Những hoạt động phi pháp của
Giáo hội Ca-Tô Rô-ma tại Việt Nam có tính cách phô trương một lực lượng giả tạo,
và nếu được đằng chân thì sẽ lân đằng đầu. Nhưng tôi tin rằng chính quyền Việt
Nam có thể giải quyết vấn đề gây rối của Ca-Tô Giáo Rô-ma tại Việt Nam này một
cách ôn hòa và sáng suốt. Thật vậy, ngày 11 tháng 1 năm 2008, Ủy Ban
Nhân Dân Thành Phố Hà Nội đã gửi công văn cho Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam và Tòa Giám Mục Hà Nội một công văn mang số 273/UBND-VX, V/v vi
phạm của Tòa Tổng Giám mục Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà. Ủy Ban
Nhân Dân Thành Phố Hà Nội lên án những hành động phi pháp của Ca-Tô Giáo
Rô-ma tại Việt Nam như sau: “Tuy nhiên chúng tôi rất lấy làm tiếc là
thời gian gần đây Tòa tổng Giám Mục Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà đã để xẩy ra các
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng giáo dân, vi phạm các quy định
hoạt động tôn giáo và pháp luật.” Công văn cũng còn viết:
Ngày nay, thực dân Pháp đã không còn. Mỹ, với mục đích tạo thuận lợi kinh tế,
có thể nếu cần cũng chỉ cho vài chính khách hạng hai ra ủng hộ trên đầu môi chót
lưỡi. Thế lực của Vatican đang xuống dốc một cách thê thảm khắp nơi trên thế
giới. Đã một thời, các vị mang chức vụ “Giám mục thành Rô-ma” [Giáo hoàng] ở Ý
thường nắm quyền sinh sát từ vua chúa xuống tới người dân. Ngày nay họ chỉ có
thể thu mình trong Vatican, một mảnh đất chỉ rộng bằng hai sân chơi football.
Và mới đây, Giáo hoàng Benedict XVI phải hủy bỏ chuyến đến đại học Sapienza ở
Rô-ma, Ý, để phát biểu trong lễ khánh thành, vì bị các giáo sư và sinh viên phản
đối, theo tin của CNN. Tại sao các giáo sư và sinh viên ở đại học Sapienza ở
Rome lại không cho Benedict XVI đến. Vì năm 1990, khi còn là Hồng y, cũng ở đại
học này, Benedict XVI đã bình luận láo là cuộc lên án Galileo năm 1933 về cái
tội dám nói ngược với Thánh Kinh, là trái đất quay xung quanh mặt trời chứ không
phải là mặt trời quay xung quanh trái đất, là “hợp lý và đúng.” (The
astronomer [Galileo] had argued that the Earth revolved around the Sun, in
contradiction to church teachings at the time, and he was forced to renounce his
findings publicly…In comments made 15 years ago when he was still a cardinal,
Pope Benedict is reported to have called the the 1633 trial and conviction of
the scientist Galileo for heresy "reasonable and just."). Nhưng chỉ hai năm
sau, ngày 29 tháng 10, 1992, Giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới
vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự cho Galileo. Ca-Tô Giáo luôn
luôn có lá mặt lá trái.
A student walks
past a banner reading: "Against the Papacy" and "No Pope" at La Sapienza
University. [Một sinh viên đi qua tấm biểu ngữ viết: “Hãy Chống Chế Độ Giáo
Hoàng” và “Không Chấp Nhận Giáo Hoàng” ở đại học Sapienza.]
Vậy thì, thế lực của Ca-Tô Giáo Rô-ma tại Việt Nam, nếu có, chỉ là một sự
hoang tưởng của những người không biết rõ thời thế, và chính quyền cũng như
những người ngoại đạo không nên nhìn vào những cảnh hung hăng cuồng tín của
Ca-Tô giáo mà đánh giá sai lầm thực lực của họ. Giáo hội Ca-Tô Rô-ma tại Việt
Nam còn hoàn toàn lệ thuộc Vatican vì không biết đến thực chất Vatican là một tổ
chức như thế nào, cho nên vẫn tưởng là mình ở trong một “Hội Thánh.” Trong khi
thế giới bên ngoài đã tràn ngập những tác phẩm về bộ mặt thực của Vatican, thì ở
trong nước, người Ca-tô vẫn mù mờ tin bướng tin càn. Thật vậy, sách viết về
Ca-Tô Giáo Rô-ma thì có rất nhiều, nhưng riêng về Vatican thì tôi đề nghị Giám
Mục Ngô Quang Kiệt cũng như giới chăn chiên ở Việt Nam hãy đọc ít nhất là những
cuốn sau đây về Vatican để thấy mình đang ở dưới quyền của một tổ chức tôn giáo
hay thế tục như thế nào. Quý vị “đừng sợ”, không có ai đọc sách mà phải xuống
hỏa ngục đâu, vả chăng Giáo hoàng John Paul II của quý vị đã khẳng định trước
thế giới là chẳng làm gì có hỏa ngục cả.
Để giúp mọi người hiểu thêm về hiện trạng của Ca-Tô Giáo Rô-ma, tôi xin cống
hiến một bài khảo cứu về tình trạng suy thoái của Ca-Tô Giáo Rô-ma trên hoàn
cầu.
ÂU CHÂU, TRONG
NHIỀU THẾ KỶ LÀ CÁI NÔI CỦA CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIÁO KI TÔ ĐI KHẮP NƠI, NAY
CHÍNH NÓ LẠI TRỞ THÀNH NƠI CẦN PHẢI ĐƯỢC TRUYỀN GIÁO. MỘT SỐ NGƯỜI NÓI RẰNG ĐÂY
LÀ MỘT LỤC ĐỊA “HẬU-KITÔ”.
(Europe, for
centuries the craddle of Christian Mission, had itself become a mission field…
Some say it is a “post-Christian” continent.)
JULIAN PETTIFER & RICHARD BRADLEY
TRONG MỘT HỘI NGHỊ ĐẶC
BIỆT VÀO NĂM 1999, CÁC GIÁM MỤC ÂU CHÂU TUYÊN BỐ RẰNG CÁC DÂN TỘC TRONG TOÀN LỤC
ĐỊA ÂU CHÂU ĐẢ QUYẾT ĐỊNH SỐNG “NHƯ LÀ THIÊN CHÚA KHÔNG HỀ HIỆN HỮU.
(At a special
synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire
continent had decided to live “as though God did not exist”.)
JOHN CORNWELL
Năm 1983, Malichi Martin, một giáo sư dòng Tên tại Viện Nghiên Cứu
Thánh Kinh của Giáo hoàng, tiến sĩ về khoa ngôn ngữ Do Thái, Khảo Cổ và Lịch Sử
Đông Phương, đã từng phục vụ ở Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, đã viết
trong cuốn “Sự Suy Sụp Của Giáo Hội Ca-Tô Rô Ma” [The
Decline and Fall of the Roman Church, Bantam Books, New York], như sau,
trang 1:
“Tiến trình bất ngờ và làm cho người ta phân vân nhất trong 20 năm gần đây
là sự suy thoái đột nhiên của giáo hội Ca-Tô Rô-ma trong tổ chức giáo quyền
và trong lý tưởng đồng nhất của giáo hội.
Với tình trạng ngày nay, có vẻ như không có một hi vọng hợp lý nào để
cho sự suy thoái đó ngưng lại.. [Phù hợp với NHIỀU LẦN THAN VÃN Của
Benedict XVI ngày nay]
Những thống kê đáng tin cậy và những chi tiết khác thật là khủng khiếp
cho đầu óc người Ca-Tô Rô-ma truyền thống. Khi vẽ trên một biểu đồ từ năm
1965 đến năm 1980, số linh mục, nữ tu (các sơ), huynh trưởng trong đạo,
học sinh trung học, sinh viên đại học tư (của Ca Tô Giáo), số người
rửa tội, vào đạo, lấy người cùng đạo, dự lễ ban thánh thể, xưng tội, thêm sức –
mọi thống kê đáng kể hiện hữu - đều mô tả một sự suy giảm chúc đầu xuống không
ngừng. Thêm vào những yếu tố chính trên là số tín đồ Ca Tô Rô-ma dứt
khoát bác bỏ hoàn toàn giáo lý của Rô-ma về ly dị, ngừa thai, phá thai, đồng
giống luyến ái, và Cộng sản.
Hơn nữa còn có một số yếu tố vô hình nhưng không kém phần quan trọng.
Ví dụ, ngày nay không thể nào biết được là có bao nhiêu linh mục được phong một
cách có giá trị [nghĩa là có đầy đủ giá trị về những quyền năng thần
thánh mà nền thần học xảo quyệt của giáo hội đã tạo ra cho giới chăn chiên để
nắm giữ đầu óc tín đồ, ví dụ như: có quyền gọi Thánh Linh bất cứ ở đâu đến phục
vụ cho ông ta trong những màn pháp thuật được gọi là “bí tích”, có quyền rửa
sạch cái tội tổ tông không hề có của một đứa bé mới sinh ra đời, có quyền tha
tội cho ai thì người ấy được tha, có khả năng biến một mẩu bánh làm bằng bột
thành thân thể thực sự của Chúa v..v..]. Vì chắc chắn là nhiều giám mục
phong chức linh mục cho các ứng viên không hề có ý định là tạo ra những linh mục
với quyền năng thiêng liêng là ban thánh thể và tha tội cho những kẻ xưng tội,
và nhiều ứng viên cũng không hề có ý định là sẽ nhận được những quyền năng như
vậy. Không có những quyền năng như vậy thì không có giới linh mục, không có
lễ Mi-sa, và không có sự tha tội trong lễ xưng tội. Thiếu những quyền năng như
vậy, dù vô giá trị đối với người ngoại đạo, đối với đầu óc của người Ca-Tô
Rô-ma, có nghĩa là cái chết của giáo hội.”
(Malachi Martin, a Jesuit Professor at the Pontifical Biblical Institute in
Rome, doctorate in Semitic languages, archeology and Oriental history, The
Decline and Fall of the Roman Church, a Bantam Book, NY, 1983, p.1: The
most surprising and the most puzzling development in the last 20 years has been
the sudden and undoubted decline of the Church of Rome in its ecclesiastical
organization and ideological unity.. As things now stand, there appears to be
no reasonable hope that this decline can be arrested…
The relevant statistics and other details are horrendous for the traditional
Roman Catholic mind. When plotted on a graph covering the years 1965-1980, the
number of priests, nuns, religious brothers, junior and senior high school
students, private college students, baptisms, conversions, inter-Catholic
marriages, communions, confessions, confirmations – every significant statistics
available – describes a plummeting, non-stop, downward drop. Added to these key
factors are the figures of those Roman Catholics who totally reject Roman
teaching about divorce, contraception, abortion, homosexuality, and Communism.
There are, furthermore, some “invisible” but nonetheless potent factors. For
instance, it is now impossible to reckon how many validly ordained priests are
available. For, certainly, many bishops ordaining candidates for the priesthood
have no intention of creating priests with the sacramental powers to offer the
sacrifice of the Mass and to absolve penitents of sins, and many candidates do
not have the intention of receiving such powers. Without such powers, there is
no priesthood, no Mass, no absolution in confession. Such lack of validity,
although unvalued outside the church, means the death of the church for the
Roman Catholic mind.)
Malachi Martin viết không sai, giáo hội sống còn là nhờ vào mớ quyền năng tự
tạo cho giới chăn chiên, khai thác sự yếu kém tinh thần và trình độ hiểu biết
của đa số giáo dân. Ngày nay, mớ quyền năng đó đã trở thành những màn lừa dối
để lùa con người vào vòng mê tín nên ngay cả một số không nhỏ những tín đồ Ca-Tô
bình thường cũng như những người trí thức trong giáo hội cũng không còn tin, trừ
số tín đồ thấp kém ở trong các địa phương chậm tiến, nên trên thực tế, giáo hội
đã chết.
