PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TRONG THẾ GIỚI ĐA VĂN HÓA (Phần 1)

Trần Chung Ngọc

đăng ngày 05 tháng 7, 2007

Toàn bộ: 1 2 3


Trong thời đại mới, tôi quan niệm rằng, người Phật tử không có quyền chỉ biết đến Kinh điển, giáo lý v..v.. của tôn giáo mình mà còn phải mở mang kiến thức trong những lãnh vực khác như khoa học, nhân văn, xã hội v..v.. và cả về các tôn giáo khác, từ đó mới có thể nhận thức đúng được giá trị của Phật Giáo, không những trong dân tộc mà còn cả trong cộng đồng thế giới. Là Phật tử, chúng ta không thể đứng ngoài xã hội mà phải đối diện với tất cả những vấn nạn của xã hội, cộng đồng v..v.. trong đó có những vấn đề cần phải đối phó, vì chúng có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của chúng ta, cùng công cuộc bảo vệ, duy trì nền văn hóa Phật Giáo nói riêng, nền văn hóa Việt Nam nói chung, trên đất nước.

Trong thời đại mới, nghiên cứu và bình phẩm về các tôn giáo khác không còn là điều cấm kỵ, mà chính là một đòi hỏi trí thức trong việc giáo dục quần chúng, mở mang dân trí.Điều này chúng ta có thể thấy rõ nhất trong phương trời Âu Mỹ.Mở mang dân trí để Việt Nam có thể học những kinh nghiệm lịch sử, theo kịp những tiến bộ của nhân loại, và giáo dục quần chúng để duy trì tinh thần yêu nước, tạo nên căn bản dựng nước và giữ nước, và nhất là để gìn giữ và phát huy nền văn hóa cổ truyền dân tộc, cũng là nền văn hóa Phật Giáo, coi đây như là một cách bảo tồn phẩm cách quốc gia.

Với quan niệm như vậy, trước hết, tôi xin được điểm qua vài nét về hiện tình Phật Giáo trên thế giới.Ngày nay, thế giới đã nhận thức được chân giá trị của Phật Giáo.Phật Giáo là một Đạo [danh từ “tôn giáo” theo nghĩa của Tây phương không thích hợp với Phật Giáo] mà cốt tủy giáo lý về phương diện xã hội là về lòng từ bi và chủ trương hòa bình.Hơn gì hết, Phật Giáo lại là Đạo của trí tuệ. Trí tuệ là đặc tính quý báu nhất của con người.Cách đây hơn 2500, Đức Phật đã dạy chúng ta như vậy trong Kinh Kalama: Người khuyên chúng ta nên sử dụng trí tuệ thay vì vội tin. Phải chăng vì vậy mà ngày nay hiện tượng Phật Giáo nở rộ khắp nơi trên thế giới, nhất là trong phương trời Âu Mỹ, đã là một sự kiện không ai có thể phủ nhận.

Tuy Phật Giáo đang phát triển khắp nơi trên thế giới, nhưng chúng ta phải ghi nhận rằng, hiện tượng này rõ rệt nhất trong thế giới Tây phương.Chúng ta biết rằng, trong các xã hội Tây phương, Ki Tô Giáo đã là tôn giáo chủ lực tinh thần của người dân qua gần 20 thế kỷ.Trong những xã hội này, Ki Tô giáo, tôn giáo của "đức tin",tự nhận là tôn giáo tiến bộ và văn minh nhất, tuyệt đối không có chút nào mê tín, theo nghĩa chỉ cần tin vào sự cứu rỗi của một người Do Thái, Giê-su, mà theo các học giả, sau khi nghiên cứu kỹ lịch sử, đã đi tới điểm đồng thuận là có một tiểu sử bất minh, và vai trò “cứu thế” của Giê-su chỉ là một huyền thoại được nền thần học Ki-Tô Giáo dựng lên.Tín đồ Ki Tô Giáo được dạy rằng, tin như vậy thì sau khi chết, đến ngày tận thế, xác chết sẽ được Giêsu làmcho sống lại và hợp với phần hồn được lưu trữ ở một nơi nào đó, và sẽ được sống cuộc sống đời đời bên Giê-su ở trên Thiên đường.Phật Giáo, tôn giáo của "trí tuệ", bị Ki Tô Giáo coi là thấp kém, hầu như không được biết đến trong thế giới Tây phương cho tới hậu bán thế kỷ 19. Vậy tại sao hiện nay lại có hiện tượng Ki Tô Giáo suy thoái khắp nơi, trong khi sự hâm mộ Phật Giáo, nhất là trong giới trí thức trong các xã hội này, càng ngày càng gia tăng.Muốn hiểu điều này chúng ta không thể nào tránh được việc bàn về những tiến bộ trí thức của con người, đưa đến sự thay đổi của ảnh hưởng Ki Tô Giáo trên con người, và lẽ dĩ nhiên, không thể không bàn về chủ đề: cái gì đã làm cho Phật Giáo hấp dẫn Tây phương?

