Tô Giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một nửa.

- Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Ca Tô giáo , số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian.

- Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” (At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.)

- Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn. 7000 tín đồ mới có một linh mục. Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật.

- Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.)

Còn về tình trạng các linh mục thì ngay từ năm 1990, linh mục David Rice dòng Đa Minh đã xuất bản cuốn Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests Who Leave), đưa ra kết quả nghiên cứu của ông sau khi đi tới nhiều nơi trên thế giới, tổng cộng 38 ngàn dặm (khoảng 60 ngàn cây số), để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục bỏ đạo như sau:

Một trăm ngàn ( 100000 ) linh mục Ca-tô Rô-ma đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn một linh mục ra đi. Hầu như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo – thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong. Vatican không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách Tin Lành.

(100,000 Roman Catholic priests have walked out in the last 20 years – more than one every two hours. Almost half of all American priests will leave – most often, to marry – before the 25th anniversary of their ordination. The Vatican won’t talk about this exodus, yet it is the most grievous crisis to face the Church since the Protestant Reformation)

Rồi đến năm 2002, trong bài “Một Chỉ Số Về Sự Suy Thoái Của Ca-Tô Giáo” [An Index of Catholicism’s Decline] của Patrick J. Buchanan, tác giả có đưa ra một thống kê về mọi mặt của Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Mỹ của Kenneth C. Jones ở St. Louis, thực hiện năm 2002 với câu “Những kẻ nói láo có thể đưa ra con số, nhưng những con số thì không nói láo” [Liars may figure, but figures do not lie], hàm ý những con số của giáo hội đưa ra là những con số láo, còn những con số qua những cuộc nghiên cứu thống kê khoa học mới là những con số chính xác nói lên tình trạng thực sự của Ca Tô Giáo. Chúng ta có thể thấy những con số thống kê như sau:

Số Linh Mục: Trong khi số linh mục ở Mỹ tăng lên gấp đôi tới con số 58,000 trong khoảng từ 1930 đến 1965, từ khi đó, con số đã giảm xuống còn 45,000. Tới năm 2020, sẽ chỉ còn lại 31,000 linh mục, và hơn phân nửa số linh mục đó sẽ trên 70 tuổi.

Số Linh Mục Mới: Năm 1965, có 1,575 linh mục mới được phong chức ở Mỹ. Năm 2002, số này còn có 450. Năm 1965, chỉ có 1% giáo xứ là không có linh mục. Ngày nay, có tới 3000 giáo xứ không có linh mục, 15% của số giáo xứ ở Mỹ.

Số Người Vào Trường Dòng Học Nghề Linh Mục: Từ 1965 đến 2002, số người vào trường dòng học nghề linh mục giảm từ 49,000 xuống còn 4700, suy giảm tới trên 90%. Hai phần ba số 600 trường dòng hoạt động năm 1965 nay đã đóng cửa.

[Trước tình trạng thê thảm này, để cứu giáo hội của Chúa, tín đồ Ca-tô Việt Nam bèn xung phong đổ xô đi học nghề linh mục. Thật vậy, ở trường dòng Dubuque, Iowa, có 70 người theo học nghề linh mục thì có tới 43 người là Việt Nam, tỷ lệ hơn 60%. Đa số các tân linh mục ngày nay là Mít, Mễ, Ba Lan, Phi Luật Tân. Nhưng Giáo hoàng Benedict XVI lại không lấy đó làm vui, vì là “đại diện của Chúa Ki Tô trên trần” (Vicar of Christ) nên ngài biết hết, hiểu hết, và đã nhìn ra sự thật. Ngài phán: “Niềm vui này đi kèm với một niềm cay đắng vì một số sẽ trở thành linh mục này chỉ tìm kiếm một đời sống thoải mái hơn. Trở thành linh mục, họ trở thành hầu như là một tộc trưởng của một bộ lạc, đương nhiên là họ được ưu đãi và có một đời sống khác” (Benedict said the "joy" at the growing numbers of churchmen in the developing world is accompanied by "a certain bitterness" because some would-be priests were only looking for a better life. “Becoming a priest, they become almost like a head of a tribe, they are naturally privileged and have another type of life," he said.).. Nhưng Giáo hoàng không biết rằng làm linh mục Việt Nam thì đặc biệt hơn các linh mục Tây Phương nhiều, vì con chiên Việt Nam nổi tiếng là ngoan đạo, cho nên dù các linh mục có làm gì thì con chiên cũng không dám ho he. Một giám mục Việt Nam đã chẳng răn đe họ là: “Các con đừng có nói hành các cha mà mang tội với Chúa”“Đừng có phán xét các Cha để khỏi bị Chúa phán xét” hay sao. Nghe đến “mang tội với Chúa”“Chúa phán xét” là con chiên sợ rét run lên rồi, dù rắng Chúa đã chết cách đây 2000 năm và người ta đã tìm thấy bộ xương của “Chúa Cứu Thế” trong một tiểu quách ở Jerusalem, cùng với những bộ xương của vợ, Mary Magdalene, và của con, Judah, trong vài tiểu quách khác. Cho nên một số linh mục Việt Nam tự do thoải mái truyền giống thay vì truyền giáo (Xin đọc bức thư của nhóm đệ tử Linh Mục Nguyễn Hữu Trọng ở Việt Nam gửi giáo hoàng John Paul II và Hồng Y Phạm Đình Tụng), hay làm bất cứ điều gì khác mà không sợ con chiên tố khổ như ở Mỹ.]