The Decline and Fall of the Roman Church là một cuốn sách mà bất cứ ai
quan tâm đến vấn nạn Ca-Tô Giáo Rô-ma cần phải đọc nếu muốn biết về lịch sử của
Giáo hội Ca-Tô Rô-ma từ thời Peter (Phê-rô) đến thời Giáo hoàng John Paul II.
Nơi trang 230, Malachi Martin viết:
Giáo Hoàng John XXIII, trong buổi khai mạc Công Đồng Vatican II ngày 11
tháng 10, 1962, nói rằng: "những giáo lý và quan niệm sai lầm vẫn còn
tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại bỏ chúng... Nhưng nếu
Roncalli (John XXIII) không thấy là điều giảng dạy mới của mình đi tới kết quả
nào, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập niên
1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ
Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác.
(Pope John XXIII told the opening session of his council on October 11, 1962,
that "false doctrines and opinions still abound," but that "today men
spontaneously reject" them... But if Roncalli did not see where his new
teaching was leading, hundreds of theologians and bishops did. In the sixties
and the seventies after Roncalli's death, they drew these conclusions and
abandoned belief in original sin, in the Devil, and in many other fundamental
doctrines.)
Tại sao các nhà thần học và
giám mục lại từ bỏ thuyết thần học về tội tổ tông, về quỷ Satan và về nhiều
giáo lý căn bản khác như “ơn cứu chuộc của Chúa”, “Chúa sống lại”, hay “Đức Mẹ
đồng trinh” v..v..? Vì, như chính Giáo hoàng John XXIII đã nhận xét, đó là
những giáo lý và quan niệm sai lầm nhưng trong một thời gian lâu dài nhiều thế
kỷ đã làm chủ lực tinh thần của Ca-Tô Giáo Rô-ma, và nay vẫn còn tồn tại trong
đám tín đồ thấp kém. Các nhà thần học và giám mục hiển nhiên là những người
có trình độ, không như đám giáo dân ở dưới, cho nên ngày nay, những giáo lý có
tính mê hoặc của giáo hội trước đây đã không còn phù hợp với trình độ hiểu biết
tiến bộ của nhân loại, hơn nữa lại còn chứa những mâu thuẫn mà không nhà thần
học nào có thể biện minh được. Do đó, họ bắt buộc phải từ bỏ nếu không muốn đặt
mình vào vị thế của những kẻ lạc hậu về kiến thức, về tư duy. Nhưng điều đáng
nói là, sự từ bỏ những giáo lý và quan niệm sai lầm của giáo hội chỉ thu hẹp
trong giới trí thức Ca-Tô, chưa hề được truyền xuống giới giáo dân, vì tuy giới
chăn chiên cũng đã nhận ra những giáo lý và quan niệm sai lầm này, nhưng họ vẫn
giữ chặt, không dám cho đám con chiên biết, sợ rằng đức tin của con chiên bị
chao đảo, kéo theo sự mất đi quyền lực tinh thần cũng như vật chất của họ.
Trong bài này, tôi không muốn đi vào những vấn đề trên, điều mà tôi đã trình bày
trong một số bài khác, mà chỉ tìm hiểu tình trạng suy thoái của Giáo hội Ca-Tô
Rô Ma nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung. Chúng ta hãy bắt đầu từ đầu.
Trái đất mà chúng ta sống trên
đó là một hành tinh trong Thái Dương Hệ, và Thái Dương Hệ, gồm mặt trời và các
hành tinh, về kích thước, chẳng qua chỉ là vài hạt bụi trong vũ trụ. Khoa học
đã xác định là vũ trụ bắt nguồn từ sự nổ bùng, gọi là “Big Bang”, của một dị
điểm (singularity) vô cùng đặc, vô cùng nóng, xảy ra cách đây khoảng 13.7 tỷ
năm. Và sau đó Thái Dương Hệ thành hình trước đây khoảng 5 tỷ năm, và trái đất
của chúng ta có tuổi khoảng ít ra là 4.5 tỷ năm. Đây là những sự kiện không ai
có thể phủ bác trừ những người Ki Tô Giáo vẫn còn tin là Thượng đế của họ đã
sáng tạo ra vũ trụ muôn loài cách đây mới có 6,7 ngàn năm.
Trong gần 2000 năm, Ki Tô Giáo
tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thượng đế, nên không thể sai lầm.
Dựa trên một số tài liệu lịch sử, về niên đại đúng của Vua Nebuchadnezzar II, và
tuổi của các Thượng Phụ trong Thánh Kinh, Giám Mục James Ussher (1581-1656) ở
Armagh, đã tính toán rất kỹ và khẳng định là Thượng đế đã sáng tạo ra thế
giới này vào năm 4004 trước Tây Lịch. Tin vào chuyện vườn Eden, trái cây đã
chín để Adam có thể ăn và phạm tội tổ tông, Ussher suy ra rằng sự sáng tạo phải
xảy ra vào mùa Thu. Ussher cũng cho rằng ngày sáng tạo đầu tiên phải là ngày
Chủ Nhật, vì Thượng đế đã sáng tạo ra thế giới trong 6 ngày rồi nghỉ ngày thứ
bảy. Mà ngày thứ Bảy là ngày nghỉ của dân Do Thái. Từ đó, Ussher tính ra là sự
sáng tạo của Thượng đế bắt đầu vào ngày 23 tháng 10, năm 4004 trước Tây Lịch.
Và cái mốc “sáng tạo” này đã được toàn thể thế giới Ki Tô tin trong nhiều thế
kỷ, và được ghi bên cạnh Chương Sáng Thế Ký trong Cựu ước cho đến thế kỷ 19.
Cũng vì vậy mà cho đến ngày nay vẫn còn một số không nhỏ tín đồ Ki Tô Giáo, Mít
cũng như Mỹ, tiếp tục tin rằng Chúa rất thông minh của họ, đã sáng tạo ra thế
giới này cách đây khoảng trên dưới 6000 năm.
Trước những khám phá khoa học
bất khả phủ bác về tuổi của vũ trụ và trái đất, Ki Tô Giáo tìm cách đưa ra nhiều
lý luận để giải thích rất ngớ ngẩn, nhưng đám con chiên rất hồ hởi, mang những
lý luận này ra để chứng minh thuyết sáng tạo của Ki Tô giáo. Thuyết thứ nhất là
thuyết “ngày không phải là ngày”, hay là “ngày rất dài”, có thể là
cả một kỷ nguyên (epoch), tiếng Mỹ gọi là “day-age theory”. Thuyết này
chỉ có thể mê hoặc được những người chưa từng đọc Thánh Kinh. Vì Thượng đế
“sáng tạo” ra cây cỏ trong “ngày thứ ba” [Genesis 1: 11-13] (Genesis 1: 13: So
the evening and the morning were the third day). Nếu ngày của Thượng đế là cả
một kỷ nguyên thì cái gọi là “evening” và “morning” có ý nghĩa gì?, kể cả nghĩa
bóng và nghĩa đen. Nhưng không phải chỉ có vậy. Ngày hôm sau, nghĩa là ngày
thứ tư, nghĩa là sau một kỷ nguyên, Thượng đế mới “sáng tạo” ra mặt trời để soi
sáng ban ngày, và mặt trăng để soi sáng ban đêm [Genesis 1: 16: Then God made
two great lights: the greater light to rule the day, and the lesser light to
rule the night. He made the stars also.] Nhưng có vẻ như sự hiểu biết của
Thiên Chúa chẳng qua cũng chì là sự hiểu biết của một số người trong thời bán
khai, vì mặt trăng là một hành tinh, tự nó không phát ra ánh sáng để soi sáng
ban đêm, mà là trong ngày rằm, chúng ta thấy mặt trăng sáng là do ánh sáng của
mặt trời chiếu vào. Đêm 30 Tết, the “lesser light” nào soi sáng ban đêm? Nhưng
cũng không phải chỉ có vậy. Trong cả một kỷ nguyên, mà cây cỏ không có ánh sáng
mặt trời thì cây cỏ sống cách nào? Giải thích điển hình cho các con chiên ngu
ngơ là “Chúa toàn năng, làm gì chẳng được.” Thuyết thứ hai là thuyết “có một
thời gian vô cùng dài Thiên Chúa ngồi chơi sơi nước”, nghĩa là, rất có thể
có một khoảng thời gian vô cùng dài từ lúc sáng tạo đầu tiên trong Genesis 1:1
đến lúc sáng tạo ra vũ trụ và thế giới trong 6 ngày. Thuyết này gọi là
“gap-theory”. Nhưng lúc đầu Thượng đế đã tạo ra “trời” và “đất” rồi
[Genesis 1:1 In the beginning God created the heavens and the earth]. Và một
câu hỏi được đặt ra: “Thế trong khoảng thời gian vô cùng dài đó (vào khoảng 8.7
tỷ năm: từ lúc Big Bang sinh ra vũ trụ cho đến khi Thái Dương Hệ thành hình) thì
God ngồi làm gì? Ngồi uống rượu đế, hay ngồi dự kiến thiết kế thông minh là “13
tỷ 699 triệu 998 ngàn năm” sau sẽ xâm phạm tiết hạnh của bà Maria? Câu trả lời
để hù dọa các con chiên là: “God ngồi sửa soạn hỏa ngục cho đứa nào dám đặt ra
câu hỏi này.”
Đó là chuyện vũ trụ. Còn về
loài người thì không còn nghi ngờ gì nữa là con người đã tiến hóa từ những dạng
sống thấp hơn. Tiến hóa là một qui luật tự nhiên của thiên nhiên. Loài người
chúng ta đã trải qua những thời đại đồ đá, đồ đồng, đồ sắt v..v.. cho tới thời
đại điện tử ngày nay. Và hiển nhiên là qua các thời đại này, trí tuệ con người
cũng đã phát triển. Thánh Kinh Cựu Ước của Ki Tô Giáo viết rằng Thượng đế đã
sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài trong 6 ngày, và tác phẩm tuyệt vời nhất của
Thượng đế trong ngày thứ sáu là làm ra loài người theo hình ảnh của Thượng đế.
Sau khi hoàn thành tác phẩm này, Thánh Kinh viết: “Rồi God thấy mọi thứ
“Ông ta” đã làm ra, và đúng vậy, chúng thật là rất tốt đẹp”
[Genesis 1: 31: Then God saw everything that He has made, and indeed it was very
good] . Đọc đoạn trên, tôi thắc mắc không hiểu ai ở đó lúc sáng tạo mà viết như
vậy. Ki Tô Giáo cho rằng Moses đã được Thượng đế mạc khải cho mà viết như vậy.
Nhưng làm sao tin được đó chính là những lời mạc khải của Thượng đế cho Moses vì
ngoài Moses ra có ai biết là Thượng đế đã mạc khải cho Moses cái gì? Ngày nay
cũng có nhiều nhà truyền đạo tuyên bố rằng Chúa đã mạc khải cho họ điều này điều
nọ, nhưng tất cả chỉ là những lời bịp bợm để quyến rũ nhưng người cả tin. Nhưng
vấn đề rắc rối là, nền học thuật về Thánh Kinh trong 200 năm nay đã chứng minh
rằng, Ngũ Kinh, 5 sách đầu của Cựu Ước, lại không phải là do Moses viết, mà là
do nhiều tác giả trong nhiều phái khác nhau viết trong nhiều thời gian khác
nhau. Thật là chuyện rối mù [hay đoán mò, theo Ngô triệu Lịch] của nền thần học
Ki Tô Giáo. Nhưng vấn đề ở trong Thánh Kinh là, nếu sự sáng tạo ra loài người
của Thượng đế đã rất tốt đẹp rồi thì không cần gì phải thay đổi để tốt hơn, bởi
vì đó là kết quả thiết kế thông minh [hay ngu đần?] của một Thượng đế toàn năng,
toàn trí. Những sự thực ngay trước mắt chứng tỏ không phải như vậy. Bởi vì con
người mà Thượng đế tạo ra theo hình ảnh của chính Thượng đế, nếu chúng ta có thể
tin được chuyện sáng tạo rất tốt đẹp này, như các tín đồ Ki Tô Giáo tin, là một
con người mới đầu đi bằng 4 chân rồi mới dần dần tiến hóa để đi bằng hai chân,
và ngay cả khi bắt đầu đi bằng hai chân, hình ảnh của Thượng đế cũng chỉ là
những con người ăn lông ở lỗ, man rợ. Có người nào muốn phủ nhận điều này, xin
mời lên tiếng. Ngày nay, người Ki-Tô đang cố gắng ngụy biện với một luận cứ vô
cùng mâu thuẫn và vô lý là: Tất cả đều nằm trong kế hoạch của Thượng đế, kể cả
thuyết Tiến Hóa của Darwin. Nhưng khi thuyết Tiến Hóa mới ra đời thì những đại
diện của Chúa và nhiều giám mục, linh mục “cha cũng như Chúa” đã là nhưng người
chống thuyết Tiến Hóa năng nổ nhất, không biết đó là kế hoạch của Thượng đế. Và
ngày nay sau bao cố gắng chống đối nhưng thất bại, tất cả đã phải đầu hàng trước
khoa học, kể cả vị chủ chăn nổi tiếng là John Paul II. Lý do?