Sự phát triển của Phật Giáo trong thế giới Tây phương có nhiều nguyên nhân, nhưng tất cả có thể thu về một mối.Đó là: nhân loại đã nằm trong một quá trình tiến hóa liên tục, một quá trình thiên nhiên trong vũ trụ, không một thế lực nào có thể ngăn chận được.Sự tiến hóa về mọi mặt của con người, nhất là về mặt trí tuệ, tất nhiên đưa đến sự thoái hóa của những quan niệm, lý thuyết và cả những niềm tin tôn giáo đã lỗi thời trong xã hội loài người.Do đó, chúng ta có thể nói rằng, ở Âu Mỹ, sự phát triển của Phật Giáo, một tôn giáo “Duy Tuệ”, phản ánh sự tiến hóa của trí tuệ nhân loại, và dĩ nhiên phải đưa đến sự suy thoái của những niềm tin không còn thích hợp với trình độ hiểu biết của con người ngày nay.

Vài Nét Về Tình Trạng Suy Thoái Của Ki Tô Giáo:

Sự suy thoái của Ki Tô Giáo ở Tây phương là một sự kiện.Chính Giáo Hoàng đương nhiệm, Benedict 16, cũng phải thú nhận như vậy.Theo những tin tức báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Giáo hoàng Benedict 16 đã lên tiếng phàn nàn như sau:

“Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương có vẻ đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến Thiên Chúa nữa”1

Và những thống kê mới nhất cũng cho chúng ta thấy tình trạng này.Trong tờ Chicago Tribune ngày 19 tháng 6, 2006, ký giả hải ngoại của tờ báo, Tom Hundley, có một bài tường trình, đăng trên trang nhất, về tình trạng Ki Tô Giáo ở Âu Châu với chủ đề “Đức Tin Phai Nhạt: Sự Suy Thoái Của Ki Tô Giáo ở Âu Châu” (Fading Faith:The Decline of Christianity in Europe) trong đó có những đoạn như sau:

Ở Pháp và ở hầu hết các quốc gia khác ở Âu Châu, Ki Tô Giáo có vẻ như đang đi xuống không phương cứu vãn [Christianity appears to be in a free fall:Tác giả dùng từ trong khoa học: “free fall”, có nghĩa là rơi xuống tự do,càng ngày càng nhanh mà không có gì ngăn cản lại].Tuy 88% dân Pháp nhận mình là tín đồ Công Giáo, chỉ có 5% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, 60% nói rằng họ “không bao giờ” (never) hoặc “hầu như không bao giờ” (practically never) đi lễ nhà thờ [Đối với người Công Giáo Việt Nam, không đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật là một trọng tội, giáo hội dạy vậy].Không còn phải bàn cãi gì nữa, Công Giáo đang đối diện với một cơn khủng khoảng nghiêm trọng… Một lễ ngày chủ nhật điển hình trên khắp nước Pháp là hình ảnh của một linh mục già nua trước một đám phụ nữ cũng già nua.Odon Vallet, giáo sư tôn giáo ở đại học Sorbonne nói: “Lễ Mi-sa thật là chán (Mass is boring), lễ tiết chẳng có gì hay (the ceremony isn’t beautiful), nhạc cũng tệ (music is bad), bài giảng không có gì hấp dẫn (the sermon is uninteresting).

Năm 1990, linh mục David Rice dòng Đa Minh xuất bản cuốn Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests Who Leave), đưa ra kết quả nghiên cứu của ông sau khi đi khắp nơi tổng cộng 38 ngàn dặm (khoảng 60 ngàn cây số) để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục bỏ đạo:

Một trăm ngàn ( 100,000 ) linh mục Ca-tô Rô-ma đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn một linh mục ra đi. Hầu như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo – thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong.Vatican không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách Tin Lành. 2

John Cornwell, một tín đồ Công Giáo và cũng là một chuyên gia về Công Giáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the Night Hitler’s Pope, đã viết thêm một tác phẩm về Công Giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Công Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bảnnăm 2001,trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Công Giáo (A Catholic Dark Age).Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Công Giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp như sau:

  • Số tín đồ mang con đi rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa;
  • đám cưới tổ chức không cần đếnlinh mục,vì hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa;
  • giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục;
  • số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng;
  • từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v..
  • Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Công giáo,thật là thê thảm.
  • Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục.
  • Ở Ý, 90% theo Công Giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một nửa.
  • Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Công giáo, số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian.
  • Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu 3
  • Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn.7000 tín đồ mới có một linh mục.Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật.
  • Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảngsáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo 4

Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đã trở thành “vô thần”.Đây là một hiện tượng bất khả đảo ngược [free fall] vì nó phù hợp với sự tiến bộ trí thức của nhân loại nằm trong luật Tiến Hóa của vũ trụ.