Số Nữ Tu (Sơ): Năm 1965, có 180,000 nữ tu Ca-Tô. Tới năm 2002, số nữ tu này sụt xuống còn 75,000 và tuổi trung bình của một nữ tu Ca Tô ngày nay là 68. Năm 1965, có 104,000 nữ tu dạy trong các trường học CaTô. Ngày nay chỉ còn có 8200, một sự suy giảm 94% kể từ sau Công Đồng Vatican II.

Những Dòng Tu: Về những dòng tu ở Mỹ, sự cáo chung thấy ngay trước mắt. Năm 1965, 3,559 thanh niên học để hành nghề linh mục, Năm 2000, con số là 389. Với dòng huynh trưởng Ki Tô, tình trạng còn tệ hơn. Số huynh trưởng giảm 2/3, với số vào trường dòng sụt 99%. Năm 1965, có 912 huynh trưởng học trường dòng. Năm 2000, chỉ còn có 7. Số thanh niên học để trở thành linh mục dòng Phan-Xi-Cô và Cứu Thế sụt xuống từ 3379 năm 1965 còn 84 năm 2000.

Trường Học Ca-Tô: Một nửa số trường trung học Ca Tô ở Mỹ đã dẹp tiệm từ năm 1965. Số học sinh giảm từ 700,000 xuống còn 286,000. Các trường đạo cấp tiểu học còn bị giảm nhiều hơn nữa. Khoảng 4000 trường đã đóng cửa, và số học trò sụt xuống dưới 2 triệu, từ 4 triệu rưỡi.

Đám Cưới Ca-Tô: Số những cuộc hôn phối Ca-Tô giảm 1/3 từ 1965, và số hôn phối [do Chúa kết hợp qua bí tích hôn phối] được phép hủy bỏ hàng năm tăng từ 338 năm 1968 lên đến 50,000 năm 2002.

Đi Lễ Nhà Thờ: Thống kê Gallup cho biết năm 1958 có 75% tín đồ Ca-Tô đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật. Một cuộc nghiên cứu gần đây của Viện Đại Học Notre Dame cho thấy con số chỉ là 25%.

Bánh Thánh: Theo thống kê của tờ New York Times, 70% tín đồ Ca-Tô trong lớp tuổi 18-44 tin rằng lễ ban thánh thể [ăn bánh thánh] chỉ là một biểu tượng để nhớ lại Giê-su. [Không còn tin bánh thánh là thân thể thực của Chúa như giáo hội dạy]

Và những thống kê mới nhất cũng cho chúng ta thấy tình trạng này. Trong tờ Chicago Tribune ngày 19 tháng 6, 2006, ký giả hải ngoại của tờ báo, Tom Hundley, có một bài tường trình, đăng trên trang nhất, về tình trạng Ki Tô Giáo ở Âu Châu với chủ đề “Đức Tin Phai Nhạt: Sự Suy Thoái Của Ki Tô Giáo ở Âu Châu” (Fading Faith: The Decline of Christianity in Europe) trong đó có những đoạn như sau:

Ở Pháp và ở hầu hết các quốc gia khác ở Âu Châu, Ki Tô Giáo có vẻ như đang “rơi xuống tự do” không phương cứu vãn [Christianity appears to be in a free fall: Tác giả dùng từ trong khoa học: “free fall”, có nghĩa là rơi xuống tự do, càng ngày càng nhanh mà không có gì ngăn cản lại]. Tuy 88% dân Pháp nhận mình là tín đồ Công Giáo, chỉ có 5% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, 60% nói rằng họ “không bao giờ” (never) hoặc “hầu như không bao giờ” (practically never) đi lễ nhà thờ [Đối với người Ca-Tô Việt Nam, họ bị dọa là không đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật là một trọng tội, phải đày hỏa ngục, các “bề trên” dạy vậy, nên giáo dân Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm vẫn nườm nượp kéo nhau đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, và cả ngày thường, chứng tỏ trình độ tôn giáo của giáo dân Việt Nam vượt trội hẳn trình độ giáo dân Âu Châu và Mỹ Châu về mê tín, niềm hãnh diện của giáo hội Ca-Tô Việt Nam trong sự tiếp tục tuân theo những giáo lý thuộc loại nhốt đầu óc tín đồ vào những ngục tù tâm linh, những giáo lý mà Âu Châu và Mỹ Châu đang dần dần phế thải]. Không còn phải bàn cãi gì nữa, Ca-Tô Giáo đang đối diện với một cơn khủng khoảng nghiêm trọng… Một lễ ngày chủ nhật điển hình trên khắp nước Pháp là hình ảnh của một linh mục già nua trước một đám phụ nữ cũng già nua. Odon Vallet, giáo sư tôn giáo ở đại học Sorbonne nói: “Lễ Mi-sa thật là chán (Mass is boring), lễ tiết chẳng có gì hay (the ceremony isn’t beautiful), nhạc cũng tệ (music is bad), bài giảng không có gì hấp dẫn (the sermon is uninteresting).

Trong bài “Hãy giữ đức tin” (Keeping The Faith) trên tờ New York Times ngày 8 tháng 4, 2007, chúng ta có thể đọc được vài đoạn như sau:

Phong cảnh giáo hội ở Âu Châu – không chỉ là Giáo hội Ca Tô mà hầu như mọi hình thức tổ chức của Ki Tô Giáo – đang thay đổi nhanh như chớp. Có những ông giám mục Âu Châu cảm thấy rằng họ không còn có thể nói về một Âu Châu Ki Tô Giáo mà không cảm thấy mình đang mạ lỵ sự thông minh của quần chúng.

("The landscape of the church in Europe — and not just the Catholic Church but nearly all forms of organized Christianity – is changing at a lightning pace. There are European bishops who feel you can’t talk about a Christian Europe anymore without insulting people’s intelligence.”)

Sau đây là những trích dẫn từ một số tài liệu bổ túc trên Internet:

www.time.com/Europe; June 8, 2003: O Father Where Art Thou? [Cha (Thượng đế) Ơi ! Bây Giờ Ông Ở Đâu? Bến Hải Hay Cà Mâu ??]

Năm 1966, một bài viết chính theo hình bìa ngoài có suy tư về số phận của Ki Tô Giáo và đặt câu hỏi: Thượng đế đã chết? Tờ báo này không phải là tờ đầu tiên mà cũng không phải là tờ cuối cùng đặt câu hỏi này – các nhà thần học đã than vãn từ nhiều thế kỷ về sự thế tục hóa xã hội. Thượng đế chưa chết, nhưng ngày nay ở Âu Châu, ông ta không còn ở những chỗ [mà người ta đặt ông ta lên] như xưa. Vậy thì vẫn cần phải hỏi: Thượng đế - và đức tin Ki-Tô – đã đi đâu rồi?

Hiển nhiên là những cơ sở Ki Tô đã ở trong tình trạng suy thoái từ lâu, nhưng điểm đồng thuận ngày nay là sự suy thoái đã càng ngày càng nhanh. Một viên chức cao cấp của Vatican thú nhận: “Đời sống trong các giáo xứ coi như là đã chết”. Ở Anh, số người đi nhà thờ đã giảm 30% kể từ 1980. Trong cùng một thời gian này, tỷ lệ số người nhận là thành viên của một hệ phái Ki Tô nào đó giảm hơn 20% ở Bỉ, 18% ở Hà Lan, và 16% ở Pháp. Ki-Tô Giáo vẫn là tôn giáo chính ở Âu Châu, với số tín đồ khoảng 550 triệu. Nhưng số người Âu Châu nhận mình là tín đồ Ca-Tô – cho đến nay là hệ phái Ki-Tô lớn nhất ở lục địa – đã giảm hơn 33% kể từ năm 1978.