Khoa học ngày nay đã chôn vùi thuyết Sáng Tạo của Ki Tô Giáo. Thật vậy, tìm
hiểu về nguồn gốc con người, các khoa học gia đã phối hợp kết quả nghiên cứu
trong ít nhất là 7 ngành khoa học có liên hệ với nhau và hỗ trợ nhau: Cổ Sinh
Vật và Nhân Chủng Học (Paleoanthropology), Khảo Cổ (Archaeology), Di Truyền Dân
Số Học (Population genetics), Lịch Sử Ngôn Ngữ Học (Historical linguistics),
ngành khảo cứu về các Động Vật Linh Trưởng (Primatology), Nhân Chủng Xã Hội
(Social Anthropology), và Tiến Hóa Tâm Lý (Evolutionary Psychology). Từ những
kết quả nghiên cứu này, điều rõ ràng là, cũng như mọi vấn đề khác trong sinh
học, quá khứ và hiện tại của giống người chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của
Tiến Hóa. [Like everything else in biology, the human past and present are
incomprehensible except in the light of evolution.]
Sự kiện là, những kết quả nghiên cứu về “bộ gen “ (genome) của các loài khỉ
như khỉ không đuôi có dạng giống người (ape), khỉ đột (gorilla), đười ươi
(orangutan), vượn (chimpanzee), và “bộ gen” của người cho thấy giữa người và
vượn, 99% của “bộ gen” y hệt nhau (identical). Và từ những kết quả này, đi
ngược thời gian, các khoa học gia đã biết được là khoảng 5 triệu năm trước,
nhánh loài người đã tách ra khỏi nhánh những con khỉ không đuôi trên cái cây
tiến hóa. Sau khi tách ra thành một nhánh riêng, loài người nguyên thủy tiến
hóa dần dần thành động vật đi hai chân và phát triển thành da đen [bắt đầu ở
Phi Châu], mất đi lông trên người, và bộ óc lớn dần cho đến kích thước ngày
nay. Rồi cách đây khoảng 50000 năm, ngôn ngữ bắt đầu phát triển, giúp cho loài
người sống thành những bộ lạc, cộng đồng v..v.., và bắt đầu di dân ra ngoài Phi
Châu tới các lục địa khác. Đó là đại khái về nguồn gốc con người.
Ki Tô Giáo thường cố ý hiểu lầm
thuyết Tiến Hóa để bài bác, rằng con người không phải là tiến hóa từ loài khỉ.
Thuyết Tiến Hóa không hề nói loài người là hậu thân của loài khỉ mà là, khỉ và
người có cùng một nguồn gốc tổ tiên xa trên cây tiến hóa. Và điều này đã được
khoa học kiểm chứng. Thật vậy, những công cuộc khảo cứu mới nhất về những con
bọ (fruit flies), chương trình khảo cứu “evo devo” [evolutionary development
biology] trong sinh học về quá trình phát triển tạo ra cơ thể sinh vật và thay
đổi chúng qua thời gian [đại học Wisconsin-Madison] đã chứng tỏ rõ ràng là loài
người có cùng họ hàng không chỉ với những loại khỉ mà còn với những con bọ, con
sâu trong quá khứ xa nữa (Analysis of the genes that build our bodies show our
clear skinship not just to the apes but all the way back to bugs, worms and
beyond). Không những vậy mà con người còn liên hệ tới tất cả vũ trụ. Điều này
được Giáo sư Trịnh Xuân Thuận nhận định như sau trong cuốn “L'Infini Dans La
Paume de la Main”: "Tiến hóa từ những cát bụi của những ngôi sao, chúng ta
chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ với những con sư tử trong những vùng hoang mạc
và những bông hoa tỏa mùi thơm" (Poussières d'étoiles, nous partageons la
même histoire cosmique avec les lions des savanes et les fleurs de lavande).
Trước sự tiến bộ trí thức của
nhân loại, Giáo hội Ca-Tô Rô-ma không còn cách nào khác là phải lên tiếng chấp
nhận một số sự kiện khoa học trước thế giới văn minh tiến bộ, nhưng vẫn bưng bít
dấu kín trước đám tín đồ thấp kém. Giáo hội biết rõ trình độ giáo dân của mình
và do đó, một mặt vẫn áp dụng sách lược bưng bít thông tin, nghĩa là “ngu dân dễ
trị”, một mặt vẫn rao giảng nhồi nhét vào đầu tín đồ những điều hoang đường mà
chính giáo hội đã bác bỏ để duy trì quyền lực tinh thần và vật chất của giới
chăn chiên. Sau đây là một vài sự kiện để chứng minh.
Từ năm 1981, tòa
thánh Vatican đã mời một số chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ
học. Cuối cuộc hội thảo, các chuyên gia được giáo hoàng John Paul II tiếp
kiến. Ông ta nói với các khoa học gia là “cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến
hóa của vũ trụ sau sự nổ bùng (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về
chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thượng đế.”
(Stephen Hawking, A Brief History of Time, p. 116: He told us that it
was all right to study the evolution of the universe after the big bang, but
we should not inquire into the big bang itself because that was the moment of
Creation and therefore the work of God). Chúng ta nên để ý, Giáo hoàng nói câu
trên chẳng qua chỉ để vớt vát phần nào mặt mũi của Thượng đế, một mặt mũi đã
không còn chỗ đứng trong thế giới tiến bộ trí thức và khoa học của nhân loại.
Vì Big Bang là hiện tượng nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng đặc, vô
cùng nóng, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và đã xảy ra cách đây khoảng 13.7 tỷ
năm chứ không phải là chỉ có 6000 năm do sự “sáng tạo” (sic) của Thượng đế Ki-tô
giáo như được viết trong Kinh Thánh, được coi như những lời không thể sai lầm
của Thượng đế.
Năm 1992, giáo
hoàng đã công khai nhìn nhận là giáo hội đã sai lầm trong vụ án Galileo
Galilei. 359 năm về trước, Giáo hội bắt Galilei phải sửa lại kết quả nghiên cứu
khoa học của ông ta (rằng trái đất quay xung quanh mặt trời) cho đúng với những
lời “mạc khải không thể sai lầm trong Thánh Kinh” (rằng trái đất đứng yên và mặt
trời quay xung quanh trái đất), rồi giam ông ta tại gia cho đến khi chết. Sự
nhìn nhận sai lầm của Tòa Thánh trong vụ Galilei cho thấy thánh kinh sai và kéo
theo vấn đề: nếu thánh kinh đã sai về vũ trụ thì rất có thể cũng sai về nhiều
điều khác nữa. Ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu thánh kinh đều đồng
thuận ở điểm là thánh kinh có rất nhiều sai lầm cả về thần học lẫn khoa học.
Do đó, thánh kinh không phải là những lời “mạc khải” không thể sai lầm của một
vị thần toàn năng toàn trí, như lời giáo hội vẫn thường dạy cho những tín đồ bảo
sao nghe vậy. Thực tế cũng cho thấy rằng, trí tuệ của con người ngày nay đã
vượt xa trí tuệ của bậc “toàn năng, toàn trí” trong Thánh Kinh Ki-Tô giáo rất
nhiều. Ây thế mà người ta vẫn đi thờ phụng một “đấng” mà trí tuệ kém cỏi
hơn người đời rất nhiều. Thật là kỳ lạ.
Năm 1996, giáo
hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới là “thân xác con người có
thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một
quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức
mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn chỉ là một giả thuyết”.
(Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church
firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate
creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope
said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as
more than just a hypothesis”).
Chấp nhận thuyết Big Bang,
thuyết tiến hóa, chấp nhận con người không phải là do Thượng đế tạo ra tức thời
mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, giáo hoàng đã
phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng
từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội
tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những
luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục
đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc
và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực.
Tháng 7 năm 1999,
trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết
của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải
tuyên bố: "thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải
là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction
nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng
phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái
độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a
punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes
and actions which people adopt in this life). Như vậy là Giáo Hoàng đã bác
bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo hội Ca-Tô: “người nào tin Chúa thì
sẽ được Chúa cho lên thiên đường sống cuộc sống đời đời bên ngài, kẻ nào không
tin sẽ bị Chúa phán xét đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục ở trong lòng đất”.
Nhưng chắc chẳng có ai buồn nhớ là, trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng,
xuất bản năm 1995, trang 76, để trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần cứu
rỗi?”, giáo hoàng John Paul II đã trích dẫn một câu hoàn toàn vô nghĩa, vô
nghĩa vì chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giê-su, trong Phúc Âm John
làm luận điểm giải thích: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con
duy nhất của Ngài [nghĩa là Giê-su], để những ai tin vào Người
[Giê-su] sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.” Chúng ta thấy
rõ thủ đoạn nhồi sọ của Giáo hội đối với đám con chiên là như thế nào, luôn luôn
rao giảng những điều hoang đường mà chính Giáo hoàng cũng như giới chăn chiên
không còn tin để mê hoặc và duy trì “đức tin” trong đám tín đồ. Tôi cho đó là sự
bất lương trí thức.
Tôi tự hỏi, có bao nhiêu tín đồ
Ki-tô, Ca-tô cũng như Tin Lành, biết đến những thay đổi trong nội bộ các giáo
hội Ki-tô về căn bản tín ngưỡng trong Ki-tô Giáo, biết đến những sự kiện lịch sử
này, và biết đến những quan niệm sai lầm bắt nguồn từ Kinh Thánh? Tôi nghĩ đa
số chưa bao giờ nghe đến tên Copernicus hay Galileo, chưa bao giờ nghe đến những
lời tuyên bố trước thế giới của giáo hoàng John Paul II. Tôi cũng nghĩ tuyệt
đại đa số tín đồ Ki-tô chưa từng đọc đến Kinh Thánh và lẽ dĩ nhiên không có một
kiến thức nào, dù là tối thiểu, về những tiến bộ của khoa học và đầu óc con
người trên thế giới. Nhưng thế giới không phải chỉ gồm có những con chiên mà
phần lớn còn là những con người. Và đã là con người thì qui luật tiến hóa bắt
tri thức con người phải mở mang, tiến bộ với thời gian, và tất nhiên phải đào
thải những gì không còn thích hợp với thời đại. Và đây chính là lý do chính
mà Ca-Tô Giáo Rô Ma nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung, bắt buộc phải suy thoái.