Vài Nét Về Sự Thức Tỉnh Trí Thức Ở Tây Phương:

Tôn giáo Tây phương, Ki Tô Giáo, vẫn được coi, hay tự nhận, là tôn giáo mạc khải, tôn giáo duy nhất có giá trị trên thế gian.Vậy tại sao Phật giáo đã làm cho Tây phương thức tỉnh, và thức tỉnh khỏi cái gì?Mặt khác, nếu nền văn minh tiến bộ Tây phương mà Ki Tô Giáo thường nhận là nền văn minh Ki Tô Giáo thật sự có giá trị về vấn đề đạo đức, tâm linh, thì tại sao thế giới Tây phương, nhất là giới trí thức hiểu biết, lại không hài lòng với tôn giáo truyền thống của mình mà lại thấy Phật Giáo hấp dẫn?

Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy thật ra sự thức tỉnh của Tây phương không phải trong thời đại này mới xảy ra mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người ít ra là từ cuộc Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, từ Thời Đại Lý Trí(The Age of Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại Khai Sáng (The Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, và Thời Đại Phân Tích (The Age of Analysis) vào thế kỷ 20.Những thời đại này đã kéo con người Tây phương ra khỏi Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà sự thống trị của Công Giáo La Mã đã đưa Âu Châu vào 1000 năm được biết dưới tên Thời Đại Trung Cổ (The Middle Ages) hay Thời Đại Hắc Ám (The Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức (The age of barbarism and intellectual darkness).

Qua các thời đại trên, sự tiến bộ trí thức của con người đã từ từ văn minh hóa Ki-Tô Giáo, và riêng đối với Công Giáo La Mã, theo John E. Remsburg, đã tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Công Giáo những bó củi để thiêu sống người và những thanh gươm để giết người trong mấy trăm năm xử dị giáo và săn lùng phù thủy.Mặt khác, sau khi Martin Luther ly khai với giáo hội Công Giáo vào đầu thế kỷ 16, không công nhận chế độ giáo hoàng, để lập ra hệ phái mà Công Giáo gọi là Phản Thệ (Protestantism) mà chúng ta thường biết dưới cưỡng từ Tin Lành, thì Thánh Kinh bắt đầu được dịch ra những tiếng địa phương, và cũng bắt đầu từ đó, những công cuộc nghiên cứu Thánh Kinh và về nhân vật Giê-su trong Thánh Kinh phát triển.Kết quả của những công cuộc nghiên cứu này là người ta khám phá ra rằng, Thánh Kinh không phải là những lời mạc khải của Thiên Chúa như giáo hội thường dạy cho các tín đồ, mà chứa rất nhiều sai lầm, mâu thuẫn, về thần học cũng như khoa học.Ngoài ra, những công cuộc khảo cứu này cũng đưa ra hình ảnh của một Giê-su lịch sử khác hẳn với vai trò thần linh có khả năng cứu rỗi mà giáo hội Công Giáo đã tạo dựng lên.Những kết quả nghiên cứu trí thức sâu rộng về mọi mặt của Ki-Tô Giáo đã tác động trên não bộ của người Tây phương.Và cũng từ đây, những tín lý, tín điều, cũng như những tín lý mà giáo hội Công Giáo gọi là "bí tích" đã không còn chỗ đứng trong những xã hội Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội.Bởi vậy nên mới có tình trạng sa sút của Công Giáo ở Tây phương như John Cornell đã trình bày trong cuốn sách của ông.Để cho vấn đề được rõ ràng, sau đây chúng ta sẽ duyệt qua vài tài liệu điển hình, kết quả của những công cuộc nghiên cứu về nền Thần Học Ki Tô Giáo, về Thánh Kinh cũng như về nhân vật Giê-su.

Russell Shorto, người đã tổng duyệt những công cuộc nghiên cứu về Giê-su trong 200 năm, đã viết như sau trong cuốn Sự Thực Trong Phúc Âm (Gospel Truth):

Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Công giáo bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại... Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng– họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. 5

Trong cuốn "Theo Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Của Quyền Lực Thánh Kinh" (Going By the Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority), Mục sư Ernie Bringas, tốt nghiệp môn thần học tại đại học United Theological Seminary ở Dayton, Ohio,nhận định rằng:

Với sự tái khám phá phương pháp khoa học trong thế kỷ 16 ở Âu Châu và sự tiến triển tiếp theo của thời đại Khai sáng trong thế kỷ 18, một sự phân tíchThánh Kinh một cách thuần lý hơn là điều không thể tránh được.Trong một thế giới đang trở thành hướng theo tinh thần khoa học, những mô tả về Chúa đi trên sóng, về ma quỷ, thiên thần, những câu chuyện về sự sống lại của Chúa,và nhiều hiện tượng khác, càng ngày càng khó có thể chấp nhận như là những sự thực lịch sử.