Có những thời, giáo hội Ca-Tô lại là chính kẻ thù tệ hại nhất của mình - ủng hộ chế độ bạo tàn Franco ở Tây Ban Nha (cho tới nay vẫn chưa xin lỗi về việc này) và bao che những xì-căng-đan về loạn dâm ở Ái NHĩ Lan trong những năm gần đây. Nhưng ngay cả trước khi những phanh phui này xẩy ra, giáo hội là một thế lực đàn áp, tự cho quyền phán xét và nhấn quá mạnh vào một Thượng đế mà bắt con người phải sợ hãi, giám mục Willie Walsh ở Killaloe nói như vậy.

(In 1966, a TIME cover story pondered the fate of Christianity and asked, is God dead? The magazine wasn't the first to pose the question — theologians have lamented society's secularization for centuries — nor would it be the last. He's still not dead, but these days in Europe, He's not always in the same old places. So it's worth asking: Where has God — and Christian faith — gone?

The institutions of Christianity, of course, have long been in decline, but the consensus is that the pace has been quickening. "Parish life is essentially dead," admits a senior Vatican official. Church attendance has dwindled by more than 30% in Britain since 1980. Over the same period, the percentage of the population claiming membership in a religious denomination has dropped more than 20% in Belgium, 18% in the Netherlands and 16% in France. Christianity remains Europe's main religion, with about 550 million adherents. But the number of Europeans who identify as Catholic — by far the biggest denomination on the Continent — has fallen by more than a third since 1978.

At times, the church has been its own worst enemy — backing Franco's brutal regime in Spain (something it still hasn't apologized for) and stonewalling the Irish pedophilia scandals of recent years. But even before these revelations, the church "was an oppressive force," says Willie Walsh, the Bishop of Killaloe. "It was judgmental and placed too much emphasis on a God who was very much to be feared." )

Bài báo trích dẫn hai nhận định:

- Của Jeff Chu: Ki Tô Giáo đang trở thành tín ngưỡng của thiểu số ở Âu Châu, vì số người đi nhà thờ sút giảm, số giáo sĩ già nua, và những xì-căng đan và giáo lý khắc nghiệt đã làm cho con người xa lánh.

(Christianity is becoming a minority faith in Europe, as church attendance falls, the clergy ages, and scandals and harsh doctrine drive people away.)

- Của Jobst Schone, giám mục Tin Lành, Đức:

Những giáo hội Ki-Tô luôn luôn trải qua những thời kỳ với ảnh hưởng lúc nhiều lúc ít . Nay chúng ta đang đi xuống. Ki Tô Giáo sẽ trở thành thiểu số. Không người nào nên nhắm mắt trước sự kiện này.

(Churches have always gone through periods when their influence is greater and periods when it was less. Now we are down. Christianity will be a minority. Nobody should close his eyes to that fact.)

www.albertmohler.com:

christianpost.com

“Ki Tô Giáo Lùi Bước Ở Âu Châu – Tiếp Đến Là Mỹ?”

Christianity Recedes in Europe--Is America Next?

Thursday, August 18, 2005

Trong ít nhất là nửa thế kỷ, những nhà nghiên cứu đã từng quan sát sự chuyển hướng to lớn trong những nền văn hóa Tây phương. Khi Brian Kenny kể: “Tôi không đi lễ nhà thờ, và tôi không biết có người nào còn đi”, anh ta hiểu rằng một cái gì đó đã thay đổi. Anh ta nhớ lại: “15 năm trước, tôi không biết có người nào mà lại không đi lễ nhà thờ.”

Ngày nay người ta không thể không biết đến những thống kê về tình trạng thế tục hóa Âu Châu. Ái Nhĩ Lan, vẫn còn là một trong những nước ít thế tục nhất ở Tây Âu, đã thấy rằng số người đi lễ nhà thờ giảm ít nhất là 25% trong 30 năm qua. Lẽ dĩ nhiên, Ái Nhĩ Lan là nước toàn tòng Ca-Tô Giáo, nhưng bài báo ghi: “Không có một người nào sẽ được phong chức linh mục ở Dublin năm nay”

Về phía Tin Lành, hình ảnh cũng chẳng khá hơn. Thụy Sĩ, Đức, và Hà Lan, một thời đã là những cái nôi của phong trào Cải Cách Tin Lành, nay trở thành những thí dụ chính của Âu Châu thế tục.