Một số yếu tố không kém quan trọng góp phần làm cho Ca-Tô Giáo Rô-ma bắt buộc
phải suy thoái là vì cái lịch sử ô nhục, đẫm máu của một số “đức thánh cha” và
của giáo hội, cộng với với những xì căng đan hiện đại như Vatican dính líu đến
Mafia, đến tổ chức tội ác, rửa tiền v..v.., và các vụ linh mục hiếp dâm các sơ
trong 23 quốc gia, 4392 linh mục (cho đến ngày nay) đã bị truy tố vì tội cưỡng
bức tình dục trẻ em và nữ tín đồ mà Giáo hội đã phải bỏ ra hơn 2 tỷ đô la để bồi
thường cho các nạn nhân tình dục của các “cha cũng như Chúa” v..v…
Tại sao một tôn giáo lại có thể có những bậc chủ chăn phi đạo đức và một
lịch sử nhem nhuốc như vậy? Thật ra không có gì khó hiểu. Vì Ca Tô Giáo bắt
nguồn từ những huyền thoại của một sắc dân du mục trong thời bán khai là dân Do
Thái, và trong Thánh Kinh của Do Thái có đầy những chuyện giết người tàn bạo,
loạn luân, đĩ điếm và hoang đường mà không một người nào trong thế giới ngày nay
có thể chấp nhận... Ảnh hưởng của Thánh Kinh trên đầu óc con người là điều
không ai có thể chối cãi, và những hành động của Giáo hội cũng như của những cá
nhân trong Giáo hội phần lớn là vì những ảnh hưởng này, và vì tin vào những điều
tàn bạo man rợ trong Thánh Kinh. Điều này đã chứng tỏ rõ ràng nhất trong chính
bản văn xưng tội trước thế giới của Vatican.
Tháng 3 năm 2000, trong một
cuộc gọi là “thánh lễ” công cộng tại một nơi gọi là “thánh đường” Phê-rô, Giáo
hoàng cùng một số hồng y, tổng giám mục, trong đó có tổng giám mục Nguyễn Văn
Thuận, đại diện cho cái gọi là “hội thánh” Ca-Tô, đã chính thức “xưng thú 7 núi
tội ác” đối với nhân loại của Ca-Tô giáo Rô-ma. 7 núi tội ác này, qua gần 20
thế kỷ, đã đưa đến những thảm họa to lớn cho nhân loại như “thập tự chinh”
(thường được gọi một cách sai lầm là “thánh chiến” vì bản chất những cuộc chiến
này rất man rợ, bạo tàn chứ chẳng có gì là “thánh” cả), tòa hình án xử dị
giáo, những cuộc săn lùng và thiêu sống “phù thủy”, bách hại dân Do Thái, kỳ thị
phái nữ, liên kết với thực dân để truyền đạo với sách lược xâm lăng văn hóa, mưu
toan thống trị hoàn cầu, và có thái độ thù nghịch với các tôn giáo khác v..v..
(Xin đọc chi tiết những tội ác của Ca-Tô giáo đối với nhân loại trong cuốn
VATICAN: Thú Tội Và Xin Lỗi? của 6 tác giả, Giao Điểm xuất bản năm 2000).
Hành động “xưng thú 7 núi tội lỗi” này đã làm cho những lời tự nhận của giáo
hội mà giáo hội thường cấy vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, rằng Ca-Tô giáo là
tôn giáo “thiên khải duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “hôn
thê của Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại”, bác ái”, “dân chủ” v..v..,
trở thành những lời nói láo vĩ đại nhất trong lịch sử các tôn giáo của loài
người. Một khi mà những lời nói láo không còn có hiệu lực và không còn
thuyết phục được ai, thì tất nhiên con người sẽ không còn tin vào chúng nữa.
Và sự kiện tín đồ bỏ đạo hàng loạt là vì họ không còn muốn dính dáng gì đến một
giáo hội đầy tội lỗi thế gian, và trình độ người dân ngày nay đã cao, không còn
có thể tin vào những điều thuộc loại hoang đường mê tín nữa. Chính các học
giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô đã khai sáng cho họ qua những
tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về Ca Tô Giáo. Những người còn ở lại trong
Giáo hội, dù muốn dù không, không thể nói rằng mình chỉ tin Chúa, không liên can
gì đến cái lịch sử nhem nhuốc của giáo hội, cũng không liên quan gì đến những
hành động vô đạo đức tràn ngập trong giới chăn chiên. Tại sao? Vì họ không thể
tách mình ra khỏi cái hệ thống toàn trị của Giáo hội, một hệ thống đã dạy họ, và
họ đã tin, Giáo hoàng là “đại diện của Chúa trên trần” và các linh mục đều là
các “Cha cũng như Chúa” cả. Thật vậy, một Giám mục Việt Nam đã từng khuyên các
con chiên là: “Các con đừng nói hành các Cha mà mang tội với Chúa”. Giáo hội
nắm trong tay những chìa khóa của thiên đường, nên các con chiên không thể trực
tiếp đến với Chúa mà phải qua trung gian của Giáo hội, vì giáo hội có quyền
tuyệt thông họ, không cho họ đến gần Chúa. Đó là cái vòng kim cô xiết chặt trên
đầu họ.
Luận điệu chạy tội của Giáo
hội Ca-tô ngày nay là đổ tội cho các xã hội thế tục và chủ nghĩa vật chất v..v..
đã làm cho Ki Tô Giáo nói chung suy thoái. Các con chiên Việt Nam cũng hùa theo
lên án chủ nghĩa vật chất và thế tục. Họ quên rằng Giáo hội là một tổ chức thế
tục và vật chất vào bậc nhất thiên hạ. Họ không biết rằng tài sản của Giáo hội
lên đến cả ngàn tỷ đô-la. Họ cũng không biết rằng Giáo hội đã đầu tư vào những
dịch vụ vô đạo đức như chế tạo vũ khí, làm thuốc ngừa thai mà Giáo hội cấm
v..v.. Họ cũng quên rằng trong gần 2000 năm Giáo hội đã là chủ lực tinh thần ở
Âu Châu, nhưng ngày nay Âu Châu đã từ bỏ Ca-Tô Giáo. Nước Mỹ là nước bậc nhất
thờ chủ nghĩa vật chất nhưng Mỹ vẫn là nước mà Ki Tô Giáo vẫn là chủ lực tinh
thần và tỷ lệ giáo dân trên dân số vẫn cao nhất. Vấn đề chính là, Ki Tô Giáo
nói chung, với những cấu trúc quyền lực toàn trị của ca-Tô Giáo Rô-ma, với những
giáo lý Tin Lành dựa trên sự không thể sai lầm của Thánh Kinh, đã không còn hợp
với thế giới văn minh tiến bộ ngày nay. Thật vậy, nghiên cứu kỹ vấn đề,
chúng ta thấy thật ra sự suy thoái của Ki Tô Giáo không phải trong thời đại này
mới xảy ra mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người ít ra là từ cuộc
Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, từ
Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại Khai Sáng
(The Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, và Thời Đại Phân Tích (The Age
of Analysis) vào thế kỷ 20. Những thời đại này đã kéo con người Tây phương
ra khỏi Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà
sự thống trị của Ca-Tô Giáo Rô-ma đã đưa Âu Châu vào 1000 tăm tối được biết dưới
tên Thời Đại Trung Cổ (The Middle Ages) hay Thời Đại Hắc
Ám (The Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức
(The age of barbarism and intellectual darkness).
Trước sự tiến bộ trí thức của
nhân loại, Ki Tô Giáo bắt buộc phải suy thoái, vì căn bản Ki Tô Giáo là một
tôn giáo thuộc loại mê tín nhất thế gian, nhốt tuyệt đại đa số tín đồ vào một
“đức tin” (faith) không cần biết không cần hiểu. Sự tiến bộ trí thức của
nhân loại đã khiến cho không ít tín đồ và một số các vị lãnh đạo Ki Tô Giáo nhận
ra sự thật cay đắng này. Những niềm tin căn bản của Ki Tô Giáo nói chung, ví dụ
như chuyện Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ trong 6 ngày cách đây khoảng 6000 năm,
chuyện vườn địa đàng Eden, Adam và Eve sa ngã tạo nên tội tổ tông, Chúa Giê-su
sinh ra từ một nữ trinh, bị đóng đinh trên thập giá chết đi rồi sống lại sau ba
ngày và rồi 40 ngày sau đó bay lên trời ngồi bên phải của Chúa Cha, khả năng
chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su v..v.., tất cả đều không còn chỗ đứng trong
giới hiểu biết và trí thức ngày nay. Bởi vậy nên một số các bậc lãnh đạo
trong Ki Tô Giáo cũng như một số học giả trí thức Ki Tô Giáo đã cố gắng nghiên
cứu, viết sách, trình bày sự thật để giáo dục những tín đồ Ki Tô Giáo đáng
thương của họ. Điều này đã góp phần lớn trong sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên
thế giới. Sau đây là vài kết quả nghiên cứu điển hình của họ.
Trên đây tôi đã trình bày sơ lược về một số nguyên nhân khiến cho Ca-Tô Giáo
Rô Ma không thể nào thoát khỏi đà suy thoái. Tới đây chúng ta hãy đi vào việc
tìm hiểu hiện trạng suy thoái của Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng, Ki-Tô Giáo nói
chung, trên thế giới.
Sự suy thoái của Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Tây phương, cái nôi của Ca-Tô Giáo trước
đây, là một sự kiện. Giáo hoàng Ca-Tô Giáo Rô-ma tiền nhiệm, John Paul II, đã
có trên 100 chuyến công du đến các nước trong thế giới thứ ba để mong vớt vát
niềm tin trong đám tín đồ. Nhưng ở một số địa phương, ông đã bị dân chúng la ó
phản đối, không cho ông nói khiến cho ông phải lớn tiếng quát trong máy vi âm:
“Hãy im đi” [Silencio] nhưng vô hiệu. Ông cũng toan tính thăm viếng Việt Nam,
ra lệnh cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên tiếng chính thức mời, và ông ấy nhận
lời mời ngay, coi như chuyện đã rồi, để ông ấy có thể tới Việt Nam, ngồi trong
xe Popemobile có lồng kính chắn đạn, đẩy mạnh lòng tin của giáo dân Việt Nam và
dạy họ “đừng sợ”, nhưng mánh mưu này có vẻ như không qua mắt được Việt Nam, nên
chính quyền Việt Nam đã từ chối, không cho phép ông đặt chân lên đất nước Việt
Nam. Mất thế đứng ở Tây phương, ông ra “Tông Huấn”, hô hào giáo dân thuộc hạ đi
cải đạo Á Châu, hi vọng có mùa gặt mới ở vùng đất phì nhiêu này, nhưng mùa gặt
mới của ông ở Á Châu cho đến nay chỉ gặt được lơ thơ phần lớn là cỏ dại trên
những cánh đồng hoang vu ít mầu mỡ..
Ngày nay, Giáo Hoàng đương
nhiệm, Benedict XVI, cũng vừa mới công du Nam Mỹ, tuyên bố mục đích chuyến đi là
để “chiếm lại lòng tin của những tín đồ Ca-Tô” [To win back Catholics].
Ngài chú trọng đến Ba Tây (Brazil) vì nơi đây mỗi năm có tới 600000 [sáu trăm
ngàn] tín đồ Ca-Tô bỏ đạo, theo sự thú nhận của các giám mục Ba Tây, ghi bởi
John Cornwell, một trí thức Ca-Tô, trong cuốn Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng,
Giáo Dân, và Số Phận của Ca Tô Giáo (Breaking Faith: The Pope, The
People, and The Fate of Catholicism). Giống như Giáo hoàng tiền nhiệm John Paul
II, phong thánh bừa bãi cho các Việt Gian và Hán Gian, Ngài cũng phong thánh cho
một người Ba Tây, hi vọng với thủ đoạn mê hoặc cố hữu của Vatican này, thì tín
đồ Ca-Tô bỏ đạo sẽ hồ hởi trở lại đạo. Nhưng Ngài có lẽ không để ý rằng, với sự
hiểu biết và kiến thức của nhân loại ngày nay, thì chức “thánh” trong Ca Tô Giáo
Rô Ma chẳng còn mấy ý nghĩa.