Trong những năm 1835-1836, cuốn "Khảo Sát Cặn Kẽ Về Đời Sống của Giê-su" (The Life of Jesus Critically Examined)củaD.F.Straussđãquymột số chuyện trong Tân Ước là "huyền thoại" và định nghĩa những câu chuyện phi lịch sử như trên là sự biểu thị của một chuỗi những ý tưởng tôn giáo.Ngày nay, kết quả những cuộc nghiên cứu phân tích tiếp tục hỗ trợ vàxác nhận sự khẳng định này. Đa số các học giả coi những chuyện trong Tân Ước và bảy giáo lýgiáo hội đưa ra sau đây đều là huyền thoại:

1.Đức Mẹ đồng trinh

2. Hiện thân của Chúa(Thượngđế hiệnthân thành người, nghĩa là, Thượng đế là Giê-su.)

3.Nhiệm vụ cứu rỗi của Chúa

4.Sự sống lại của Chúa.

5. Sự thăng thiên của Chúa (Thân xác Chúa bay lên trời 40 ngày sau khi sống lại)

6. Chúa trở lại trần (để làm sống lại những người chết cho ngày phán xét cuối cùng)

7. Ngày phán xét cuối cùng (Chúa Cha phán xét luận tội mọi người trong ngày Giê su trở lạitrần thế) 6

Nhận định trên của Mục sư Ernie Bringas đã chứng tỏ rằng nền tảng tín ngưỡng của Ki Tô Giáo nói chung đã không còn hấp dẫn trong thế giới Tây phương, thế giới của khoa học, của suy lý. Thật vậy,niềm tin cốt tủy của Ki Tô Giáo là về huyền thoại con người sa ngã (tội tổ tông), bị Thượng đế phạt, cho nên cần đến sự cứu chuộc của Giê-su, người con trai duy nhất của Thiên Chúa (God's only son) được phái xuống trần để chuộc cái tội tổ tông cho nhân loại,nay đã trở thành chuyện khiến cho người có đầu óc khó có thể tin được vìthuộc loại mê tín và vô nghĩa như Giám Mục John Shelby Spong đã viết như sau trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Hay Chết(Why Christianity Must Change or Die), trang99:

Nhân loại chúng ta không sống trong tội lỗi.Chúng ta không sinh ra trong tội lỗi.Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội tổ tông trong lễ rửa tội.Chúng ta không phải là những tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu chúng ta không rửa tội.Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước thời -Darwin và một sự vô nghĩa sau thời -Darwin.7

Giám mục Spong nhận định không sai, vì chính Giáo hoàng John Paul II đã lên tiếng chính thức trước thế giới, công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, và phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục như được mô tả trong nền thần học của Ki Tô Giáo. Do đó, những huyền thoại trong Ki Tô Giáo như “tội tổ tông”, nhiệm vụ “cứu chuộc” của Giêsu, đời sống đời đời trên thiên đường, người không tin Giêsu bị đầy xuống hỏa ngục v..v.., tất cả đã không còn có một giá trị nào trong thế giới ngày nay.Nhưng hiển nhiên là đa số tín đồ Ki Tô Giáo bình thường trên thế giới, nhất là những tín đồ Công Giáo trong những ốc đảo ở Việt Nam, không hề biết đến những sự kiện đã xảy ra trong chính tôn giáo của mình, cho nên họ vẫn tiếp tục bị các “bề trên” bưng bít che dấu, và tiếp tục bị lừa dối trong những niềm tin mà nay đã trở thành những điều mê tín của thời Trung Cổ.Thật là tội nghiệp.Chúng ta đã thấy, việc mở mang dân trí thật là quan trọng như thế nào, nếu chúng ta muốn đất nước của chúng ta được cập nhật hóa bởi những thông tin mới nhất về vấn đề tôn giáo.

Nếu những huyền thoại về Giê-su nay đã không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết thì vai trò củaCha Giê-su (God) ra sao?Trong cuốn Những Phê Bình về Thiên Chúa (Critiques of God), biên tập bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki Tô Giáo, trang xiii, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây:

Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta.Bất cứ sự sùng tín nào về Thiên Chúa cũng đang trở thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta.Thiên Chúa đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên đàng.Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô.Không phải là Thiên Chúa bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ.Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô thân thể (không nam không nữ).Mà vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà nói tới. 8

Trong cuốn Thoát Ly Khỏi Thiên Chúa: Lấy Lại Khả Năng Tìm Hiểu (Freedom From God: Restoring The Sense of Wonder, Almador Pub., 2001), Mục sưHarry Willson viết, trang 55, 59:

Trong đầu óc của rất nhiều người biết suy tư, lương thiện và có thiện chí, Ki Tô Giáo đã trở thành không còn thích hợp, vì nó đòi hỏi con người dự phần quá nhiều vào những điều vô nghĩa. Bất cứ khi nào, một người nào đó [Giáo hoàng của Công Giáo] tự nhận mình là đại diện của Thiên Chúa trên trái đất, hay "đại diện của Chúa Ki Tô trên trái đất", hay bất cứ điều nào như vậy,là hắn ta đòi hỏi thế giới phải tin vào điều vô nghĩa. Thật là kinh hoàng khi vẫn có nhiều triệu người [Công giáo]tin như vậy. 9