Theo Trung Tâm Nghiên Cứu về Ki Tô Giáo toàn cầu, Chủng viện thần học Gordon-Conwell ở Boston, sự suy thoái của ảnh hưởng Ki Tô Giáo thì rõ rệt nhất ở Pháp, Thụy Điển và Hà Lan, ở những nơi đây số người đi lễ nhà thờ là dưới 10% ở một số nơi.

Bài báo trên USA Today về sự suy thoái của Ki Tô Giáo ở Âu Châu nêu lên câu hỏi về tương lai [Ki Tô Giáo] ở Mỹ. Trong nhiều phương diện khác nhau, có vẻ như Mỹ sẽ theo gót gương của Âu Châu nhưng chậm hơn nhiều năm. Tuy nhiên nhịp độ thay đổi luân lý ở Mỹ có thể cho thấy rằng Mỹ sẽ nhanh chóng theo kịp mẫu thế tục của Âu Châu.

(For at least half a century, researchers have been observing massive shifts in Western cultures. When Brian Kenny reported, "I don't go to church, and I don't know one person who does," he understood that something had changed. "Fifteen years ago, I didn't know one person who didn't," he reflected.

The statistics documenting European secularization are now impossible to ignore. Ireland, still one of the least secular nations in Western Europe, has seen church attendance fall by at least 25 percent over the last three decades. Ireland is predominantly Roman Catholic, of course, but the paper reports, "Not one priest will be ordained this year in Dublin."

On the Protestant side, the picture is not much better. Switzerland, Germany, and the Netherlands, once the cradles of the Reformation, are now prime examples of Europe's secular shape.

According to the Center for the Study on Global Christianity, at the Gordon-Conwell Theological Seminary in suburban Boston, the decline in Christian influence "is most evident in France, Sweden and the Netherlands, where church attendance is less than ten percent in some areas."

USA Today's cover story on the decline of Christianity in Western Europe raises the question of America's future. In many ways, America seems to be following the European example, though several years behind. Yet the pace of moral transformation in the United States may indicate that America is fast catching up with the European model of secularization.)

christianpost.com:

By Michelle Wu

Như nhiều người biết, Ki Tô Giáo đang suy thoái ở Âu Châu đến độ mà người ta mô tả Âu Châu như là một nơi “ít biết đến Phúc Âm nhất” trên thế giới, khi chúng ta nhìn vào toàn thể dân Âu Châu. Dưới 4% toàn thể dân Âu Châu biết đến Phúc Âm, và trên hầu hết các quốc gia ở Âu Châu tỷ lệ này xuống dưới 1%.

Ở Âu Châu, không phải là sự bất thường khi một người mô tả mình là một “tín đồ Ca-Tô vô thần”, hay một người sinh ra và nuôi nấng trong một gia đình Ca-Tô nhưng lại không tin vào Thiên Chúa. Điển hình là người đó được rửa tội, kết hôn, và làm tang lễ trong nhà thờ, nhưng không thể nói rõ về ý nghĩa của lễ Phục Sinh.

Trong một cuộc thăm dò ý kiến ở Anh nhân dịp lễ Phục Sinh – một quốc gia được coi là Ki-Tô – kết quả trong lớp tuổi 16-24, 1 trong 6 người Anh không biết ý nghĩa của ngày Thứ Sáu Tốt Đẹp [người Ki Tô gọi ngày Chúa của họ bị đóng đinh trên thập giá, một hình phạt khủng khiếp, dã man, gây đau dớn nhất cho con người của đế quốc La Mã khi xưa, là ngày Thứ Sáu Tốt Đẹp (Godd Friday)] và khoảng 10% không biết rằng ngày Chủ Nhật Phục Sinh là để tưởng nhớ lại sự sống lại của Giê-su [Có thể là vì chẳng còn ai tin được điều mê tín “Chúa sống lại” nữa]

Những chính phủ Âu Châu bị qui tội một phần cho sự suy thoái của Ki Tô Giáo, bị trách cứ là đã giới hạn những hoạt động tôn giáo và làm khóa khăn sự bành trướng của những nhóm tín ngưỡng. Ví dụ như, trong nước Pháp dân chủ, một nhà thờ xin phép để xây cất thêm hay mua bất động sản có thể không bao giờ được cấp giấy phép.