Thật vậy, chúng ta còn nhớ,
Hồng Y Silvio Oddi, dưới triều của giáo hoàng John Paul II, đã than phiền về thủ
đoạn phong thánh của Vatican như sau: “Vatican đã trở thành cái xưởng sản
xuất thánh” (Vatican has become a saint factory). Ngoài ra, đi ngược thời
gian, thời buổi này mà Benedict XVI còn dạy đạo đức cho giới buôn ma túy ở Nam
Mỹ bằng cách mang Chúa ra hù dọa: “Chúa sẽ tính sổ với các người” (God
will call you to account for your deeds), trong khi ông ta đã thấy rõ và thường
than phiền là Âu Châu ngày nay không hề biết đến Thiên Chúa là ai. Mục đích
chuyến đi Nam Mỹ của Benedict XVI, như trên đã nói, là để kéo tín đồ bỏ đạo trở
lại đạo. Nhưng thay vì làm sao để cho các tín đồ Ca-Tô “lấy lại niềm tin và trở
lại đạo” Ngài lại dùng một sách lược ngu xuẩn của các thừa sai khi xưa, phê bình
hạ thấp các tín ngưỡng địa phương và huênh hoang cho rằng Ca-Tô Giáo đã đến Nam
Mỹ để văn minh hóa người dân ở đây.
Thật vậy, trước đây, Benedict
XVI, khi còn là Hồng Y Ratzinger, đã phê bình Phật Giáo bằng một câu vô đạo đức
tôn giáo nếu không muốn nói là vô giáo dục. Ngày nay, ở Ba Tây (Brazil), với tư
cách là giáo hoàng, đạo đức và giáo dục của ông ta vẫn không tiến bộ được
chút nào, vẫn dậm chân tại chỗ.
Theo tin của hãng Reuters thì
lãnh tụ những thổ dân Brazil cảm thấy xúc phạm vì những lời bình luận
“kiêu căng và vô lễ” của Benedict XVI là Giáo hội Ca-Tô Rô-ma đã đến Nam Mỹ để
thanh tẩy họ, và [nếu họ] làm sống lại những tôn giáo của họ thì đó là
một bước đi giật lùi. [Trong khi sự thật trái ngược hẳn: trước tình
trạng suy thoái của Ki Tô Giáo khắp nơi, nghĩa là con người đã tiến bộ, bỏ lại
đàng sau Ki Tô Giáo, thì làm sống lại Ki Tô Giáo mới đích thực là một bước đi
giật lùi, Giáo hoàng không nhận ra điều này hay sao? Điều này sẽ được chứng
minh trong một phần sau, qua một số tài liệu về tình trạng suy thoái của Ki Tô
Giáo mà chính Giáo hoàng cũng đã phải thú nhận nhiều lần] (BRASILIA (Reuters) -
Outraged Indian leaders in Brazil said on Monday they were offended by Pope
Benedict's "arrogant and disrespectful" comments that the Roman Catholic Church
had purified them and a revival of their religions would be a backward step.)
Gần đây, Benedict XVI, trong
thông điệp “Spe Salvi”, còn nói một câu rất láo lếu và hỗn xược đối với mấy tỷ
người không theo Ca-Tô Giáo như sau: “Dù có bao nhiêu thần minh đi nữa, họ
sống “không có Thiên Chúa” và hệ quả là họ thấy mình sống trong một thế giới tối
tăm, đối diện với tương lai mịt mù.”
Nếu ông ta được phép đến Việt
Nam để đẩy mạnh sự cuồng tín của đám giáo dân Việt Nam thì rất có thể ông ta
cũng nói láo lếu như trên đối với hơn 90% người dân Việt Nam không theo Ki-Tô
Giáo. Nhà Nước Việt Nam nên coi chừng cái con người vô đạo đức không đáng để ai
kính trọng này và không đáng để Nhà Nước phải đón tiếp này, đừng vì lẽ gì mà cho
phép ông ta đặt chân lên đất nước Việt Nam, vì qua kinh nghiệm vừa qua ở Brazil,
ông ta có tới Việt Nam cũng không phải vì thiện chí ngoại giao, mà chỉ để khích
động sự cuồng tín trong đám tín đồ thấp kém, và rất có thể ông ta sẽ lập lại
sách lược của các thừa sai Ca-Tô trong thế kỷ 17-19, xuyên tạc lịch sử và nói
bậy giống như ở Brazil, mạ lỵ truyền thống tín ngưỡng của người Việt Nam như ông
ta đã nói về tín ngưỡng của các thổ dân Nam Mỹ ở Brazil. Ông ta biết rằng vì
ông ta là Giáo hoàng nên ông ta muốn nói gì cũng được, không ai có thể làm gì
được ông, nhiều nhất là chỉ có thể lên tiếng phê bình, nhưng ông không quan tâm
vì mục đích của ông là “phương tiện biện minh cho cứu cánh.” Thủ đoạn của ông
ta là cố tình nói ngược cho mục đích đã định rồi nếu cần thì sẽ nói suôi để làm
dịu sự chống đối. Nhưng ảnh hưởng tác hại của những lời nói láo lếu này đã gây
ra rồi, vài lời nói suôi đãi bôi không thể vớt vát lại bao nhiêu. Và đó là thủ
đoạn mà các vị chủ chăn Công Giáo Giáo thường áp dụng. Mà không phải chỉ có
Benedict XVI. Giáo hoàng tiền nhiệm, John Paul II, cũng đã nhiều lần sử dụng
thủ đoạn bất chính này. Bằng chứng là viết láo lếu về Phật Giáo trong cuốn
“Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, rồi khi Phật Giáo phản đối thì sai một thuộc hạ
ra nói vài lời xin lỗi đãi bôi và coi như không có chuyện gì xảy ra, vì mục đích
đen tối đã đạt.
Tôi nghĩ những tín đồ Ca-Tô
Việt Nam nào còn có chút đầu óc và liêm sỉ thì cũng phải cảm thấy xấu hổ vì có
một chủ chăn vô đạo đức như Benedict XVI mà mình vẫn được dạy phải cúi đầu “quên
mình trong vâng phục”, và phải gọi là “đức thánh cha”. Nhưng điều bất hạnh
là trên một số diễn đàn truyền thông Ca-Tô ở hải ngoại, chúng ta vẫn thấy các
con chiên ngoan đạo tiếp tục tâng bốc ca tụng “Đức Thánh Cha” của họ, khoe nhắng
nhít chuyện phong thánh ở Ba Tây, theo truyền thống “mẹ Ca Tô hát thì con
Ca-Tô phải khen hay” từ nhiều đời cha truyền con nối của giáo dân Việt Nam,
và vẫn huênh hoang tin rằng mình đang ở trong một “hội thánh”..
Trở lại vấn đề suy thoái của
Ki Tô Giáo, hàm ý con người Ki Tô trên khắp thế giới đang dần dần từ bỏ niềm
tin vào vai trò cứu thế của Giê-su, Benedict XVI đã nhiều lần thú nhận về sự
suy thoái không cơ cứu vãn của Ca-Tô giáo Rô-ma và Tin Lành ở Tây phương. Theo
những tin tức trên báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của
Vatican, tờ L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005,
thì Benedict XVI đã lên tiếng phàn nàn như sau:
“Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo] có vẻ
đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến
Thiên Chúa nữa.
Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và rầu rĩ hơn Gíáo Hoàng tiền nhiệm là
John Paul II, người đã than phiền về sự suy thoái của đức tin trong các quốc gia
phát triển và nói rằng điều này giải thích sự vật lộn của Giáo Hội Ca Tô đối với
vấn đề số người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong những năm gần đây.”
(ROME (Reuters, July 27, 2005) - Mainstream churches in the West appear to be
dying as societies that are increasingly secular see less need for God, Pope
Benedict said in comments published on Wednesday.
His outlook was even glummer than that of his predecessor John Paul, who
lamented the decline of faith in the developed world and said it explained the
Catholic Church's struggle with falling attendance in the West in recent years.)
Cũng theo tin hãng Reuters ở Rome thì Giáo hoàng Benedict XVI đã phải đau
lòng mà chấp nhận một sự thực: “Thật là khác lạ trong thế
giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới
mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì
đến Chúa Giêsu nữa. Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết
dần.”
Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát triển,
Giáo dân đi lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên
không phải chỉ có đạo Ca-Tô Rô-ma bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh
hưởng nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không thấy có giải pháp nào mau
chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả.
(It is different in the Western world, a world which is tired of its own
culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence for a
need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the Italian
Alps.
"The so-called traditional churches look like they are dying," he said,
according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.
Participation at Sunday Mass in some developed countries was as low as 5
percent, a recent Vatican report said.
"The Catholic Church is not doing as badly as the big Protestant Churches but
naturally it shares the problem of this moment in historỵ" "There’s no system
for a rapid change.”)
Giáo hoàng không còn cách nào
khác là van xin các tín đồ Ca Tô, nhắm vào khối tín đồ Ca Tô lạc hậu ở Phi Châu,
Nam Mỹ, Phi Luật Tân, và Việt Nam, hãy kiên trì giữ vững đức tin, tiếp tục tiến
bước trong đường hầm [keep walking in the tunnel], có thể ánh sáng le lói của
Chúa Ki-Tô sẽ xuất hiện ở cuối đường hầm [Christ light would appear at the end]
Ngày 9 tháng 4, 2007,
Giáo hoàng Benedict XVI lại cảnh báo là “Âu Châu có vẻ như sẽ mất đức tin
trong tương lai, và gọi những người Âu Châu chỉ muốn có ít con là theo “chủ
nghĩa cá nhân nguy hiểm” [trong khi cả thế giới đang lo nạn nhân mãn và cổ
súy hạn chế sinh đẻ] Giáo hoàng nói: “Bất hạnh thay, chúng ta phải ghi
nhận là Âu Châu có vẻ như đang tuột xuống một con đường có thể đưa Âu Châu đến
sự giã từ lịch sử” [Ki Tô Giáo vẫn cho rằng lịch sử Âu Châu là
lịch sử Ki Tô Giáo]
(Time, April 9, 2007:
“One must unfortunately note that Europe seems to be going down a road which
could lead it to take its leave from history” Pope Benedict XVI, warning that
Europe appears to be losing faith in its future, calling some Europeans’ desire
to have fewer children “dangerous individualism”.)
Các giáo hoàng John Paul II và
Benedict XVI than phiền về sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca Tô Giáo Rô
Ma nói riêng, kể ra là đã quá muộn. Sự suy thoái của Ki Tô Giáo không chỉ mới
xẩy ra trong triều chính của mấy ông này mà đã xẩy ra từ lâu, từ nhiều thập niên
trước, nếu không muốn nói là nhiều thế kỷ trước.
Thật vậy, chúng ta còn nhớ:
trong cuộc Cách Mạng 1789, “Pháp, trưởng nữ của giáo hội Ca-Tô đã chính
thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu
[sơ] và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Ca Tô, những Dòng Tu,
đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v.. [Xin đọc The
Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng Tên Malachi Martin,
Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong
Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France, “eldest daughter
of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over
17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries,
Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”]
Trong vòng 200 năm nay,
thực chất của Ki Tô Giáo đã được các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo
hội Ki-Tô nghiên cứu kỹ với kết quả là bác bỏ mọi huyền thoại mà Ki Tô Giáo dựng
lên, những chuyện thuộc loại hoang đường, mê tín cổ xưa đó bắt buộc phải ra khỏi
đầu óc của con người, nhường chỗ cho những sự kiện khoa học và những thực tế xã
hội.. Một cuốn sách điển hình về hiện tượng giải hoặc Ki Tô Giáo này là của
Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ duy nhất trên thế giới chiếm được ngôi vị giáo
sư thần học Ca-Tô của giáo gội Ca-Tô [the first woman in the world to hold a
chair of Catholic theology], cuốn “Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con”
(Putting Away Childish Things, HarperCollins, 1995). Những chuyện trẻ con nào?