Về cuốn Kinh Thánh của Ki Tô Giáo, có một điều mà giới hiểu biết về Kinh Thánh đã biết ngay từ đầu thế kỷ 20 là:

Các học giả Âu Châu đã phân tích cuốn Kinh Thánh kỹ hơn bao giờ hết, và kết luận của họ là: Kinh Thánh không phải là cuốn sách do Thượng đế [của Ki-tô giáo] mạc khải mà viết ra, như các Ki Tô hữu đã tin, do đó không thể sai lầm.Thật ra, đó chỉ là một hợp tuyển lộn xộn những huyền thoại cổ xưa, truyền thuyết, lịch sử, luật lệ, triết lý, bài giảng đạo, thi ca, chuyện giả tưởng, và một số ngụy tạo rất hiển nhiên. 10

Và chúng ta hãy đọc nhận định của một học giả Công Giáo, Joseph L. Daleiden, trong cuốn The Final Superstition, trg. 174, như sau:

Có rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp mà người ta cho là của Giêsu. Giống như chính huyền thoại về Giêsu, những quan điểm mà Giêsu diễn đạt chỉ là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn và luân lý mà chúng ta có thể thấy trong những đạo cổ xưa của Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng, Ấn Độ...Một điều rõ ràng:Ki Tô Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn trong lịch sử các tôn giáo, chỉ cóp nhặt những quan điểm, ý kiến của Do Thái Giáo và các tôn giáo gọi là dân gian. Trong cuốn "Nguồn Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm", Joseph McCabe (Một Linh Mục Công giáo) đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm mà người ta cho là của Giêsu song song với những quan điểm luân lý tương đương và yhệt của các tác giả Do Thái và dân gian. 11

Sự thức tỉnh của Tây phương không chỉ thuần túy là vì những giá trị tín ngưỡng Tây phương nay đã sụp đổ mà còn vì một khía cạnh khác không kém phần quan trọng.Đó là cái lịch sử của Ki Tô Giáo.Ngày nay, các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô đã xác định rằnglịch sử Ki Tô Giáo làmột lịch sử đen tối, đẫm máu nhất, đưa đến việc Giáo hoàng tiền nhiệm John Paul II phải xưng thú 7 núi tội lỗi của Công Giáo đối với nhân loại và xin được tha thứ.Đề tài này không thuộc nội dung của bài viết cho nên tôi xin phép được bỏ qua.

Trên đây chỉ là một số tài liệu điển hình nói về những nguyên nhân và tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo tại phương trời Âu Mỹ.Chúng ta nên để ý là tất cả những tài liệu trên đều được viết bởi các học giả và giới chức lãnh đạo trong Ki Tô Giáo, không có một tài liệu nào của ngoại đạo hay của bất cứ tôn giáo hay ý thức hệ nào khác.Tôi đặc biệt nhấn mạnh điểm này.

Sự suy thoái của tôn giáo Tây phương tuyệt đối không phải vì sự "xâm lấn" của Phật Giáo để cướp đi tín đồ của các tôn giáo Tây phương, vì lịch sử Phật Giáo trải dài hơn 2500 năm nay đã chứng tỏ rằng, Phật Giáo chưa bao giờ làm đổ một giọt máu hay cưỡng bách bất cứ ai trong quá trình truyền đạo. Sự suy thoái của tôn giáo Tây phương là điều tất nhiên phải xảy ra khi mà người Tây phương, ít ra là trong giới trí thức hiểu biết, đã thức tỉnh để nhận ra thực chất tôn giáo truyền thống của mình và cùng lúc nhận ra được chân giá trị của Phật Giáo.Đây là một điểm rất đặc biệt mà chúng ta cần ghi nhận, vì nếu Phật Giáo không có chân giá trị thì không thể nào đi vào thế giới Tây phương, nơi đây sự tiến bộ trí thức đã tạo nên truyền thống đặt nặng tinh thần khoa học, thực dụng, lôgic, và quyền được thắc mắc, nghi ngờ và chất vấn, một truyền thống không xa lạ gì với Phật Giáo, nhưng bị phủ nhận trong truyền thống của Ki Tô Giáo.

Đưa ra tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng, ở phương trời Âu Mỹ, và sự phát triển của Phật Giáo ở phương trời này, tôi không có mục đích nào khác là nêu lên một sự kiện lịch sử, và một sự kiện lịch sử thì không thiên vị, không có tính chất phe phái.Đây cũng là điều cần thiết để cho người Việt chúng ta thấy rõ một sự kiện khác là:vì bị suy thoái và không còn cơ cứu vãn ở Tây phương, nguyên là cái nôi của Ki Tô Giáo,Ki Tô Giáo đã có kế hoạch vớt vát qua sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo ở Á Châu, trong đó có Việt Nam.Đây là một vấn nạn nghiêm trọng mà Việt Nam phải đối phó.Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một phần sau.