[Đọc đến đây tôi thấy sự kiện này như là một nghịch lý: ở nước Pháp có “tự do tôn giáo”, nhưng nhà nước lại không cho phép nhà thờ xây cất thêm hoặc mua thêm bất động sản; ở Việt Nam không có “tự do tôn giáo” [theo những người hành nghề Chống Cộng ở hải ngoại] thì các nhà thờ lại tha hồ xây cất thêm và mọc thêm nhà thờ mới. Thế này là thế nào??]

(As many know, Christianity is declining in Europe to the extent that it has been described as the “least evangelized spot on earth” when looking at all of Europe’s population.

Less than four percent of the total population in Europe is evangelical and in most European countries the percentage falls to less than one percent.

In Europe, it is not unusual for a person to describe themself as a Catholic-Atheist, or someone born and raised in a Catholic family but who does not personally believe in God. Typically, the person would be baptized, married, and have their funeral held in a church, but would not be able to explain the meaning of Easter.

In a recent Easter survey conducted in England - a country typically seen as a Christian nation. the survey found that one out of every six people in England aged 16-24 did not know the meaning of Good Friday and about 10 percent of participants did not know that Easter Sunday commemorated the resurrection of Jesus.

European governments have been partially blamed for the decline of Christianity, being accused of restricting religious activities and hindering the expansion of faith groups. For example, in the democratic country of France, a church requesting permit to expand its church building or buy property may never receive permission.)

Sự suy thoái của Tin Lành trên thế giới cũng là một hiện tượng rõ rệt. Ở Mỹ, tỷ lệ Tin Lành trước đây là 65% nay chỉ còn lại 51% và các học giả dự phóng là trong một thập niên nữa, tỷ lệ này sẽ xuống dưới mức 50%. Như vậy kể là còn rất nhiều vì ở Âu Châu các nước theo Tin Lành đã trở thành thế tục (secular) và ảnh hưởng tôn giáo không còn lại bao nhiêu. Ở Âu Châu, cảnh nhà thờ được rao bán và trở thành những kho chứa hàng, hộp đêm, chung cư, khách sạn v..v.. không phải là hiếm. Ngay cả “Foyer Phát Diệm” của Việt Nam ở Rome, nguyên là nơi để các tu sĩ Việt Nam ở khi sang Rome thụ huấn, báo cáo hay công tác, nay cũng là một khách sạn cho mọi người. Ở Mỹ cũng vậy, cảnh nhà thờ bán đi rồi biến cải thành Chùa, thành Niệm Phật Đường v..v.. cũng không phải là không có. Nhiều trường học Ca-Tô phải đóng cửa vì không đủ học sinh nên không kiếm được lời. Có giáo xứ khai gian phá sản (bankrupcy) để trốn trả tiền phạt các vụ linh mục loạn dâm.

Vài thống kê sau đây về số tín đồ Tin Lành Mỹ cho chúng ta thấy rõ vấn đề suy thoái của Tin Lành. Theo Richard Vara của tờ Houston Chronicle thì:

Số tín đồ trong Giáo hội Trưởng Lão từ năm 1960 đã giảm từ 4.1 triệu còn 2.5 triệu; Trong cùng thời gian này số tín đồ trong giáo hội Anh giáo tại Mỹ [Tân giáo] cũng giảm từ 3.4 triệu còn 2.5 triệu, và giáo hội Giám Lý giảm từ 11 triệu tín đồ còn 8.3 triệu. Vì dân số gia tăng nhanh trong 40 năm qua, tỷ lệ sút giảm này thực sự lớn hơn là những con số thống kê.

(Protestants in Decline by Andrew Walsh: Richard Vara of the Houston Chronicle provided a useful check list: “The Presbyterian Church (U.S.A.) has dropped from 4.1 million members in 1960 to 2.5 million. Over the same period, membership in the Episcopal Church decreased from 3.4 million to 2.5 million and United Methodists have seen their numbers drop from 11 million to 8.3 million.” Because of the rapid growth in the nation’s population over the last 40 years, the proportional shrinkage of their groups is even greater than the raw numbers suggest.)