Đó là những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo: “Tư cách thần thánh của Chúa Ki
Tô”; “Sinh ra từ một nữ trinh”; “ngôi mộ trống”; “Ngày Thứ Sáu tốt đẹp”; “Phục
sinh”; “Thăng Thiên”; “Bị hành quyết để chuộc tội”; “Hỏa ngục”
[The divinity of Christ, The Virgin mother, Good Friday, Easter, Resurrection,
Ascension, Redemption by execution, Hell].
Khi mà một giáo sư thần học
Ca-Tô như Uta Ranke-Heinemann, và nhiều nhà thần học nổi danh khác như Hans
Kung, Leonardo Boff v..v.., cùng bậc lãnh đạo khác trong Ki Tô Giáo như các Giám
mục James A. Pike, Peter de Rosa, các Linh mục John Dominic Crossan,
Joseph McCabe, James Kavanaugh, Emmet McLoughlin, Giám mục John Shelby Spong,
Mục sư Ernie Bringas v..v.. và các học giả Ca-Tô như Joseph L. Daleiden, Paul
Blanshard, Gary Wills, John Cornwell v..v.. đã nhận thức được rằng, những tín
lý mà nền thần học Ki Tô Giáo tạo ra về Giê-su chỉ là những chuyện để cho trẻ
con tin, hoặc cho những người lớn có đầu óc ở trình độ của trẻ con, thì tất
nhiên Ki Tô Giáo phải suy thoái.
Có thể những tín đồ Ca-Tô Việt
Nam ngày ngày ca tụng “Đức Thánh Cha” vô đạo đức của họ không tin là cái đạo cao
quý của mình lại có thể suy thoái một cách trầm trọng như vậy, và họ rất hãnh
diện là tín đồ Ca-Tô Việt Nam vẫn giữ vững đức tin, kiên trì đi trong đường hầm
để bảo tồn những niềm tin đã bị phế thải ở Âu Mỹ. Do đó, các “cha nhà thờ” Việt
Nam vẫn nườm nượp xuất ngoại, mở tiệc ăn mừng quyên tiền giáo dân để về xây nhà
thờ, hay để làm những chuyện mà giáo dân không hề biết, nơi quê nhà. Nhưng
không tin là một chuyện, còn tình trạng suy thoái thực sự của giáo hội Ca-Tô
hoàn vũ lại là một chuyện khác.
Sau đây là một số tài liệu điển
hình nói về tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói
riêng, trên khắp thế giới. Đây là những tài liệu nghiên cứu, thống kê của
các tác giả Tây Phương trong đó có một số linh mục và tín đồ Ki Tô Giáo. Không
có một tài liệu nào của Cộng Sản hay của Phật Giáo Việt Nam. Tôi chỉ
trình bày những tài liệu sau đây với tư cách của một người đã nghiên cứu về tôn
giáo và trong lãnh vực học thuật (scholarship), những tài liệu mà tôi cho rằng
trong thời đại ngày nay, không có lý do gì người dân Việt Nam, nhất là những tín
đồ Ca-Tô ở Việt Nam, không được quyền biết, mà trái lại vì tương lai dân tộc,
người dân cần phải biết như là một phần quan trọng của bộ kiến thức thời đại.
Trước hết, chúng ta hãy điểm vài tài liệu trên vài cuốn sách đã xuất bản và trên
báo chí.
Năm 2001, John Cornwell, một
tín đồ Ca Tô Giáo và cũng là một chuyên gia về Ca Tô Giáo Rô-ma và Vatican, tác
giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the Night và
Hitler’s Pope, đã xuất bản một tác phẩm về Ca Tô Giáo nhan đề Từ
Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Ca Tô Giáo (Breaking
Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), trong đó chương đầu
viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Ca Tô Giáo (A
Catholic Dark Age). Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng
suy thoái trầm trọng của Ca Tô Giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh,
Mỹ, và Pháp như sau:
- Số tín đồ mang con đi rửa tội giảm sút,
vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi
rửa; [Rửa tội là một “bí tích” Giáo hội đặt ra để tạo quyền lực thần
thánh cho linh mục]
- Đám cưới tổ chức không cần đến linh
mục, vì hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất
hết ý nghĩa; [Không mấy người còn tin là trong bí tích hôn phối ông linh
mục có thể thay Chúa kết hợp cho lứa đôi. Ở Mỹ, tới 50% lứa đôi được các linh
mục gọi Chúa đến kết hợp đã đi đến ly dị]
- Giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng
thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục;
[Những chuyện hoang đường cổ xưa như Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ trong 6
ngày, Chúa sinh ra từ một nữ trinh, chết rồi lại sống lại bay lên trời, Thiên
Chúa là tình yêu v..v.. ngày nay đã không còn chỗ trong đầu óc giới trẻ quen
thuộc với vũ trụ học, sinh học, thuyết tiến hóa v..v.. hiện đại, và trước những
cảnh khổ ải của nhân loại rất hiển nhiên trên thế giới]
- Số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta
không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng;
- Từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục
giảm đi 2/3 v..v..
- Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái
nôi của Ca Tô giáo, thật là thê thảm.
- Ở Tây Âu (Western Europe),
từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục.
- Ở Ý, 90% theo Ca Tô Giáo nhưng chỉ có 25%
đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học
trường Dòng giảm một nửa.
- Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ
Ca Tô giáo , số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970
còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời
gian.
- Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999,
các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã
quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” (At a
special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the
entire continent had decided to live “as though God did not exist”.)
- Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn.
7000 tín đồ mới có một linh mục. Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật.
- Theo một hội nghị quốc gia của các giám
mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according
to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the
Church each year.)
Còn về tình trạng các linh mục
thì ngay từ năm 1990, linh mục David Rice dòng Đa Minh đã xuất bản cuốn
Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests Who Leave),
đưa ra kết quả nghiên cứu của ông sau khi đi tới nhiều nơi trên thế giới, tổng
cộng 38 ngàn dặm (khoảng 60 ngàn cây số), để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của
các linh mục bỏ đạo như sau:
“Một trăm ngàn ( 100000
) linh mục Ca-tô Rô-ma đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có
hơn một linh mục ra đi. Hầu như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo –
thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong. Vatican
không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng
nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách Tin Lành.
(100,000 Roman Catholic priests
have walked out in the last 20 years – more than one every two hours. Almost
half of all American priests will leave – most often, to marry – before the 25th
anniversary of their ordination. The Vatican won’t talk about this exodus, yet
it is the most grievous crisis to face the Church since the Protestant
Reformation)
Rồi đến năm 2002, trong bài
“Một Chỉ Số Về Sự Suy Thoái Của Ca-Tô Giáo” [An Index of
Catholicism’s Decline] của Patrick J. Buchanan, tác giả có đưa ra một thống kê
về mọi mặt của Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Mỹ của Kenneth C. Jones ở St. Louis, thực hiện
năm 2002 với câu “Những kẻ nói láo có thể đưa ra con số, nhưng những con số
thì không nói láo” [Liars may figure, but figures do not lie], hàm ý những
con số của giáo hội đưa ra là những con số láo, còn những con số qua những cuộc
nghiên cứu thống kê khoa học mới là những con số chính xác nói lên tình trạng
thực sự của Ca Tô Giáo. Chúng ta có thể thấy những con số thống kê như sau:
Số Linh Mục: Trong khi số linh mục
ở Mỹ tăng lên gấp đôi tới con số 58,000 trong khoảng từ 1930 đến 1965, từ khi
đó, con số đã giảm xuống còn 45,000. Tới năm 2020, sẽ chỉ còn lại 31,000 linh
mục, và hơn phân nửa số linh mục đó sẽ trên 70 tuổi.
Số Linh Mục Mới: Năm 1965, có 1,575
linh mục mới được phong chức ở Mỹ. Năm 2002, số này còn có 450. Năm 1965, chỉ
có 1% giáo xứ là không có linh mục. Ngày nay, có tới 3000 giáo xứ không có linh
mục, 15% của số giáo xứ ở Mỹ.
Số Người Vào Trường Dòng Học Nghề Linh Mục:
Từ 1965 đến 2002, số người vào trường dòng học nghề linh mục giảm từ 49,000
xuống còn 4700, suy giảm tới trên 90%. Hai phần ba số 600 trường dòng hoạt động
năm 1965 nay đã đóng cửa.
[Trước tình trạng thê thảm này,
để cứu giáo hội của Chúa, tín đồ Ca-tô Việt Nam bèn xung phong đổ xô đi học
nghề linh mục. Thật vậy, ở trường dòng Dubuque, Iowa, có 70 người theo học
nghề linh mục thì có tới 43 người là Việt Nam, tỷ lệ hơn 60%. Đa số các tân
linh mục ngày nay là Mít, Mễ, Ba Lan, Phi Luật Tân. Nhưng Giáo hoàng
Benedict XVI lại không lấy đó làm vui, vì là “đại diện của Chúa Ki Tô trên trần”
(Vicar of Christ) nên ngài biết hết, hiểu hết, và đã nhìn ra sự thật. Ngài
phán: “Niềm vui này đi kèm với một niềm cay đắng vì một số sẽ trở thành
linh mục này chỉ tìm kiếm một đời sống thoải mái hơn. Trở thành linh mục, họ
trở thành hầu như là một tộc trưởng của một bộ lạc, đương nhiên là họ được ưu
đãi và có một đời sống khác” (Benedict said the "joy" at the
growing numbers of churchmen in the developing world is accompanied by "a
certain bitterness" because some would-be priests were only looking for a better
life. “Becoming a priest, they become almost like a head of a tribe, they are
naturally privileged and have another type of life," he said.).. Nhưng Giáo
hoàng không biết rằng làm linh mục Việt Nam thì đặc biệt hơn các linh mục Tây
Phương nhiều, vì con chiên Việt Nam nổi tiếng là ngoan đạo, cho nên dù các linh
mục có làm gì thì con chiên cũng không dám ho he. Một giám mục Việt Nam đã
chẳng răn đe họ là: “Các con đừng có nói hành các cha mà mang tội với Chúa”
và “Đừng có phán xét các Cha để khỏi bị Chúa phán xét” hay sao. Nghe đến
“mang tội với Chúa” và “Chúa phán xét” là con chiên sợ rét run lên
rồi, dù rắng Chúa đã chết cách đây 2000 năm và người ta đã tìm thấy bộ xương của
“Chúa Cứu Thế” trong một tiểu quách ở Jerusalem, cùng với những bộ xương của vợ,
Mary Magdalene, và của con, Judah, trong vài tiểu quách khác. Cho nên một số
linh mục Việt Nam tự do thoải mái truyền giống thay vì truyền giáo (Xin đọc
bức thư của nhóm đệ tử Linh Mục Nguyễn Hữu Trọng ở Việt Nam gửi giáo hoàng John
Paul II và Hồng Y Phạm Đình Tụng), hay làm bất cứ điều gì khác mà không sợ
con chiên tố khổ như ở Mỹ.]
Số Nữ Tu (Sơ): Năm 1965, có 180,000
nữ tu Ca-Tô. Tới năm 2002, số nữ tu này sụt xuống còn 75,000 và tuổi trung bình
của một nữ tu Ca Tô ngày nay là 68. Năm 1965, có 104,000 nữ tu dạy trong các
trường học CaTô. Ngày nay chỉ còn có 8200, một sự suy giảm 94% kể từ sau Công
Đồng Vatican II.
Những Dòng Tu: Về những dòng tu ở
Mỹ, sự cáo chung thấy ngay trước mắt. Năm 1965, 3,559 thanh niên học để hành
nghề linh mục, Năm 2000, con số là 389. Với dòng huynh trưởng Ki Tô, tình
trạng còn tệ hơn. Số huynh trưởng giảm 2/3, với số vào trường dòng sụt 99%.
Năm 1965, có 912 huynh trưởng học trường dòng. Năm 2000, chỉ còn có 7. Số
thanh niên học để trở thành linh mục dòng Phan-Xi-Cô và Cứu Thế sụt xuống từ
3379 năm 1965 còn 84 năm 2000.