Chúng ta thấy rằng, từ những công cuộc nghiên cứu mới nhất về Thánh Kinh, về nhân vật Giê-su, về Ki Tô Giáo nói chung, giới thức giả Tây phương đã thức tỉnh và nhận ra rằng, từ thế hệ này qua thế hệ khác, trải qua 2000 năm lịch sử, từ khi Giê-su sinh ra đời, con người Tây phương đã bị giam chặt trong một đức tin thuộc loại mù quáng, không cần biết, không cần hiểu.Hơn nữa, trước những cảnh chiến tranh triền miên, thiên tai, bệnh tật, cảnh khổ, cảnh chết đói ở những nước kém mở mang ở Phi Châu, bất cứ người nào còn có đầu óc suy tưđều không còn có thể chấp nhận luận điệu thần học về một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, và những thuộc tính của Thiên Chúa như : "Thiên Chúa quá thương yêu thế gian...", "Giê-su yêu tất cả mọi người", "Giê-su đến để mang một tin vui, tin vui tình thương, tin vui tự do..." v..v..

Tất nhiên, khi đã mất niềm tin, về nền tảng tín ngưỡng cũng như về thực chất hành trì của các giáo hội Ki Tô, con người Tây phương cần phải đi tìm một cái gì khác để bù đắp vào nhu cầu tâm linh của mình.Tất cả những tôn giáo độc thần khác như Hồi Giáo, Do Thái Giáo, bản chất đều như nhau, không thể thỏa mãn nhu cầu tâm linh thích hợp với thời đại này của người Tây phương.Do đó, Tây phương đã phải đi tìm sự uyên thâm về tư tưởng ở Đông phương.Đông phương có Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo, và Ấn Độ Giáo.Ấn Độ Giáo thờ nhiều thần, không thích hợp với người Tây phương.Khổng giáo là những triết lý về xã hội và có những điều nay không còn hợp thời.Lão giáo thì thoát tục, xa lìa trần thế.Chỉ còn có Phật Giáo, vừa là một tôn giáo nhân chủ và nhân bản, vừa là một hệ thống triết lý thực dụng chẳng bao giờ lỗi thời, vừa có tinh thần khoa học, cho nên có thể nói là thích hợp với con người Tây phương nhất.Một cuốn sách xuất bản mới đây của Vicky MacKenzies đã chứng minh sự kiện này.Cuốn sách có tên là Tại Sao Lại Là Phật Giáo? Người Tây Phương Đi Tìm Kiếm Sự Uyên Thâm Của Trí Tuệ (Why Buddhism?Westerners In Search Of Wisdom), nxb Tronsons, Anh quốc, và đề năm xuất bản là 2003.Sau đây chúng ta sẽ đi vào vài chi tiết để tìm hiểu xem cái gì của Phật Giáo đã hấp dẫn Tây phương.

Vài Nét Về Sự Chấp Nhận Phật Giáo Ở Tây Phương:

Sự thức tỉnh trí thức ở Tây Phương đã làm cho Tây Phương nhận rõ được chân giá trị của Phật Giáo.Không được tiếp xúc với Phật Giáo và Phật Giáo thường bị xuyên tạc bởi Ki Tô Giáo, và nhất là sống trong định chế toàn trị như Công Giáo trong nhiều thế kỷ, nên người dân Tây Phương thường biết rất ít về thực chất của Phật Giáo.Tuy Phật Giáo đã được Tây phương biết đến từ hậu bán thế kỷ 19 với Paul Carus và người ông bảo trợ, Daisetz T. Suzuki, rồi sau đó với những bậc trí thức nổi danh trong xã hội Tây phương về những công cuộc nghiên cứu Phật Giáo như Edwin Arnold, Rhys Davids, Edward Conze, Christmas Humphreys, Theodore Stcherbatsky, Sangharakshita v..v.. nhưngPhật Giáo hầu như chỉ được biết tới trong giới trí thức có thể nói là rất giới hạn.Phải đến hậu bán thế kỷ 20, khi đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng sang định cư ở Ấn -độ, cộng với cuộc vận động cho hòa bình, chấm dứt chiến tranh của Thiền sư Nhất Hạnh, và cuộc tranh đấu của Phật Giáo ở Nam Việt Nam vào năm 1963, đại chúng trong thế giới Tây phương mới biết nhiều đến Phật Giáo, và từ đó Phật Giáo mới bắt đầu phát triển mạnh ở Tây phương.