Qua một số nhỏ tài liệu trích dẫn ở trên, chúng ta thấy rằng hiện tượng suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới là một sự kiện. Nhưng ở một vài địa phương ở Phi Châu và Á Châu, trong những vùng chậm tiến và nghèo khổ, nếu chỉ kể trên con số, Ki Tô Giáo lại có vẻ phát triển, tuy rằng những con số đó, so với mức gia tăng của dân số thì thực sự không phải là một dấu hiệu phát triển. Điều đáng buồn là có một số tín đồ Ca-Tô cũng như Tin Lành Việt Nam lại khoe khoang là số tín đồ của tôn giáo mình gia tăng, cũng như một số tân tòng Ca-Tô hay Tin Lành cũng khoe khoang là mình được vào trong “hội thánh”. Họ thường vinh hạnh khoe: nay có ông tu sĩ Phật giáo này bỏ Phật theo Chúa, mai có người kia làm chứng lời Chúa v..v.. nhưng tất cả đều chỉ là những nhân vật vô tên tuổi, không ai biết đến, và phần lớn là bịa ra làm chứng láo. Vấn đề là thực chất những điều này không phải là những điều đáng khoe khoang mà trái lại, đó là một sự biểu hiện của ô nhục và ngu đần (A badge of shame and ignorance). Tại sao? Vì thử hỏi, có gì đáng khoe khoang ở cái chuyện đi nhặt những niềm tin thuộc loại hoang đường mê tín mà Âu Châu và Mỹ Châu đang dần dần phế thải về làm của báu cho mình. Âu Châu và Mỹ Châu vốn là cái nôi của Ki Tô Giáo, nhưng ngày nay Ki Tô Giáo ở những phương trời này lại bị phá sản, như học giả Eliezer Berkovits đã viết về “sự phá sản đạo đức của nền văn minh Ki Tô Giáo và sự phá sản Tâm Linh của Ki Tô Giáo” (The moral bankrupcy of Christian civilization and the spiritual bankrupcy of Christian religion) trong cuốn “Đạo Do Thái Trong Thời Kỳ Hậu Ki Tô” (Judaism in the Post-Christian Era). Trong khi nhiều người đã thoát ra để tự thanh tẩy ký ức và để dứt bỏ sự dính líu của mình vào một tôn giáo có một lịch sử tàn bạo nhất thế gian, thì có người lại tự đâm đầu vào cái định chế tôn giáo mà lịch sử ô nhục của nó không ai có thể chối cãi. Đó có phải là điều đáng khoe hay là điều đáng thương hại và tội nghiệp?

Giáo hội ngoài mặt vẫn còn mạnh vì dựa vào khối đông tín đồ thấp kém ở dưới, đúng như định nghĩa của Thống Đốc Jesse Ventura của Bang Minnesota: “KiTô giáo là một sự giả dối trống rỗng và là một cặp nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh trong số đông” (Christianity is a sham and a crutch for weak-minded people who need strength in numbers), do đó giáo hội Ca-Tô vẫn giữ thái độ tự tôn trịch thượng vô lối đối với các tôn giáo khác. Và các giáo hội địa phương, thí dụ như ở Việt Nam, vẫn cuồng tín làm càn, đòi lại đất đai đã đi ăn cướp, không phải của mình.

Nữ học giả Ca-Tô Joane H. Meehl, sau khi đã nhìn thấy rõ chủ đích và những việc làm của Giáo hội Ca-Tô từ thế kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốn "Người Tín Đồ Ca-Tô Tỉnh Ngộ" (The Recovering Catholic, Prometheus Book, 1995, trang 288):

"Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng giáo dục (mở mang dân trí. TCN) và đời sống kinh tế thoải mái." (Catholicism thrives and grows among the poor and ignorant. It is overcome by education and economic well-being).

Giáo dục để mở mang dân trí và phát triển kinh tế để cho đời sống vật chất của người dân được thoải mái là chiều hướng chung của nhân loại, và Việt Nam cũng đang có những nỗ lực trong chiều hướng này. Tôi tin rằng không có một thế lực nào có thể đi ngược với chiều hướng nằm trong luật Tiến Hóa của nhân loại này. Và trước sau gì thì sự suy thoái của Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Âu Châu sẽ lan đi khắp thế giới, kể cả Việt Nam.

 


Các bài về tôn giáo cùng tác giả 

Trang Trần Chung Ngọc