Trường Học Ca-Tô: Một nửa số trường
trung học Ca Tô ở Mỹ đã dẹp tiệm từ năm 1965. Số học sinh giảm từ 700,000 xuống
còn 286,000. Các trường đạo cấp tiểu học còn bị giảm nhiều hơn nữa. Khoảng
4000 trường đã đóng cửa, và số học trò sụt xuống dưới 2 triệu, từ 4 triệu rưỡi.
Đám Cưới Ca-Tô: Số những cuộc hôn
phối Ca-Tô giảm 1/3 từ 1965, và số hôn phối [do Chúa kết hợp qua bí tích hôn
phối] được phép hủy bỏ hàng năm tăng từ 338 năm 1968 lên đến 50,000 năm 2002.
Đi Lễ Nhà Thờ: Thống kê Gallup cho
biết năm 1958 có 75% tín đồ Ca-Tô đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật. Một cuộc nghiên
cứu gần đây của Viện Đại Học Notre Dame cho thấy con số chỉ là 25%.
Bánh Thánh: Theo thống kê của tờ
New York Times, 70% tín đồ Ca-Tô trong lớp tuổi 18-44 tin rằng lễ ban thánh thể
[ăn bánh thánh] chỉ là một biểu tượng để nhớ lại Giê-su. [Không còn tin bánh
thánh là thân thể thực của Chúa như giáo hội dạy]
Và những thống kê mới nhất cũng
cho chúng ta thấy tình trạng này. Trong tờ Chicago Tribune ngày 19
tháng 6, 2006, ký giả hải ngoại của tờ báo, Tom Hundley, có một bài tường
trình, đăng trên trang nhất, về tình trạng Ki Tô Giáo ở Âu Châu với chủ đề
“Đức Tin Phai Nhạt: Sự Suy Thoái Của Ki Tô Giáo ở Âu Châu” (Fading
Faith: The Decline of Christianity in Europe) trong đó có những đoạn như sau:
Ở Pháp và ở hầu hết các
quốc gia khác ở Âu Châu, Ki Tô Giáo có vẻ như đang “rơi xuống tự do” không
phương cứu vãn [Christianity appears to be in a free fall: Tác giả dùng
từ trong khoa học: “free fall”, có nghĩa là rơi xuống tự do, càng ngày càng
nhanh mà không có gì ngăn cản lại]. Tuy 88% dân Pháp nhận mình là tín đồ
Công Giáo, chỉ có 5% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, 60% nói rằng họ “không bao
giờ” (never) hoặc “hầu như không bao giờ”
(practically never) đi lễ nhà thờ [Đối với người Ca-Tô Việt Nam,
họ bị dọa là không đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật là một trọng tội, phải đày hỏa
ngục, các “bề trên” dạy vậy, nên giáo dân Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm
vẫn nườm nượp kéo nhau đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, và cả ngày thường, chứng tỏ
trình độ tôn giáo của giáo dân Việt Nam vượt trội hẳn trình độ giáo dân Âu Châu
và Mỹ Châu về mê tín, niềm hãnh diện của giáo hội Ca-Tô Việt Nam trong sự tiếp
tục tuân theo những giáo lý thuộc loại nhốt đầu óc tín đồ vào những ngục tù tâm
linh, những giáo lý mà Âu Châu và Mỹ Châu đang dần dần phế thải]. Không
còn phải bàn cãi gì nữa, Ca-Tô Giáo đang đối diện với một cơn khủng khoảng
nghiêm trọng… Một lễ ngày chủ nhật điển hình trên khắp nước Pháp là hình ảnh của
một linh mục già nua trước một đám phụ nữ cũng già nua. Odon Vallet, giáo sư
tôn giáo ở đại học Sorbonne nói: “Lễ Mi-sa thật là chán (Mass is boring),
lễ tiết chẳng có gì hay (the ceremony isn’t beautiful), nhạc
cũng tệ (music is bad), bài giảng không có gì hấp dẫn (the
sermon is uninteresting).
Trong bài “Hãy giữ đức tin” (Keeping The Faith) trên tờ New
York Times ngày 8 tháng 4, 2007, chúng ta có thể đọc được vài đoạn như sau:
Phong cảnh giáo hội ở Âu Châu – không chỉ là Giáo hội Ca Tô mà hầu như mọi
hình thức tổ chức của Ki Tô Giáo – đang thay đổi nhanh như chớp. Có những
ông giám mục Âu Châu cảm thấy rằng họ không còn có thể nói về một Âu Châu Ki Tô
Giáo mà không cảm thấy mình đang mạ lỵ sự thông minh của quần chúng.
("The landscape of the church in Europe — and not just the Catholic Church
but nearly all forms of organized Christianity – is changing at a lightning
pace. There are European bishops who feel you can’t talk about a Christian
Europe anymore without insulting people’s intelligence.”)
Sau đây là những trích dẫn từ
một số tài liệu bổ túc trên Internet:
www.time.com/Europe; June 8, 2003: O
Father Where Art Thou? [Cha (Thượng đế) Ơi ! Bây Giờ Ông Ở Đâu? Bến Hải Hay
Cà Mâu ??]
Năm 1966, một bài viết chính
theo hình bìa ngoài có suy tư về số phận của Ki Tô Giáo và đặt câu hỏi: Thượng
đế đã chết? Tờ báo này không phải là tờ đầu tiên mà cũng không phải là tờ cuối
cùng đặt câu hỏi này – các nhà thần học đã than vãn từ nhiều thế kỷ về sự thế
tục hóa xã hội. Thượng đế chưa chết, nhưng ngày nay ở Âu Châu, ông ta không còn
ở những chỗ [mà người ta đặt ông ta lên] như xưa. Vậy thì vẫn cần phải
hỏi: Thượng đế - và đức tin Ki-Tô – đã đi đâu rồi?
Hiển nhiên là những cơ
sở Ki Tô đã ở trong tình trạng suy thoái từ lâu, nhưng điểm đồng thuận ngày nay
là sự suy thoái đã càng ngày càng nhanh. Một viên chức cao cấp của
Vatican thú nhận: “Đời sống trong các giáo xứ coi như là đã chết”. Ở Anh,
số người đi nhà thờ đã giảm 30% kể từ 1980. Trong cùng một thời gian này, tỷ lệ
số người nhận là thành viên của một hệ phái Ki Tô nào đó giảm hơn 20% ở Bỉ, 18%
ở Hà Lan, và 16% ở Pháp. Ki-Tô Giáo vẫn là tôn giáo chính ở Âu Châu, với số tín
đồ khoảng 550 triệu. Nhưng số người Âu Châu nhận mình là tín đồ Ca-Tô – cho đến
nay là hệ phái Ki-Tô lớn nhất ở lục địa – đã giảm hơn 33% kể từ năm 1978.
Có những thời, giáo hội
Ca-Tô lại là chính kẻ thù tệ hại nhất của mình - ủng hộ chế độ bạo tàn Franco ở
Tây Ban Nha (cho tới nay vẫn chưa xin lỗi về việc này) và bao che
những xì-căng-đan về loạn dâm ở Ái NHĩ Lan trong những năm gần đây. Nhưng
ngay cả trước khi những phanh phui này xẩy ra, giáo hội là một thế lực đàn
áp, tự cho quyền phán xét và nhấn quá mạnh vào một Thượng đế mà bắt con người
phải sợ hãi, giám mục Willie Walsh ở Killaloe nói như vậy.
(In 1966, a TIME cover story
pondered the fate of Christianity and asked, is God dead? The magazine wasn't
the first to pose the question — theologians have lamented society's
secularization for centuries — nor would it be the last. He's still not dead,
but these days in Europe, He's not always in the same old places. So it's worth
asking: Where has God — and Christian faith — gone?
The institutions of
Christianity, of course, have long been in decline, but the consensus is that
the pace has been quickening. "Parish life is essentially dead," admits a senior
Vatican official. Church attendance has dwindled by more than 30% in Britain
since 1980. Over the same period, the percentage of the population claiming
membership in a religious denomination has dropped more than 20% in Belgium, 18%
in the Netherlands and 16% in France. Christianity remains Europe's main
religion, with about 550 million adherents. But the number of Europeans who
identify as Catholic — by far the biggest denomination on the Continent — has
fallen by more than a third since 1978.
At times, the church has been
its own worst enemy — backing Franco's brutal regime in Spain (something it
still hasn't apologized for) and stonewalling the Irish pedophilia scandals of
recent years. But even before these revelations, the church "was an oppressive
force," says Willie Walsh, the Bishop of Killaloe. "It was judgmental and placed
too much emphasis on a God who was very much to be feared." )
Bài báo trích dẫn hai nhận
định:
- Của Jeff Chu: Ki Tô Giáo đang trở thành tín ngưỡng của thiểu số ở Âu
Châu, vì số người đi nhà thờ sút giảm, số giáo sĩ già nua, và những xì-căng đan
và giáo lý khắc nghiệt đã làm cho con người xa lánh.
(Christianity is becoming a minority faith in Europe, as church attendance
falls, the clergy ages, and scandals and harsh doctrine drive people away.)
- Của Jobst Schone, giám mục Tin
Lành, Đức:
Những giáo hội Ki-Tô luôn luôn trải qua những thời kỳ với ảnh hưởng lúc
nhiều lúc ít . Nay chúng ta đang đi xuống. Ki Tô Giáo sẽ trở thành thiểu
số. Không người nào nên nhắm mắt trước sự kiện này.
(Churches have always gone through periods when their influence is greater
and periods when it was less. Now we are down. Christianity will be a minority.
Nobody should close his eyes to that fact.)
www.albertmohler.com:
christianpost.com
“Ki Tô Giáo Lùi Bước Ở Âu Châu – Tiếp Đến Là
Mỹ?”
Christianity Recedes in Europe--Is America Next?
Thursday, August 18, 2005
Trong ít nhất là nửa thế kỷ, những nhà
nghiên cứu đã từng quan sát sự chuyển hướng to lớn trong những nền văn hóa Tây
phương. Khi Brian Kenny kể: “Tôi không đi lễ nhà thờ, và tôi không biết có
người nào còn đi”, anh ta hiểu rằng một cái gì đó đã thay đổi. Anh ta nhớ
lại: “15 năm trước, tôi không biết có người nào mà lại không đi lễ nhà thờ.”
Ngày nay người ta không thể không biết đến
những thống kê về tình trạng thế tục hóa Âu Châu. Ái Nhĩ Lan, vẫn còn là một
trong những nước ít thế tục nhất ở Tây Âu, đã thấy rằng số người đi lễ nhà thờ
giảm ít nhất là 25% trong 30 năm qua. Lẽ dĩ nhiên, Ái Nhĩ Lan là nước toàn
tòng Ca-Tô Giáo, nhưng bài báo ghi: “Không có một người nào sẽ được phong chức
linh mục ở Dublin năm nay”
Về phía Tin Lành, hình ảnh cũng chẳng khá
hơn. Thụy Sĩ, Đức, và Hà Lan, một thời đã là những cái nôi của phong trào Cải
Cách Tin Lành, nay trở thành những thí dụ chính của Âu Châu thế tục.
Theo Trung Tâm Nghiên Cứu về Ki Tô Giáo toàn
cầu, Chủng viện thần học Gordon-Conwell ở Boston, sự suy thoái của ảnh hưởng
Ki Tô Giáo thì rõ rệt nhất ở Pháp, Thụy Điển và Hà Lan, ở những nơi đây số người
đi lễ nhà thờ là dưới 10% ở một số nơi.
Bài báo trên USA Today về sự suy thoái của
Ki Tô Giáo ở Âu Châu nêu lên câu hỏi về tương lai [Ki Tô Giáo] ở Mỹ.
Trong nhiều phương diện khác nhau, có vẻ như Mỹ sẽ theo gót gương của Âu Châu
nhưng chậm hơn nhiều năm. Tuy nhiên nhịp độ thay đổi luân lý ở Mỹ có thể cho
thấy rằng Mỹ sẽ nhanh chóng theo kịp mẫu thế tục của Âu Châu.