Trong sự phát triển nhanh chóng của Phật Giáo này, Phật Giáo Việt Nam đã góp phần không nhỏ.Trước đây Tây phương, đặc biệt là giới trí thức, chỉ biết tới Phật Giáo qua những khảo luận trí thức của một số học giả.Trong cuộc chiến ở Việt Nam, cuộc vận động cho hòa bình của Thiền Sư Nhất Hạnh, cuộc tranh đấu của Phật Giáo đưa tới cao điểm là cuộc tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng Đức và một số Tăng Ni, Phật tử khác đã làm vang động thế giới.Hình ảnh ngọn lửa từ bi bốc lên từ nhục thân Bồ Tát Thích Quảng Đức ngồi trong tư thế kiết già, lưng ngay, cổ thẳng, vững như trái núi, đã được truyền đi khắp thế gìới làm chấn động nhân tâm thế giới và làm cho thế giới xúc động.

Người Tây phương, quen thuộc với phương pháp bành trướng hay bảo vệ Ki-Tô Giáo bằng gươm đao, súng đạn mà họ cho rằng để vinh danh Chúa, cho nên lúc đầu không hiểu nổi hành động tự thiêu của các Phật tử.Nhưng sau khi hiểu rõ Phật Giáo hơn, họ hiểu rằng hành động tự thiêu là một hành động đại hùng đại lực, từ bi tích cực, để chuyển hóa, thức tỉnh lương tâm con người đang chìm đắm trong màn vô minh dày đặc, chứ không phải là vì hận thù hoặc vì danh lợi trong những mục đích chính trị.Từ những nhận thức này, người Tây phương đã bị hấp dẫn bởi những sắc thái vị tha, cao cả, xả thân, và nhân bản của Phật Giáo.Và, với đầu óc tiến bộ của xã hội Tây phương, thiên về suy lý và tin vào khoa học, người Tây phương một khi đã đi vào Phật Giáo đều nhận thấy cái tinh thần khai phóng, chân thực, từ bi, hòa bình, và hữu hiệu của giáo lý và các phương pháp hành trì của Phật Giáo.

Năm 1969, John H. Garabedian & Orde Coombs xuất bản cuốn Những Tôn Giáo Đông Phương Trong Thời Đại Điện Tử (Eastern Religions In The Electric Age), hình bìa ngoài là hàng chữ lớn viết lên tường: Chúa Ki-Tô Đã Chết - Phật Đang Sống (Christ Is Dead - Buddha Lives), nội dung nói về cuộc nổi giậy đạo đức ở Mỹ (moral revolt in America), phân tích tại sao hàng triệu giới trẻ đang vứt bỏ những truyền thống của họ và tìm kiếm những giải đáp mới trong những tư tưởng và tôn giáo Đông phương (Why millions of young people are rejecting their own traditions and seeking new answers in the ideas and religions of the East).Hiển nhiên Phật Giáo đã cung ứng cho họ một món ăn tinh thần mà họ khao khát.Hãy nhìn vào số trí thức Tây phương trong các tôn giáo độc thần đã đi theo Đức Đạt Lai Lạt Ma học Đạo, hay theo Thầy Nhất Hạnh học Thiền và số Kinh điển, sách Phật Giáo v..v.. đã được xuất bản ở Âu Mỹ thì chúng ta có thể thấy ảnh hưởng của Phật Giáo trên thế giới Tây phương ngày nay như thế nào.

Năm 1994, Stephen Batchelor xuất bản cuốn Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương (The Awakening of the West), nội dung viết về lịch sử tiếp xúc của Phật Giáo với Tây phương.Cuốn sách được giới thiệu như sau:

"Cuốn "Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương" là một cuốn viết rất hay về lịch sử tiếp xúc của Phật Giáo với Tây phương trong 2000 năm qua - một cuốn sử biên về những cơ hội bỏ lỡ, sự kiêu căng văn hóa, thảm kịch chính trị, và những giấc mộng không thành.Từ thời đại đế Alexandre, các vua chúa và giáo hoàng Tây phương đã mong mỏi kiếm được quyền lực bằng cách chinh phục Á Châu.Qua nhiều thời kỳ họ đã phái từng đợt sứ giả và các nhà truyền giáo tới Á Châu để tiếp xúc với những người "ngoại đạo", nhưng tâm thức hẹp hòi của người Tây phương đã làm cho những người này chẳng biết được bao nhiêu về Phật Giáo.

Ngày nay Phật Giáo được coi như là một tôn giáo phát triển nhanh nhất và là một trong những phong trào tinh thần có ảnh hưởng nhiều nhất ở Tây phương." 12

Sau đây là một trường hợp điển hình về sự thức tỉnh của con người Tây phương ra khỏi những mê lầm của tôn giáo truyền thống của mình: sự xuất bản cuốn Tinh Túy Của Phật Giáo (The Essence of Buddhism), tác giả là John Walters.