(For at least half a century, researchers have
been observing massive shifts in Western cultures. When Brian Kenny reported, "I
don't go to church, and I don't know one person who does," he understood that
something had changed. "Fifteen years ago, I didn't know one person who didn't,"
he reflected.
The statistics documenting European
secularization are now impossible to ignore. Ireland, still one of the least
secular nations in Western Europe, has seen church attendance fall by at least
25 percent over the last three decades. Ireland is predominantly Roman Catholic,
of course, but the paper reports, "Not one priest will be ordained this year in
Dublin."
On the Protestant side, the picture is not much
better. Switzerland, Germany, and the Netherlands, once the cradles of the
Reformation, are now prime examples of Europe's secular shape.
According to the Center for the Study on Global
Christianity, at the
Gordon-Conwell Theological Seminary in
suburban Boston, the decline in Christian influence "is most evident in France,
Sweden and the Netherlands, where church attendance is less than ten percent in
some areas."
USA Today's cover story on the decline
of Christianity in Western Europe raises the question of America's future. In
many ways, America seems to be following the European example, though several
years behind. Yet the pace of moral transformation in the United States may
indicate that America is fast catching up with the European model of
secularization.)
christianpost.com:
By Michelle Wu
Như nhiều người biết, Ki Tô Giáo đang suy
thoái ở Âu Châu đến độ mà người ta mô tả Âu Châu như là một nơi “ít biết đến
Phúc Âm nhất” trên thế giới, khi chúng ta nhìn vào toàn thể dân Âu Châu. Dưới
4% toàn thể dân Âu Châu biết đến Phúc Âm, và trên hầu hết các quốc gia ở Âu Châu
tỷ lệ này xuống dưới 1%.
Ở Âu Châu, không phải là sự bất thường
khi một người mô tả mình là một “tín đồ Ca-Tô vô thần”, hay một người sinh ra và
nuôi nấng trong một gia đình Ca-Tô nhưng lại không tin vào Thiên Chúa. Điển
hình là người đó được rửa tội, kết hôn, và làm tang lễ trong nhà thờ, nhưng
không thể nói rõ về ý nghĩa của lễ Phục Sinh.
Trong một cuộc thăm dò ý kiến ở Anh nhân dịp
lễ Phục Sinh – một quốc gia được coi là Ki-Tô – kết quả trong lớp tuổi 16-24, 1
trong 6 người Anh không biết ý nghĩa của ngày Thứ Sáu Tốt Đẹp [người Ki
Tô gọi ngày Chúa của họ bị đóng đinh trên thập giá, một hình phạt khủng khiếp,
dã man, gây đau dớn nhất cho con người của đế quốc La Mã khi xưa, là ngày Thứ
Sáu Tốt Đẹp (Godd Friday)] và khoảng 10% không biết rằng ngày Chủ Nhật
Phục Sinh là để tưởng nhớ lại sự sống lại của Giê-su [Có thể là vì chẳng còn
ai tin được điều mê tín “Chúa sống lại” nữa]
Những chính phủ Âu Châu bị qui tội một phần
cho sự suy thoái của Ki Tô Giáo, bị trách cứ là đã giới hạn những hoạt động tôn
giáo và làm khóa khăn sự bành trướng của những nhóm tín ngưỡng. Ví dụ như,
trong nước Pháp dân chủ, một nhà thờ xin phép để xây cất thêm hay mua bất động
sản có thể không bao giờ được cấp giấy phép.
[Đọc đến đây tôi thấy sự
kiện này như là một nghịch lý: ở nước Pháp có “tự do tôn giáo”, nhưng nhà nước
lại không cho phép nhà thờ xây cất thêm hoặc mua thêm bất động sản; ở Việt Nam
không có “tự do tôn giáo” [theo những người hành nghề Chống Cộng ở hải ngoại]
thì các nhà thờ lại tha hồ xây cất thêm và mọc thêm nhà thờ mới. Thế này là thế
nào??]
(As many know,
Christianity is declining in Europe to the extent that it has been described as
the “least evangelized spot on earth” when looking at all of Europe’s
population.
Less than four
percent of the total population in Europe is evangelical and in most European
countries the percentage falls to less than one percent.
In Europe, it
is not unusual for a person to describe themself as a Catholic-Atheist, or
someone born and raised in a Catholic family but who does not personally believe
in God. Typically, the person would be baptized, married, and have their funeral
held in a church, but would not be able to explain the meaning of Easter.
In a recent
Easter survey conducted in England - a country typically seen as a Christian
nation. the survey found that one out of every six people in England aged 16-24
did not know the meaning of Good Friday and about 10 percent of participants did
not know that Easter Sunday commemorated the resurrection of Jesus.
European
governments have been partially blamed for the decline of Christianity, being
accused of restricting religious activities and hindering the expansion of faith
groups. For example, in the democratic country of France, a church requesting
permit to expand its church building or buy property may never receive
permission.)
Sự suy thoái của Tin Lành trên
thế giới cũng là một hiện tượng rõ rệt. Ở Mỹ, tỷ lệ Tin Lành trước đây là 65%
nay chỉ còn lại 51% và các học giả dự phóng là trong một thập niên nữa, tỷ lệ
này sẽ xuống dưới mức 50%. Như vậy kể là còn rất nhiều vì ở Âu Châu các nước
theo Tin Lành đã trở thành thế tục (secular) và ảnh hưởng tôn giáo không còn lại
bao nhiêu. Ở Âu Châu, cảnh nhà thờ được rao bán và trở thành những kho chứa
hàng, hộp đêm, chung cư, khách sạn v..v.. không phải là hiếm. Ngay cả “Foyer
Phát Diệm” của Việt Nam ở Rome, nguyên là nơi để các tu sĩ Việt Nam ở khi sang
Rome thụ huấn, báo cáo hay công tác, nay cũng là một khách sạn cho mọi người. Ở
Mỹ cũng vậy, cảnh nhà thờ bán đi rồi biến cải thành Chùa, thành Niệm Phật Đường
v..v.. cũng không phải là không có. Nhiều trường học Ca-Tô phải đóng cửa vì
không đủ học sinh nên không kiếm được lời. Có giáo xứ khai gian phá sản
(bankrupcy) để trốn trả tiền phạt các vụ linh mục loạn dâm.
Vài thống kê sau đây về số tín
đồ Tin Lành Mỹ cho chúng ta thấy rõ vấn đề suy thoái của Tin Lành. Theo Richard
Vara của tờ Houston Chronicle thì:
Số tín đồ trong Giáo hội
Trưởng Lão từ năm 1960 đã giảm từ 4.1 triệu còn 2.5 triệu; Trong cùng thời gian
này số tín đồ trong giáo hội Anh giáo tại Mỹ [Tân giáo] cũng giảm từ 3.4
triệu còn 2.5 triệu, và giáo hội Giám Lý giảm từ 11 triệu tín đồ còn 8.3 triệu.
Vì dân số gia tăng nhanh trong 40 năm qua, tỷ lệ sút giảm này thực sự lớn hơn là
những con số thống kê.
(Protestants in Decline by
Andrew Walsh: Richard Vara of the Houston Chronicle provided a
useful check list: “The Presbyterian Church (U.S.A.) has dropped from 4.1
million members in 1960 to 2.5 million. Over the same period, membership in the
Episcopal Church decreased from 3.4 million to 2.5 million and United Methodists
have seen their numbers drop from 11 million to 8.3 million.” Because of the
rapid growth in the nation’s population over the last 40 years, the proportional
shrinkage of their groups is even greater than the raw numbers suggest.)
Qua một số nhỏ tài liệu trích
dẫn ở trên, chúng ta thấy rằng hiện tượng suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới
là một sự kiện. Nhưng ở một vài địa phương ở Phi Châu và Á Châu, trong những
vùng chậm tiến và nghèo khổ, nếu chỉ kể trên con số, Ki Tô Giáo lại có vẻ phát
triển, tuy rằng những con số đó, so với mức gia tăng của dân số thì thực sự
không phải là một dấu hiệu phát triển. Điều đáng buồn là có một số tín đồ Ca-Tô
cũng như Tin Lành Việt Nam lại khoe khoang là số tín đồ của tôn giáo mình gia
tăng, cũng như một số tân tòng Ca-Tô hay Tin Lành cũng khoe khoang là mình được
vào trong “hội thánh”. Họ thường vinh hạnh khoe: nay có ông tu sĩ Phật giáo này
bỏ Phật theo Chúa, mai có người kia làm chứng lời Chúa v..v.. nhưng tất cả
đều chỉ là những nhân vật vô tên tuổi, không ai biết đến, và phần lớn là bịa ra
làm chứng láo. Vấn đề là thực chất những điều này không phải là những
điều đáng khoe khoang mà trái lại, đó là một sự biểu hiện của ô nhục và ngu đần
(A badge of shame and ignorance). Tại sao? Vì thử hỏi, có gì đáng khoe
khoang ở cái chuyện đi nhặt những niềm tin thuộc loại hoang đường mê tín mà Âu
Châu và Mỹ Châu đang dần dần phế thải về làm của báu cho mình. Âu Châu và
Mỹ Châu vốn là cái nôi của Ki Tô Giáo, nhưng ngày nay Ki Tô Giáo ở những phương
trời này lại bị phá sản, như học giả Eliezer Berkovits đã viết về “sự phá
sản đạo đức của nền văn minh Ki Tô Giáo và sự phá sản Tâm Linh của Ki Tô Giáo”
(The moral bankrupcy of Christian civilization and the spiritual bankrupcy of
Christian religion) trong cuốn “Đạo Do Thái Trong Thời Kỳ Hậu Ki Tô”
(Judaism in the Post-Christian Era). Trong khi nhiều người đã thoát ra để tự
thanh tẩy ký ức và để dứt bỏ sự dính líu của mình vào một tôn giáo có một lịch
sử tàn bạo nhất thế gian, thì có người lại tự đâm đầu vào cái định chế tôn giáo
mà lịch sử ô nhục của nó không ai có thể chối cãi. Đó có phải là điều đáng khoe
hay là điều đáng thương hại và tội nghiệp?
Giáo hội ngoài mặt vẫn còn mạnh
vì dựa vào khối đông tín đồ thấp kém ở dưới, đúng như định nghĩa của Thống Đốc
Jesse Ventura của Bang Minnesota: “KiTô giáo là một sự giả dối trống rỗng và
là một cặp nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh trong số
đông” (Christianity is a sham and a crutch for weak-minded people who need
strength in numbers), do đó giáo hội Ca-Tô vẫn giữ thái độ tự tôn trịch thượng
vô lối đối với các tôn giáo khác. Và các giáo hội địa phương, thí dụ như ở Việt
Nam, vẫn cuồng tín làm càn, đòi lại đất đai đã đi ăn cướp, không phải của mình.
Nữ học giả Ca-Tô Joane H.
Meehl, sau khi đã nhìn thấy rõ chủ đích và những việc làm của Giáo hội Ca-Tô từ
thế kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốn "Người Tín Đồ Ca-Tô Tỉnh Ngộ"
(The Recovering Catholic, Prometheus Book, 1995, trang 288):
"Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành
và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng giáo
dục (mở mang dân trí. TCN) và đời sống kinh tế thoải mái."
(Catholicism thrives and grows among the poor and ignorant. It is overcome
by education and economic well-being).
Giáo dục để mở mang dân trí và
phát triển kinh tế để cho đời sống vật chất của người dân được thoải mái là
chiều hướng chung của nhân loại, và Việt Nam cũng đang có những nỗ lực trong
chiều hướng này. Tôi tin rằng không có một thế lực nào có thể đi ngược với
chiều hướng nằm trong luật Tiến Hóa của nhân loại này. Và trước sau gì thì sự
suy thoái của Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Âu Châu sẽ lan đi khắp thế giới, kể cả Việt
Nam.