Cuốn sách nhỏ này, vào khoảng 150 trang, rất đặc biệt, vì đó là tác phẩm của một người trưởng thành trong truyền thống Ki Tô, được dạy Phật Giáo là một tôn giáo yếm thế, vô vọng, một dạng sơ khai của chủ thuyết hiện sinh v..v.., và tin rằng Ki Tô Giáo là tôn giáo duy nhất có ích cho nhân loại.Nhưng sau một chuyến du hành Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, ông ta đã thấy tận mắt thực chất của Phật Giáo, hoàn toàn không như những điều ông đã được nhồi vào đầu từ khi còn nhỏ.Ông bèn suy nghĩ lại, tìm hiểu lịch sử và so sánh Ki Tô Giáo với Phật Giáo.Ông nghĩ tới “những sai lầm và tội ác của những Giáo hội Ki Tô và những giới chức lãnh đạo trong quá khứ” (the blunders and crimes of the churches and their leaders in past ages), những lễ tiết (rituals) trong Ki Tô Giáo mà ông cho là có tính cách “mê tín tàn bạo” (sadistic superstition) và so sánh với“một trong những sự vinh quang nhất của Phật Giáo là tinh thần khoan nhượng” (one of the greatest glories of Buddhism is its tolerance).

Chân giá trị của Phật Giáo đã làm cho John Walters thức tỉnh, thức tỉnh khỏi những điều sai sự thực, mê muội mà tôn giáo truyền thống của ông đã đầu độc đầu óc ông từ khi ông còn nhỏ.Và đây là sự thức tỉnh về tư duy, một khả năng quý báu nhất của con người.

Vài Nét Về Phật Giáo Việt Nam:

Có thể nói Phật Giáo là Đạo của dân tộc, Đạo “làm người” của dân tộc Việt Nam. Vì Phật Giáo là một Đạo nhân chủ và nhân bản, coi con người đúng nghĩa là con người, rất phù hợp với truyền thống anh hùng, yêu nước của dân tộc Việt Nam, nên ảnh hưởng của Phật Giáo trên nền văn hóa dân tộc Việt Nam quả thực là to lớn, khó có thể lường được. Thật vậy, ảnh hưởng của Phật Giáo trên nền văn hóa dân tộc thực là sâu đậm, sâu đậm đến độ người ta không còn phân biệt được đâu là văn hóa Phật Giáo và đâu là văn hóa dân tộc. Đây là một sự kiện không ai có thể phủ bác. Sở dĩ như vậy là vì Phật Giáo đã đi vào dân tộc Việt Nam, không bằng con đường giáo điều khô cứng, không bằng con đường ru ngủ dân chúng (có tác dụng như thuốc phiện) với những hứa hẹn hão huyền, mà bằng con đường trí thức, con đường phát triển trí tuệ, tự lực tự cường, và nhất là không chống lại những truyền thống của dân tộc Việt Nam. Với những giáo lý nhân bản và những triết thuyết cao siêu, phù hợp với tinh thần khoa học, Phật Giáo đã đáp ứng được những đòi hỏi suy luận trí thức của giới có học. Với bản chất hòa bình, bao dung, bình đẳng, và những giáo lý giản dị, Phật Giáo cũng đã đáp ứng được khao khát của giới bình dân, ít học. Từ đó, Phật Giáo đã đi vào dân gian, hội nhập trong dân gian, trên mọi giới, để tạo nên một tinh thần Phật Giáo dính liền với một tinh thần yêu nước cao độ của người Việt Nam. Có thể nói, Đạo Phật là nền tảng đạo đức và tinh thần không thể thiếu của người dân Việt Nam.

Kể từ khi Phật Giáo du nhập vào Việt Nam đến nay đã ngót hai mươi thế kỷ, Phật Giáo chưa bao giờ phản bội dân tộc, liên kết với kẻ ngoại xâm, giết hại đồng bào. Phật Giáo Việt Nam chưa bao giờ nhận lệnh của bất cứ chức sắc ngoại quốc nào, lệ thuộc bất cứ một tổ chức chính trị hay tôn giáo quốc tế nào. Và cũng nhờ đó mà Việt Nam đã bao lần thành công trong việc đánh đuổi ngoại xâm, từ những thế kỷ đầu cho tới hạ bán thế kỷ 20. Với một lịch sử du nhập như vậy chúng ta hẳn không lấy làm lạ khi thấy tinh thần Phật Giáo thể hiện sâu đậm trong mọi bộ môn của nền văn hóa Việt Nam như văn chương, thi ca bác học cũng như bình dân, trong nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc v.v...

Phật Giáo không thể đứng ngoài dân tộc, do đó, ngoài trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo, mọi Phật tử, Tăng cũng như Tục, còn phải có bổn phận đối với quốc gia dân tộc, một bổn phận nặng nề hơn, vì sự tồn vinh của dân tộc cũng là sự tồn vinh của Phật Giáo. Nếu chúng ta không hiểu được điều này thì không bao giờ có thể hiểu được cái sinh lực Phật Giáo trong lòng dân tộc. Muốn duy trì cái sinh lực Phật Giáo này trong lòng dân tộc, người Phật tử phải tích cực trong nhiệm vụ chung là bảo vệ và hiển dương Đạo Pháp, song song với nhiệm vụ xây dựng xã hội, đất nước.

(xem tiếp Phần 2)


Các bài về tôn giáo cùng tác giả

Trang Trần Chung Ngọc